text
stringlengths
0
512k
Panama ( ), tên gọi chính thức là nước Cộng hoà Panama (), là một quốc gia tại Trung Mỹ. Quốc gia này có biên giới với Costa Rica về phía tây, Colombia về phía đông nam, biển Caribe về phía bắc và Thái Bình Dương về phía nam. Thủ đô và thành phố lớn nhất là thành phố Panama, vùng đại đô thị của thủ đô là nơi cư trú của hơn một nửa trong số 4 triệu dân trong nước. Panama có một vài bộ lạc bản địa định cư từ trước khi người Tây Ban Nha đến vào thế kỷ XVI. Panama tách khỏi Tây Ban Nha vào năm 1821 và gia nhập một liên hiệp mang tên Cộng hoà Đại Colombia. Đến khi Đại Colombia giải thể vào năm 1831, Panama thuộc Cộng hoà Colombia. Do được Hoa Kỳ giúp đỡ, Panama ly khai từ Colombia vào năm 1903, và cho phép Hoa Kỳ xây dựng kênh đào Panama từ năm 1904 đến 1914. Năm 1977, một hiệp định được ký kết với nội dung Hoa Kỳ chuyển giao toàn bộ kênh đào cho Panama vào cuối thế kỷ XX, hạn cuối là 31 tháng 12 năm 1999. Doanh thu từ thuế kênh đào tiếp tục chiếm một phần đáng kể trong GDP của Panama, song thương mại, ngân hàng và du lịch là các lĩnh vực lớn và đang phát triển. Năm 2015, Panama đứng thứ 60 thế giới về chỉ số phát triển con người. Kể từ năm 2010, Panama duy trì là nền kinh tế có tính cạnh tranh thứ nhì tại Mỹ Latinh. Rừng rậm bao phủ 40% diện tích đất liền Panama, tại đó có nhiều loài động thực vật nhiệt đới, một số không thấy được ở những nơi khác. Lịch sử Sau thời kì thám hiểm của Cristoforo Colombo (1502) và Balboa (1513), eo đất này là thuộc địa Tây Ban Nha từ đầu thế kỷ XVI, thực dân Tây Ban Nha đã mở những con đường để chuyển vàng, bạc từ Panama và Peru ra hướng Đại Tây Dương. Vùng này trực thuộc Phó vương quốc Peru (1542) và New Grenada (1740), bị sáp nhập vào Đại Colombia năm 1819. Năm 1855, cuộc đổ xô tìm vàng ở California dẫn đến việc xây dựng đường sắt nối liền Colón với Panama. Từ năm 1881 đến năm 1889, Ferdinand de Lesseps tiến hành khai thông kênh đào Panama, công trình bị trì hoãn vì thiếu vốn. Đa phần chính trị trong nước Panama ở thế kỷ hai mươi gắn liền với Kênh đào Panama và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Đầu thế kỷ XX, Theodore Roosevelt đã theo đuổi những nỗ lực đối ngoại của Hoa Kỳ nhằm tạo lập một thỏa thuận với Colombia sẽ cho phép Mỹ tiếp nhận hoạt đồng điều hành kênh của Pháp vốn bắt đầu từ thời Ferdinand de Lesseps. Tháng 11 năm 1903, Hoa Kỳ ủng hộ phong trào Separatist Junta bí mật gồm một số chủ đất giàu có người Panama dưới sự lãnh đạo của Tiến sĩ Manuel Amador Guerrero nhằm ly khai khỏi Colombia. Ngày 3 tháng 11 năm 1903, Panama tuyên bố độc lập khỏi Colombia. Chủ tịch Hội đồng Thành phố, Demetrio H. Brid, cơ quan chính quyền cao nhất thời điểm đó, trở thành Tổng thống trên thực tế, và đã chỉ định một Chính phủ Lâm thời ngày 4 tháng 11 để điều hành công việc của nhà nước cộng hòa mới thành lập. Hoa Kỳ, với tư cách quốc gia đầu tiên công nhận nước Cộng hoà Panama mới, đã gửi quân tới bảo vệ những lợi ích kinh tế của nước này. Quốc hội Lập hiến năm 1904 đã bầu Tiến sĩ Manuel Amador Guerrero, một thành viên nổi bật thuộc đảng chính trị bảo thủ, làm Tổng thống hợp hiến đầu tiên của nước Cộng hoà Panama. Tháng 12 năm 1903, những đại diện của nước cộng hòa đã ký Hiệp ước Hay-Bunau Varilla trao cho Hoa Kỳ quyền xây dựng và quản lý vô hạn định với Kênh đào Panama, mở cửa từ năm 1914. Hiệp ước này đã trở thành một vấn đề ngoại giao tiềm tàng giữa hai quốc gia, trở thành căng thẳng nhất vào Ngày của Martyr (9 tháng 1 năm 1964). Những vấn đề này sau đó đã được giải quyết khi hai bên ký Các hiệp ước Torrijos-Carter năm 1977. Ý định ban đầu của những người thành lập đất nước là mang lại sự hòa hợp giữa hai đảng chính trị chính (Bảo thủ và Tự do). Chính phủ Panama đã trải qua các giai đoạn bất ổn chính trị và tham nhũng, tuy nhiên, ở nhiều thời điểm trong lịch sử của mình, thời gian cầm quyền của các vị tổng thống hợp hiến thường rất ngắn ngủi. Năm 1968, một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ của vị tổng thống mới được bầu gần đó là Arnulfo Arias Madrid diễn ra. Tướng Omar Torrijos cuối cùng đã trở thành người nắm quyền lực trong một chính phủ quân sự (junta), và sau này trở thành nhà lãnh đạo độc đoán cho tới tận khi ông chết trong một vụ tai nạn máy bay gây nghi ngờ năm 1981. Sau cái chết của Torrijos, quyền lực dần được tập trung trong tay Tướng Manuel Antonio Noriega, cựu lãnh đạo lực lượng cảnh sát mật Panama và cựu nhân viên CIA. Noriega liên quan tới vụ buôn lậu thuốc phiện vào Hoa Kỳ, dẫn tới những căng thẳng trong quan hệ hai nước cuối thập niên 1980. Ngày 20 tháng 12 năm 1989, hai mươi bảy nghìn quân Mỹ tấn công Panama nhằm lật đổ Noriega. Vài giờ sau vụ tấn công, tại một buổi lễ diễn ra bên trong một căn cứ quân sự Mỹ tại Vùng Kênh đào Panama cũ, Guillermo Endara (người chiến thắng trong cuộc bầu cử tháng 5 năm 1989) tuyên thệ nhậm chức tổng thống mới của Panama. Cuộc tấn công diễn ra mười năm trước khi quyền quản lý Kênh Panama được giao lại cho người Panama, theo một thời gian biểu do Các hiệp ước Torrijos-Carter quy định. Sau cuộc tấn công, Noriega tìm cách xin tị nạn tại sứ quán Vatican qua phái bộ ngoại giao do Monsignor Jose S. Laboa đại diện. Quân Mỹ vây quanh sứ quán nhưng không dám xông vào bắt. Lúc đầu họ đề nghị Giáo hoàng trục xuất nhưng bị từ chối. Vì thế các chuyên gia tâm lý chiến đã sử dụng vũ khí âm thanh để ép Noriega ra ngoài, chiến dịch này được mang mật danh "Just Cause". Để buộc Noriega đầu hàng, các lực lượng Mỹ đã dùng xe quân sự lắp loa phóng thanh công suất lớn vây quanh sứ quán thành một vòng chơi và chơi ầm ĩ liên tục bên ngoài đại sứ quán bài "Panama," nhóm nhạc Rock thập niên 1980 Van Halen. (WSJ) hoặc các bài nhạc Rock nặng khác. Sau vài ngày, do không chịu nổi thể loại nhạc này (vốn Noriega được biết là người rất thích nhạc Opera) nên Noriega đã đầu hàng quân Mỹ, và bị đưa về Florida để chính thức bị dẫn độ và xét xử trước các cơ quan tòa án liên bang Mỹ. Năm 1992, nhà độc tài Panama bị tòa Mỹ kết án 40 năm tù vì buôn lậu ma tuý, gian lận, và rửa tiền và chịu trách nhiệm về cuộc phóng thích tù binh trước hạn (parole) tháng 9 năm 2007., sau được giảm xuống còn 30 năm. Theo Các hiệp ước Torrijos-Carter, Hoa Kỳ trả lại toàn bộ kênh đào và những vùng đất liên quan cho Panama ngày 31 tháng 12 năm 1999, nhưng giữ quyền can thiệp quân sự vì quyền lợi an ninh quốc gia của họ. Panama cũng giành được quyền kiểm soát những tòa nhà và cơ sở hạ tầng liên quan cũng như quyền quản lý hành chính đầy đủ với Kênh đào Panama. Nhân dân Panama đã tán thành việc mở rộng kênh, và sau khi được hoàn thành, nó sẽ cho phép các tàu post-Panamax đi qua cũng như tăng số lượng tàu lưu thông. Chính trị Chính trị Panama theo hình thức nhà nước Cộng hòa tổng thống đại diện dân chủ, theo đó Tổng thống Panama vừa là lãnh đạo quốc gia vừa là lãnh đạo chính phủ, và một hệ thống nghị viện đa đảng. Quyền hành pháp thuộc chính phủ. Quyền lập pháp vừa do chính phủ vừa do Quốc hội đảm nhiệm. Tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp. Chính phủ theo chế độ dân chủ lập hiến, trong đó: Cơ quan hành pháp: đứng đầu nhà nước là Tổng thống, tiếp theo là 2 Phó Tổng thống, được bầu cử với nhiệm kỳ 5 năm. Nội các được chỉ định bởi Tổng thống. Cơ quan lập pháp: Quốc hội lập pháp lưỡng viện gồm 71 thành viên được bầu cử với các nhiệm kỳ 5 năm. Cơ quan tư pháp: Tòa án Công lý Tối cao gồm 9 thẩm phán được chỉ định với nhiệm kỳ 10 năm; 5 tòa án tối cao, 3 tòa thượng thẩm. Khu vực hành chính Theo hành chính, các khu vực chính của Panama gồm chín tỉnh và năm vùng lãnh thổ bản xứ (comarcas indígenas) cấp tỉnh. Tỉnh Bocas del Toro Coclé Colón Chiriquí Darién Herrera Los Santos Panamá Veraguas Comarcas cấp tỉnh Emberá Kuna Yala Ngäbe-Buglé Comarca Kuna de Madugandí Kuna de Wargandí Địa lý Panama nằm ở Trung Mỹ, giáp với cả Biển Caribe và Thái Bình Dương, giữa Colombia và Costa Rica. Nước này có vị trí chiến lược ở điểm cuối phía đông Eo Panama, một cầu lục địa lớn nối Bắc và Nam Mỹ. Tới năm 1999, Panama đã kiểm soát Kênh đào Panama nối Bắc Đại Tây Dương qua Biển Caribe với Bắc Thái Bình Dương. Địa hình rừng già hầu như không thể xâm nhập của Vực Darien giữa Panama và Colombia. Nó tạo ra khoảng đứt của Xa lộ Xuyên Mỹ, nếu không tuyến đường này sẽ nối liền từ Alaska tới Patagonia. Kinh tế Kinh tế Panama dựa trên dịch vụ, chủ yếu là ngân hàng, thương mại và du lịch, vì vị trí địa lý chiến lược của nó. Việc chuyển giao quyền quản lý kênh đào và các căn cứ quân sự của Mỹ khiến các dự án xây dựng mới ở đây bùng nổ. Chính quyền Martín Torrijos đã tiến hành nhiều cuộc cải cách cơ cấu gây tranh cãi, như cải cách thuế và một cuộc cải cách an sinh xã hội rất khó khăn. Hơn nữa, một cuộc trưng cầu dân ý về việc xây dựng một bộ cửa cống thư ba cho Kênh đào Panama đã được đại đa số dân chúng tán thành (dù số người đi bầu ít ỏi) ngày 22 tháng 10 năm 2006. Con số ước tính chính thức chi phí cho việc xây dựng này lên tới 5.25 tỷ dollar Mỹ. Kinh tế Panaman tăng trưởng 8% năm 2006 và lần đầu tiên trong mười năm qua lĩnh vực công cộng đã kết toán năm 2006 với một con số thặng dư thương mại khoảng 88 triệu USD. Hơn nữa, theo thông tin được công bố bằng tiếng Tây Ban Nha, "Informe Fiscal - Cierre año 2006" của Bộ Kinh tế và Tài chính ngày 14/02/2007, mức GDP danh nghĩa chính thức năm 2006 lên tới 16.704 tỷ dollar Mỹ; xem đường link bên dưới của bộ này. Đồng tiền tệ Panama là balboa, được quy định ở mức trao đổi tương đương với đồng dollar Mỹ. Tuy nhiên, trên thực tế, nước này đã bị dollar hoá; Panama có đồng tiền xu riêng của mình nhưng sử dụng tất cả các loại tiền giấy bằng dollar Mỹ. Panama là một trong ba quốc gia trong vùng đã dollar hoá nền kinh tế, hai nước kia là Ecuador và El Salvador. Panama là một nước có nền kinh tế ổn định nhất trong số các nước Mỹ Latinh, Panama có các lĩnh vực dịch vụ tiên tiến chiếm khoảng 75% GDP. Các dịch vụ bao gồm Kênh đào Panama, ngân hàng, Khu tự do Colon, bảo hiểm, cảng container, đăng ký tàu đô đốc và du lịch. Thời kỳ khủng hoảng của Khu vực Tự do Colon và sự giảm giá mạnh của các mặt hàng xuất khẩu, sự giảm tốc độ sản xuất toàn cầu và việc rút quân của Mỹ đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế Panama trong năm 2000-2001. Chính phủ Panamma đặt kế hoạch cho các chương trình công tác công cộng, cải cách thuế, hiệp định thương mại khu vực mới để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thập kỷ vừa qua cho thấy Panama duy trì được một nền kinh tế phát triển ổn định, trung bình hàng năm tăng trưởng từ 2% đến 4%. Nền kinh tế Panama là nền kinh tế bị đô la hóa, cơ bản dựa trên các hoạt động dịch vụ với chất lượng cao, chiếm tới 3/4 tổng sản phẩm quốc nội. Trong các loại hình dịch vụ này có thể kể ra như: Kênh đào Panama, ngân hàng, Khu vực tự do Colon, bảo hiểm, cảng container, du lịch… Năm 2007, GDP nước này khoảng 29 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng GDP là 7,8%. Trong thời gian tới, Panama sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn nhờ dự án mở rộng kênh đào Panama, dự án này đã được khởi động vào năm 2007 và kết thúc vào năm 2014, với tổng kinh phí là 5.3 tỷ USD. Dự án này sẽ nâng gấp đôi năng lực của kênh đào. Thời gian gần đây, Chính phủ đã thực hiện cải cách hệ thống thuế, an ninh xã hội và thúc đẩy các hiệp định thương mại khu vực, phát triển ngành du lịch. Không chỉ là thành viên của khối CAFTA, Panama đã bắt đầu đàm phán FTA với Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 2006. Tính đến năm 2016, GDP của Panama đạt 55.227 USD, đứng thứ 78 thế giới và đứng thứ 13 khu vực Mỹ Latin. Vai trò là thị trường trung chuyển hàng hóa Panama có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi với kênh đào Panama dài 80 km nối Đại Tây Dương với Thái Bình Dương, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế quan trọng cho Panama mà còn giúp các tàu biển tiết kiệm thời gian và chi phí trong vận tải đường biển. Panama phát triển mạnh ngoại thương, dịch vụ thương mại, tài chính ngân hàng. Đây là trung tâm tài chính ngân hàng quốc tế với chính sách thông thoáng tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp (thuế suất 0% nếu các nguồn vốn, tài chính không đầu tư/sử dụng trên lãnh thổ Panama, đơn giản hóa tối đa thủ tục hành chính trong việc thành lập cơ quan đại diện, tự do chuyển lợi nhuận ra nước ngoài...), là môi trường lý tưởng cho các nhà đầu tư cũng như cho các doanh nghiệp phát triển kinh doanh, quyền tự do kinh doanh của mọi pháp nhân được bảo đảm, không có sự phân biệt đối xử với người nước ngoài. Panama giữ vai trò trung tâm tài chính ở Mỹ Latinh, là nơi cung cấp tín dụng, vốn đầu tư, cho vay, thanh toán quốc tế, bảo hiểm... cho các hoạt động kinh tế, thương mại của thị trường khu vực và thế giới. Hiện nay Panama là nước có nhiều tàu nước ngoài thuê cờ nhất thế giới nhờ có chính sách ưu đãi và tạo thuận lợi cho khách hàng trên nhiều mặt: pháp luật, tài chính, bảo hiểm... Panama có mạng lưới viến thông bằng sợi cáp quang nối tất cả các quốc gia trên thế giới với tần suất 3.300 gb/giây. Hạ tầng cơ sở của Panama rất phát triển, dân trí cao, chất lượng cuộc sống ở mức cao (không có thiên tai dịch họa; môi trường sống xanh-sạch-đẹp, an lành và thân thiện). Hai ngôn ngữ chính được sử dụng ở Panama là tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh. Kênh đào Panama được xây dựng cho một luồng giao thông khoảng hơn 13.000 lượt tàu thuyền hàng năm và thông qua đường vận chuyển này đã tạo ra nguồn lợi nhuận kinh tế đáng kể cho thương mại quốc tế. Sử dụng các khu vực trong vùng kênh đào có ý nghĩa cho những cơ hội lớn đầu tư sinh lợi đối với các nhà đầu tư có nhu cầu tăng thêm gia trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, sử dụng Panama như một vị trí chiến lược với các thị trường mới hoặc thị trường đã có sẵn. Sự thách thức lớn nhất đó là biến đổi đất nước trở thành một trung tâm hậu cần quốc tế gắn liền với sự phát triển của các lĩnh vực hàng hải, công nghiệp, du lịch, thương mại. Panama là thị trường trung chuyển lớn trên thế giới với kho ngoại quan miễn thuế Colón lớn thứ 2 toàn cầu, lớn nhất châu Mỹ cùng các chính sách cởi mở, thông thoáng, tạo điều kiện tốt cho thương mại quốc tế, mọi giao dịch đều sử dụng đồng USD. Hiện nay có hơn 2000 công ty đặt văn phòng tại Khu Thương mại Tự do Colón trên tổng diện tích 988 ha, trao đổi thương mại đạt trị giá hơn 10 tỷ USD/năm, trong đó nhập khẩu chiếm 45% và tái xuất chiếm 55%. Khu miễn thuế này hàng năm đóng góp 7,5% GDP cho Panama. Khu Colón gần các quốc gia phát triển của khu vực Thái Bình Dương, Bắc Mỹ và tương đối gần châu Âu, gần như mọi tuyến đường giao thông trên thế giới đều qua Colón khiến nơi này trở thành một trung tâm lý tưởng trong thời đại toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay với tốc độ và hiệu quả của việc trung chuyển hàng, giá cả cạnh tranh, thuế suất nhập khẩu là 0%, và 100% cơ hội dành cho các doanh nghiệp với rất nhiều thuận lợi, ưu đãi và thủ tục đơn giản. Colón đặt mục tiêu trở thành trung tâm phân phối hàng hóa thương mại chính yếu cho khu vực châu Mỹ. Panama có nhiều kinh nghiệm trong quản lý, trong lĩnh vực dịch vụ đồng thời có nhu cầu lớn nhập khẩu nhiều chủng loại hàng, nhất là trang thiết bị, máy móc, hàng công nghiệp, hàng tiêu dùng các loại. Bên cạnh đó, để đón đầu việc FTAA (Khu vực Thương mại Tự do châu Mỹ) ra đời, Panama đang triển khai thực hiện dự án biến Colón thành một "trung tâm hậu cần đa phương thức của châu Mỹ" (kết hợp vận tải đường biển, đường hàng không, đường sắt và đường bộ giữa các nước châu Mỹ với nhau và giữa châu Mỹ với thế giới) với chức năng chính là trung tâm trung chuyển (nhập khẩp-tái xuất) hàng hóa, sẵn sàng tiếp nhận mọi đối tượng đến đầu tư, làm ăn kinh doanh. Toàn cầu hoá Những mức độ thương mại cao của Panaman chủ yếu nhờ Vùng thương mại tự do Colón, vùng thương mại tự do lớn nhất Tây Bán cầu. Theo một phân tích của ban quản lý vùng Colon và đánh giá về thương mại Panama của Cao ủy Kinh tế Liên hiệp quốc vùng Mỹ Latinh và Caribe (ECLAC), năm ngoái vùng này chiếm 92 phần trăm xuất khẩu và 65 phần trăm nhập khẩu của Panama. Panama có tỷ lệ nguồn thu từ du lịch và đầu tư trực tiếp nước ngoài trên GDP khá lớn (cao thứ tư Mỹ Latinh về cả hai yếu tố) mức độ người dân sử dụng Internet cũng khá cao (đứng thứ tám Mỹ Latinh). Lạm phát Theo Cao ủy Kinh tế vùng Mỹ Latinh và Caribe (ECLAC, hay CEPAL theo tên viết tắt tiếng Tây Ban Nha thông dụng hơn), lạm phát của Panama tính theo Chỉ số Giá Tiêu thụ (CPI) là 2.0 phần trăm năm 2006. Thường Panama có mức lạm phát thấp. Bất động sản Thành phố Panama từng chứng kiến một cuộc đua giữa hai dự án cạnh tranh nhau với mục tiêu xây dựng tòa nhà cao nhất Mỹ Latinh. Nhưng một trong hai dự án đã bị hủy bỏ. Dự án kia, một tòa nhà ở và khách sạn cao 104 tầng tên gọi Tháp Băng (Ice Tower), được dự định hoàn thành năm 2010. Dự án Palacio de la Bahia đã bị công ty sáng lập Tây Ban Nha là Olloqui hủy bỏ. Trước kia cả hai dự án đều có quy mô nhỏ, nhưng sau đó bắt đầu gia tăng số tầng để trở thành tòa nhà cao nhất vùng. Có hơn 105 dự án tại Thành phố Panama nơi các khu lân cận đang có sự tăng trưởng chóng mặt về con số nhà cửa. Tại San Francisco hiện đang có 25 tòa nhà được xây dựng. Grupo Mall, một công ty khác của Tây Ban Nha, đang xây dựng một tòa nhà làm căn hộ, khu phức hợp, khách sạn và khu thương mại nhiều tầng. Dự án này theo kế hoạch sẽ hoàn thành một phần vào năm 2009. Ngoài những nhu cầu hiện tại, những phát triển tương lai cũng sẽ có tương lai tốt nhờ kế hoạch mở rộng Kênh đào Panama, một nhà máy lọc dầu của công ty dầu khí Mỹ Occidental Petroleum và một cảng container mới gần lối vào phía Thái Bình Dương của kênh. Tình trạng nghèo đói Dù có những nguồn thu lớn từ Kênh đào Panama và ngành du lịch, Ngân hàng Thế giới đã báo cáo rằng Cộng hòa Panama tiếp tục phải chiến đấu với nạn nghèo đói . Bình đẳng thu nhập cũng là một vấn đề lớn ở nước này. Theo Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, Hệ số Gini trên đầu hộ tại Panama là 0.57. Đây là một trong những mức độ bình đẳng thu nhập tồi nhất trong vùng và thế giới. Nhân khẩu Văn hoá, phong tục và ngôn ngữ của người Panama chủ yếu thuộc vùng Caribe và Tây Ban Nha. Về chủng tộc, đa số dân là người mestizo hay lai Amerindian, châu Phi, Tây Ban Nha và người Hoa. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chính thức và chủ yếu; tiếng Anh cũng được công nhận là một ngôn ngữ chính thức và được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp và tại vùng bờ biển Caribe. Hơn một nửa dân số sống tại Thành phố Panama –hành lang đô thị Colón. Đại đa số người Panama theo Cơ đốc giáo La Mã, chiếm tới 80% dân số. Dù hiến pháp công nhận Cơ đốc giáo là tôn giáo của đại đa số người dân, Panama không có tôn giáo chính thức. Các tôn giáo nhỏ tại Panama gồm Tin Lành (12%), Hồi giáo (4.4%), Bahá'í (1.2%), Phật giáo (ít nhất 1%), Chính thống giáo Hy Lạp (0.1%), Do Thái giáo (0.4%), và Hindu giáo (0.3%). Cộng đồng Do Thái tại Panama, với hơn 10.000 người, là cộng đồng lớn nhất trong khu vực (gồm Trung Mỹ, Colombia và Caribe). Cuộc di cư Do Thái diễn ra vào cuối thế kỷ XIX, hiện tại có các giáo hội Do Thái tại Thành phố Panama, cũng như các trường Do Thái. Bên trong Mỹ Latin, Panama là một trong những nước có tỷ lệ người Do Thái trên dân số lớn, chỉ sau Uruguay và Argentina. Các cộng đồng Hồi giáo, Đông Á, và Nam Á tại Panama cũng rất lớn. Thành phố Panama có một Nhà thờ Đức tin Bahá'í, một trong tám nhà thờ duy nhất trên thế giới. Được hoàn thành năm 1972, nó nằm trên một quả đồi cao quay mặt ra kênh, và được xây bằng bùn theo kiểu thiết kế châu Mỹ bản xứ. Vì mối quan hệ thương mại lịch sử của mình, trên tất cả Panama là một quốc gia đa sắc tộc. Ví dụ, điều này được thể hiện ở con số người Hoa đông đảo (xem Người Hoa tại các khu Chinatown Mỹ Latinh). Nhiều người Trung Quốc đã di cư tới Panama để xây dựng tuyến Đường sắt Panama. Một thuật ngữ gọi "gian hàng góc phố" trong tiếng Tây Ban Nha Panama là el chinito, phản ánh thực tế nhiều gian hàng này thuộc sở hữu và do những người nhập cư Trung Quốc điều hành. (Các nước khác có hình mẫu xã hội tương tự, ví dụ, các gian hàng góc phố "Ả Rập" tại Pháp.) Có bảy sắc tộc bản xứ tại Panama: Emberá Wounaan Ngöbe Buglé Kuna Nazo Bribri Đây là quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha nhỏ thứ hai Mỹ Latinh nếu tính theo dân số, ước tính 4,2 triệu người (2019), Uruguay là nước đứng thứ nhất, ước tính 3.463.000 người (2019).
Paraguay (phiên âm Tiếng Việt: Pa-ra-goay, ; ), tên chính thức là Cộng hòa Paraguay (, ) là một trong hai quốc gia nằm kín trong nội địa tại cả tại Nam Mỹ và Tây Bán cầu. Paraguay nằm trên cả hai bờ sông Paraguay, con sông chảy qua trung tâm của đất nước từ bắc xuống nam. Đất nước này giáp với Argentina ở phía nam và tây nam, Brasil ở phía đông và đông bắc và Bolivia ở phía tây bắc. Theo ước tính năm 2023, dân số Paraguay là 7,4 triệu người. Thủ đô và thành phố lớn nhất là Asunción. Địa lý Paraguay là quốc gia không giáp biển, nằm ở khu vực Nam Mỹ, Nam và Tây giáp Argentina, Tây Bắc giáp Bolivia và Đông Bắc giáp Brasil. Địa hình tương đối bằng phẳng, vùng thảo nguyên Chaco (2/3 diện tích lãnh thổ) ở phía Tây, khí hậu lục địa khô, dân cư thưa thớt, chăn nuôi trên các đồng cỏ là hoạt động chính trong vùng; vùng lãnh thổ phía Đông gồm vùng cao nguyên thấp và các vùng đồng bằng thuộc lưu vực sông Paraguay và Paraná. Sông Paraguay và sông Alto Paraná là hệ thống đường thủy chính trong nước. Sông Paraguay chia đất nước thành phần phía đông, thường gọi là Đông Paraguay và được biết đến là vùng Paraná; vùng phía tây, chính thức được gọi là Tây Paraguay và thường được biết đến với tên gọi Chaco. Địa hình Paraguay gồm có các đồng cỏ và đồi rừng ở phía đông và phía tây chủ yếu là các đầm lầy và đồng bằng thấp. Paraguay có khí hậu từ cận nhiệt tới ôn hòa tùy theo độ cao, phần phía đông có lượng mưa lớn và phần cực tây có khí hậu bán khô cằn. Lịch sử Xã hội thời tiền Colombo trên vùng nhiều cây cối và phì nhiêu nay là Paraguay vốn bao gồm các bộ tộc bán du cư và có truyền thống là các chiến binh hung dữ. Những người bản địa này là thành viên của các 5 ngữ hệ riêng biệt và 15 nhóm dân tộc-ngôn ngữ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Người châu Âu đầu tiên tới khu vực vào đầu thế kỷ XVI, và nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Juan de Salazar y Espinoza đã lập điểm định cư tại Asunción vào ngày 15 tháng 8 năm 1537. Thành phố sau này trở thành trung tâm của một tỉnh thuộc địa của Tây Ban Nha, cũng như là điểm chính của những người truyền giáo và định cư dòng Tên tại Nam Mỹ trong thế kỷ XVIII. Dòng Tên đã được thành lập và phát triển tại miền đông Paraguay khoảng 150 năm cho đến khi vua Tây Ban Nha trục xuất họ vào năm 1767. Paraguay giành được độc lập từ Tây Ban Nha vào ngày 15 tháng 5 năm 1811. Lịch sử Paraguay đặc trưng với những thời kỳ dài bất ổn và xung đột chính trị, cũng như chiến tranh với các nước láng giềng. Paraguay đã bị cuốn vào một cuộc xung đột trong Chiến tranh Đồng minh Ba nước với vị trí là nước chống lại Brasil, Argentina và Uruguay với kết quả bị thất bại năm 1870 sau 5 năm trong một cuộc chiến tranh đẫm máu nhất Nam Mỹ. Paraguay trước chiến tranh có dân số khoảng 525.000 người, tuy nhiên sau cuộc chiến này dân số đất nước đã giảm xuống chỉ còn 221.000 vào năm 1871, trong đó chỉ còn 28.000 nam. Paraguay sau đó cũng phải nhượng nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn cho Brasil và Argentina. Chiến tranh Chaco với Bolivia diễn ra vào thập kỷ 1930, và Bolivia là phía thua trận. Paraguay đã tái lập chủ quyền tại khu vực gọi là Chaco, nhưng thiệt hại cũng rất lớn. Từ năm 1904 đến 1954, Paraguay có tới 31 vị tổng thống, hầu hết trong số đó bị loại bỏ bởi vũ lực. Sau Thế chiến II, chính trị trở nên không ổn định với việc một vài đảng chính trị giao chiến để tranh giành quyền lực cuối thập kỷ 1940, và sau đó đã dẫn tới Nội chiến Paraguay vào năm 1947. Một loạt các chính phủ không vững chắc được lập ra cho đến năm 1954 với chế độ của nhà độc tài Alfredo Stroessner, ông tại nhiệm trong hơn ba thập kỷ sau đó. Paraguay bắt đầu hiện đại hóa trên một số phương diện dưới thời kỳ cầm quyền của Stroessner vốn đầy tai tiếng với các vụ lạm dụng hay ngược đãi. Nền kinh tế sa sút và sự cô lập của quốc tế đã tạo cơ hội cho lực lượng đối lập đấu tranh dẫn tới bầu cử dân chủ vào năm 1988. Lãnh đạo của PLRA, Domingo Laíno là trung tâm của lực lượng đối lập vào nửa cuối thập kỷ 1980. Các nỗ lực của chính quyền nhằm cô lập ông như lưu đày vào năm 1982 đã phản tác dụng. Tuy nhiên chính quyền Stroessner đã bớt gay gắt vào tháng 4 năm 1987 và đã cho phép Laíno đến Asun ión. Laíno sau đó đã lãnh đạo một hoạt động đấu tranh. Các cuộc biểu tình được tổ chức và nhanh chóng giải tán trước khi cảnh sát đến. Để đối phó với phong trào, chính quyền buộc phải tổ chức Tổng tuyển cử vào tháng 2 năm 1988. Tuy nhiên, cuộc bầu cử không thực sự minh bạch và kết quả là Strossner tái cử với số phiếu 89%. Stroessner bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự do Tướng Andrés Rodríguez tiến hành. Với vị trí tổng thống, Rodríguez đã cải cách chính trị, luật pháp và kinh tế, tái lập mối quan hệ với cộng đồng quốc tế. Tháng 6 năm 1992, hiến pháp lập ra một hệ thống bầu cử dân chủ và cải cách các quyền cơ bản. Vào tháng 5 năm 1993, Đảng Colorado do Juan Carlos Wasmony lãnh đạo đã được lựa chọn là tổng thống dân cử đầu tiên của Paraguay sau 40 năm. Trong cuộc bầu cử năm 2008, Đảng Colorado đã thắng cử và Tổng thống Fernando Lugo đã lên nắm quyền. Chính trị Đối ngoại Quân sự Hành chính Kinh tế Paraguay là nước đang phát triển với Chỉ số Phát triển Con người là 0,755.. Xếp hạng thấp thứ hai tại Nam Mỹ với GDP bình quân đầu người năm 2016 là 4,102 Đô la Mỹ. Xấp xỉ 2,2 triệu ngưới chiếm 35% dân số sống trong cảnh nghèo và xấp xỉ 1 triệu người hay 18% dân số sông dưới 2 Đô la Mỹ mỗi ngày. Tuy nhiên, Asunción được xếp hạng là thành phố ít đắt đỏ nhất để sinh sống trong 5 năm liền. Tính đến năm 2016, GDP của Paraguay đạt 27,323 tỷ USD, đứng thứ 102 thế giới và đứng thứ 16 khu vực Mỹ Latin. Paraguay có một nền kinh tế thị trường rõ rệt với những lĩnh vực không chính thức đặc trưng với việc tái xuất và nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng với các quốc gia láng giềng, với hàng nghìn cơ sở kinh doanh nhỏ. Hoạt động kinh tế lớn nhất Paraguay là dựa vào nông nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi. Paraguay xếp hạng ba thế giới về xuất khẩu bảng viết phấn, và ngành xuất khẩu thịt bò khá phát triển so với quy mô của quốc gia. Paraguay cho phép chủ đất là người ngoại quốc và không giới hạn diện tích. Chỉ những công dân Brasil, Argentina và Bolivia mới không thể sở hữu đất ở vùng biên giới. Sự thật là những người nước ngoài sở hữu những vùng đất ở vị trí thấp khá phổ biến trong nền kinh tế của Paraguay. Một tỉ lệ lớn dân cư nhận được kế sinh nhai từ các hoạt động nông nghiệp. Bất chấp các khó khăn nảy sinh do chính trị không ổn định, tham nhũng và cải cách chậm chạp, Paraguay là một thành viên của Khối Thương mại Tự do Mercosur, và là một thành viên sáng lập tổ chức này. Tiềm năng kinh tế của Paraguay bị hạn chế bới vị trí địa lý trong nội địa, tuy nhiên nước này có thể liên kết đến Đại Tây Dương qua sông Paraná. Bởi vị trí địa lý nội địa, kinh tế Paraguay phụ thuộc rất nhiều vào Brasil và Argentina, các đối tác thương mại chính. Khoảng 38% GDP đến từ các hoạt động thương mại và xuất khẩu tới Brasil và Argentina. Thông qua một số hiệp định, Paraguay được cho pháp sử dụng các cảng của Argentina, Uruguay, và Brasil một cách tự do để gứi hàng xuất khẩu, quan trọng nhất là cảng Paranaguá của Brasil.' Xã hội Nhân khẩu Không có số liệu chính thức về thành phần dân tộc của dân cư Paraguay bởi Ban Thống kê, Điều tra và Tính toán (DGEEC) của Paraguay không có khái niệm về chủng tộc hay dân tộc trong các cuộc tổng điều tra, mặc dù có tìm hiểu về người bản địa (tức người da đỏ). Theo thống kê năm 2002, người bản địa chiếm 1,7% tống dân số Paraguay. Theo truyền thống, dân cư Paraguay được coi là mestizo (tức là pha trộn hay lai), bởi con số đông đảo những người con giữa những người phụ nữ Guaraní và những người đàn ông định cư Tây Ban Nha dưới thời Tây Ban Nha thống trị nước này. Bộ trưởng Giaos dục và Văn hóa Paraguay đề cập đến dân cư của nước ông như sau: "Tổ tiên chi phối là người Âu, điều này là điển hình cho phần lớn dân cư, hầu hết là hậu duệ của người Tây Ban Nha, người Đức, người Ý (sắc dân đã góp phần tái phục hồi dân cư đất nước sau Chiến tranh Đồng minh Ba nước) …Đây là một trong những quốc gia Mỹ Latinh có ít đặc điểm bản địa nhất bởi vì người Paraguay bản địa, người lai Tây Ban Nha - Guaraní, đã bị Đồng minh tiêu diệt năm 1870, điều này đã dẫn đến việc tái hồi phục dân cư đất nước bằng những người Ý nhập cư." Theo CIA World Factbook, Paraguay có dân số là 6.669.086 người, 95% là mestizo (lai giữa người Âu và thổ dân châu Mỹ) và 5% được coi là "khác" hoặc các thành viên của các nhóm bộ tộc thổ dân. Họ được chia thành 12 nhóm dân tộc-ngôn ngữ riêng biệt. Một điều đáng chú ý là dấu tích văn hóa Guaraní vẫn còn tồn tại ở Paraguay thông qua tiếng Guaraní, được 90% dân số thông hiểu. Khoảng 70% toàn dân Paraguay nói tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Guaraní và Tiếng Tây Ban Nha đều là ngôn ngữ chính thức của đất nước. Các nhóm nhỏ người Ý, người Đức, người Nga, người Nhật, người Hàn Quốc, người Hoa, người Ả Rập, người Ukraina, người Brasil và người Argentina cũng định cư tại Paraguay, và họ cũng giữa lại các nét văn hóa và ngôn ngữ tương ứng của mình ở những mức độ khác nhau, đặc biệt là người Brasil do họ là cộng đồng lớn nhất. Một ước tính cho rằng có 400.000 người Brasil sinh sống tại Paraguay. Trong đó, nhiều người Brasil có nguồn gốc từ những người nhập cư Đức, Ý và Ba Lan. Có một ước tính cho là có 63.000 người Paraguay gốc Phi, chiếm 1% dân số. Khoảng 10.000 người theo Tin Lành Menno nói tiếng Đức sing sống tại Chaco thuộc Paraguay. Phân bổ dân số tại Paraguay không đồng đều. Khoảng 56% người Paraguay sinh sống tại khu vực đô thị. Phần lớn dân số sinh sống tại khu vực phía đông gần thủ đô Asunción,, và thành phố này chiếm tới 10% dân số cả nước. Vùng Gran Chaco, gồm các tỉnh Alto Paraguay, Boqueró và Presindente Hayes chiếm tới 60% diện tích lãnh thổ nhưng chỉ chiếm 2% dân số. Tôn giáo Kitô giáo, đặc biệt là Công giáo Rôma, là tôn giáo thống trị ở Paraguay. Theo điều tra dân số năm 2002, 89,9% dân số là Công giáo Rôma, 6,2% là Tin Lành, 1,1% xác định là các giáo phái Kitô giáo khác, và 0,6% thực hành tôn giáo bản địa. Một báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ về tên Tự do Tôn giáo; Công giáo La Mã, Tin Lành, Do Thái giáo, Chính Thống giáo, đạo Mormon, và Đức Tin Baha'í là các nhóm tôn giáo nổi bật. Nó cũng đề cập đến một cộng đồng Hồi giáo lớn ở Alto Paraná và một cộng đồng Mennonite nổi bật ở Boquerón. Công giáo Công giáo từ lâu đã là tôn giáo quan trọng nhất Paraguay, Tòa Giám mục Asuncion đã được thiết lập vào năm 1547. Phần lớn các quan chức chính phủ là người Công giáo và một số lễ hội Công giáo là ngày nghỉ lễ (Thứ năm Tuần Thánh, Thứ sáu Tuần Thánh, Lễ Đức Mẹ Mân côi, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm và Giáng sinh. Nhiều người đánh dấu ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm bằng một cuộc hành hương đến Caacupé. Vương cung thánh đường Caccupe chứa một bức tượng Đức Mẹ được cho là đã làm nhiều phép lạ. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Caacupe trong năm 1987. Bahá'í Đức tin Bahá'í ở Paraguay được Abdu'l-Baha truyền đến vào năm 1916. Bà Maria Casati là người Paraguay đầu tiên tham gia tôn giáo này vào năm 1939 khi sống ở Buenos Aires. Các nhà tiên phong đầu tiên định cư ở Paraguay là Elizabeth Cheney cuối năm 1940 và Hội đồng Tinh thần tôn giáo Bahá'í Paraguay được thành lập vào năm 1944. Các ước tính gần đây cho biết đức tin Baha'is có khoảng 5.500 hoặc 13.000 tín đồ, mặc dù Tổng điều tra dân số của nhà nước không đề cập đến đạo Baha'is. Hồi giáo Điều tra dân số năm 1992 ghi nhận 872 người Hồi giáo ở Paraguay, 486 người trong số đó sống ở Alto Parana, thủ phủ Ciudad del Este. Ngoài ra còn có các cộng đồng Hồi giáo ở Asunción và Itapua (thủ phủ của bang Encarnación). Như cộng đồng Hồi giáo khác ở châu Mỹ La tinh, nhiều người trong số này là hậu duệ của những người nhập cư đến từ Syria và Liban, một số từ Bangladesh và Pakistan. Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô tuyên bố có hơn 70.000 thành viên ở Paraguay. Có 147 cộng đoàn của Giáo hội này ở Paraguay. Các vấn đề xã hội Vài ước tính khác nhau cho rằng 30-50% dân số Paraguay là người nghèo. Tại các khu vực nông thôn, 41,2% dân số thiếu thu nhập để bảo đảm bữa ăn cần thiết, trong khi tỷ lệ này tại đô thị là 27,6%. Nhóm 10% những người giáu nhất chiếm 43,8% thu nhập quốc gia trong khi 10% người nghèo nhất chỉ chiếm 0,5%. Sự suy thoái kinh tế đã làm cho bất bình đẳng thu nhập trở nên tồi tệ hơn, nhất là các khu vực nông thôn. Tương tự như vây, tập trung đất đai tại các vùng nông thôn Paraguay có tỷ lệ cao nhất thế giới: 10% dân số kiểm soát 66% tổng đất đai trong khi 30% dân cư nông thôn không có đất sản xuất. Bất bình đẳng này là nguyên nhân gây ra các vụ xung đột giữa những người không có đất và chủ đất. Giáo dục Giáo dục công được miễn phí, tuy nhiên học sinh phải tự mua đồng phục và đóng tiền mua thiết bị dạy học. Ngôn ngữ giảng dạy chính thức là tiếng Tây Ban Nha. Tỷ lệ biết chữ tại Paraguay là 91%. Giáo dục sơ cấp là miễn phí, bắt buộc và kéo dài 9 năm. Trường cấp hai tiếp tục ba năm còn lại. Paraguay có một vài trường đại học như Đại học Quốc gia Asunción được thành lập năm 1889. Tỷ lệ tốt nghiệp sơ cấp là 88% vào năm 2005. Phí cho giáo dục chiếm 4,3% GDP trong đầu thập niên 2000. Y tế Paraguay có hệ thống bệnh viện nhưng phần lớn đều tập trung ở các thành phố lớn, còn ở các thành phố nhỏ hoặc vùng nông thôn chủ yếu là các phòng khám đa khoa hoặc trạm y tế. Bệnh về răng lợi khá phổ biến, nhất là ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, mối nguy hiểm thật sự của người dân Paraguay là bệnh rệp vinchuga, người bị cắn sau vài năm sẽ chết. Chi phí y tế công chiếm 2,6% GDP và chi phí y tế công chiếm 5,1%. Tỷ lệ tử vong là 20 trên 1000 dân vào năm 2005. Số bà mẹ tử vong khi sinh là 150 trên 100.000 người. Ngân hàng Thế giới đã giúp đỡ chính phủ Paraguay giảm bớt tỉ lệ tử vong của bà mẹ và trẻ sơ sinh. Chương trình Bảo vệ Sức khỏe Cơ bản Bà mẹ và Trẻ em nhằm mục đích góp phần giảm tử vong và tăng việc sử dụng dịch vụ cứu đắm. Văn hóa Chú thích
{{Thông tin quốc gia | Tên chính = Cộng hòa SurinameRepubliek Suriname | Tên thường = Suriname | Tên ngắn = Suriname | Lá cờ = Flag of Suriname.svg | Huy hiệu = Coat of arms of Suriname.svg | Khẩu hiệu = Công lý- Lòng mộ đạo - Đức tin (tiếng Latinh: "Justitia – Pietas – Fides") | Bản đồ = SUR orthographic.svg | Quốc ca = Opo kondreman | Ngôn ngữ chính thức = tiếng Hà Lan | Thủ đô = Paramaribo | Tọa độ thủ đô = | Thành phố lớn nhất = Paramaribo | Loại chính phủ = Đơn nhất cộng hòa nghị viện | Loại viên chức = Tổng thống | Tên viên chức = Chan Santokhi | Diện tích = 163.821 | Đứng hàng diện tích = 92 | Độ lớn diện tích = 1 E11 | Phần nước = 1,1 | Dân số ước lượng = 585.824 | Năm ước lượng dân số = 2016 | Đứng hàng dân số ước lượng = 166 | Dân số = 541.638 | Năm thống kê dân số = 2012 | Mật độ dân số = 2,9 | Đứng hàng mật độ dân số = 231 | Thành thị = | Nông thôn = | Năm tính GDP PPP = 2017| GDP PPP = 7,961 tỷ USD | Xếp hạng GDP PPP = | GDP PPP bình quân đầu người = 13.934 USD | Xếp hạng GDP PPP bình quân đầu người = | Năm tính GDP danh nghĩa =2017 | GDP danh nghĩa = 3,641 tỷ USD | Xếp hạng GDP danh nghĩa = | GDP danh nghĩa bình quân đầu người = 6.373 USD| Xếp hạng GDP danh nghĩa bình quân đầu người = | Năm tính HDI = 2015 | HDI = 0,725 | Đứng hàng HDI = 97 | Cấp HDI = cao | Loại chủ quyền = Độc lập | Sự kiện thành lập =  - Ngày | Ngày thành lập = Từ Hà Lan 25 tháng 11 năm 1975 | Đơn vị tiền tệ = Đô la Suriname | Dấu đơn vị tiền tệ = | Mã đơn vị tiền tệ = SRD | Múi giờ = ART | UTC = -3 | Múi giờ DST = | UTC DST = | Tên vùng Internet = .sr | Mã số điện thoại = 597 | Ghi chú = |Bản đồ 2=Suriname in its region.svg|Chú thích bản đồ=Vị trí của Suriname (xanh) trên thế giới|Chú thích bản đồ 2=Vị trí Suriname (đỏ) trong khu vực|languages2=|recognized_languages=tiếng Bồ Đào Nha Brasil}} Suriname (phiên âm tiếng Việt: Xu-ri-nam), tên đầy đủ là Cộng hòa Suriname (tiếng Hà Lan: Republiek Suriname'') là một quốc gia tại Nam Mỹ. Suriname toạ lạc giữa Guyane thuộc Pháp về phía đông và Guyana về phía tây. Biên giới phía nam chung với Brasil còn ranh giới phía bắc là bờ biển Đại Tây Dương. Biên giới cực nam với Guiana thuộc Pháp đang bị tranh chấp nằm dọc theo các sông Marowijne và Corantijn. Suriname là quốc gia có chủ quyền nhỏ nhất về diện tích ở Nam Mỹ. Đây là khu vực nói tiếng Hà Lan duy nhất ở Tây Bán Cầu không thuộc Vương quốc Hà Lan. Suriname cực kỳ đa dạng về chủng tộc, ngôn ngữ và tôn giáo. Diện tích quốc gia này gần 165.000 km². Quốc gia này có một phần tư dân số sống dưới 2 đô la Mỹ mỗi ngày. Tên gọi Tên nước lấy tên sông Suriname, cũng có thể là tên của một bộ lạc ven bờ biển Caribe, không rõ ý nghĩa. Suriname nguyên là nơi cư trú của Thổ dân châu Mỹ. Năm 1593, là thuộc địa của Tây Ban Nha. Năm 1816, lại rơi vào sự thống trị của thực dân Hà Lan, gọi là "Guyana thuộc Hà Lan". Năm 1948, đổi tên là "Surina". Năm 1954, thực hiện chế độ tự trị. Ngày 25 tháng 11 năm 1975, tuyên bố độc lập, thành lập "Cộng hòa Suriname". Địa lý Suriname nằm ở khu vực Nam Mỹ, Bắc giáp Đại Tây Dương, Nam giáp Brasil, Đông giáp lãnh thổ Guyane thuộc Pháp, Tây giáp Guyana. Phần lãnh thổ phía nam trải rộng trên vùng núi và cao nguyên Guyana, bao phủ bởi các khu rừng rậm xích đạo, thoải dần về phía bắc là vùng đồng bằng đầm lầy ven biển. Lịch sử Surimane được Cristoforo Colombo phát hiện năm 1499. Vùng lãnh thổ này trở thành thuộc địa của Anh từ năm 1650, được nhượng lại cho Hà Lan năm 1667 để phát triển các đồn điền mía, bị Anh xâm chiếm từ năm 1796. Việc bãi bỏ chế độ nô lệ (1863) đã dẫn đến các đợt nhập cư từ Ấn Độ và Indonesia sang. Năm 1948, lãnh thổ này trở thành vùng Guyana thuộc Hà Lan, được đặt tên là Suriname. Hiến pháp năm 1954 mang lại cho vùng này quyền tự trị rộng rãi hơn. Suriname giành được độc lập năm 1975. Cuộc đảo chính quân sự năm 1980 đưa Đại tá Desi Bouterse lên cầm quyền. Từ năm 1982, phong trào kháng chiến du kích phát triển ở miền Nam và miền Đông, buộc giới quân nhân chấp nhận tiến trình dân chủ hóa. Năm 1988, Ramsewak Shankar được bầu làm Tổng thống, trong khi Desi Bouterse vẫn cầm quyền kiểm soát quân đội. Năm 1990, giới quân nhân trở lại cầm quyền. Năm 1991, Ronald Venetiaan, ứng cử viên thuộc liên minh đối lập với quân đội đắc cử Tổng thống. Năm 1992, một hiệp định hòa bình được ký kết giữa Chính phủ và quân du kích. Sau khi chấm dứt cuộc nội chiến, Suriname ra sức tái thiết kinh tế đất nước. Năm 1997, Jules Wijdenbosch, được sự hậu thuẫn của Bourterse, đắc cử Tổng thống. Năm 1999, một tòa án Hà Lan kết án tù vắng mặt đối với Desi Bouterse vì tội buôn lậu ma túy. Năm 2000, Ronald Venetiaan trở lại cầm quyền và ra sức tái thiết kinh tế với sự giúp đỡ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Hà Lan. Kinh tế Nông nghiệp chủ yếu là ngành trồng trọt (lúa, mía, chuối và cam), các nguồn lợi khác thu nhập từ đánh bắt cá và khai thác gỗ. Bauxit và nhôm được sản xuất tại chỗ nhờ các công trình thủy điện và cũng là hai mặt hàng xuất khẩu chính. Tình trạng tham nhũng, lạm phát và thiếu năng lực kìm hãm sự phát triển của đất nước. Tính đến năm 2016, GDP của Suriname đạt 4.137 USD, đứng thứ 157 thế giới và đứng thứ 11 khu vực Nam Mỹ. Văn hóa Suriname là nơi giao hòa của nhiều dòng chảy văn hóa Phi, Mỹ - Anh Điêng, châu Á, Do Thái và Hà Lan. Tất cả phản ánh qua phong tục tập quán cũng như phong cách sống của con người vốn đa dạng nhưng cũng rất hài hòa. Thủ đô cũng là hải cảng lớn Paramaribo nằm ngay cửa sông Suriname. Kiến trúc nổi bật gây ấn tượng với du khách về một thời thuộc địa Hà Lan, và đó cũng là lý do Paramaribo trở thành Di sản thế giới do UNESCO công nhận. Suriname được độc lập năm 1975 khi thoát khỏi ách thống trị của người Hà Lan. Ngôn ngữ chính thức ở Suriname là tiếng Hà Lan và tiếng Anh. Ngoài ra, còn có tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Sarnami (một tiếng địa phương của người Hindi), tiếng Java, Trung Quốc (tiếng Phổ thông, tiếng Quảng Đông và tiếng Hakka). Chính trị Suriname theo chính thể cộng hòa. Đứng đầu nhà nước là tổng thống. Đứng đầu chính phủ là thủ tướng. Tổng thống và Phó Tổng thống (đồng thời là Thủ tướng) do quốc hội bầu ra, nhiệm kì 5 năm. Tổng thống chỉ định các thành viên của Nội các. Hội đồng Nhà nước gồm 14 thành viên được chỉ định. Hội đồng Nhà nước lãnh đạo Quốc hội. Cơ quan lập pháp là Quốc hội gồm 51 thành viên, được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm. Cơ quan tư pháp là Tòa án Tối cao, các thẩm phán được đề cử suốt đời. Các đảng phái chính gồm có: Mặt trận mới (NF), Đảng Cải cách tiến bộ (VHP), Đảng Quốc gia Suriname (NPS), Đảng Thống nhất và đoàn kết dân tộc (KTPI), Đảng Lao động Suriname (CSPA), Đảng Dân chủ dân tộc (NDP), v.v.. Hành chính Suriname được chia thành 10 quận: Brokopondo Commewijne Coronie Marowijne Nickerie Para Paramaribo Saramacca Sipaliwini Wanica Nhân khẩu Dân số Surimane hiện khoảng 470,784 người. Gồm các nhóm dân tộc: Hindustani (còn được gọi là "người Đông Ấn" tổ tiên của họ di cư từ Bắc Ấn Độ vào cuối thế kỷ XIX) chiếm 37% dân số, người Creole chiếm 31%, người Java 15%, người Maroon 10%, người Hoa 2%, người Da Trắng 1%, người bản xứ 2%. Ngôn ngữ chính thức của quốc gia là tiếng Hà Lan, ngoài ra còn có tiếng Anh, tiếng Hindustani (thổ ngữ của tiếng Hindi), tiếng Java. Tôn giáo chiếm ưu thế trong nước là Kitô giáo chiếm 40,7% dân số gồm Công giáo La Mã và các giáo phái khác nhau của đạo Tin Lành, Giáo hội Moravian là lâu đời nhất và lớn nhất. Ấn giáo chủ yếu tập trung ở vùng ven biển phía Bắc của Suriname. Nhất người Ấn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Theo điều tra dân số năm 2004, 23,9% dân số Surinam thực hành Ấn Độ giáo. Ấn giáo chủ yếu tập trung ở Nickerie, Wanica và Saramacca. Đây là những nơi Ấn giáo là nhóm tôn giáo lớn nhất. Theo điều tra dân số gần đây nhất, Hồi giáo ở Suriname chiếm khoảng 13,5% tổng dân số của đất nước, đem lại cho đất nước này tỷ lệ phần trăm người Hồi giáo cao nhất trên lục địa châu Mỹ. Người Hồi giáo đầu tiên đến Suriname là những nô lệ đến từ châu Phi. Nhóm tiếp theo của người Hồi giáo đến đất nước này bao gồm người lao động giao kèo từ Nam Á và Indonesia, mà hầu hết người Hồi giáo ngày nay ở Suriname là hậu duệ. Du lịch Chú thích
Uruguay, tên chính thức: Cộng hòa Đông Uruguay (tiếng Tây Ban Nha: República Oriental del Uruguay); là một quốc gia có chủ quyền ở khu vực phía nam của châu Mỹ. Phía bắc tiếp giáp với Brasil, phía tây giáp với Argentina (qua sông Uruguay là biên giới tự nhiên), phía tây nam là Río de la Plata và phía đông nam hướng ra biển Đại Tây Dương. Đây là quốc gia độc lập có diện tích nhỏ thứ 2 ở Nam Mỹ, chỉ lớn hơn Suriname. Colonia del Sacramento - khởi nguồn của Uruguay, là một trong số những khu định cư lâu đời nhất ở Nam Mỹ của người châu Âu được thành lập bởi Đế quốc Bồ Đào Nha. Sau này, Đế quốc Tây Ban Nha đánh chiếm và xây dựng tại vùng đất mà ngày nay là thủ đô Montevideo vào đầu thế kỷ XVIII. Người Uruguay nổi dậy đấu tranh giành độc lập vào những năm 1811-1828 từ 3 nước Tây Ban Nha, Argentina và Brasil, hình thành nên quốc gia riêng biệt và xây dựng một nền dân chủ lập hiến kết hợp dân chủ trực tiếp hoàn chỉnh với Tổng thống là người đồng thời giữ cả 2 vai trò đứng đầu Nhà nước và Chính phủ. Ngày nay, Uruguay là một trong số những nền kinh tế phát triển nhất ở khu vực Nam Mỹ với GDP cùng thu nhập bình quân đầu người đều cùng ở mức cao. Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Uruguay là nước ít tham nhũng nhất ở châu Mỹ Latinh (cùng với Chile). Uruguay đứng đầu ở Mỹ Latinh về các chỉ số dân chủ, chỉ số hòa bình, chính phủ điện tử, đây cũng là nước đứng đầu ở Nam Mỹ về tự do báo chí, chất lượng cuộc sống của tầng lớp trung lưu và mức độ thịnh vượng. Tính theo bình quân đầu người. Quân đội Uruguay là lực lượng có đóng góp số lượng binh lính lớn nhất cho các sứ mệnh gìn giữ hòa bình trên toàn cầu của Liên Hợp Quốc và cũng đồng thời nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Quốc gia này cũng xếp hạng thấp nhất ở Nam Mỹ về chỉ số khủng bố. Ngoài ra, Uruguay cũng đứng thứ 2 trong khu vực về mức độ tự do kinh tế, bình đẳng thu nhập, thu nhập bình quân đầu người và dòng vốn FDI. Uruguay xếp thứ 3 châu lục về chỉ số phát triển con người (HDI), tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm, tốc độ đổi mới cùng chất lượng cơ sở hạ tầng. Đây là một quốc gia có thu nhập cao theo phân loại của Liên Hợp Quốc. Uruguay là một nhà xuất khẩu quan trọng trên toàn cầu về một số mặt hàng quan trọng như: len, gạo, đậu nành, thịt bò đông lạnh, mạch nha và sữa. Gần 95% sản lượng điện năng của Uruguay được sản xuất từ năng lượng tái tạo, chủ yếu là từ các công trình thủy điện và điện gió. Uruguay là thành viên sáng lập của Liên Hợp Quốc, OAS, Mercosur, UNASUR và NAM. Uruguay được coi là một trong những quốc gia tiên tiến tiến nhất về xã hội ở Mỹ Latinh. Năm 2007, Uruguay là nước đầu tiên ở châu Mỹ Latinh thực hiện kết hợp dân sự cho những người thuộc cộng đồng LGBT. Vào năm 2013, quốc gia này đã trở thành nước đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hoàn toàn việc sản xuất, mua bán và tiêu thụ cần sa. Từ nguyên Từ tiếng Tây Ban Nha República Oriental del Uruguay dịch sang tiếng Việt là Cộng hoà Đông Uruguay. Đó là do nước này có vị trí địa lý ở phía đông sông Uruguay. Vì Uruguay trong tiếng Guaraní nghĩa là con sông nơi mà loài chim đang sống nên thời Việt Nam Cộng hòa Uruguay được gọi là Điểu Hà. Địa danh này vẫn được cộng đồng người Việt hải ngoại dùng để chỉ nước Uruguay trong những trận túc cầu. Lịch sử Tây Ban Nha chinh phục Khi người Tây Ban Nha đến khai phá Uruguay vào đầu thế kỷ 16 thì bị thổ dân chống đối. Người Bồ Đào Nha lúc bấy giờ đã chiếm được Brasil cũng kéo xuống đòi chủ quyền khiến Uruguay trở thành chiến trường giữa hai đế quốc, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Khoảng năm 1669 - 1671, Bồ Đào Nha lập đồn lũy ở Colonia del Sacramento hầu kiểm soát khu vực này. Trong khi đó Tây Ban Nha cũng tìm cách đưa dân đến lập nghiệp để củng cố chủ quyền vì biên giới giữa Phó vương quốc Río de la Plata và Brasil không được ấn định. Năm 1680 quân Tây Ban Nha chiếm được dải đất phía đông sông La Plata mà họ gọi là Banda Oriental nhưng lại hoàn lại cho Brasil năm 1681 sau hòa ước giữa hai nước. Quân Tây Ban Nha lại tiến chiếm mấy đợt nữa: 1705-18, 1762, đến năm 1777 Tây Ban Nha chiếm ưu thế. Triều đình Tây Ban Nha cho xây tòa thành lớn ở Montevideo dùng đó làm căn cứ quân sự và phát triển thành hải cảng lớn. Tầm vóc của Montevideo dần ngang ngửa với Buenos Aires bên Argentina. Vào những năm 1806 - 1807, trong khi bên Âu châu Anh và Pháp lâm chiến thì ở Nam Mỹ cuộc chiến chống Napoleon cũng cuốn Anh, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào vòng binh lửa. Vì Tây Ban Nha là đồng minh của Pháp nên hải quân Anh khai hỏa, tấn công Montevideo lẫn Buenos Aires. Cả hai thị trấn thất thủ; quân Anh chiếm được Montevideo vào năm 1807 nhưng không bao lâu thì quân Tây Ban Nha tái chiếm được. Đấu tranh giành độc lập khỏi Tây Ban Nha (1811-1814) Năm 1811, José Gervasio Artigas, dấy binh chống lại chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha. Hai bên giao chiến. Ngày 18 tháng 5, 1811 quân của Artigas thắng lớn trong trận Las Piedras; quân triều đình do kinh lược sứ Francisco Javier de Elío chỉ huy tuy thua trên bộ nhưng vẫn còn đường biển nên gửi thư mời quân Bồ Đào Nha tham chiến dẹp quân phiến loạn. Nghe tin thấy quân Bồ sắp vào, phe cách mạng ở Buenos Aires sợ hai mặt thụ địch nên giảng hòa với Elío, chấp nhận cho Elío cai trị Banda Oriental. Artigas giận lắm vì bị phản bội nên rút quân về Entre Ríos. Chính phủ cách mạng sau đó nhóm họp ở Buenos Aires để chọn quốc hội lập hiến. Artigas thì tranh đấu đòi lập thể chế liên bang để mỗi vùng như Banda Oriental có quyền tự trị về chính trị và kinh tế. Tuy nhiên nhóm Buenos Aires không chịu cho đại biểu của Banda Oriental tham gia và chỉ chấp nhận một thể chế trung ương đơn nhất, tập trung quyền lực vào một nơi. Tranh chấp giữa các liên bang & độc lập Không được nhìn nhận, Artigas rút khỏi Buenos Aires và kéo quân về vây Montevideo vẫn do Elío chỉ huy; chẳng bao lâu thành Montevideo thất thủ, Artigas lên nắm quyền, đó là năm 1815. Artigas tuyên bố chính phủ tự trị và lập Liga Libre tức Liga de los Pueblos Libres (Liên đoàn dân tự do) gồm sáu tỉnh ở hạ lưu sônng Uruguay. Trong khi đó thấy tình hình rối loạn một vạn quân Bồ Đào Nha kéo vào chiếm lấy Banda Oriental năm 1816, lập ra xứ Cisplatina thuộc Brasil. Thành Montevideo thất thủ Tháng Giêng 1817. Quân của Artigas phải rút về thôn quê hoạt động. Mấy phe lâm chiến đều phái quân vào khu vực: quân của chính phủ Trung ương Buenos Aires (Liên hiệp các tỉnh Río de la Plata), quân địa phương của Artigas và quân Bồ nhưng bất phân thắng bại. Cuộc chiến dai dẳng đến năm 1822 thì Brasil độc lập, lập ra Đế quốc Brasil. Quân Bồ rút đi thay thế bởi quân Brasil; chiến cuộc vẫn tiếp diễn. Ba năm sau ngày 25 Tháng Tám 1825, Juan Antonio Lavalleja lãnh tụ của nhóm quân địa phương dưới tên 33 Oriental tuyên bố xứ Banda Oriental độc lập, lại được phe Liên hiệp các tỉnh Río de la Plata ở Buenos Aires ủng hộ nên chiến tuyến thu hẹp thành hai phe rõ rệt: quân Brasil và quân độc lập. Hai bên giao chiến gần hai năm (chiến tranh Cisplatina) nhưng tình hình quân sự vẫn không dứt khoát. Vương quốc Anh vốn muốn tình hình ổn định để việc buôn bán được phát đạt bèn đứng làm trung gian giảng hòa để hai bên ký kết Hiệp ước Montevideo năm 1828. Theo đó khai sinh nước Uruguay độc lập. Cả hai thế lực Brasil và Argentina lui binh. Ngày 18 Tháng Bảy 1830 tân chính phủ Uruguay ban hành hiến pháp mới. Đại chiến "Guerra Grande" 1839–1852 Về mặt đối ngoại Uruguay đã được các nước lân bang công nhận nhưng chính trị quốc nội bị chia rẽ trầm trọng. Bên bảo thủ, tục gọi là phe Blanco (tiếng Tây Ban Nha nghĩa là "trắng") và phe cấp tiến, tục gọi là Colorado ("đỏ") kình nhau trên chính trường suốt gần 100 năm. Fructuoso Rivera lúc bấy là lãnh tụ phe Colorado, chủ yếu được giới thương gia ở Montevideo ủng hộ; bên Blanco thì có Manuel Oribe làm thủ lãnh, phần lớn do dân quê hậu thuẫn. Mỗi bên đeo băng vải ở tay màu trắng hay màu đỏ để nhận ra nhau. Tình hình bên Argentina cũng tương tự giữa bên cấp tiến và bảo thủ, lôi cuốn luôn chính trị ở Uruguay; mỗi nhóm tìm cách liên kết với đảng phái ngoại bang mà diệt đối thủ quốc nội. Lúc đảng cấp tiến của Argentina là Unitaria thất thế, nhiều đảng viên phải lưu vong bỏ chạy sang Uruguay. Tổng thống Uruguay lúc bấy giờ là Manuel Oribe thuộc phe bảo thủ Blanco thì lại liên minh với lãnh tụ bảo thủ của Argentina là Manuel de Rosas. Đảng Colorado quốc nội không chấp nhận nên nhân đó nổi loạn ngày 15 Tháng Sáu, 1838 lật đổ Oribe; Oribe chạy thoát được sang Argentina tá túc. Lãnh tụ của đảng Colorado là Rivera lên cầm quyền rồi tuyên chiến với Argentina năm 1839, mở đầu cuộc chiến 13 năm dài. Sử gia Uruguay gọi đó cuộc Đại chiến "Guerra Grande". Năm 1843, quân Argentina vượt biên giới vào Uruguay để đưa Oribe về nước. Liên minh quân bảo thủ vây hãm thủ đô Montevideo suốt chín năm trời. Phe cấp tiến Colorado của Rivera liền cầu cứu bên Âu châu. Pháp và Ý phê thuận và sửa soạn binh thuyền sang tham chiến. Giuseppe Garibaldi lúc bấy giờ đang lưu vong ở Montevideo được bổ làm chủ tướng của đoàn quân Ý.. Tình hình quân sự càng hỗn loạn. Việc ra vào sông La Plata bị gián đoạn khiến nước Paraguay ở thượng nguồn bị cắt đứt không liên lạc được. Anh và Pháp vốn nắm địa vị thương mại then chốt trong khu vực bị thiệt hại nhiều nên lập liên minh trên danh nghĩa tái lập trật tự nhưng đúng ra là chống lại lãnh tụ Rosas của Argentina. Argentina cũng tuyên chiến với cựu thù Brasil. Chiến thuyền hai nước Anh Pháp cùng với quân Uruguay kéo vào cửa biến phong tỏa hải cảng Buenos Aires. Brasil cũng điều quân tham chiến tiến sâu vào lãnh thổ Argentina. Bị dồn vào bước đường cùng Rosas phải xin hòa, ký thỏa thuận với Anh (1849) và Pháp (1850), theo đó quân Argentina phải triệt thoái khỏi Uruguay không ủng hộ Oribe nữa. Oribe phải tự cầm quân cố đánh lấy Montevideo. Năm 1851 tình hình bỗng xáo trộn vì Justo José de Urquiza, sĩ quan Argentina đột nhiên bỏ Rosas mà ủng hộ bọn cấp tiến Unitaria, kéo quân sang Uruguay đánh tập hậu đoàn binh của Oribe, giải vây Montevideo. Quân cấp tiến Colorado trong thành Montevideo ăn mừng. Urquiza sau đó lại liên minh với Uruguay và Brasil kéo quân trở về Argentina, đánh quân của Rosas trong trận Caseros ngày 3 Tháng 2 năm 1852. Rosas thua to phải bỏ Argentina mà lưu vong sang Anh. Hòa bình tái lập với phe cấp tiến cầm quyền ở cả hai nước Argentina và Uruguay. Nội chiến và Chiến tranh Tam Đồng minh 1863-70 Tình hình quốc nội Uruguay chưa yên thì thế cuộc lại đẩy Uruguay vào cuộc chiến nữa. Nguyên là năm 1863 Bernardo Prudencio Berro thuộc đảng bảo thủ Blanco đắc cử lên nắm quyền. Đảng cấp tiến Colorado của Venancio Flores bất bình rồi nổi loạn, lật đổ Berro. Flores lại liên kết với Brasil còn Berro thì cầu viện Argentina. Để có thêm hậu thuẫn, Berro mời Francisco Solano López lãnh tụ Paraguay vốn sẵn có hiềm khích với Brasil để giúp đỡ đảng Blanco chống Brasil ở Uruguay. Quân Brasil tràn vào Uruguay năm 1864 giúp đảng Colorado và Flores giữ được địa vị nhưng mất đến 90% lực lượng. Berro phải rút lui. Paraguay nhân danh đồng minh với chính phủ Berro tuyên chiến với Uruguay của Flores luôn. Vì muốn mở đường tiếp viện từ Paraguay xuống Uruguay, López phải mượn đường cho quân đội Paraguay băng qua lãnh thổ của Argentina. Argentina không thuận cho. López nổi giận đòi gây hấn với Argentina luôn. Thế là tình hình thay đổi toàn diện, chiến cuộc chuyển từ nội chiến Uruguay với hai thế lực Argentina và Brasil đứng sau lưng, nay dồn sang Paraguay với ba nước Uruguay, Brasil và Argentina cùng liên minh đánh Paraguay, sử gọi là chiến tranh Tam Đồng minh. Paraguay đại bại phải cắt đất hàng chục nghìn cây số vuông nhường cho Argentina và Brasil và chịu bồi thường binh phí. Ở Uruguay oái oăm thay tuy thuộc phe chiến thắng, chính phủ Flores không thu hoạch được gì rồi chính Flores bị ám sát ăm 1868, cùng ngày với cựu thù Berro. Thỏa hiệp chia quyền giữa hai đảng Colorado và Blanco Quốc gia tan hoang vì quá mệt mỏi, hai đảng cấp tiến Colorado và bảo thủ Blanco đành thỏa hiệp năm 1872 chung sống nhưng chia vùng ảnh hưởng: đảng cấp tiến Colorado kiểm soát thủ đô Montevideo và dải duyên hải. Sâu trong lục địa thì đảng bảo thủ Blanco độc quyền ở bốn trong số 13 tỉnh bộ: Canelones, San José, Florida và Cerro Largo. Đảng Blanco cũng được cam đoan một số ghế tối thiểu trong quốc hội. Ngoài ra đảng Blanco cũng được trả khoản bồi thường nửa triệu Mỹ kim để bù đắp việc rút khỏi thủ đô. Tình hình chính trị bớt bạo động nhưng mầm mống chia rẽ vẫn tồn tại âm ỉ, chi phối chính trường quốc nội vì hiềm khí giữa hai đảng vẫn không bớt. Đảng Colorado lợi dụng đợt cải cách hành chánh thập niên 1890 để giảm uy thế của đảng Blanco nhưng thất bại. Số tỉnh bộ tăng lên từ 13 lên 16 và lần này đảng Blanco được toàn quyền trong sáu tỉnh và 1/3 ghế trong quốc hội. Chế độ quân phiệt: Phát triển xã hội và kinh tế hậu bán thế kỷ 19 Năm 1875 trong khi hai đảng Colorado và Blanco còn xung đột thì nội bộ đảng Colorado phân hóa thành hai phe: principista và neto. Nhóm principista sẵn sàng hợp tác với đảng Blanco nhưng nhóm neto thì nhất quyết không chịu đứng chung chấp chính. Thủ lĩnh đảng Blanco là Aparicio Saravia lợi dụng tình thế đó mà liên kết với nhóm tướng lãnh lật đổ tổng thống Pedro Varela mới lên chấp nhiệm được hai tháng. Nhóm quân nhân sau đó lần lượt thay nhau lên nắm quyền, không lập chính phủ dân sự. Lorenzo Latorre (1876–1880), Francisco Antonino Vidal (1880–1882), Maximo Santos (1882–1886), Francisco Antonino Vidal (1886) Maximo Santos (1886) Máximo Tajes (1886–1890) Nhưng cũng chính vì giới quân nhân lên nắm quyền, dẹp bỏ tranh chấp chính trị giữa hai đảng Blanco và Colorado mà Uruguay tiến vào thời kỳ phát triển vững vàng, lập nền móng cho một nền kinh tế thịnh vượng. Ý kiến của các nhà kỹ nghệ và đại điền chủ đều được hính phủ quan tâm thực hiện. Với khí hậu ôn hòa, đất rộng người thưa, Uruguay xoay sang chiêu mộ di dân từ Âu châu sang lập nghiệp, đại đa số xuất phát từ Ý và Tây Ban Nha. Tỷ lệ di dân nhập cư tăng mạnh từ 48% dân số (1860) lên 68% (1868). Sang thập niên 1870, khoảng 100.000 người Âu châu đã tìm sang Uruguay sinh sống. Tính đến năm 1879 thì chỉ trong hai thập niên Uruguay đã đón nhận 438.000 người. Hơn 100.000 người mới tới lập nghiệp luôn ở thủ đô Montevideo, mang nếp sống Âu Tây cho đô thị non trẻ. Về mặt kinh tế, ngân hàng đầu tiên khai trương ở Uruguay năm 1857. Tiếp theo là hệ thống đường sắt, điện lực, điện tín tỏa ra nối liền mọi miền thành thị và nông thôn. Ngành chăn nuôi phát triển mạnh nhất, góp phần cho ngành xuất cảng nổi trội. Các đàn mục súc như chiên cừu nhảy vọt từ ba triệu lên 17 triệu do phương pháp cải tiến chăn nuôi của những dân Âu châu nhập cư. Montevideo biến thành trung tâm kinh tế lớn vì vị trí thiên nhiên với thương cảng thuận tiện ở cửa sông La Plata. Khác với Buenos Aires, Montevideo không bị nạn cát bồi nghẽn cửa sông nên thương thuyền hàng hải có thể ra vào dễ dàng. Montevideo hiển nhiên trở thành trạm trung chuyển hàng hóa cho cả ba nước: Argentina, Brasil và Paraguay. Các thị trấn Paysandú và Salto dọc sông Uruguay cũng hưởng lợi, phát triển nhanh chóng. Đầu thế kỷ 20: tái lập chính phủ dân sự Uruguay tiếp tục phát triển vào đầu thế kỷ 20 với diện tích chăn nuôi mở rộng. Hàng rào kẽm gai giúp nhà nông kiểm soát đàn mục súc, chủ yếu là cừu và bò, thay vì thả rong phải chăn thành đàn như xưa. Các nông phẩm như da bò và len tăng đáng kể, dẫn đầu các mặt hàng xuất cảng kể từ năm 1884 trở đi. Kỹ thuật đông lạnh và đóng hộp thúc đẩy việc xuất cảng thịt bò. Các nhà kỹ nghệ nhất là người Anh bỏ vốn ra canh tân đường sắt và thương cảng Montevideo để thu lời. Vì chính trị đã tương đối ổn định, tình hình an ninh cũng cải thiện cho dù vấn nạn tham nhũng vẫn đeo đuổi nước Uruguay. Năm 1890 đảng Colorado trở lại chấp chính khi phe quân nhân rút lui. Tổng thống Juan Idiarte Borda thuộc đảng Colorado không may bị ám sát năm 1897, bỏ trống ghế hành pháp. Đảng Blanco do Aparicio Saravia lãnh đạo đòi đảng Colorado phải nhường quyền nhưng không thành. Năm 1903 đảng Colorado đưa José Batlle y Ordóñez lên làm tổng thống nhưng không lâu sau đó đảng Blanco lại nổi loạn, cả vùng nông thôn bị cuốn vào cơn khói lửa kéo dài tám tháng. Chuỗi bạo động chỉ bị dập tắt khi chủ tịch đảng Blanco là Saravia tử trận. Đảng Colorado lại chiếm ưu thế và đến năm 1905 mở cuộc tổng tuyển cử, đưa nền chính trị Uruguay vượt qua một chặng khủng hoảng lớn. Batlle là lãnh đạo đảng Colorado, chủ trương dồn hết nỗ lực vào việc phát triển kinh tế. Chính phủ mở rộng tầm kiểm soát và kích thích mọi ngành kể cả xuất công quỹ đầu vốn cho vùng nông thôn nơi Blanco nắm ưu thế. Chính phủ cũng đề ra nhiều cải cách về giáo dục, an ninh xã hội, lao động, và hình sự như hủy bỏ án tử hình và hộ sự như cho phép phụ nữ đứng đơn ly dị. Địa vị của Giáo hội Công giáo La Mã giảm dần, nhường chỗ cho một xã hội dân sự tự do hơn. Batlle chấp chính hai nhiệm kỳ (1903-1907 và 1911-1915) nhưng cũng lo ngại là bao nhiêu cải cách ông thực hiện sẽ bị đảo ngược trong nay mai nếu tình hình chính trị giữ nguyên công thức hiện hữu, tức là hai đảng Colorado và Blanco tiếp tục đối đầu. Muốn thay đổi toàn diện, Batlle đề nghị soạn hiến pháp mới, trong đó điều khoản quan trọng là lập cơ chế hành pháp tập thể gọi là colegiado để phân quyền. Tổng thống trông coi ngoại giao, quốc phòng và an ninh quốc gia. Phụ tá tổng thống là Consejo Nacional de Administración, tức Hội đồng quốc gia hành chánh, thường gọi là colegiado có chín người, đảm nhiệm những thành phần khác như y tế, kỹ nghệ, lao động, nông nghiệp, giáo dục. Hội đồng này cũng sẽ lãnh phần soạn ngân sách. Sáu trong chín ghế thuộc đảng cầm quyền, ba ghế còn lại do đảng đối lập giữ. Colegiado đầu tiên nhóm họp năm 1919. Với cơ chế hành pháp phân quyền, Uruguay bước vào thời kỳ ổn định lâu dài. Cuộc Đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu thập niên 1920-30 gây ra không ít khó khăn nhưng quốc gia vẫn phát triển về mọi mặt. Năm 1930, Uruguay là nước tiên phong đăng cai tổ chức World Cup túc cầu. Kỳ đó Uruguay đánh bại đối thủ không ai khác hơn là nước lân bang Argentina với tỷ số 4-2. Uruguay đi vào lịch sử thế giới năm 1930 với sự kiện đó. Hai mươi năm sau Uruguay lần nữa lại đoạt giải vô địch túc cầu năm 1950, lần này chiến thắng đội Brasil. 1950-1985: Suy thoái và chế độ quân phiệt lần thứ nhì Vào cuối thập niên 1950, kinh tế Uruguay phải đối diện với nền kinh tế suy giảm. Ngành xuất cảng yếu dần trong khi lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng kéo theo bất ổn xã hội: sinh viên và công nhân thường xuống đường phản đối. Phong trào du kích Tupamaros thì theo đuổi đường lối bạo động, chủ trương cướp tiền các cơ quan tài chánh cùng ngân hàng rồi phát lại cho người nghèo. Chính phủ liệt nhóm này vào thành phần khủng bố nên nhất quyết không thương lượng. Tupamaros càng gia tăng hoạt động như bắt cóc và thủ tiêu những công chức họ cho là tham nhũng. Tình hình suy thoái khiến Tổng thống Jorge Pacheco phải tuyên bố thiết quân luật năm 1968, hạn chế quyền tự do dân sự. Năm 1972 Tổng thống Juan María Bordaberry kế nhiệm theo đuổi chính sách cứng rắn hơn, ra tay diệt các nhóm du kích thiên tả như Movimiento liberación nacional - Tupamaros (viết tắt: MLN-T) tức Phong trào giải phóng quốc gia Tupamaros. Bordaberry cũng ra lệnh giải tán quốc hội. Phe quân nhân từ đó nằm quyền hành pháp từ năm 1973 đến 1985; họ thẳng tay đàn áp các nhóm đối lập. Số tù nhân chính trị lên cao. Đầu thập niên 1980 phe quân phiệt xúc tiến mở cuộc trưng cầu dân ý thông qua hiến pháp mới để dễ bề tham chính nhưng thất bại. Họ đành phải mở đường nhường quyền lại cho chính phủ dân sự và tổ chức tổng tuyển cử năm 1984. Lãnh tụ đảng Colorado là Julio María Sanguinetti đắc cử tổng thống với nhiệm kỳ 1985-1990, chấm dứt thời kỳ quân phiệt. Thay vì tìm cách truy tố phe quân nhân, Sanguinetti chủ trương hòa giải, thông qua đạo luật ân xá "Ley de Amnistia", khép lại trang sử cũ để thống nhất lòng người. Tái lập dân chủ Sanguinetti xúc tiến cải cách kinh tế, tập trung vào việc thu hút thương mại và vốn nước ngoài. Kết quả đạt được một số thành công, triển vọng kinh tế sáng sủa hơn. Chính sách hòa giải của Sanguinetti tuy bị chống đối nhưng cuối cùng được thông qua. Năm 1989 đảng Quốc gia Blanco của Luis Alberto Lacalle đắc cử, lãnh nhiệm kỳ 1990-1995. Lacalle theo đuổi chính sách mở rộng kinh tế, sáng lập Khối thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) năm 1991 cho bốn nước: Uruguay, Argentina, Brasil và Paraguay. Lacalle còn muốn tư hữu hóa nhiều xí nghiệp quốc doanh để giảm nợ công nhưng đề nghị của ông bị triệt hạ trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1992. Trong cuộc bầu cử năm 1994, cựu Tổng thống Sanguinetti lại ra tranh cử và thắng ghế tổng thống (1995-2000). Vì không đảng nào nắm đa số tại quốc hội, đảng Blanco liên minh với đảng Colorado đứng ra lập chính phủ. Những chính sách then chốt cùng hợp tác là cởi mở kinh tế, hội nhập MERCOSUR và soạn hiến pháp mới; bản hiến pháp này ban hành năm 1996. Đến kỳ tổng tuyển cử năm 1999 thì Uruguay áp dụng phương thức mới với các đảng tổ chức bầu cử sơ bộ cho mỗi chính đảng vào Tháng Tư, đến Tháng 10 thì bầu cử toàn quốc chọn tổng thống và dân biểu. Trước kia thì chỉ bầu hết một lượt. Người đắc cử hành pháp phải chiếm hơn 50% số phiếu. Vì không đạt được túc số, Uruguay phải tổ chức bầu cử vòng nhì. Đảng Blanco lại liên danh với đảng Colorado chọn Jorge Batlle, đánh bại Tabare Vázquez thuộc Mặt trận Quảng đại (Frente Amplio). Hai đảng Colorado và Blanco tiếp tục liên danh tại quốc hội chống lại Mặt trận Quảng đại nhưng đến Tháng 11 năm 2002, thì đảng Blanco rút khỏi nội các trước hiện tình kinh tế suy thoái. Khủng hoảng kinh tế bên Brasil (1999) và Argentina (2001) kéo luôn Uruguay vào vòng bất trắc lại thêm nạn dịch lở mồm long móng gây thiệt hại nhiều cho ngành chăn nuôi. Tỷ số thất nhiệp lên ngót 20% trong khi lạm phát kéo giá sinh hoạt quá tầm tay người dân trung bình ở Uruguay, đẩy ngưỡng số dân nghèo lên 40%. Chính phủ đề nghị tiếp tục tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh như ngành dầu khí nhưng bị dân chúng phản đối. Đảng thiên tả nắm quyền, hai đảng truyền thống Blanco và Colorado bị loại Năm 2004 cử tri Urugauy xoay sang ủng hộ phe đối lập của Tabaré Vázquez thuộc Mặt trận Quảng đại (Frente Amplio). Mặt trận này gồm những tổ chức khuynh tả kể cả cộng sản và Tupamaros. Vázquez đòi truy tố các nhân vật thuộc thời kỳ quân phiệt 1950-1985: Juan Maria Bordaberry và Gregorio Alzarez đều bị tống giam. Mặt trận Quảng đại lại đắc cử lần nữa năm 2009. Ứng cử viên là José Mujica lên làm tổng thống. Với biệt danh "El Pepe", Mujica trước kia là cựu du kích quân. Thời Vázquez, Mujica làm Bộ trưởng Bộ Chăn nuôi, Nông nghiệp, Thủy sản (2005-2008), sau được bầu vào thượng viện. Mujica chủ trương nhiều chính sách theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Địa lý Lãnh thổ của Uruguay bao gồm 176.220 km² đất liền và 142.999 km 2 sông, hồ. So với các nước Nam Mỹ châu thì Uruguay là có diện tích nhỏ thứ nhì sau Suriname. Địa hình chủ yếu là bình nguyên đồng cỏ và một số đồi thấp. Điểm cao nhất là đỉnh Cerro Catedral đo được 514 m trong dải đồi Sierra Carapé. Khí hậu Khí hậu Uruguay là khí hậu ôn đới gần giống với khí hậu Việt Nam vì có đủ bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Tuy nhiên, gió lạnh từ Nam cực chi phố mùa đông còn mùa hè thì luồng khí nóng từ miền nhiệt đới Brasil dồn về. Vì địa hình tương đối bằng phẳng, không có núi non ngăn cản nên thời tiết dễ thay đổi đột ngột. Các tỉnh của Uruguay Uruguay bao gồm 19 tỉnh. Các tỉnh đầu tiên được thành lập từ năm 1816 và gần đây nhất Flores được thành lập vào năm 1885. Kinh tế Uruguay là nền kinh tế chủ yếu dựa vào thương mại, đặc biệt là xuất khẩu nông sản, khiến cho trong nước dễ bị biến động giá cả hàng hóa. Chăn nuôi bò, cừu trở thành ngành kinh tế chủ yếu thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến để xuất khẩu (len, hàng dệt, thịt và ngành da thú). Ngành trồng trọt gồm có: ngũ cốc, mía, cây ăn quả. Kinh tế gặp nhiều khó khăn do nợ nước ngoài chồng chất. Là nước thành viên của tổ chức Mercosur, Uruguay bị lấn át bởi hai nước láng giềng khổng lồ Brasil và Argentina. Thâm hụt cán cân mậu dịch gia tăng. Mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm 9% GDP, nhưng nông phẩm chiếm hơn 50% hàng xuất khẩu. Uruguay đứng đầu Mỹ Latinh và thứ 6 thế giới về xuất khẩu lúa gạo. Công nghiệp chủ yếu là chế biến nông sản (thịt, sản phẩm da thuộc, len…). Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Uruguay theo mô hình kinh tế tự do mới, giảm được lạm phát và thâm hụt ngân sách, cân đối xuất nhập khẩu. Uruguay là một trong những nước có điều kiện và chính sách lao động tự do nhất ở châu Mỹ. Từ năm 1999, kinh tế Uruguay suy thoái, một nguyên nhân lớn là do tác động của việc phá giá tiền tệ của Brasil làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Uruguay và ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế Argentina. Tháng 6 năm 2002, chính phủ quyết định thả nổi đồng pê xô, đồng đô la Mỹ tăng giá 60% so với nội tệ, giúp cho hàng hoá xuất khẩu của Uruguay tăng sức cạnh tranh nhưng cũng gây ra đổ vỡ tín dụng, khủng hoảng hệ thống ngân hàng, làm giảm sức mua của người tiêu dùng và tăng lạm phát từ 4% (2001) lên tới 26% (2002). Uruguay có môi trường đầu tư tốt, hệ thống pháp lý mạnh và thị trường tài chính mở cửa. Chiến lược của chính phủ hiện nay là kích thích tăng trưởng dựa trên việc đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước bạn hàng truyền thống trong khối Mercosur, EU và Bắc Mỹ. Với châu Á, Uruguay có quan hệ thương mại với Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia và Indonesia... Uruguay xuất hàng truyền thống như thịt bò, lúa gạo, len, cá, da thuộc và đồ da; nhập khẩu máy móc, hoá chất, nhiên liệu, hàng tiêu dùng, quần áo... Tính đến năm 2016, GDP của Uruguay đạt 54.374 USD, đứng thứ 79 thế giới và đứng thứ 14 khu vực Mỹ Latin. Nông nghiệp Năm 2010, ngành nông nghiệp định hướng xuất khẩu của Uruguay đóng góp 9,3% GDP và sử dụng 13% lực lượng lao động. Số liệu thống kê chính thức từ Bộ Nông nghiệp và Chăn nuôi Uruguay cho biết chăn nuôi thịt và cừu ở Uruguay chiếm 59,6% diện tích đất. Tỷ lệ tăng thêm lên 82,4% khi chăn nuôi gia súc gắn với các hoạt động nông nghiệp khác như sữa, thức ăn gia súc và luân canh với các loại cây trồng như gạo. Dựa theo FAOSTAT, Uruguay là một trong những nước sản xuất nhiều nhất đậu tương (9th), len trơn (12th), thịt ngựa (14th), sáp ong (14th) và mộc qua (17th). Hầu hết trang trại (25,500 trong số 39,120) được quản lý quy mô gia đình; thịt bò và len là hoạt động chính và nguồn thu nhập chính cho 65% trong số đó, tiếp đến là nông nghiệp rau đạt 12%, chăn nuôi bò sữa đạt 11%, lợn đạt 2% và gia cầm cũng ở mức 2%. Thịt bò là mặt hàng xuất khẩu chính của quốc gia, với tổng trị giá hơn 1 tỷ USD năm 2006. Chính trị Uruguay là một nền cộng hòa dân chủ. Tổng thống giữ cả hai vai trò đứng đầu nhà nước và chính phủ. Tổng thống giữ quyền hành pháp. Quốc hội, gồm thượng viện và hạ viện giữ quyền lập pháp. Bộ tư pháp nắm quyền tư pháp. Đảng Colorado và các đảng khác đã đấu tranh giành quyền lực trong suốt phần lớn lịch sử Uruguay. Tuy nhiên, vào cuộc bầu cử năm 2004, một mặt trận rộng đã được thành lập gồm liên minh của Tupamaros, cộng sản, Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo trong số những người được bầu vào quốc hội. Tabare Vazquez được bầu làm Tổng thống. Hiến pháp đầu tiên của Uruguay được thông qua vào năm 1830, sau Hiệp ước Montevideo theo đó thành lập nhà nước Uruguay. Uruguay là nước đứng thứ 25 trong Chỉ số nhận thức tham nhũng. Hiến pháp Uruguay cho phép sử dụng trưng cầu dân ý để thay đổi luật pháp và hiến pháp. Giao thông vận tải Đường bộ Đường quốc lộ kết nối Montevideo và các thành phố lớn khác trong nước. Đường cao tốc chính dẫn tới những vùng biên giới. Những con đường nhỏ khác không được trải nhựa nối các trang trại và thị trấn nhỏ. Đường sá phát triển mạnh sau khi Khối thị trường chung Nam Mỹ được thành lập vào những năm 1990. Hầu hết hàng hóa vận chuyển trong nước được chuyên chở bằng đường bộ chứ không phải đường sắt. Đường sắt Mạng lưới đường sắt hầu hết đều đã cũ (mua của Anh từ Chiến tranh thế giới thứ nhất) trừ một đường nhỏ chạy từ Montevideo đi San José de Mayo, qua các thành phố Las Piedras và Canelones. Đường thủy Cảng biển chủ yếu ở Montevideo, Tàu thuyền di chuyển trong nội địa có các kích thước khác nhau, một dịch vụ tàu cánh ngầm kết nối Buenos Aires với Montevideo và Colonia del Sacramento qua Rio de Plata. Hàng không Một sân bay quốc tế nằm gần khu nghỉ mát bãi biển Carrasco một khoảng 21 km từ trung tâm thành phố Montevideo. Các hãng hàng không thuộc sở hữu của chính phủ, Primeras Líneas Uruguayas de Navegación Aérea (PLUNA), liên kết các điểm đến Montevideo với một số sân bay quốc tế. Xã hội Nhân khẩu Các thành phố lớn Ngôn ngữ Tôn giáo Uruguay không có tôn giáo chính thức của nhà nước, nhà thờ và nhà nước được chính thức tách ra, và tự do tôn giáo được đảm bảo. Một cuộc khảo sát năm 2008 của Viện Nacional de Estadística của Uruguay cho thấy Công giáo Rôma là tôn giáo chính, với 45,7% dân số tin theo, 9,0% là Kitô hữu khác ngoài Công giáo, 0,6% là Thuyết duy linh hoặc Umbandists (một tôn giáo bản địa), và 0,4% là người Do Thái giáo, 30,1% cho biết họ có tin tưởng vào một vị thần, nhưng không thuộc tôn giáo nào, trong khi 14% là người vô thần hoặc bất khả tri. Giới quan sát chính trị xem Uruguay quốc gia thế tục nhất ở châu Mỹ. Uruguay thế tục hóa bắt đầu với vai trò tương đối nhỏ của nhà thờ trong thời kỳ thuộc địa, so với các bộ phận khác của đế quốc Tây Ban Nha. Sau khi độc lập, ý tưởng chống đối ảnh hưởng của tôn giáo đối với chính quyền lan rộng tới Uruguay, đặc biệt là từ Pháp, tiếp tục làm xói mòn ảnh hưởng của nhà thờ đối với chính phủ. Năm 1837, hôn nhân dân sự đã được công nhận và năm 1861 nhà nước tiếp quản các hoạt động của các nghĩa trang nhân dân vốn do nhà thờ đảm trách. Trong năm 1907, ly hôn đã được hợp pháp hóa và năm 1909, tất cả các chương trình giáo dục giảng dạy tôn giáo đã bị cấm tại tất cả các trường công lập nhà nước. Dưới ảnh hưởng của các cải cách tự do, do nhà lãnh đạo Colorado José Batlle y Ordóñez (1903-1911) đề xướng, một bản Hiến pháp mới đã được ban hành năm 1997 đã tách hoàn toàn ảnh hưởng của nhà thờ đối với nhà nước. Theo khảo sát chính thức gần đây nhất khoảng 58,1% dân số Uruguay xác định mình là Kitô giáo (47% Công giáo La Mã, Tin Lành 11,1%), và khoảng 40,89% dân số không xưng tôn giáo (23,2% "tin vào Thiên Chúa nhưng không có tôn giáo", 17,2% là người vô thần), 0,6% là tín đồ của các tôn giáo châu Phi khác, 0,5% là người Do Thái giáo, và 0,4% theo tôn giáo khác. Có khoảng 2,3 triệu người Công giáo Rôma trong cả nước. Có 9 giáo phận trực thuộc tổng giáo phận Montevideo; Chủ tịch Hội đồng Giám mục Uruguay hiện nay lag Tổng giám mục Nicolas Cotugno Fanizzi, người được bổ nhiệm vào tháng 12 năm 1998. Các vị thánh bảo trợ của Uruguay là Maria, hiện được tôn kính tại Vương cung thánh đường Nhà thờ Florida. Hồi giáo ở Uruguay ước tính có từ 300 đến 400 người, đại diện cho 0,01 phần trăm dân số. Có hai trung tâm Hồi giáo, tại Montevideo. Hiện nay, có từ 20.000-25.000 người Do Thái giáo sống ở Uruguay, với 95% cư trú tại Montevideo. Có một cộng đồng nhỏ ở Paysandú. Khoảng 75% trong số đó là nhánh Do Thái giáo Ashkenazi và 11% thuộc nhánh Sephardi. Đến năm 2003, có 20 giáo đường Do Thái, nhưng chỉ có sáu trong số đó tổ chức các buổi lễ Shabbat hàng tuần. Đức tin Bahá'í được truyền bá đến Uruguay bởi Abdu'l-Baha, một trong những người đứng đầu tôn giáo này trong năm 1916. Hội đồng tin thần Bahá'í địa phương đầu tiên tại Montevideo được bầu vào năm 1942. Năm 1961, Hội đồng tinh thần Bahá'í Uruguay được thiết lập và tới năm 1963 đã có ba Hội đồng tinh thần Bahá'í địa phương. Năm 2001 có khoảng 4.000 tín đồ Baha'is tại Uruguay và đến năm 2005, đã tăng lên 7.300 người. Giáo dục Y tế Văn hóa Nghệ thuật thị giác Âm nhạc Văn học José Enrique Rodó (1871 - 1917) nhà văn thuộc chủ nghĩa hiện đại, được coi là biểu tượng văn học nổi bật nhất của Uruguay. Tác phẩm Ariel (1900) của ông đặt vấn đề gìn giữ các giá trị tâm linh trong khi theo đuổi vật chất và tiến bộ kĩ thuật. Truyền thông Thể thao Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở Uruguay. Trận bóng đá quốc tế đầu tiên được tổ chức ngoài đảo Anh là giữa Uruguay và Argentina tại Montevideo tháng Bảy năm 1902 Uruguay tham dự Thế vận hội từ năm 1924 và đoạt huy chương Vàng Bóng đá tại hai kì Thế vận hội liên tiếp 1924 tại Paris và 1928 tại Amsterdam. Đội tuyển bóng đá quốc gia Uruguay từng vô địch FIFA World Cup 2 lần: lần thứ nhất tại sân nhà và là kì World Cup đầu tiên năm 1930 và lần thứ hai đánh bại Brazil tại trận chung kết ngay tại sân của họ năm 1950. Số lượng chức vô địch của Uruguay tại Copa América lớn hơn bất kì nước nào khác: Chức vô địch năm 2011 đánh giấu lần thứ 15 đăng quang của họ trên đấu trường bóng đá châu lục. Uruguay còn là quốc gia ít dân nhất từng vô địch World Cup. Mặc dầu Uruguay đạt được những thành công ban đầu, họ bỏ lỡ 3 trong 4 kì World Cup từ 1994 đến 2006. Uruguay có màn trình diễn đáng được biểu dương ở FIFA World Cup 2010 khi họ vào tới vòng bán kết sau 40 năm chờ đợi. Trong giải đấu này, cầu thủ Diego Forlán được trao giải Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc nhất giải.
Venezuela, tên chính thức là Cộng hòa Bolivariana Venezuela (, ) là một quốc gia thuộc khu vực Nam Mỹ. Venezuela tiếp giáp với Guyana về phía đông, với Brazil về phía nam, Colombia về phía tây và biển Caribbean về phía bắc. Nhiều hòn đảo nhỏ ngoài khơi biển Caribbean cũng thuộc chủ quyền của Venezuela. Thuộc khu vực nhiệt đới, khí hậu Venezuela đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loài sinh vật phát triển với nhiều khu bảo tồn thiên nhiên hoang dã. Diện tích nước này là 916.445 km², dân số khoảng 28 triệu người. Lãnh thổ hiện được gọi là Venezuela đã bị Tây Ban Nha xâm chiếm vào năm 1522 trong bối cảnh sự kháng cự của người dân bản địa. Năm 1811, nó trở thành một trong những vùng lãnh thổ Mỹ-Tây Ban Nha đầu tiên tuyên bố độc lập, tuy vậy chỉ giành được toàn bộ lãnh thổ cho đến năm 1821, khi Venezuela là một bộ phận của nước cộng hòa liên bang Gran Colombia. Venezuela giành được độc lập hoàn toàn như một quốc gia vào năm 1830. Trong thế kỷ 19, Venezuela phải chịu bất ổn chính trị và chuyên quyền, vẫn bị chi phối bởi Caudillos (những thủ lĩnh về quân sự) cho đến giữa thế kỷ 20. Từ năm 1958, đất nước này đã có một loạt các chính phủ dân chủ. Những cú sốc kinh tế trong những năm 1980 và 1990 đã dẫn đến một số cuộc khủng hoảng chính trị, bao gồm các cuộc bạo loạn Caracazo chết chóc năm 1989, hai cuộc đảo chính đã cố gắng vào năm 1992 và luận tội Tổng thống Carlos Andrés Pérez vì tham ô các quỹ công cộng vào năm 1993. Sự sụp đổ niềm tin vào hiện tại các đảng đã chứng kiến ​​cuộc bầu cử năm 1998 của cựu sĩ quan sự nghiệp liên quan đến đảo chính do Hugo Chávez lãnh đạo và khởi động Cách mạng Bolivar. Cuộc cách mạng bắt đầu với một Quốc hội lập hiến năm 1999, nơi một bản Hiến pháp mới của Venezuela được lập ra. Hiến pháp mới này chính thức đổi tên quốc gia thành Cộng hòa Bolivar Venezuela (tiếng Tây Ban Nha: República Bolivariana de Venezuela). Venezuela là một trong những quốc gia có tốc độ đô thị hóa cao nhất Mỹ Latinh. Đa phần dân cư Venezuela tập trung sinh sống tại những thành phố lớn phía bắc. Caracas là thủ đô và đồng thời cũng là thành phố lớn nhất Venezuela. Venezuela đã từng nổi tiếng khắp thế giới với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, nguồn tài nguyên dầu mỏ khổng lồ và những nữ hoàng sắc đẹp đoạt nhiều giải cao tại những kỳ thi quốc tế. Tuy nhiên đến những năm gần đây, sự bất ổn của giá dầu mỏ cùng những chính sách điều hành kinh tế sai lầm là nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt đối với Venezuela, gây ra khủng hoảng chính trị, sự siêu lạm phát, suy thoái kinh tế, thiếu hụt các mặt hàng cơ bản cho người dân và một sự tăng mạnh của tỷ lệ thất nghiệp, nghèo đói, bệnh tật, tử vong, suy dinh dưỡng ở trẻ em cũng như tội phạm cùng tệ nạn xã hội tại quốc gia này. Địa lý Venezuela nằm ở phía bắc Nam Mỹ, tiếp giáp với biển Caribbean về phía bắc. Nước này có đường bờ biển dài hơn 2800 km, khiến ảnh hưởng của biển đối với khí hậu Venezuela tương đối lớn. Địa hình Venezuela có thể chia làm ba vùng chính: Vùng Tây Bắc: đây là nơi có độ cao lớn nhất của Venezuela. Những dải núi cực đông bắc của dãy Andes lấn vào lãnh thổ Venezuela và mở rộng ra tận đường bờ biển phía bắc của nước này. Đây là nơi tọa lạc của đỉnh núi cao nhất Venezuela, đỉnh Pico Bolívar cao 4979 m. Vùng Trung tâm: là vùng có những đồng bằng rộng lớn. Các đồng bằng bằng phẳng với đất đai màu mỡ trải dài từ biên giới với Colombia ở phía tây đến tận vùng châu thổ sông Orinoco. Vùng Nam: phần lớn vùng này là Cao nguyên Guiana với độ cao trung bình. Thác Angel, thác nước cao nhất thế giới nằm tại khu vực này. Tuy nhiên, do sự đan xen phức tạp của các dạng địa hình, Venezuela có thể được chia làm 10 khu vực địa lý khác nhau, tạo điều kiện cho sự phát triển của nhiều hệ sinh thái với các loài động thực vật vô cùng đa dạng, trong đó có nhiều loài động thực vật đặc hữu của riêng đất nước này. Venezuela có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên với cảnh quan đa dạng. Mặc dù hầu như nằm trọn trong khu vực nhiệt đới, khí hậu Venezuela lại thay đổi khác nhau giữa các vùng. Tại những vùng đồng bằng, nhiệt độ và độ ẩm thường cao với nhiệt độ trung bình năm khoảng 28 °C, trong khi ở những vùng đồi núi cao thì nhiệt độ trung bình chỉ ở mức 8 °C. Lượng mưa cũng thay đổi từ mức 430 mm ở vùng bán hoang mạc tây bắc lên đến hơn 1000 mm ở vùng châu thổ Orinoco. Nguồn gốc tên gọi Tên gọi Venezuela được bắt nguồn từ chuyến hải trình của nhà vẽ bản đồ Amerigo Vespucci cùng với nhà thám hiểm Alonso de Ojeda đến bờ biển tây bắc vịnh Venezuela năm 1499. Khi đến bán đảo Guajira, Vespucci đã bắt gặp những ngôi nhà lá của thổ dân da đỏ được dựng trên mặt nước và khiến ông liên tưởng đến thành phố Venice (tiếng Italia: Venezia). Ông đã đặt tên cho vùng đất này là Venezuola, trong tiếng Italia có nghĩa là "Venice nhỏ". Trong tiếng Tây Ban Nha, cụm từ zuela dùng với vai trò giảm nghĩa tương tự như zuola trong tiếng Ý được ghép thay vào để hình thành cái tên Venezuela. Bên cạnh đó, nhà địa lý người Tây Ban Nha Martin Fernandez de Enciso, một thủy thủ đoàn của Ojeda đã nêu trong tác phẩm Summa de Geografía của mình rằng những thổ dân da đỏ tại vùng này tự gọi mình là Veneciuela, và cái tên Venezuela được bắt nguồn từ tên gọi đó. Song, câu chuyện của Vespuccia lại được chấp nhận rộng rãi hơn cả về nguồn gốc tên gọi đất nước Venezuela. Lịch sử Những bằng chứng khảo cổ cho thấy, con người đã định cư tại vùng đất Venezuela từ 13.000 năm trước công nguyên. Những mũi giáo săn bắn của người bản địa đã được xác định có niên đại trong khoảng từ 13000 đến 7000 năm về trước. Khi người Tây Ban Nha khám phá ra vùng đất này, những bộ lạc thổ dân da đỏ như người Mariche đã đứng lên chống lại. Tuy nhiên những cuộc khởi nghĩa của người da đỏ nhanh chóng thất bại và họ dần dần bị người Tây Ban Nha tiêu diệt. Năm 1522, người Tây Ban Nha bắt đầu thiết lập các thuộc địa đầu tiên ở Venezuela. Thời gian đầu, miền đông Venezuela được sáp nhập vào một thuộc địa lớn với tên gọi New Andalusia. Đến đầu thế kỷ XVIII, Venezuela lại được sáp nhập vào thuộc địa New Granada. Dưới sự thống trị hà khắc của phong kiến Tây Ban Nha, nhân dân Venezuela đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh nhưng không thành công. Ngày 5 tháng 7 năm 1811, nước Cộng hòa Venezuela tuyên bố độc lập. Francisco de Miranda, một chỉ huy từng tham gia Cách mạng Pháp và chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ quay trở về lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân Venezuela. Năm 1812, quân Tây Ban Nha quay trở lại tấn công, Miranda bị bắt về Tây Ban Nha và chết trong ngục. Cuộc đấu tranh sau đó vẫn tiếp tục với nền Cộng hòa thứ hai được thành lập vào ngày 7 tháng 8 năm 1813 nhưng rồi cũng nhanh chóng sụp đổ. Dưới sự lãnh đạo của người anh hùng dân tộc Simon Bolivar, Venezuela đã giành được độc lập với chiến thắng Carabobo vào ngày 24 tháng 6 năm 1821. Quốc hội mới của New Granada trao quyền lãnh đạo quân đội cho Bolivar và ông đã giải phóng thêm nhiều vùng đất mới, thành lập nên nước Đại Colombia (Gran Colombia) bao gồm Venezuela, Colombia, Ecuador và Panama ngày nay. Venezuela trở thành một phần của Đại Colombia cho đến năm 1830, khi nước này tách ra để thành lập một quốc gia mới. Thế kỷ XIX đánh dấu một giai đoạn đầy biến động của lịch sử Venezuela với những cuộc khủng hoảng chính trị và chế độ độc tài quân sự. Nửa đầu thế kỷ XX, các tướng lĩnh quân đội vẫn kiểm soát nền chính trị của Venezuela mặc dù cũng chấp nhận một số cải cách ôn hòa và thúc đẩy kinh tế phát triển. Sau khi nhà độc tài Juan Vicente Gomez qua đời vào năm 1935, những phong trào dân chủ tại Venezuela cuối cùng đã loại bỏ sự thống trị của quân đội vào năm 1958 và tổ chức những cuộc bầu cử tự do. Dầu mỏ được phát hiện tại Venezuela đã mang lại sự thịnh vượng cho nền kinh tế đất nước, thu nhập quốc dân được nâng cao. Đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những dòng người nhập cư từ Nam Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý cũng như những nước Mỹ Latinh nghèo hơn đã khiến xã hội của Venezuela trở nên vô cùng đa dạng. Giá dầu mỏ sụt giảm trong thập niên 1980 đã khiến nền kinh tế Venezuela khủng hoảng sâu sắc. Việc phá giá tiền tệ càng làm cho đời sống của người dân Venezuela bị hạ thấp. Những chính sách kinh tế thất bại và mâu thuẫn chính trị đã đẩy đất nước Venezuela vào khủng hoảng trầm trọng, thể hiện rõ nhất qua hai cuộc đảo chính trong cùng năm 1992. Tháng 2 năm 1992, viên sĩ quan quân đội Hugo Chavez đã tiến hành đảo chính nhưng thất bại. Đến tháng 11 cùng năm, những người ủng hộ Hugo Chavez lại một lần nữa tiến hành đảo chính song không thành công. Tuy nhiên, Chavez đã giành được nhiều thiện cảm của nhân dân Venezuela và ông đã chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Venezuela 1998 với tỉ lệ 56%. Sau khi lên nắm quyền, ông Hugo Chavez đã lãnh đạo đất nước Venezuela theo đường lối cánh tả và giúp nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, ông cũng vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của phe đối lập. Năm 2002, phe đối lập tại Venezuela tiến hành đảo chính song thất bại. Bạo loạn và đình công đã khiến kinh tế Venezuela một lần nữa rơi vào khủng hoảng, nặng nề nhất là vào năm 2003. Đến năm 2004, ông Hugo Chavez vượt qua cuộc trưng cầu ý dân về việc bãi nhiệm tổng thống với tỉ lệ 59%. Ông được bầu làm tổng thống cho một nhiệm kỳ khác vào tháng 12 năm 2006 và tái đắc cử nhiệm kỳ thứ ba vào tháng 10 năm 2012. Chávez qua đời vào ngày 5 tháng 3 năm 2013 sau một cuộc chiến chống ung thư kéo dài gần hai năm. Nghèo đói và lạm phát bắt đầu gia tăng chóng mặt trong những năm 2010. Nicolás Maduro được bầu vào năm 2013 sau cái chết của Chavez. Năm 2014, Venezuela đã lâm vào một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng. Đến năm 2015, Venezuela trở thành nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất thế giới, xấp xỉ 1.000.000% đầu năm 2018 Các vấn đề về kinh tế, cũng như tội phạm, cướp bóc, đặc biệt là cướp bóc lương thực và tham nhũng, là một trong những nguyên nhân chính gây ra một loạt các cuộc biểu tình của nhân dân Venezuela trong những năm 2014–2018. Hầu hết thực phẩm, thuốc men đều thiếu thốn, các mặt hàng nhu yếu phẩm khác cực kì xa xỉ, vượt với tầm tay của hầu hết người dân tại nước này. Chính trị Tổng thống Venezuela được bầu cử với phiếu bầu trực tiếp theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Tổng thống đảm nhiệm vai trò là nguyên thủ quốc gia và đồng thời cũng là người đứng đầu chính phủ. Nhiệm kỳ của một tổng thống là 6 năm và tổng thống có thể được bầu lại trong một nhiệm kỳ tiếp theo. Tổng thống Venezuela có quyền bổ nhiệm phó tổng thống và quyết định quy mô và thành phần của nội các và bổ nhiệm các thành viên với sự phê chuẩn của quốc hội. Tổng thống có thể đề nghị quốc hội sửa đổi các điều luật nhưng quốc hội cũng có thế phủ quyết đề nghị của tổng thống nếu đa số phản đối. Cơ quan lập pháp đơn viện của Venezuela là Quốc hội hay Asamblea Nacional. Quốc hội có 167 đại biểu, trong đó có 3 ghế được dành riêng dành cho người thổ dân da đỏ. Các đại biểu có nhiệm kỳ 5 năm và có thể được bầu lại tối đa thêm 2 nhiệm kỳ nữa. Các đại biểu quốc hội có thế được bầu theo danh sách các chính đảng hoặc ứng cử độc lập. Cơ quan tư pháp tối cao là Tòa án tối cao Venezuela hay Tribunal Supremo de Justicia, với các thẩm phán được quốc hội bầu với nhiệm kỳ 12 năm. Hội đồng bầu cử quốc gia Venezuela (Consejo Nacional Electoral, hay CNE) chịu trách nhiệm trong quá trình bầu cử, có năm lãnh đạo được Quốc hội bầu ra. Venezuela đã bãi bỏ án tử hình vào năm 1863 và là nước bãi bỏ án tử hình sớm nhất thế giới. Quan hệ ngoại giao Trong suốt thế kỷ XX, mặc dù còn có một số tranh chấp lãnh thổ với hai nước láng giềng Colombia và Guyana song Venezuela thường duy trì quan hệ hữu hảo với hầu khắp các nước Mỹ Latinh cũng như các nước phương Tây. Sau khi tổng thống Hugo Chavez đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1998, ông đã lãnh đạo đất nước Venezuela theo đường lối cánh tả với học thuyết của chủ nghĩa Bolivar và chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI cho châu Mỹ. Theo đó, ông muốn tách khu vực Mỹ Latinh ra khỏi sân sau của Hoa Kỳ và có những tuyên bố chống Mỹ khá mạnh bạo. Dưới thời ông Hugo Chavez, quan hệ ngoại giao với các nước cánh tả và xã hội chủ nghĩa tại Mỹ Latinh được đẩy mạnh, nhất là với Nga, Bolivia và Cuba khi cả ba nước thiết lập một hiệp định thương mại nhằm ngăn cản ảnh hưởng của Mỹ vào khu vực. Gần đây, ông Chavez cũng quan tâm và ủng hộ một số nước cánh tả đang lên khác tại khu vực như Ecuador và Nicaragua. Chưa kể đến việc ông cũng xúc tiến quan hệ ngoại giao với những quốc gia chống Mỹ như Belarus hay Iran. Đồng thời, quan hệ ngoại giao giữa Venezuela và Mỹ cũng xấu đi nhanh chóng. Quan hệ của Venezuela với nước láng giềng Colombia, một đồng minh của Mỹ cũng ngày một tồi tệ. Đầu năm 2008, khi quân đội Colombia tấn công tiêu diệt căn cứ quân nổi dậy FARC tại lãnh thổ Ecuador, Venezuela đã phản đối mạnh mẽ và hai nước suýt xảy ra một cuộc chiến tranh. Quân đội Quân đội Venezuela nằm dưới sự chỉ huy của Tổng tư lệnh quân đội là tổng thống Venezuela. Quân đội Venezuela được chia thành lục quân, hải quân, không quân và lực lượng phòng vệ. Bên cạnh đó còn có một số nhánh khác. Hiện nay lực lượng quân đội của Venezuela là khoảng 100.000 người. Chi phí dành cho quốc phòng mỗi năm của nước này ước tính bằng khoảng 1,7 tỉ USD (năm 2004). Phân chia hành chính Toàn bộ đất nước Venezuela được chia thành 23 tiểu bang (estados), 1 quận thủ đô (distrito capital) là thành phố Caracas, các vùng lãnh thổ phụ thuộc (Dependencias Federales) và khu vực Guyana Esequiba tranh chấp với Guyana. Ở cấp tiếp theo, Venezuela lại được chia tiếp thành 335 đô thị (municipios) rồi lại được chia tiếp thành hơn 1000 khu vực nhỏ (parroquias). Các bang của Venezuela được nhóm lại thành 9 vùng hành chính lớn. Các bang Các phân chia hành chính ngoài bang: Quận Thủ đô Venezuela (bao gồm Caracas) Các vùng lãnh thổ liên bang Venezuela Các vùng hành chính Kinh tế Công nghiệp dầu mỏ là ngành kinh tế đóng góp nhiều nhất cho kinh tế Venezuela, tới 1/3 GDP, 80% giá trị xuất khẩu và hơn một nửa ngân sách nhà nước. Đất nước này có một nguồn dự trữ dầu mỏ và khí đốt to lớn và hiện nay, Venezuela là một trong 10 nước xuất khẩu dầu thô lớn nhất thế giới. Những mỏ dầu chính của Venezuela nằm tại khu vực hồ Maracaibo, vịnh Venezuela và vùng châu thổ sông Orinoco. Do được chính phủ trợ cấp, Venezuela là một trong những nước có giá xăng dầu rẻ nhất thế giới. Tuy nhiên những lên xuống thất thường của giá dầu trên thị trường thế giới cũng như các cuộc khủng hoảng chính trị, đình công luôn đe dọa đến ngành kinh tế nhạy cảm này của Venezuela. Chính phủ Venezuela đang tìm cách làm đa dạng hóa nền kinh tế và tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào dầu mỏ của nước này. Tính đến năm 2016, GDP của Venezuela đạt 333.715 USD, đứng thứ 32 thế giới và đứng thứ 4 khu vực Mỹ Latinh. Từ thập niên 1950 đến thập niên 1980, Venezuela là một trong những cường quốc kinh tế tại Mỹ Latinh. Thu nhập bình quân của nước này gia tăng nhanh chóng đã thu hút rất nhiều lao động từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên khi giá dầu thế giới giảm mạnh trong thập niên 1980, nền kinh tế Venezuela đã bị một phen điêu đứng. Trong những năm sau đó, giá dầu trên thị trường thế giới đã tăng trở lại và tạo điều kiện phục hồi cho nền kinh tế Venezuela. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này là 8,4%. Thu nhập bình quân đầu người là 12.200 USD. Dưới sự điều hành của Hugo Chavez tỷ lệ lạm phát đã tăng 30,9% năm 2008 và tăng 25,1% trong năm 2009 cao nhất trên toàn khu vực châu Mỹ. Mức lạm phát của Venezuela cao hơn rất nhiều 1 nước cũng thường hay bị lạm phát rất cao là Argentina. Trong khi cùng bị khủng hoảng kinh tế như Venezuela nhưng tỷ lệ lạm phát của Argentina chỉ từ 7-15% năm 2009. Kinh tế Venezuela năm 2009 theo thông báo chính thức đã giảm 2,9%. Hugo Chavez đã thực hiện quốc hữu hóa tài sản của các tập đoàn Cargill Inc., Gruma SAB và hãng bán lẻ của Pháp là Casino Guichard Perrachon nhằm kiểm soát các chuỗi sản xuất và phân phối thực phẩm. Trong tháng 8, giá lương thực tăng 0,9% so với tháng 7 trong khi mức tăng hàng tháng là 12,5% của tháng 4. Cũng trong tháng này, tỉ lệ lạm phát của mặt hàng lương thực đã giảm xuống nhưng vẫn còn tới 39,5%. Trong giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6 năm nay, nền kinh tế Mỹ Latinh này đã tăng trưởng chậm lại quý thứ 5 liên tiếp và đang phải trải qua thời điểm khốn đốn với tình trạng lạm phát khi giá tiêu dùng liên tục tăng kể cả khi nhu cầu giảm xuống. Mặc dù là một quốc gia nhiều tài nguyên thiên nhiên nhưng việc phân bố tài sản tại Venezuela lại không đồng đều, khiến cho đời sống một bộ phận lớn dân nghèo gặp nhiều khó khăn. Dưới sự lãnh đạo của tổng thống Hugo Chavez, tỉ lệ người nghèo trong những năm sau đó tại Venezuela đã giảm đáng kể, từ mức 49% năm 1998 xuống còn 12,3% năm 2007. Các chương trình trợ cấp của Chavez như duy trì giá xăng ở mức dưới 0,1 USD/gallon (tương đương hơn 500 VND/lít), làm các nguồn tài nguyên của Venezuela bị phung phí trong khi các doanh nghiệp tư nhân không dám tăng mức đầu tư do lo ngại về những vụ quốc hữu hóa và sung công thường hay xảy ra bất ngờ thời Chavez khiến nền kinh tế càng thêm khó khăn giữa lúc tốc độ tăng trưởng trì trệ mà tỷ lệ lạm phát lại cao. Hugo Chavez cũng không diệt trừ được tham nhũng. Bằng cách cho giới quân sự quản lý bộ máy ngân sách cồng kềnh, ông Chavez đã tạo điều kiện cho tham nhũng lan rộng ngay trong giới quân sự. Cải cách tư pháp thì chưa đâu vào đâu. Các thể chế mới không đem lại điều gì ngoài việc đẻ ra một loạt chức sắc bất tài do ông chỉ định. Đường lối kinh tế khiến cho Venezuela càng phụ thuộc hơn nhiều vào dầu mỏ và đưa tới một loạt chính sách thắt lưng buộc bụng. Giá trị đồng tiền giảm đáng kể cũng là một hậu quả của việc này. Những hãng sản xuất hàng tiêu dùng khổng lồ như Colgate-Palmolive hay Avon từng nỗ lực chiếm lĩnh thị trường Mỹ Latinh với các sản phẩm chủ lực như kem đánh răng, son môi. Nhưng công sức bấy lâu của họ có nguy cơ trôi ra sông ra biển khi Venezuela phá giá đồng nội tệ từ mức 2,15 bolivar ăn 1 USD xuống còn 4,3 bolivar ăn 1 USD. Đi đôi với quyết định phá giá đồng nội tệ, chính quyền Venezuela phải huy động cả quân đội để kiểm soát tình trạng tăng giá bán tại các cửa hàng. Bất chấp mọi nỗ lực của chính phủ, trong vòng 5 năm tỷ lệ lạm phát của nước này lên tới tổng cộng 160%. Venezuela hy vọng lần phá giá đầu tiên kể từ 2005 này sẽ giúp nguồn thu chính phủ tăng lên, hạn chế nhập khẩu và tăng nguồn thu từ xuất khẩu. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng đây không phải là giải pháp tốt về lâu dài. Nền kinh tế Venezuela, vốn một thời phát triển bùng nổ, nay cần những chính sách kích thích đầu tư tư nhân. Hãng đánh giá tín nhiệm Fitch cũng bày tỏ thái độ lo lắng: "Công việc kinh doanh tại Venezuela hiện đối mặt với nhiều căng thẳng liên quan đến thay đổi chính sách, môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định, cơ cấu quản lý giá và sự bế tắc trong ngành năng lượng. Tất cả những yếu tố này làm chùn chân các nhà đầu tư". Ngành khai thác dầu thô, ngành công nghiệp quan trọng nhất của Venezuela, đang gặp khó khăn nghiêm trọng vì tổng thống Hugo Chávez đã quốc hữu hóa các công ty dầu mỏ nước ngoài, cố gắng khai thác quá mức từ công nghiệp dầu mỏ để tài trợ cho những chương trình trợ cấp của ông trong khi không tái đầu tư đúng mức do đó đã hy sinh khả năng phát triển của ngành này khiến sản lượng khai thác được ngày càng thấp do hạ tầng công nghiệp dầu mỏ đang xuống cấp quá nhanh. Hiện ngành công nghiệp này đang gặp khủng hoảng đẩy toàn bộ nền kinh tế Venezuela vào khủng hoảng vì nước này quá phụ thuộc vào dầu mỏ. Về năng lượng, những con sông ở Venezuela đã cung cấp một lượng lớn thủy điện cho nhu cầu tiêu dùng điện năng của nước này. Hiện nay, 73% công suất phát điện của Venezuela phụ thuộc vào hệ thống thủy điện, còn hệ thống nhiệt điện lại đang hoạt động dưới mức công suất mà không có khả năng tăng lên, mặc dù nước này thuận lợi về nhiệt điện. Đồng peso tiếp tục rớt giá còn 6,3 peso ăn một đôla vào ngày ngày 25 tháng 1 năm 2010. Trong khi tỷ giá kép mà chính phủ đưa ra vào đầu tháng là 2,6 và 4,3 peso ăn một đôla. Người dân đã tổ chức những cuộc phản đối mạnh mẽ hơn. Cùng với nguyên nhân thiếu hụt điện nước, những người phản đối cũng nói đến tình trạng mất kiểm soát đối với tội phạm khiến cho Venezuela đang có tỷ lệ tội phạm cao nhất thế giới. Người biểu tình án ngữ trong sân vận động khi diễn ra một trận đấu bóng chày để kêu gọi ông Chavez từ chức. Người biểu tình đã giương cao khẩu hiệu đậm chất thể thao: "Chavez, ông đã bị loại!" Sau cái chết của Chávez, Nicolás Maduro đã trở thành tổng thống của Venezuela sau khi đánh bại đối thủ của mình là Henrique Capriles Radonski chỉ với 235.000 phiếu bầu, tỷ lệ chênh lệch là 1,5%. Maduro tiếp tục duy trì hầu hết các chính sách kinh tế của người tiền nhiệm Chávez. Khi nhậm chức tổng thống, Maduro đã phải đối mặt với tỷ lệ lạm phát cao và tình trạng thiếu hụt hàng hóa tiêu dùng trên cả nước, những vấn đề bắt nguồn từ các chính sách của Chávez. Maduro đổ lỗi cho đầu cơ tư bản đã thúc đẩy tỷ lệ lạm phát cao và gây ra sự thiếu hụt phổ biến các nhu yếu phẩm cơ bản tại Venezuela. Ông ta nói rằng ông ta đang chiến đấu trong một "cuộc chiến kinh tế", coi các biện pháp kinh tế mà ông ta mới ban hành là "đòn phản công kinh tế" chống lại các đối thủ chính trị của ông ta, Maduro thậm chí còn cáo buộc những đối thủ của mình đang đứng sau một "âm mưu kinh tế quốc tế" . Tuy nhiên, Maduro đã bị chỉ trích vì chỉ tập trung vào dư luận, mà không hề quan tâm đến các vấn đề thực tế mà các nhà kinh tế đã cảnh báo hoặc có bất kỳ ý tưởng gì để cải thiện tình trạng khó khăn của nền kinh tế Venezuela . Vào năm 2014, Venezuela chính thức lâm vào suy thoái kinh tế và đến năm 2016, quốc gia này có tỷ lệ lạm phát là 800%, tỷ lệ cao nhất trong lịch sử . Quỹ tiền tệ quốc tế dự báo tỉ lệ lạm phát ở Venezuela sẽ là 1.000.000% vào năm 2018 . Nhân khẩu Tính đến tháng 7 năm 2008, ước tính dân số Venezuela là 26.414.815 người. Venezuela là một trong những quốc gia có tốc độ gia tăng dân số nhanh nhất Nam Mỹ, chỉ đứng sau Bolivia, Paraguay và Guiana thuộc Pháp. Năm 2008, tốc độ gia tăng dân số của nước này là 1,5%. Những cuộc thống nhân khẩu được thực hiện từ năm 1926 tại Venezuela không bao gồm thông tin về chủng tộc cho nên tỉ lệ các sắc dân tại Venezuela chỉ có thể được biết thông qua các số liệu ước tính. Khoảng 70% dân số Venezuela là người Mestizo, tức người lai giữa người Tây Ban Nha và người da đỏ. Khoảng 20% là người da trắng có nguồn gốc chủ yếu từ Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha và Đức. Bên cạnh đó, tại Venezuela còn có một số nhỏ người da đen gốc châu Phi và người các nước châu Á như Liban, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ. Khoảng 5% dân số Venezuela là người da đỏ bản địa và họ có xu hướng bị lai giữa các chủng tộc khác ngày một nhiều hơn khi xã hội Venezuela ngày càng trở nên đa dạng. Khoảng 85% dân số Venezuela sống tập trung tại các đô thị miền bắc. Venezuela là một trong những nước có tỉ lệ dân cư sống tại thành thị cao nhất Nam Mỹ. Do đó khu vực phía nam đồng bằng Orinoco tuy chiếm đến một nửa diện tích đất nước nhưng lại vô cùng hoang vắng với chỉ 5% dân cư sống tại đó. Ngôn ngữ chính thức tại Venezuela là tiếng Tây Ban Nha. Bên cạnh đó còn có 31 ngôn ngữ của thổ dân da đỏ bản địa như tiếng Guajibo, Pemon, Warao, Wayuu, các ngôn ngữ thuộc nhóm Yanomaman. 83% dân cư theo Đạo Thiên chúa. Văn hóa Những di sản văn hóa của đất nước Venezuela mang đậm ảnh hưởng của phong cách Mỹ Latinh, thể hiện qua tất cả các mặt của đời sống như hội họa, kiến trúc, âm nhạc, các công trình lịch sử... Văn hóa Venezuela được hình thành trên nền của ba nhân tố chính: văn hóa của người da đỏ bản địa, của người Tây Ban Nha và người da đen châu Phi. Ban đầu, các yếu tố văn hóa này trộn lẫn vào nhau rồi sau đó lại phân hóa ra theo từng khu vực địa lý. Nghệ thuật Venezuela ban đầu xoay quanh các motif tôn giáo là chủ yếu. Tuy nhiên đến cuối thế kỷ XIX, nền nghệ thuật này bắt đầu phản ánh các sự kiện lịch sử và những người anh hùng dân tộc, mà đi tiên phong là họa sĩ Martín Tovar y Tovar. Đến thế kỷ XX, chủ nghĩa hiện đại lên thay thế. Văn học Venezuela bắt đầu phát triển sau khi người Tây Ban Nha đặt chân đến đây khai phá thuộc địa. Nền văn học bằng tiếng Tây Ban Nha chiếm địa vị độc tôn với những ảnh hưởng của các phong cách văn học từ chính quốc. Văn học xoay quanh các chủ đề chính trị phát triển trong cuộc chiến tranh giành độc lập đầu thế kỷ XIX của nhân dân Venezuela. Tiếp đó, chủ nghĩa lãng mạn lên ngôi với một số nhà văn nổi tiếng, tiêu biểu là Juan Vicente González. Về kiến trúc, Carlos Raúl Villanueva được coi là kiến trúc sư vĩ đại nhất của đất nước Venezuela hiện đại. Ông đã thiết kế Trường Đại học Trung tâm Venezuela, một công trình được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Cuatro, một loại đàn gần giống ghita là nhạc cụ truyền thống của Venezuela. Nhiều phong cách âm nhạc độc đáo khác nhau được phát triển tại vùng đồng bằng llanos với những bài hát nổi tiếng như Alma Llanera, Florentino y el Diablo, Concierto en la Llanura và Caballo Viejo. Nhạc gaita có nguồn gốc từ vùng Zulia được ưa chuộng và hay được biểu diễn vào dịp Giáng sinh. Còn điệu nhảy truyền thống của người Venezuela là điệu nhảy joropo. Tại Venezuela, môn thể thao phổ biến nhất là bóng chày. Gần đây, môn bóng đá cũng đang phát triển mạnh và dần thu hút khán giả nước này. Văn hóa hoa hậu Venezuela là một trong những quốc gia mà người dân hâm mộ các cuộc thi sắc đẹp nhất thế giới. Với một công nghệ đào tạo hoa hậu chuyên nghiệp, Venezuela đã trở thành một cường quốc hoa hậu mà không một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đất nước này đã lập kỉ lục 6 lần đoạt Hoa hậu Thế giới (đồng hạng nhất với Ấn Độ), 7 lần đoạt Hoa hậu Hoàn vũ (lập kỷ lục đoạt vương miện hai năm liên tiếp 2008 và 2009), 8 lần đoạt Hoa hậu Quốc tế, 2 lần đoạt Hoa hậu Trái Đất, 1 lần đoạt Nữ hoàng Du lịch Quốc tế, 1 lần đoạt Hoa hậu Hòa bình Quốc tế, 5 lần đoạt Hoa hậu Liên lục địa, 4 lần đoạt Hoa hậu Hoàn cầu, 1 lần đoạt Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế, 1 lần đoạt Hoa vương Thế giới, 1 lần đoạt Manhunt International, 1 lần đoạt Hoa vương Quốc tế và 1 lần đoạt Hoa vương Siêu quốc gia. Bà Irene Saez, Hoa hậu Hoàn vũ 1981 của Venezuela thậm chí đã từng ra tranh cử tổng thống năm 1998 nhưng không thành công. Hàng năm, cuộc thi Hoa hậu Venezuela được tổ chức vào tháng 9 để tìm kiếm người đại diện cho đất nước Venezuela tại các kỳ thi sắc đẹp quốc tế. Đây là sự kiện rất thu hút ở Venezuela với chương trình truyền hình trực tiếp kéo dài 4 giờ đồng hồ. Các Hoa hậu Venezuela khi tham dự các kỳ thi quốc tế thường đoạt giải cao, mà gần đây nhất là Ivian Sarcos, người chiến thắng của cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2011 tại Anh, Gabriela Isler, người chiến thắng Hoa hậu Hoàn vũ 2013 tại Nga, Mariem Velazco chiến thắng Hoa hậu Quốc tế 2018 tại Nhật Bản, Alyz Henrich chiến thắng Hoa hậu Trái Đất 2013 tại Philippines, Valentina Figuera chiến thắng Hoa hậu Hoà Bình Quốc Tế 2019 ngay tại sân nhà Venezuela. Các Hoa hậu Venezuela khác tuy không chiến thắng ở các cuộc thi này nhưng cũng đã liên tiếp về đích ở vị trí Á hậu hoặc lọt các Top Bán kết, Chung kết. Tôn giáo Venezuela giống như hầu hết các quốc gia Nam Mỹ, là một quốc gia theo Công giáo Rôma. Ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo ở nước này có từ thời thực dân Tây Ban Nha. Theo ước tính của chính phủ, 92% dân số trên danh nghĩa là tín hữu Công giáo Rôma và còn lại 8% là Tin Lành, các tôn giáo khác, hoặc vô thần. Các ước tính của Hội đồng Tin Lành Venezuela cho rằng Giáo hội Tin Lành chiếm 10% dân số. Có những cộng đồng Hồi giáo và Do Thái giáo nhỏ nhưng có ảnh hưởng. Các cộng đồng Hồi giáo của hơn 100.000 người tập trung ở những người gốc Lebanon và Syria hiện sống ở các khu vực như Nueva Esparta, Punto Fijo và khu vực Caracas. Các con số thuộc cộng đồng Do Thái giáo là khoảng 13.000 tín đồ và chủ yếu tập trung ở Caracas. Hiện nay có khoảng 153.000 tín đồ Mormon phần lớn ở tại Caracas.
Bahamas () hay tên chính thức Thịnh vượng chung Bahamas (phiên âm Tiếng Việt: Ba-ha-mát), hay Quần đảo Bahamas là một quốc gia nói tiếng Anh tại Vùng Caribe. Là một quần đảo với 700 hòn đảo, cồn và đảo nhỏ, Bahamas nằm trong Đại Tây Dương, ở phía đông Hoa Kỳ (điểm gần nhất là tiểu bang Florida), phía bắc Cuba và vùng Caribe, phía tây lãnh thổ phụ thuộc Anh Quần đảo Turks và Caicos. Lịch sử Dù người Paleo-Indians có thể đã sinh sống ở vùng này từ trước đó, người thổ dân da đỏ Taino từ Hispaniola và Cuba đã vào tới miền nam Bahamas từ khoảng thế kỷ thứ VII Công Nguyên và trở thành người Lucayans. Ước tính vào khoảng thời giam Colombo tới đây, có khoảng 40.000 người Lucayans. Christopher Columbus lần đầu đặt chân lên Thế giới mới tại hòn đảo San Salvador, cũng được gọi là Đảo Watling, ở phần phía nam Bahamas. Tại đây, Columbus đã tiếp xúc với người Lucayans và trao đổi hàng hóa với họ. Người Lucayans Bahamas được mang tới Hispaniola làm nô lệ, và trong hai thập kỷ, nhiều xã hội Lucayan đã chấm dứt tồn tại, bởi dân số không còn nhiều sau khi bị bắt làm nô lệ, chiến tranh, dịch bệnh, di cư và hôn nhân với bên ngoài. Sau khi dân số Lucayan gần tuyệt diệt, các hòn đảo Bahamas đã bị chiếm đóng cho tới khi những người định cư Anh Quốc tới đây từ Bermuda năm 1650. Cái gọi là Những cuộc thám hiểm Eleutheria đã thiết lập nên các khu định cư trên đảo Eleuthera. Bahamas đã trở thành một thuộc địa của Anh Quốc năm 1718. Khoảng 8.000 người trung thành với hoàng gia và các nô lệ của họ đã tới Bahamas vào cuối những năm 1700 từ New York, Florida và Carolina. Người Anh biến hòn đảo thành một chính phủ tự trị đối với các vấn đề đối nội từ năm 1964. Năm 1973, Bahamas được hoàn toàn độc lập với tư cách là một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh. Từ những năm 1950, nền kinh tế Bahamas đã khởi sắc dựa trên hai lĩnh vực du lịch và dịch vụ tài chính. Dù vậy, đất nước này vẫn phải đối mặt với một số thách thức trong vùng như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, cơ sở hạ tầng và bạo lực do nạn nhập cư bất hợp pháp. Dự án đổi mới đô thị đã được tung ra trong những năm gần đây để giúp cải thiện bộ mặt các đô thị vốn đã bị suy thoái nhiều trên các hòn đảo chính. Ngày nay, đất nước này có mức thu nhập trên đầu người đứng thứ ba ở Tây bán cầu. Một số người cho rằng cái tên 'Bahamas' xuất phát từ từ Tây Ban Nha để chỉ vùng "biển nông", baja mar. Những người khác cho rằng nó xuất phát từ từ tiếng Lucayan để gọi Đảo lớn Bahama, ba-ha-ma ("vùng đất lớn ở giữa"). Tháng 8 năm 1992, Habert A. Ingraham của đảng Phong trào Dân tộc Tự do trở thành Thủ tướng, chấm dứt 25 năm cầm quyền của đảng Tự do Tiến bộ. Trước đây, kinh tế chủ yếu tập trung vào nông nghiệp và đánh bắt cá biển, hiện nay Bahamas đa dạng hóa nền kinh tế với các ngành du lịch, du lịch tài chính và vận tải biển.. Thu nhập tính theo đầu người ở Bahamas xếp hàng thứ 30 trên thế giới. Tuy nhiên, có một sự cách biệt lớn giữa tầng lớp trung lưu thành thị và giới nông dân nghèo. Đất nước này thường bị các cơn bão gây thiệt hại nặng nề. Tháng 5 năm 2002, đảng Tự do Tiến bộ giành được 29 trong 49 ghế ở cuộc bầu cử Quốc hội. Perry Christie trở thành Thủ tướng. Địa lý và khí hậu Bahamas nằm giữa vĩ tuyến 20° và 28°B, kinh tuyến 72° và 80°T. Năm 1864, Toàn quyền Bahamas ghi nhận rằng có 29 đảo, 661 cồn, và 2.387 đảo đá. Đảo gần nhất với Hoa Kỳ là Bimini. Hòn đảo Abaco nằm ở phía đông Grand Bahama. Đảo cực đông nam là Inagua. Các hòn đảo nổi tiếng khác gồm Eleuthera, Đảo Cat, Đảo San Salvador, Acklins, Đảo Crooked, Exuma và Mayaguana. Nassau là thủ đô và thành phố lớn nhất nước, nằm tại New Providence. Quần đảo này có khí hậu cận nhiệt đới, được dòng Gulf Stream giữ ôn hoà. Ở phía đông nam, quần đảo Caicos và quần đảo Turks, và ba dãy ngầm khác là Dãy Mouchoir, Dãy Silver, và Dãy Navidad, về mặt địa lý là sự tiếp tục của Bahamas, nhưng không phải là một phần của nước này Bahamas. Khí hậu Bahamas từ cận nhiệt đới tới nhiệt đới, và được dòng nước Gulf Stream giữ ôn hoà, đặc biệt vào mùa đông. Trái lại, vào mùa hè và mùa thu nó thường gây ra những cơn bão lớn đi qua hay gần hòn đảo. Bão Andrew đã tàn phá vùng phía bắc quần đảo năm 1992, và cơn Bão Floyd đã tàn phá hầu như toàn bộ quần đảo năm 1999. Bão Frances năm 2004 được cho là gây thiệt hại to lớn nhất trong lịch sử cho quần đảo này. Cũng trong năm 2004, vùng phía bắc Bahamas bị Bão Jeanne tràn qua tuy mức thiệt hại có nhỏ hơn. Năm 2005 các vùng phía bắc một lần nữa lại bị Bão Wilma tràn qua. Thủy triều và gió mạnh phá hủy nhà cửa, trường học, ngập tràn đảo khiến khoảng 1.000 mất nhà cửa. Họ bị kẹt không có thức ăn, nước uống và nhu yếu phẩm trong nhiều ngày, phải nhận trợ cấp từ chính phủ. Chính phủ và Chính trị Bahamas là một quốc gia độc lập và là thành viên của Khối thịnh vượng chung. Chính trị và truyền thống pháp luật của nước này có sự tương đồng lớn với Vương quốc Anh. Quốc vương Anh là nguyên thủ quốc gia theo nghi thức, được đại diện bởi một Toàn quyền người Bahamas. Thủ tướng là lãnh đạo chính phủ và lãnh đạo đảng đa số trong Quốc hội. Thượng viện do chỉ định. Quyền hành pháp thuộc nội các. Quyền lập pháp vừa do chính phủ vừa do hai viện đảm nhiệm. Hệ thống đảng phái chủ yếu do Đảng Tự do Tiến bộ trung tả và Mặt trận Tự do Quốc gia trung hữu kiểm soát. Một nhóm các đảng nhỏ chưa từng có được ảnh hưởng để thắng cử vào nghị viện, dù những người dân Bahamas cho rằng cả Đảng Tự do Tiến bộ và Mặt trận Tự do Quốc gia đều có cách tiếp cận vấn đề giống nhau. Các đảng nhỏ gồm Mặt trận Dân chủ Bahamas, Liên minh Cải cách Dân chủ và Đảng Quốc gia Bahamas. Việc đảm bảo sự thực thi của hiến pháp gồm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tôn giáo, phong trào không liên kết. Bahamas là một thành viên của Cộng đồng Caribe. Tư pháp độc lập với lập pháp và hành pháp. Hệ thống luật pháp dựa theo luật pháp Anh. Quốc phòng Bahamas không có một quân đội hoặc lực lượng vũ trang chính quy nào. Các lực lượng quân sự của Bahamas bao gồm Lực lượng Quốc phòng Hoàng gia Bahamas (RBDF), Hải quân Hoàng gia Bahamas. Theo Đạo luật Quốc phòng, lực lượng Quốc phòng Hoàng gia Bahamas đã được uỷ quyền để bảo vệ Bahamas, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Bahamas, tuần tra vùng biển của Bahamas, cung cấp hỗ trợ và cứu trợ khi có thiên tai cho các ngư dân của Bahamas hoặc các nước khác trong vùng biển Caribe, kết hợp với các cơ quan thực thi pháp luật của Bahamas để duy trì trật tự và an ninh của quốc gia, thực hiện bất kỳ nhiệm vụ được ban hành bởi Hội đồng an ninh Quốc gia Bahamas. Lực lượng Quốc phòng của Bahamas cũng là một thành viên của Địa Phương Quân Bahamas (CARICOM) để duy trì an ninh các quận địa phương. Lực lượng Quốc phòng Hoàng gia Bahamas chính thức ra đời vào ngày 31 tháng 3 năm 1980. Nhiệm vụ của họ bao gồm bảo vệ Bahamas, ngăn chặn buôn lậu ma túy, nhập cư bất hợp pháp, săn bắn trộm, và cung cấp trợ giúp cho các thủy thủ bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào họ có thể. Lực lượng Quốc phòng có một hạm đội 26 tàu tuần tra ven biển và các tuyến đường hàng hải cùng với 2 máy bay và hơn 850 nhân viên trong đó bao gồm 65 sĩ quan và 74 phụ nữ làm việc trên các tàu tuần tra. Kinh tế Bahamas là một quốc gia ổn định, phát triển với nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào du lịch và dịch vụ ngân hàng nước ngoài. Bahamas nói chung được coi là một trong những trung tâm tài chính nước ngoài hàng đầu. Tính đến năm 2016, GDP của Bahamas đạt 9.047 tỷ USD, đứng thứ 138 thế giới và đứng thứ ba khu vực Caribe sau Trinidad và Tobago và Jamaica. Chỉ riêng du lịch chiếm hơn 60% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và trực tiếp hay gián tiếp sử dụng tới một nửa lượng lao động. Tăng trưởng du lịch vững chắc cộng với sự bùng nổ xây dựng các khách sạn, khu du lịch và dinh thự mới dẫn tới sự tăng trưởng GDP vững chắc trong những năm gần đây. Nhờ khí hậu nắng ấm, các bãi biển cát trắng rộng lớn và gần Hoa Kỳ, quần đảo đầy nét hấp dẫn này thu hút khoảng hai triệu khách du lịch mỗi năm và tạo điều kiện cho ngành công nghiệp du lịch phát triển. Chế độ thuế quan ưu đãi đã thu hút các công ty tài chính thăm dò dầu khí ngoài khơi và giới hưu trí giàu có. Các nguồn tài nguyên khác gồm: đánh bắt tôm, làm vườn, ruộng muối, hóa lọc dầu và công nghiệp nhẹ (dược phẩm). Các ngành sản xuất và nông nghiệp chỉ đóng góp khoảng 10% vào tổng sản lượng quốc dân. Mặc dầu được Chính phủ quan tâm nhiều, nhưng các khu vực kinh tế này cũng không mấy phát triển. Chế tạo và nông nghiệp chiếm khoảng mười phần trăm GDP và có mức độ tăng trưởng thấp, dù chính phủ đang có ý định khuyến khích phát triển các lĩnh vực này. Triển vọng phát triển tổng quan trong tương lai gần vẫn dựa nhiều vào nguồn thu từ du lịch, vốn phụ thuộc vào sự tăng trưởng tại Hoa Kỳ, nguồn khách chính của hòn đảo này. Tài chính là lĩnh vực quan trọng chiếm khoảng 15% GDP. Các ngành sản xuất và nông nghiệp ít phát triển, chiếm khoảng 10% GDP. Chính phủ Bahamas đang chú trọng phát triển thương mại điện tử. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống còn 7.6% năm 2006, từ mức 10.2% năm 2005, chủ yếu nhờ các dự án xây dựng và phát triển các khu du lịch trên khắp hòn đảo. Hại hai hòn đảo đông dân nhất tại Bahamas, tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 10.9% xuống 6.6% tại New Providence, và từ 11% xuống còn 8.4% tại Grand Bahama. Ước tính tỷ lệ nghèo khổ năm 2004 là 9.3%. Ngoài ra, thu nhập trung bình hộ đã tăng lên $43.420 từ mức $38.894 năm 2005. Đồng dollar Bahamas và dollar Mỹ được trao đổi ở mức 1:1. Hành chính Bahamas được chia thành các quận nằm dưới một hệ thống của chính quyền địa phương quận New Providence là quận nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của chính phủ trung ương. Năm 1996, quốc hội Bahamas đã thông qua "Đạo luật Chính quyền địa phương" để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập ban quản trị hành chính ở các đảo, chính quyền địa phương quận, Nghị Viên các quận ở địa phương, và các Ủy ban Thị trấn địa phương cho các cộng đồng dân cư ở các đảo khác nhau. Mục tiêu tổng thể của hành động này là để cho phép bầu các nhà lãnh đạo khác nhau để quản lý và giám sát công việc của địa bàn các quận đảo mà không có sự can thiệp của Chính phủ Trung ương. Tổng cộng, Bahamas có 32 quận, với các cuộc bầu cử chính quyền địa phương được tổ chức 3 năm một. Ngoài ra còn có 110 Nghị Viên và 200 thành viên các Ủy ban của 81 Thị trấn để tương ứng với các quận khác nhau. Các quận của Bahamas là: Nhân khẩu Gần 85% dân số Bahamas có nguồn gốc châu Phi, tiếp theo là Cáp cát 12%. Các sắc tộc thiểu số khác gồm người châu Á và Hispanics với tỷ lệ 3%. Nhiều người Bahamas Cáp cát tập trung trên Abaco Island, Spanish Wells, Harbour Island, Long Island, và quận Montagu Bay district thuộc New Providence (phía đông Nassau). Cũng có một số lượng đáng kể người không phải quốc tịch Cáp cát từ Hoa Kỳ và châu Âu. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh, được hầu như tất cả người dân trên đảo sử dụng, dù nhiều người nói một hình thức tiếng patois của Thổ ngữ Creole Bahamas không nên nhầm lẫn với Creole Haiti được sử dụng bởi một lượng lớn dân nhập cư. Tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha cũng được các nhóm nhập cư sử dụng. Là một đất nước tôn giáo mạnh, số lượng nơi thờ tự trên đầu người tại Bahamas cao nhất thế giới. Các hòn đảo đều có số lượng tín đồ Tin Lành Thiên chúa giáo áp đảo (hơn 80%). Baptists là giáo phái lớn nhất (khoảng một phần ba), tiếp theo là Anh giáo và nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã. Một số người, đặc biệt tại các hòn đảo phía nam và phía đông theo Obeah, một tôn giáo thông linh tương tự như Voodoo. Tuy nổi tiếng trên toàn Bahamas, Obeah lại bị nhiều người xa lánh. Voodoo cũng có tín đồ, nhưng hầu như chỉ bên trong những cộng đồng nhập cư từ Haiti, Cuba, Cộng hòa Dominica và Jamaica. Văn hoá Văn hoá Bahamas là sự pha trộn giữa ảnh hưởng Châu Phi và Châu Âu. Có lẽ phong cách âm nhạc nổi tiếng nhất của nước này là junkanoo. Bên cạnh Junkanoo, cách hình thức âm nhạc bản địa khác gồm rake and scrape, calypso, và một hình thức thánh ca độc nhất, được biết đến trên trường quốc tế thông qua âm nhạc hậu Joseph Spence. Các ban nhạc hành khúc đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, chơi trong những đám ma, đám cưới và các sự kiện nghi lễ khác. Tại các hòn đảo kém phát triển - thường được gọi là "đảo gia đình" - các món đồ thủ công gồm cả các loại rổ rá làm từ lá cọ. Vật liệu này, thường được gọi là "rơm", cũng được dùng làm mũ và túi và trở thành đồ lưu niệm thông thường cho khách du lịch ngày nay. Thể thao Đua thuyền buồm là những sự kiện xã hội quan trọng tại nhiều hòn đảo. Chúng thường được tổ chức trong nhiều ngày với những chiếc thuyền kiểu truyền thống, cùng lúc các lễ hội trên bờ cũng được tổ chức. Một số người định cư có những lễ hội gắn liền với truyền thống mùa vụ hay kỳ lũ trong vùng, như "Pineapple Fest" tại Gregory Town, Eleuthera hay "Crab Fest" tauh Andros. Các truyền thống đáng chú ý khác như kể chuyện hay thi Obeah. Bahamas không có môn thể thao quốc gia thực sự. Dù các môn thể thao Anh như cricket, bóng đá và rugby vẫn được nhiều người ưa thích, ngày nay các ảnh hưởng từ Mỹ cũng mạnh mẽ với những môn thể thao đang được ưa chuộng như bóng rổ, bóng chày, bóng đá kiểu Mỹ. Có nhiều vận động viên điền kinh Bahamas đạt trình độ quốc tế. Bahamas đã đoạt huy chương vàng Olympic môn đua thuyền (Durwood Knowles và Cecile Cooke - 1964), điền kinh (Tonique Williams-Darling - 2004, và chạy tiếp sức nữ - 2000).
Costa Rica (Phiên âm: Cô-xta Ri-ca), tên chính thức Cộng hòa Costa Rica (Tiếng Tây Ban Nha: República de Costa Rica, IPA: ), là một quốc gia tại Trung Mỹ, giáp với Nicaragua ở mặt Bắc, Panama ở phía Nam và Đông Nam, Thái Bình Dương ở phía Tây và Nam, biển Caribe ở phía Đông. Costa Rica là nước đầu tiên trên thế giới tự giải thể lực lượng quân sự chính quy theo hiến pháp. Lịch sử Vào thời Tiền Columbus, thổ dân châu Mỹ ở vùng đất nay là Costa Rica thuộc nhóm văn hóa trung gian giao thoa giữa các vùng văn hóa Mesoamerica và văn hóa Andes ở Nam Mỹ. Đối với bán đảo Nicoya ở phía tây bắc Costa Rica thì đây là điểm cực nam của ảnh hưởng văn hóa Nahuatl trong khi thung lũng miền trung tâm của Costa Rica có bộ tộc Chibcha cư trú. Khi đoàn quân viễn chinh của Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của các chinh phục tướng quân (conquistador) mở cuộc xâm chiếm Trung Mỹ vào thế kỷ XVI thì các bộ tộc thổ dân châu Mỹ phiêu tán. Số còn lại phần bị đồng hóa hoặc tiêu diệt vì bệnh truyền nhiễm cùng sự cai trị hà khắc của người Tây Ban Nha. Thời kỳ thuộc địa Sang thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha, Costa Rica phụ thuộc Trấn Guatemala (Audiencia de Guatemala hay Capiténcia Géneral de Guatemala) với thủ phủ đặt ở Santiago de los Caballeros (nay là Antigua Guatemala). Khoảng cách xa xôi từ thủ phủ đến Costa Rica trong thời buổi giao thông thô sơ khiến Costa Rica hầu như bị lãng quên. Cũng vì đó mà xứ Costa Rica phát triển một cách đơn lập, thoát sự giám sát chặt chẽ của triều đình Tây Ban Nha. So với những thuộc địa khác thì Costa Rica kém phát triển và có thể nói là nghèo nhất vùng Trung Mỹ. Hơn nữa vì thổ dân địa phương thưa thớt nên di dân Tây Ban Nha đến định cư vùng Costa Rica không thể trưng dụng thổ dân, bắt họ phục dịch hoặc làm nô lệ. Vì thế mà trong khi chế độ nô lệ được tận dụng ở những thuộc địa khác để khai thác nông nghiệp, di dân Tây Ban Nha sang lập nghiệp ở Costa Rica phải tự canh tác trồng trọt. Trong hoàn cảnh tự lập của giai đoạn này, nền móng nước Costa Rica đã hình thành với những yếu tố để phát triển một xã hội bình đẳng so với những nước láng giềng. Thời kỳ tự chủ Sau khi thoát khỏi sự cai trị của Tây Ban Nha, Costa Rica là một trong sáu nước trong Cộng hòa Liên bang Trung Mỹ (tiếng Tây Ban Nha: República Federal de Centroamérica/Centro América) với thủ đô là Thành phố Guatemala. Liên bang này chỉ hiện diện trong thời gian ngắn ngủi rồi giải tán sau 15 năm vì thiếu đoàn kết. Kết quả là năm quốc gia độc lập ra đời; năm nước này (Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras và Nicaragua) tồn tại tới ngày nay và cả năm nước hậu duệ này đều lấy ngày 15 tháng 9 là ngày quốc khánh, đánh dấu thời điểm khi chính quyền thực dân Tây Ban Nha cáo chung trên dải đất Trung Mỹ. Xét về mặt chủng tộc, ngoài sắc dân gốc Âu châu, Costa Rica còn có dân thiểu số gốc Phi châu. Họ là hậu duệ của nhóm di dân từ Jamaica đưa sang làm phu vào thế kỷ XIX để xây tuyến đường sắt từ Cao nguyên Trung phần xuống duyên hải biển Caribe và cửa bể Limón. United Fruit Company, một công ty Hoa Kỳ bỏ vốn ra xây những đoạn đường này để đổi lấy quyền sở hữu và khai thác đất đai trong vùng. Sự việc này tác động mạnh đến kinh tế Costa Rica, biến đất nước này, trước kia chủ yếu trông cậy vào cà phê là hàng xuất cảng chính nay còn cung cấp thêm các loại trái cây nhiệt đới, nhất là chuối cho thị trường thế giới. Vào thế kỷ XIX, những người nhập cư người Ý và Người Trung Hoa cũng đã tới đây làm việc trên các công trường xây dựng. Địa lý Costa Rica nằm ở eo đất Trung Mỹ, 10° Bắc xích đạo và 84° Tây đường Kinh tuyến gốc. Nước này giáp với Biển Caribe (ở phía đông) và Biển Bắc Thái Bình Dương (ở phía tây), với chiều dài bờ biển tổng cộng 1.290 kilômét (802 dặm) (212 km / 132 mi bờ biển Caribe và 1.016 km / 631 mi bờ biển Thái Bình Dương). Costa Rica giáp giới với Nicaragua ở phía bắc (309 km / 192 mi biên giới) và Panama ở phía nam (639 km / 397 mi biên giới). Tổng cộng, Costa Rica có 51.100 km² (19.730 dặm vuông) lãnh thổ cộng thêm 589.000 km² lãnh hải. Nước này có diện tích tương đương với Tây Nguyên Việt Nam. Điểm cao nhất nước là núi Chirripó, với độ cao đo được là 3.810 mét (12.500 ft). Ngọn núi này cũng là ngọn núi cao thứ năm ở Trung Mỹ. Núi lửa cao nhất nước là ngọn Irazú (3.431 m / 11.257 ft). Hồ nước có diện tích lớn nhất ở Costa Rica là Hồ Arenal. Vì Costa Rica có địa hình đa dạng nhiều núi non nên sông ngòi chảy xiết, rất thích hợp với một số môn thể thao như bơi kayak hoặc thả bè. Hai con sông được biết đến cho các bộ môn này là sông Pacuare và sông Reventazón nằm ngay phía đông thủ đô San José ở vùng Cao nguyên Trung phần. Costa Rica cũng có một số hải đảo. Đáng kể nhất là Đảo Cocos cách bờ biển tỉnh Puntarenas 24 km² / 9.25 sq mi, 500 km hay 300 mi, nhưng Đảo Calero là đảo lớn nhất nước (51.6 km² / 58.5 sq mi). Costa Rica cũng đã dành 25% lãnh thổ toàn quốc dưới dạng đất bảo tồn sinh thái. Nước này cũng có mật độ sinh vật đa dạng nhất thế giới. Chính trị Costa Rica là một quốc gia dân chủ theo thể chế cộng hòa trong khuôn khổ pháp lý của bản hiến pháp vững mạnh. Bản hiến pháp hiện hành được ban bố ngày 7 tháng 11 năm 1949, trong đó có đặc điểm là Costa Rica không có quân đội. Về mặt chính trị, Costa Rica có truyền thống dân chủ khá lâu dài bắt đầu từ năm 1899 với cuộc tổng tuyển cử công minh. Những đợt bầu cử sau đó tiếp tục đường lối ôn hòa khi thay đổi chính phủ từ năm 1899 đến nay, với hai ngoại lệ: năm 1917 Federico Tinoco chuyên quyền làm lãnh tụ độc tài và năm 1948 José Figueres dùng quân đội cướp chính quyền, gây ra cuộc nội chiến đẫm máu nhất trong lịch sử Costa Rica với hơn 2.000 thương vong. Từ thập niên 1940 tới nay Costa Rica đã tái lập nền dân chủ và đột phá nhất là bản hiến pháp năm 1949, giải tán quân đội để diệt hẳn cơ nguy nạn quân phiệt. Vì vậy Costa Rica được xem là một trong những nước ổn định nhất trong vùng, tránh được những cuộc bạo động chính trị như những nước Trung Mỹ khác. Đứng đầu ngành hành pháp là tổng thống với nhiệm kỳ bốn năm. Tổng thống có quyền bổ nhiệm 22 bộ trưởng để điều hành chính phủ. Phụ tá tổng thống là hai vị phó tổng thống. Hai viên chức này cũng kiêm nhiệm hai trong 22 bộ. Cơ quan lập pháp chính là Quốc hội với 57 đại biểu. Đại biểu quốc hội, cũng như tổng thống có nhiệm kỳ bốn năm. Cuộc tu chính hiến pháp thông qua năm 1969 giới hạn tổng thống và các đại biểu chỉ được chấp chính một nhiệm kỳ. Riêng đại biểu quốc hội thì được phép tái tranh cử sau khi nghỉ một nhiệm kỳ. Tháng 4 năm 2003, điều luật cấm tổng thống tái cử trong hiến pháp được sửa đổi, cho phép Óscar Arias (ứng cử viên Giải Nobel Hòa bình năm 1987) ra tranh cử nhiệm kỳ thứ hai. Năm 2006, Óscar Arias tái đắc cử sau một cuộc bầu cử khít khao với nhiều tranh chấp vì lập trường ủng hộ tự do mậu dịch của Arias. Ông nhậm chức ngày 8 tháng 5 năm 2006. Kế đó trong đợt bầu cử Tháng Hai năm 2010, ứng cử viên Laura Chinchilla đắc cử với 46,7% số phiếu và trở thành nữ tổng thống đầu tiên của vùng Trung Mỹ. Ngành tư pháp có Tối cao Pháp viện với 22 thẩm án. Những thành viên này do Quốc hội bầu ra với nhiệm kỳ tám năm. Các cơ quan quốc hữu tự trị có nhiều quyền hoạt động độc lập; trong đó các ngành viễn thông điện lực, và ngân hàng thương mại đã được quốc hữu hoá. Chính phủ cũng chiếm độc quyền điều hành ngành bảo hiểm và cơ quan an sinh xã hội. Chiếu theo hiến pháp 1949 thì Costa Rica không có lực lượng quân đội nhưng duy trì lực lượng cảnh sát để đảm bảo an ninh quốc nội. Lực lượng này được chia thành vệ binh dân sự (Guardia Civil) và vệ binh nông thôn (Guardia Rural). Những vấn đề chính giới Costa Rica lưu tâm đến là tình hình an ninh, tội ác, và nạn nhập cư lậu từ Nicaragua. Đảng Nhân dân Costa Rica (tiếng Tây Ban Nha: Partido del Pueblo Costarricense, viết tắt là PPC) là một đảng cộng sản ở Costa Rica. Vào tháng 3 năm 1984, Đảng Vanguard nổi tiếng đã chia thành hai phe. Phần lớn được lãnh đạo bởi Humberto Vargas Carbonell là cấp tiến hơn so với phe của Eduardo Mora Valverde. Cả hai phe đều muốn giữ tên đảng. Sau một phán quyết của tòa án, phe của Mora đã được đổi tên thành PPC vào tháng 4 năm 1985. [1] PPC đã được đăng ký tại Toà án bầu cử tối cao (TSE) trong khoảng thời gian từ tháng 6 năm 1988 đến tháng 9 năm 1995 với tư cách là Đảng Dân sự (Partido del Pueblo Civilista). [2] PPC được lãnh đạo năm 2004 bởi Pablo Morales Rivera và Libertad xuất bản. PPC đã ứng cử cho các cuộc bầu cử chung trong các liên minh khác nhau: ở United People (Pueblo Unido) vào năm 1986 và 1990, ở United Left (Izquierda Unida) năm 2006. Sự sụp đổ của Liên Xô làm suy yếu PPC. Các thành viên đã đến Lực lượng Dân chủ mới (Fuerza Dân chủ, FD) được thành lập năm 1993 hoặc để lại cho các đảng khác. Eduardo Mora Valverde và José Merino del Rio trở thành người sáng lập Mặt trận Rộng (Frente Amplio) năm 2004. Sau năm 2006, PPC dường như đã bị lật tẩy. PPC là thành viên của Foro de São Paulo. Phân chia hành chính Về mặt hành chánh Costa Rica được chia thành bảy tỉnh (provincia); mỗi tỉnh lại chia thành nhiều tổng (cantón); dưới tổng là quận (dístricto). Tổng cộng cả nước có 81 tổng và 421 quận. Đứng đầu mỗi tổng là viên thị trưởng điều hành. Thị trưởng được người dân trong tổng bầu trực tiếp với nhiệm kỳ bốn năm. Dưới cấp trung ương, không có các cơ quan lập pháp địa phương. Alajuela Cartago Guanacaste Heredia Limón Puntarenas San José Kinh tế Vào những năm đầu thế kỷ XXI ngành sản xuất hàng điện tử, dược phẩm, nhu liệu và cung cấp dịch vụ tài chính cùng ngành du lịch sinh thái là động lực chính cho nền kinh tế Costa Rica. Với trình độ giáo dục khá cao của dân chúng Costa Rica, quốc gia này đã trở thành một địa điểm thu hút nguồn đầu tư ngoại quốc. Chính sách khuyến khích tự do mậu dịch của chính phủ Costa Rica, nhất là về ngành công nghiệp kỹ thuật cao đã gặt hái được một số kết quả khả quan. Những biện pháp giảm thuế cho những nhà đầu tư đã kích thích một số công ty quốc tế như nhà sản xuất chíp máy tính Intel, hãng bào chế dược phẩm GlaxoSmithKline, và công ty sản xuất hàng tiêu dùng Procter & Gamble mở xưởng sản xuất ở Costa Rica, tăng cường hàng xuất cảng. Tổng lượng thương mại với Đông Nam Á và Nga cũng đã phát triển mạnh từ năm 2004, 2005, kể từ khi Costa Rica tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) với tư cách quan sát viên (2004). Trong năm tài chính 2005, ngân sách chính phủ thâm hụt 2.1% nhưng các số liệu khác đều tăng tiến: thu nội địa +18%; xuất khẩu +12.8%; và số khách du lịch +19%, đạt tới 1.5 triệu người. Dữ liệu do Ngân hàng Trung ương cung cấp cho thấy tăng trưởng kinh tế ở mức 5% nhưng ngược lại Costa Rica cũng phải đối phó với lạm phát cao (14%) và thâm hụt thương mại 5.2%. Đơn vị tiền tệ của Costa Rica là colón (CRC), vào giữa thập niên 2000 có hối xuất khoảng 518 đổi một dollar Mỹ, tương đương với 675 colón ăn một euro. Ngày 16 tháng 10 năm 2006, để tránh hối xuất dao động mạnh, chính phủ Costa Rica áp dụng biện pháp hạn chế tỷ giá đồng CRC colón và đưa ra ngạch tối đa và tối thiểu tương tự như cách Chile từng áp dụng trước đó với tiền tệ của họ. Quy định này chính phủ tin rằng sẽ giúp Ngân hàng Trung ương Costa Rica đối phó hữu hiệu hơn với nạn lạm phát và tránh việc đồng Mỹ kim lưu hành rộng rãi trong dân chúng. Cũng từ thời điểm đó giá trị của đồng colón đã ổn định hơn. Ngoài vị trí địa lý thuận tiện cho việc tiếp cận tới các thị trường châu Mỹ vì chung một múi giờ với vùng trung tâm Hoa Kỳ, Costa Rica còn có lợi điểm vì thẳng đường biển trực tiếp tới Châu Âu và Châu Á. Tính đến năm 2016, GDP của Costa Rica đạt 57.689 USD, đứng thứ 77 thế giới và đứng thứ 12 khu vực Mỹ Latin. Du lịch Với kỹ nghệ du lịch trị giá 1.7 tỷ Mỹ kim, Costa Rica là nước thu hút đông khách du lịch nhất khu vực Trung Mỹ. Du lịch sinh thái thu hút nhiều du khách tới các khu bảo vệ thiên nhiên rải rác trên khắp nước này. Nạn mua dâm cũng đã trở thành một hình thức "du lịch" có tiếng của Costa Rica, có thể chiếm tới 10% trên tổng thu của ngành du lịch nói chung. Costa Rica được coi là một chí điểm của các khách mua dâm, phần lớn là mại dâm hợp pháp. Quan hệ nước ngoài Costa Rica là một thành viên tích cực của Liên hiệp quốc và Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ. Costa Rica giữ một ghế tại Tòa án Nhân quyền Liên Mỹ và tại Đại học Hòa bình Liên hiệp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác liên quan tới nhân quyền và dân chủ. Mục tiêu chính trong chính sách đối ngoại của Costa Rica là khuyến khích thực thi nhân quyền và phát triển xã hội để mang lại sự ổn định và phát triển quốc gia. Costa Rica cũng là một thành viên của Tòa án Tội phạm Quốc tế, không có Thỏa thuận Miễn trừ Song phương bảo vệ binh lính Hoa Kỳ (như theo Điều 98). Ngày 1 tháng 6 năm 2007, Costa Rica đã hủy bỏ bang giao với Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) để lập quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hệ động thực vật Costa Rica là địa bàn sinh sống của nhiều loài động và thực vật. Tuy nước này chỉ chiếm khoảng 0.1% tổng diện tích lục địa, nơi đây tàng chứa 5% đa dạng sinh học thế giới. Hơn 25% diện tích lãnh thổ Costa Rica là các khu rừng và khu dự trữ thiên nhiên được bảo vệ. Một vườn quốc gia nổi tiếng trong giới các nhà sinh thái thế giới từng được biết đến nhiều về sự đa dạng sinh vật (kể cả những con thú lớn như báo và heo vòi) là Vườn Quốc gia Corcovado. Vườn này cũng là nơi đón nhiều du khách đến xem nhiều loài động vật hoang dã. Trong khi đó Vườn quốc gia Tortuguero là nơi sinh sống của khỉ nhện, khỉ rú và khỉ mũ cổ trắng, lười ba ngón, 320 loài chim (gồm nhiều loài vẹt), rất nhiều loài bò sát, nhưng nổi tiếng nhất là loài rùa xanh đang bị đe dọa tuyệt chủng. Hàng năm chúng dùng bãi biển khu vực này để đẻ trứng. Khu dự trữ "rừng mây" Monteverde cũng phong phú với hai ngàn loài thực vật, gồm nhiều loại phong lan. Hơn bốn trăm loài chim và hàng trăm loài có vú cũng sinh sống tại đây. Tính tổng thể, khoảng tám trăm loài chim đã được kiểm chứng sinh sống tại Costa Rica. Nhân khẩu Tính đến năm 2005, Costa Rica có dân số ước tính khoảng 4,43 triệu người. Đa số dân Costa Rica mang ít nhiều dòng máu của người di dân Tây Ban Nha. Có một số không nhỏ có gốc Italia, Đức, Do Thái, và Ba Lan nhưng nhóm đông nhất là "mestizo", hậu duệ thổ dân châu Mỹ pha trộn với người Tây Ban Nha. Nhóm này chiếm 94% dân số. Chỉ có 3% dân có gốc châu Phi, mà tổ tiên là những người lao động da đen từ Jamaica nhập cư hồi thế kỷ XIX. Số còn lại 1% là người Hoa và 1% thổ dân châu Mỹ, khoảng 40.000 người, đông nhất ở tỉnh Guanacaste phía tây bắc. Ngoài ra Costa Rica cò là nơi sinh sống của nhiều cộng đồng ngoại kiều. Họ là công dân các nước Hoa Kỳ, Canada, Đức, Hà Lan, Anh Quốc... tập trung đông nhất ở Escazu ở Thung lũng Trung tâm. Còn nhóm người Italia nhập cư sau Chiến tranh thế giới thứ hai thì lập ra thị trấn Zona Sur San Vito de Coto Brus ở phía nam Puntarenas, gần biên giới với Panamá. Costa Rica đón nhận một số không nhỏ người tỵ nạn, phần lớn từ Colombia và Nicaragua. Theo ước tính thì 10% đến 15% dân số Costa Rica là dân Nicaragua, trốn sang Costa Rica vì lý do kinh tế, tìm việc làm để mai sau hồi hương. Một số khác đến từ Perú. Nhóm này đang trên đà gia tăng đáng kể. Vì vị trí trung gian, Costa Rica cũng là nơi dừng chân của dân tỵ nạn khắp châu Mỹ Latinh lưu vong vì nội chiến và chính thể độc tài như trường hợp Chile và Argentina vào những thập niên 1970-1980. Tôn giáo Công giáo là tôn giáo của số đông tại Costa Rica. Riêng Giáo hội Công giáo Rôma có đặc quyền với chức danh là tôn giáo chính thức của Costa Rica, một đặc quyền ghi rõ trong Hiến pháp năm 1949, nhưng đồng thời Hiến pháp cũng đảm bảo quyền tự do tôn giáo và nhìn chung thực tế Chính phủ tôn trọng quyền này. Khoảng 76,3% người dân Costa Rica là tín hữu Công giáo. Ngoài Công giáo, những giáo phái Tin Lành chiếm 13,7% đang phát triển mạnh ở Costa Rica cũng như những nước lân cận, các phái Kháng Cách khác chiếm 0,7%. Vì số người nhập cư nhỏ và gần đây từ Châu Á, Trung Đông, và các nơi khác, các tôn giáo khác cũng đã phát triển, đáng chú ý nhất là Phật giáo (do con số tăng thêm 40.000 người trong cộng đồng người Hoa), và một số lượng nhỏ tín đồ Do Thái giáo, Hồi giáo, và Hindu giáo. Có một hội đường Do Thái giáo là Shaarei Zion, tọa lạc tại San Jose, gần công viên La Sabana Metropolitan. Nhiều ngôi nhà ở vùng phụ cận phía đông công viên được trang trí hình ngôi sao David và các biểu tượng dễ nhận thấy khác của Do Thái giáo. Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô phát triển chậm tại Costa Rica trong bốn mươi năm qua và chỉ có một đền thờ tại San Jose, là trung tâm thờ phượng địa phương của cả vùng Costa Rica, Panama, Nicaragua, và Honduras. Ngôn ngữ Ngôn ngữ chính thức duy nhất là tiếng Tây Ban Nha. Có hai kiểu giọng bản xứ chính tại Costa Rica, tiếng Costa Rica tiêu chuẩn và Nicoyan. Giọng Nicoyan rất giống với giọng chuẩn Nicaragua, một phần bởi sự kiện sáp nhập nước này vào Nicaragua năm 1824. Một kiểu phát âm khác biệt đáng chú ý khác của Costa Rica là âm đầu mềm và âm vị đúp [r] không rung như tại hầu hết các nước sử dụng tiếng Tây Ban Nha khác.. Những người nhập cư Jamaica ở thế kỷ XIX đã mang tới một thổ ngữ tiếng Anh và đã tiến hóa vào trong thổ ngữ Mekatelyu. Cưới xin Vì Cơ đốc giáo La mã là tôn giáo chính thức của đất nước, chỉ những cuộc hôn lễ tiến hành tại nhà thờ được chính phủ công nhận. Bất kỳ người nào muốn tiến hành lễ cưới ngoài nhà thờ Cơ đốc giáo phải thuê một luật sư tiến hành và sau đó đăng ký cuộc hôn lễ dân sự cho họ. Văn hoá Người dân Costa Rica thường tự xưng là tico (nam) hay tica (nữ). "Tico" xuất xứ từ kiểu sử dụng hậu tố giảm cường độ để diễn tả tình cảm thân quen (ví dụ, "momentico" thay vì "momentito"). Câu "Pura Vida" (dịch nghĩa "Cuộc sống thanh tịnh") là câu cửa miệng thường dùng ở Costa Rica, nói lên lý tưởng một cuộc sống thanh bình, hài hòa với thiên nhiên, gia đình và bè bạn. Một số người có thể dùng mae viết tắt của "maje" (mae nghĩa là "gã/anh chàng") để gọi nhau, dù điều này có thể bị coi là hơi có ý xúc phạm đối với người thuộc thế hệ trên bởi maje là từ đồng nghĩa của "tonto" (ngu, khờ dại). Các truyền thống và văn hóa Costa Rica thường có khuynh hướng giữ lại mức độ ảnh hưởng mạnh từ Tây Ban Nha. Kiểu trọng âm nói của họ thật sự khác biệt so với kiểu trọng âm tại các nước Trung Mỹ khác. Tiếp vĩ ngữ "-ito" hay "-ita" được thêm vào nhiều từ để nghe lịch sự và nhã nhặn hơn. Costa Rica có một lịch sử phong phú. Costa Rica là nơi các nền văn hoá bản xứ Mesoamerica và Nam Mỹ gặp gỡ. Phía tây bắc đất nước, bán đảo Nicoya, là điểm cực nam của ảnh hưởng văn hoá Nahuatl khi những kẻ chinh phục người Tây Ban Nha (conquistadores) tới đây vào thế kỷ mười sáu. Các vùng trung tâm và phía nam đất nước tiếp nhận ảnh hưởng từ Chibcha. Tuy nhiên, người bản xứ cũng để lại ảnh hưởng trên văn hoá Costa Rica hiện đại, tuy ở mức độ thấp hơn, bởi đa số người da đỏ châu Mỹ đã chết vì bệnh tật và sự ngược đãi của người Tây Ban Nha. Trong lúc đó, bờ biển Đại Tây Dương là nơi tập trung sinh sống của những người lao động châu Phi ở thế kỷ mười bảy và mười tám. Tuy nhiên, đa số người Costa Rica gốc Phi, đều là hậu duệ của những lao động người Jamaica, được đưa tới xây dựng các tuyến đường sắt nối Cao nguyên Trung tâm và cảng Limon trên bờ biển Caribbean. Những người Italia và Trung Quốc nhập cư cũng tới vào khoảng thời gian này để xây dựng các tuyến đường sắt. Âm nhạc Costa Rica ít có tiếng vang quốc tế, các loại âm nhạc đại chúng Costa Rica gồm: một kiểu âm nhạc calypso bản xứ khác biệt với kiểu calypso được nhiều người biết tới của Trinidad thường được chơi tại các nightclub ở các thành phố như San José. Rock and roll và nhạc pop Mỹ và Anh thịnh hành trong giới trẻ (đặc biệt giới trẻ tại đô thị) trong khi những kiểu âm nhạc cho khiêu vũ như soca, salsa, merengue, cumbia và Tex-Mex có khán giả là những người thuộc thế hệ già hơn. Giáo dục Tỷ lệ biết chữ tại Costa Rica là 96% (CIA World Factbook, tháng 2 năm 2007), một trong những tỷ lệ cao nhất tại Mỹ Latinh. Các trường sơ đẳng và cao học có tại khắp đất nước, thực tế ở tất cả các cộng đồng. Giáo dục công cộng tổng quát được đảm bảo trong Hiến pháp, và giáo dục mầm non và cao học đều miễn phí. Có cả các trường đại học công cộng và tư nhân. Chỉ có một số ít trường tại Costa Rica vượt quá lớp 11. Những trường đó đều kết thúc ở lớp 11 và cấp bằng Costa Rican Bachillerato Diploma được Bộ giáo dục nước này công nhận. Các trường có tới lớp 12 cấp hoặc International Baccalaureate Diploma, được IBO tại Geneva, Thụy Sĩ công nhân, bằng Abitur của Đức hay High School Diploma của Hoa Kỳ, được Hiệp hội các trường Cao đẳng và Trường học miền Nam (SACS) công nhận. Costa Rica cũng là nơi đóng trụ sở của Instituto Centroamericano de Administracion de Empresas (INCAE), ban đầu được thành lập năm 1964 tại Managua, Nicaragua với sự hỗ trợ của chính phủ Hoa Kỳ và các quốc gia Trung Mỹ khác. Viện này đã mở rộng vào Costa Rica với cuộc Cách mạng Sandinista trong thập niên 1980 tại Nicaragua, viện duy trì quan hệ chặt chẽ với Đại học Harvard, và cũng góp đóng một phần vào việc thành lập trường này. Theo một cuộc nghiên cứu do America Economia tiến hành INCAE được xếp hạng nhất về trường thương mại tại Mỹ Latinh trong hai năm liền (2004, 2005) và nằm trong tốp mười trường thương mại quốc tế hàng đầu theo xếp hạng của The Wall Street Journal.
El Salvador (tiếng Tây Ban Nha: República de El Salvador, IPA: , Tiếng Việt: Cộng hòa En Xan-va-đo) là một quốc gia tại Trung Mỹ. El Salvador giáp Guatemala về phía tây bắc, giáp với Honduras về phía đông bắc và phía nam giáp với Thái Bình Dương. El Salvador là quốc gia nhỏ nhất cũng như có mật độ dân cư cao nhất trong khu vực Trung Mỹ. Thủ đô và thành phố lớn nhất của El Salvador là San Salvador. Tên gọi Tên nguyên thủy tiếng Nahuatl của đất này là "Cuzhcatl", có nghĩa là "Đất của báu vật". Địa danh này được người Tây Ban Nha phiên âm là "Cutzcatlan". Sau cuộc chinh phục của người Tây Ban Nha, địa danh được đổi thành Provincia De Nuestro Señor Jesucristo El Salvador Del Mundo tức là "Tỉnh thành của Đức Chúa Giêsu Ki Tô, Đấng Cứu Thế", sau rút ngắn lại là "El Salvador". Lịch sử Vào thời kì tiền Colombo, vùng lãnh thổ này chịu ảnh hưởng của nền văn minh Maya, rồi đến nền văn minh của người Indian Pipil với việc thành lập vương quốc Cuscatlán (vùng Đá quý). Năm 1524, Pedro de Alvarado, người Tây Ban Nha, chinh phục El Salvador. Quốc gia này thoát khỏi sự cai trị của Tây Ban Nha năm 1821 và trở thành một phần của đế quốc México. Thành viên của Liên hiệp các Tỉnh Trung Mỹ (1823-1838), El Salvador tuyên bố nền cộng hòa năm 1841. Cuối thế kỷ XIX, đất nước lại xảy ra các cuộc xung đột liên tục giữa phe tự do và phe bảo thủ. Dưới chế độ độc tài của Tướng Maximiliano Martinez (1931-1944), nông dân nổi dậy chống đối và bị đàn áp dã man (1932). Năm 1950, Đại tá Oscar Osorio lên cầm quyền và thực hiện những cải cách xã hội. Năm 1972, quân đội áp đặt ứng cử viên của họ để gạt bỏ ứng cứ viên đối lập, José Napoleón Duarte. Từ đó, chiến tranh du kích và khủng bố hoành hành khắp đất nước. Năm 1977, nội chiến bùng nổ. Năm 1979, nhóm đảo chính lên cầm quyền và được Hoa Kỳ ủng hộ. Từ năm 1980, Tổng thống J. N. Duarte tiến hành cải cách ruộng đất. Năm 1992, các cuộc thương lượng giữa Chính phủ với lực lượng du kích kháng chiến đã dẫn đến việc ký hiệp định hòa bình, chấm dứt 11 năm nội chiến. Năm 1994, Armando Calderón Sol đắc cử Tổng thống. Năm 1997, Mặt trận Giải phóng Dân tộc Farabundo Marti chuyển thành một đảng phái chính trị chiếm được 27 trong tổng số 84 ghế trong cuộc bầu cử lập pháp. Năm 1999, Francisco Flores trở thành Tổng thống mới. Chính trị El Salvador theo chế độ Cộng hoà Tổng thống. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu Chính phủ, được bầu trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội: nhất viện gồm 84 nghị sĩ được bầu cho nhiệm kỳ 3 năm và có quyền tái cử. Toà án tối cao: gồm 14 quan toà do Quốc hội bổ nhiệm, ngoài ra có các toà án các cấp. Các đảng phái chính trị: El Salvador theo chế độ đa đảng. Các đảng chính là: Đảng Mặt trận Giải phóng Quốc gia Farabundo Martí (FMLN – cầm quyền), Liên minh Cộng hoà Quốc gia (ARENA), Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (PDC), Đảng Hoà giải dân tộc (PCN)… Hai đảng chính trị, Liên minh Cộng hòa Quốc gia (ARENA) và Mặt trận Giải phóng Quốc gia Farabundo Martí (FMLN) có xu hướng chiếm ưu thế trong các cuộc bầu cử. Các ứng cử viên của ARENA đã giành chiến thắng trong bốn cuộc bầu cử tổng thống liên tiếp cho đến cuộc bầu cử Mauricio Funes của FMLN vào tháng 3 năm 2009. Tuy nhiên, sự thống trị của hai đảng đã bị phá vỡ sau khi Nayib Bukele, một ứng cử viên từ Liên Minh Quốc Gia Thống Nhất (GANA) giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống El Salvador năm 2019. Địa lý El Salvador nằm ở eo đất Trung Mỹ bên bờ Thái Bình Dương, giữa Guatemala và Honduras. El Salvador trải dài 270km từ tây sang đông và 142km từ bắc xuống nam với diện tích 21.041km2 .Là quốc gia nhỏ nhất Trung Mỹ, El Salvador có đường biên giới chung với Guatemala và Honduras với tổng chiều dài 590km: 199km giáp Guatemala, 391km giáp Honduras. Quốc gia này có đường bờ biển 307km trên Thái Bình Dương. Đây là quốc gia Trung Mỹ duy nhất không tiếp giáp với vùng biển Caribe. El Salvador có hơn 300 con sông, quan trọng nhất trong đó là sông Lempa. Bắt nguồn từ miền nam Guatemala, sông Lempa chảy ngang các dãy núi phía bắc, chảy dọc phần lớn cao nguyên trung tâm và cắt qua dãy núi lửa phía nam để đổ vào Thái Bình Dương. Đây là con sông có khả năng điều hướng duy nhất của El Salvador. Các con sông ngắn thường ngắn và chảy qua các vùng đất thấp của Thái Bình Dương. Địa hình El Salvador gồm đồng bằng ven biển với đặc điểm khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, hai dãy núi lửa (đỉnh Santa Ana. 2.386 m) bao quanh vùng cao nguyên có không khí trong lành, nơi dòng sông Lempa chảy ngang qua và tập trung phần lớn dân cư trong nước. Điểm cao nhất đất nước là Cerro El Pital, ở độ cao 2730m trên biên giới với Honduras. Các dãy núi và cao nguyên trung tâm chiếm 85% diện tích đất đai El Salvador. Kinh tế Nền kinh tế El Salvador chủ yếu dựa vào kiều hối từ Mỹ và nông nghiệp với những sản phẩm truyền thống miền nhiệt đới. Từ tháng 1 năm 2001, Chính phủ El Salvador quyết định sử dụng đồng đô la Mỹ thay thế cho đồng colón nội tệ. Nguồn thu nhập ngoại tệ cơ bản của đất nước dựa vào gần 3 tỷ USD kiều hối / năm. Chính phủ El Salvador chủ trương mở thị trường xuất khẩu mới, hỗ trợ đầu tư nước ngoài và hiện đại hoá hệ thống thuế. Nông nghiệp chủ yếu phát triển các loại cây lương thực: ngô, kê, đậu và lúa, mía và cà phê. Đường, bông vải gỗ, cà phê là các mặt hàng xuất khẩu chính. Một số ngành công nghiệp (hóa dầu, lọc dầu, xi măng, dệt...) phát triển nhờ công trình thủy điện sông Lempa. Cuộc nội chiến (1977-1992) đã làm cho đất nước rơi vào tình trạng kiệt quệ. Mặc dù Chính phủ áp dụng biện pháp khắc khổ và kiểm soát được nạn lạm phát nhưng vẫn không tạo được niềm tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tính đến năm 2023, GDP danh nghĩa của El Salvador ước đạt 33,752 tỷ USD, đứng thứ 105 thế giới và đứng thứ 16 khu vực Mỹ Latinh. Phân cấp hành chính El Salvador được chia thành 14 tỉnh (departamentos), các tỉnh này lần lượt được chia thành 262 đô thị (municipios) Dân cư Dân số El Salvador bao gồm các chủng người lai cũng như những người có tổ tiên là người bản địa, người châu Âu hoặc người gốc Phi trong số những cộng đồng người di cư nhỏ hơn thuộc các nhóm Trung và Viễn Đông. 86% người El Salvador có nguồn gốc Mestizo. 15% người El Salvador là người Da trắng, chủ yếu là người gốc Tây Ban Nha, trong khi cũng có người El Salvador gốc Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Anh, Ireland và Ý. Hầu hết những người nhập cư Trung Âu ở El Salvador đã đến trong Thế chiến thứ hai với tư cách là người tị nạn từ Cộng hòa Séc, Đức, Hungary, Ba Lan và Thụy Sĩ. Ngoài ra còn có các cộng đồng nhỏ của người Do Thái, Kitô hữu Palestine và người Hồi giáo (đặc biệt là người Palestine). Tôn giáo Phần lớn dân số El Salvador theo đạo Thiên Chúa. Công giáo Roma (41,9%) và Tin lành (35,9%) là hai nhóm tôn giáo chính của đất nước, với Giáo hội Công giáo là giáo phái lớn nhất. Những người không theo bất kỳ nhóm tôn giáo nào chiếm tới 19,9% dân số. Các nhóm tôn giáo còn lại (2,3%) bao gồm Nhân chứng Jehovah, Ý thức Krishna, Hồi giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, Giáo hội Mặc Môn và những người theo tín ngưỡng tôn giáo bản địa. Số người theo đạo Tin Lành trong nước đang gia tăng nhanh chóng. Thể thao Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở El Salvador. Đội tuyển El Salvador đã từng hai lần lọt vào vòng bảng các kỳ World Cup 1970 và 1982. Sân nhà của El Salvador là sân vận động Cuscatlán ở thủ đô San Salvador với sức chứa 53.400 chỗ ngồi. Đây là sân vận động lớn nhất ở Trung Mỹ.
Dominica, tên chính thức là Thịnh vượng chung Dominica () là một đảo quốc trong vùng Biển Caribê. Dominica là một trong những đảo trẻ nhất vùng Tiểu Antilles, và nó vẫn đang được thành tạo bởi hoạt động địa nhiệt của núi lửa. Đây là một hòn đảo có nhiều núi non và những khu rừng mưa, nơi sinh sống của nhiều loài thực vật, động vật và chim quý hiếm. Tại một số vùng ở bờ biển phía tây có những vùng khí hậu khô, nhưng trong sâu trong đất liền lượng mưa khá lớn. Vẹt Sisserou là loài động vật được vẽ trên quốc kỳ Dominica. Nền kinh tế Dominica phụ thuộc nhiều vào cả du lịch và nông nghiệp. Tên gọi Trong tiếng Latinh tên của quốc gia này có nghĩa là "Chủ Nhật", đó là ngày hòn đảo được Cristoforo Colombo khám phá. Tên của Dominica thời tiền Colombo là Wai'tu kubuli, có nghĩa "người cô ta cao". Người thổ dân Kalinago trên hòn đảo, thường bị gọi sai thành người 'Carib', có một vùng lãnh thổ giống với vùng lãnh thổ dành riêng cho người da đỏ của Canada. Vì hòn đảo này đã trải qua một giai đoạn chiếm đóng của Pháp và năm giữa hai lãnh thổ hải ngoại của Pháp (Guadeloupe ở phía bắc và Martinique ở phía nam), nên thỉnh thoảng nó được gọi là "Dominica thuộc Pháp". Nó cũng có tên hiệu "Hòn đảo thiên nhiên của vùng Caribê" vì vẻ đẹp tự nhiên chưa bị xâm phạm. Lịch sử Dominica lần đầu tiên được người châu Âu, gồm cả Cristoforo Colombo, quan sát thấy năm 1493. Họ đã gặp những người thổ dân thuộc bộ tộc Carib, nhưng nhanh chóng rời hòn đảo này sau khi bị người Carib đánh bại. Truyện kể rằng khi được yêu cầu miêu tả hòn đảo ấy ở "Thế giới Mới," Colombo đã bóp một mảnh giấy da lởm chởm và ném lên trên bàn. Ông giải thích, đó chính là hình dáng của Dominica - được bao phủ bởi toàn những núi và hầu như không có nơi nào bằng phẳng. Năm 1627 Anh Quốc cũng đã tìm cách xâm chiếm Dominica nhưng thất bại. Năm 1635 Pháp tuyên bố chủ quyền với hòn đảo và gửi các nhà truyền giáo tới đó, nhưng họ không thể lấy Dominica từ tay người Caribs. Họ đã rời bỏ hòn đảo này, cùng với đảo Saint Vincent, trong những năm 1660. Trong vài trăm năm tiếp sau Dominica tiếp tục ở tình trạng cô lập, và thậm chí còn có thêm nhiều người Caribs tới sống ở đây sau khi họ bị những người châu Âu đuổi khỏi những hòn đảo lân cận trong vùng. Pháp đã chính thức chấm dứt chủ quyền với Dominica và nhường lại cho Anh Quốc năm 1763. Sau đó người Anh đã thiết lập ở đây một chính phủ và biến hòn đảo thành thuộc địa năm 1805. Công cuộc giải phóng nô lệ châu Phi diễn ra trên toàn Đế chế Anh năm 1834, và tới năm 1838, Dominica đã trở thành thuộc địa đầu tiên của Anh tại Caribe có cơ quan lập pháp do người da đen kiểm soát. Năm 1896, Anh Quốc tái chiếm quyền kiểm soát chính phủ Dominica và biến nước này thành một thuộc địa hoàng gia. Nửa thế kỷ sau, từ năm 1958 tới năm 1962, Dominica trở thành một tỉnh của nhà nước tồn tại ngắn ngủi Liên bang Tây Ấn. Năm 1978 Dominica cuối cùng trở thành một quốc gia độc lập. Sự giàu mạnh của Dominica đã có bước phát triển năm 1980 khi chính quyền cai trị độc tài và tham nhũng bị thay thế bởi chính quyền Mary Eugenia Charles, nữ thủ tướng đầu tiên vùng Caribe, người đã giữ chức vụ trong 15 năm. Năm 1995 Charles từ chức và được thay thế bởi Edison James. Chính trị Dominica là một nước theo chế độ dân chủ nghị viện bên trong Khối thịnh vượng chung. Tổng thống là lãnh đạo nhà nước, còn quyền lực hành pháp nằm trong tay Nội các, do Thủ tướng lãnh đạo. Nghị viện đơn viện gồm 30 thành viên Quốc hội, 20 người là thành viên thông qua bầu cử và chín người là Thượng nghị sĩ, họ có thể được Tổng thống chỉ định hay được những thành viên khác trong Quốc hội bầu ra. Không giống các cựu thuộc địa khác của Anh trong vùng, Dominica chưa từng là một vương quốc thịnh vượng chung (Commonwealth realm) với nữ hoàng Anh là nguyên thủ quốc gia của họ, bởi vì nước này đã trở thành một nền cộng hoà độc lập. Dominica là một thành viên đầy đủ của Cộng đồng Caribe (CARICOM) và Tổ chức các quốc gia đông Caribe (OECS). Dominica cũng là một thành viên của Tòa án Tội phạm Quốc tếvới một Thỏa thuận Miễn trừ Song phương bảo vệ cho quân đội Hoa Kỳ (như được quy định trong Điều 98). Địa lý Dominica là một đảo quốc và là quốc gia không có biên giới trong vùng biển Caribe, phía cực nam Quần đảo Leeward. Kích thước quốc gia này khoảng 754 km² (291 dặm vuông). Thủ đô là Roseau. Dominica phần lớn bao phủ bởi rừng mưa và là nơi có hồ sôi lớn thứ hai thế giới. Dominica cũng có rất nhiều thác nước, sông, suối. Một số loài thực vật và động vật dù đã tuyệt chủng trên các hòn đảo lân cận vẫn được tìm thấy trong những khu rừng Dominica. Trạng thái núi lửa của hòn đảo và sự thiếu vắng các bãi biển cát khiến Dominica trở thành một địa điểm lặn biển nổi tiếng. Dominica cũng là quốc gia có nhiều vùng bảo vệ, gồm cả Công viên quốc gia Cabrits. Dominica đang có tranh cãi từ lâu với Venezuela về việc Venezuela tuyên bố chủ quyền vùng biển quanh Isla Aves (Đảo Chim), một hòn đảo nhỏ cách 70 dặm (110 km) phía tây đảo Dominica. Kinh tế Kinh tế Dominica phụ thuộc vào cả du lịch và nông nghiệp. Bốn mươi phần trăm lao động Dominica làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu nông nghiệp chính của Dominica gồm thuốc lá, chuối, rau, cam quýt, cùi dừa, dầu dừa, và dầu tinh chất như dầu nguyệt quế. Các ngành công nghiệp của đất nước, ngoài du lịch, gồm xà phòng, đồ nội thất, bê tông đúc sẵn, và giày dép. Dominica được hưởng lợi thế có một trường y hải ngoại, Đại học Ross, tại thị trấn phía bắc Portsmouth. Khoảng 900 sinh viên đang sống và học tập tại Portsmouth. Kinh tế Dominica có tỷ lệ nghèo khổ (30%), thất nghiệp (23%) cao, và mức GDP trên đầu người thấp (US$5.400). Kinh tế Dominica đã bị ảnh hưởng mạnh vì các vấn đề trong ngành công nghiệp chuối. Toàn bộ nền kinh tế bị tác động khi thời tiết làm thiệt hại sản lượng thu hoạch chuối, hay khi giá chuối giảm. Liên minh châu Âu dần bãi bỏ ưu đại tiếp cận thị trường của sản phẩm chuối từ nước này khiến nhu cầu giảm sút. Đối mặt với điều đó, chính phủ Dominica đã tư nhân hóa công nghiệp chuối. Tương tự, chính phủ tìm cách đa dạng hóa nền kinh tế và bãi bỏ các biện pháp kiểm soát giá cả trong nỗ lực nhằm cải thiện nền kinh tế phát triển chậm chạp. Chính phủ cũng tìm cách phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái. Vì thiếu một cảng hàng không quốc tế cùng những bãi biển cát, đặc điểm tự nhiên với nhiều rừng mưa nhiệt đới cũng như cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ được bảo vệ tốt chính là những ưu thế phát triển du lịch sinh thái quốc gia. Quả vậy, cần nhớ rằng trong số toàn bộ những hòn đảo vùng Caribe, Dominica là nơi duy nhất Christopher Columbus vẫn có thể nhận ra được. Tính đến năm 2016, GDP của Dominica đạt 524 USD, đứng thứ 184 thế giới và đứng thứ 11 khu vực Caribe. Nhân khẩu Hầu như toàn bộ 70.000 người dân Dominica hiện nay đều là con cháu của những người nô lệ, được các chủ đồn điền thực dân đưa tới đây từ thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, Dominica là một trong số ít hòn đảo vùng Đông Caribe có một số dân là người da đỏ Carib thời tiền Columbo, khoảng 3000 người trong số đó sống ở bờ biển phía đông hòn đảo trên lãnh thổ của riêng họ. Chưa tới 200 người trên hòn đảo này là người da trắng. Tốc độ tăng trưởng dân số Dominica rất thấp, chủ yếu vì sự di cư tới những nơi phát triển hơn Anh Quốc, Hoa Kỳ, hay Canada. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Dominica và được sử dụng rộng rãi; tuy nhiên, vì có lịch sử đô hộ của Pháp, "Patois", một loại ngôn ngữ creole dựa trên tiếng Pháp, là tiếng mẹ đẻ của 80% dân Dominica và đây là một trong những lý do khiến Dominica gia nhập Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp (Francophonie). Khoảng 80% dân số theo Thiên chúa giáo, dù trong những năm gần đây một số Nhà thờ tin lành đã được thành lập. Văn hóa Dominica là nơi sinh sống của nhiều tộc người. Trong lịch sử tồn tại của nhiều bộ tộc thổ dân ở đây, chỉ bộ tộc Carib còn sót lại khi những người định cư châu Âu đầu tiên tới hòn đảo. Những người định cư Pháp và Anh đều tuyên bố chủ quyền với hòn đảo này, và đã nhập khẩu nô lệ từ Châu Phi. Những người Carib bản xứ có một khu dành riêng để tiếp tục sống theo cách truyền thống. Sự hòa trộn các nền văn hóa này là một yếu tố quan trọng của Dominica. Nhà văn nổi tiếng Jean Rhys sinh ra và lớn lên tại Dominica. Hòn đảo này đã được gián tiếp miêu tả trong cuốn sách nổi tiếng nhất của bà, Wide Sargasso Sea. Người bạn của Rhys, nhà hoạt động chính trị và tác gia Phyllis Shand Allfrey, đã viết cuốn tiểu thuyết, The Orchid House ISBN 0-8135-2332-X, tại Dominica. Thổ ngữ Dominica bao gồm cả Cocoy và Patois Pháp. "Cocoy", chủ yếu là ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng Anh London do người định cư Anh mang sang và kiểu phát âm châu Phi. Cocoy chủ yếu được dùng ở vùng phía đông bắc đảo. Tiếng patois Pháp được dùng nhiều hơn có nguồn gốc từ những người định cư Pháp sống ở các hòn đảo Guadeloupe và Martinique lân cận.
{{Thông tin quốc gia | Tên chính = Cộng hòa Dominica | Tên thường = Cộng hoà Dominica | Tên ngắn = Cộng hoà Dominica | Lá cờ = Flag of the Dominican Republic.svg | Huy hiệu = Coat of arms of the Dominican Republic.svg | Khẩu hiệu = Dios, Patria, Libertad(tiếng Tây Ban Nha: "Thiên Chúa, Quê hương, Tự do") | Bản đồ = Dominican Republic (orthographic projection).svg | Quốc ca = ''¡Quisqueyanos Valientes!¡Valiant Quisqueyans! | Ngôn ngữ chính thức = tiếng Tây Ban Nha | Thủ đô = Santo Domingo | Tọa độ thủ đô = 18°30′N 69°59′W | Vĩ độ = 18 | Vĩ độ phút = 30 | Hướng vĩ độ = N | Kinh độ = 69 | Kinh độ phút = 59 | Hướng kinh độ = W | Thành phố lớn nhất = Santo Domingo | Loại chính phủ = Dân chủ | Loại viên chức = Tổng thống | Tên viên chức = Luis Abinader | Diện tích = 48.311 | Đứng hàng diện tích = 128 | Độ lớn diện tích = 1 E10 | Phần nước = 0,7 | Dân số ước lượng = 10.358.300 | Năm ước lượng dân số = 2019 | Đứng hàng dân số ước lượng = 88 | Dân số =9.478.612 | Năm thống kê dân số =2010 | Mật độ dân số = 164 | Đứng hàng mật độ dân số = 65 | Thành thị = | Nông thôn = | Năm tính GDP PPP = 2017 | GDP PPP = 174,180 tỷ USD | Xếp hạng GDP PPP = 72 | GDP PPP bình quân đầu người = 17.096 | Xếp hạng GDP PPP bình quân đầu người = 76 | Năm tính GDP danh nghĩa = 2020 | GDP danh nghĩa = 78,731 tỷ USD | Xếp hạng GDP danh nghĩa = 67 | GDP danh nghĩa bình quân đầu người = 7.530 USD | Xếp hạng GDP danh nghĩa bình quân đầu người = 74 | Năm tính HDI = 2015 | HDI = 0,722 | Đứng hàng HDI = 99 | Cấp HDI = cao | Loại chủ quyền = Độc lập | Sự kiện thành lập = từ Haiti | Ngày thành lập = 27 tháng 2 năm 1844 | Đơn vị tiền tệ = Peso Dominica | Dấu đơn vị tiền tệ = | Mã đơn vị tiền tệ = DOP | Múi giờ = Giờ chuẩn Caribe | UTC = -4 | Múi giờ DST = | UTC DST = | Lái xe bên = phải | Tên vùng Internet = .do | Mã điện thoại = 1-809 và 1-829 | Ghi chú = |Tên bản địa 1=República Dominicana }}Cộng hoà Dominica (tiếng Tây Ban Nha: República Dominicana, Tiếng Việt: Cộng hòa Đô-mi-ni-ca) là một quốc gia nằm trên đảo Hispaniola thuộc quần đảo Đại Antilles của vùng Caribe. Quốc gia này chiếm giữ năm phần tám phía đông của hòn đảo, phần còn lại thuộc về Haiti, khiến Hispaniola trở thành một trong hai hòn đảo duy nhất ở Caribê, cùng với Saint Martin, được hai quốc gia có chủ quyền chia sẻ. Cộng hòa Dominica là quốc gia lớn thứ hai ở Antilles theo diện tích (sau Cuba) với , và lớn thứ ba theo dân số, với khoảng 10,8 triệu người (ước tính năm 2020), trong đó khoảng 3,3 triệu người sống ở khu vực đô thị Santo Domingo, thành phố thủ đô. Ngôn ngữ chính thức của đất nước là tiếng Tây Ban Nha. Người Taíno bản địa đã sinh sống ở Hispaniola trước khi người châu Âu đến, chia vùng đất này thành năm vương quốc. Họ đã xây dựng một xã hội nông nghiệp và săn bắn tiên tiến, và đang trong quá trình trở thành một nền văn minh có tổ chức. Người Taínos cũng sinh sống tại Cuba, Jamaica, Puerto Rico và Bahamas. Christopher Columbus, nhà thủy quân lục chiến người Genova đã ghé vào đây trong chuyến đi đầu tiên vào năm 1492 và tuyên bố chủ quyền hòn đảo cho Castile. Thuộc địa Santo Domingo đã trở thành nơi định cư lâu dài đầu tiên của người châu Âu ở châu Mỹ và là nơi đầu tiên thuộc quyền cai trị của thực dân Tây Ban Nha ở Tân Thế giới; và Đế chế Castilian trở thành đế chế đầu tiên mở rộng quyền lực của mình ra bên ngoài châu Âu kể từ khi Đế chế La Mã sụp đổ. Người Taíno gần như biến mất khỏi hòn đảo, vì họ không có cách nào chống đỡ các bệnh truyền nhiễm của châu Âu mà họ không có khả năng miễn dịch. Các nguyên nhân khác là lạm dụng, tự tử, tan vỡ gia đình, nạn đói, hệ thống encomienda giống hệ thống phong kiến ở châu Âu thời Trung cổ, chiến tranh với người Tây Ban Nha, sự thay đổi lối sống, và hòa trộn với các dân tộc khác. Các luật được thông qua để bảo vệ người da đỏ (bắt đầu bằng Luật Burgos, 1512–1513) không bao giờ thực sự được thực thi. Năm 1697, Tây Ban Nha công nhận quyền thống trị của Pháp đối với một phần ba phía tây của hòn đảo, quốc gia này trở thành quốc gia độc lập Haiti vào năm 1804. Sau hơn ba trăm năm cai trị của Tây Ban Nha, người dân Dominica tuyên bố độc lập vào tháng 11 năm 1821. Nhà lãnh đạo của phong trào độc lập, José Núñez de Cáceres, dự định thống nhất quốc gia Dominica với quốc gia Gran Colombia, nhưng những người Dominica mới độc lập đã bị Haiti thôn tính vào tháng 2 năm 1822. Độc lập đến 22 năm sau vào năm 1844, sau chiến thắng trong Chiến tranh giành độc lập của Dominica. Trong 72 năm tiếp theo, Cộng hòa Dominica đã trải qua hầu hết các cuộc nội chiến (được tài trợ bởi các khoản vay từ các thương gia châu Âu), một số cuộc xâm lược thất bại của nước láng giềng, Haiti, và một thời gian ngắn trở lại địa vị thuộc địa của Tây Ban Nha, trước khi lật đổ vĩnh viễn người Tây Ban Nha trong Chiến tranh Phục hồi Dominica. năm 1863–1865. Trong thời kỳ này, hai tổng thống đã bị ám sát (Ulises Heureaux năm 1899 và Ramón Cáceres năm 1911). Hoa Kỳ xâm chiếm Cộng hòa Dominica (1916–1924) do Hoa Kỳ bị Dominica đe dọa không trả nợ nước ngoài; Sau đó là một giai đoạn sáu năm bình lặng và thịnh vượng dưới thời Horacio Vásquez. Từ năm 1930, chế độ độc tài của Rafael Leónidas Trujillo bắt đầu cai trị cho đến khi ông bị ám sát vào năm 1961. Một cuộc nội chiến năm 1965, cuộc nội chiến cuối cùng của đất nước, đã kết thúc bằng sự chiếm đóng của quân đội Hoa Kỳ và tiếp theo là sự cai trị độc tài của Joaquín Balaguer (1966–1978 và 1986–1996). Kể từ năm 1978, Cộng hòa Dominica đã chuyển sang nền dân chủ đại diện, và được Leonel Fernández lãnh đạo trong phần lớn thời gian sau năm 1996. Danilo Medina kế nhiệm Fernández vào năm 2012, giành được 51% số phiếu đại cử tri so với đối thủ là cựu tổng thống Hipólito Mejía. Sau đó, ông đã được Luis Abinader kế nhiệm trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020. Cộng hòa Dominica có nền kinh tế lớn nhất (theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và Ngân hàng Thế giới) trong khu vực Caribe và Trung Mỹ và là nền kinh tế lớn thứ bảy ở Mỹ Latinh. Trong 25 năm qua, Cộng hòa Dominica đã có nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở Tây Bán cầu - với tốc độ tăng trưởng GDP thực tế trung bình là 5,3% từ năm 1992 đến năm 2018. Tăng trưởng GDP năm 2014 và 2015 lần lượt đạt 7,3 và 7,0%, cao nhất ở Tây Bán cầu. Trong nửa đầu năm 2016, nền kinh tế Dominica đã tăng trưởng 7,4% tiếp tục xu hướng tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Tăng trưởng gần đây được thúc đẩy bởi xây dựng, sản xuất, du lịch và khai thác mỏ. Đất nước này là nơi có mỏ vàng lớn thứ hai trên thế giới, mỏ Pueblo Viejo. Tiêu dùng tư nhân tăng mạnh do lạm phát thấp (trung bình dưới 1% năm 2015), tạo việc làm và lượng kiều hối cao. Dân di cư quốc tế mang lại rất nhiều ảnh hưởng đến các quốc gia này, vì đất nước này là nơi đi và đên của cả hai luồng di dân lớn. Dân Haiti nhập cư và việc hội nhập của người Dominica gốc Haiti là vấn đề lớn; tổng dân số có nguồn gốc Haiti được ước tính khoảng 800.000. Có một số lượng lớn người Dominicana hải ngoại, chủ yếu ở Hoa Kỳ, nơi nó khoảng 1,2 triệu người. Họ giúp đỡ phát triển quốc gia bằng cách gửi hàng tỷ đô la cho các gia đình của họ, chiếm một phần mười GDP của Dominica. Cộng hoà Dominica đã trở thành điểm đến du lịch lớn nhất của Caribe; các sân golf hoạt động quanh năm là một trong các điểm thu hút hàng đầu. Tại quốc gia này có núi cao nhất Caribe, Pico Duarte, cũng như hồ Enriquillo, hồ lớn nhất của Caribê. Quisqueya, như người Dominica thường gọi đất nước của họ, có nhiệt độ trung bình nhẹ (26 °C) và là rất thích hợp sự đa dạng sinh học. Âm nhạc và thể dục thể thao có tầm quan trọng cao nhất trong văn hóa Dominica, với merengue là điệu vũ và ca quốc gia và cũng như bóng chày là môn thể thao ưa thích. Lịch sử Thời kỳ tiền châu Âu Người Taíno nói tiếng Arawak chuyển đến Hispaniola từ khu vực phía đông bắc của khu vực ngày nay được gọi là Nam Mỹ, di dời những cư dân trước đó, khoảng năm 650 CN Họ làm nghề nông, đánh cá, săn bắn và hái lượm. Dòng sông Caribs hung dữ đã đẩy người Taíno đến đông bắc Caribe, trong suốt phần lớn thế kỷ 15. Các ước tính về dân số của Hispaniola vào năm 1492 rất khác nhau, bao gồm hàng chục nghìn, một trăm nghìn, ba trăm nghìn, và bốn trăm nghìn đến hai triệu. Việc xác định chính xác có bao nhiêu người sống trên đảo vào thời tiền Colombo là điều không thể, vì không có ghi chép chính xác nào tồn tại. Đến năm 1492, hòn đảo được chia thành năm vương quốc Taíno. Tên Taíno cho toàn bộ hòn đảo là Ayiti hoặc Quisqueya. Người Tây Ban Nha đến hòn đảo này vào năm 1492. Ban đầu, sau những mối quan hệ thân thiện, người Taínos chống lại cuộc chinh phục, do nữ tù trưởng Anacaona của Xaragua và chồng cũ của bà là tù trưởng Caonabo của Maguana, cũng như các tù trưởng Guacanagaríx, Guamá, Hatuey và Enriquillo lãnh đạo. Những thành công sau này đã giúp người dân trên đảo trở thành một vùng đất tự trị trong một thời gian. Trong vòng vài năm sau năm 1492, dân số người Taíno đã giảm mạnh do bệnh đậu mùa, bệnh sởi, và các bệnh khác do người châu Âu mang đến. Lần bùng phát bệnh đậu mùa đầu tiên được ghi nhận, ở châu Mỹ, xảy ra trên đảo Hispaniola vào năm 1507. Ghi nhận cuối cùng về người Taíno thuần chủng là năm 1864. Tuy nhiên, di sản sinh học Taíno vẫn tồn tại ở một mức độ quan trọng, do sinh sản chéo. Các hồ sơ điều tra dân số từ năm 1514 cho thấy 40% đàn ông Tây Ban Nha ở Santo Domingo đã kết hôn với phụ nữ Taíno, và một số người Dominica ngày nay có tổ tiên là người Taíno. Dấu tích của nền văn hóa Taíno bao gồm các bức vẽ trong hang động của họ, chẳng hạn như hang động Pomier, cũng như các thiết kế đồ gốm, hiện vẫn được sử dụng ở làng nghệ nhân nhỏ Higüerito, Moca. Thời kỳ thuộc địa hóa Christopher Columbus đến hòn đảo này vào ngày 5 tháng 12 năm 1492, trong chuyến đi đầu tiên trong bốn chuyến đi đến châu Mỹ. Ông đã tuyên bố vùng đất này thuộc về Tây Ban Nha và đặt tên nó là La Española, do khí hậu và địa hình đa dạng, khiến ông nhớ đến phong cảnh Tây Ban Nha. Đi xa hơn về phía đông, Columbus bắt gặp sông Yaque del Norte, ở vùng Cibao, mà ông đặt tên là Rio de Oro sau khi phát hiện ra các mỏ vàng gần đó. Khi Columbus trở về trong chuyến hành trình thứ hai, ông đã thành lập khu định cư La Isabela ở nơi ngày nay là Puerto Plata vào tháng 1 năm 1494, và cử Alonso de Ojeda đi tìm vàng trong vùng. Năm 1496, Bartholomew Columbus, anh trai của Christopher, đã xây dựng thành phố Santo Domingo, khu định cư lâu dài đầu tiên của Tây Âu trong " Thế giới mới". Ngay sau đó, có phát hiện vàng lớn nhất trên đảo được thực hiện ở khu vực trung tâm cordillera, dẫn đến sự bùng nổ khai thác vàng. Người Castilian ghen tị với sự lãnh đạo của anh em nhà Columbus (người Ý) và do đó bắt đầu buộc tội họ quản lý yếu kém khi báo cáo lại cho Tây Ban Nha. Những lời phàn nàn này đã khiến hai anh em bị loại khỏi vị trí của mình. Francisco de Bobadilla bắt Christopher và hai anh em của ông và tống họ trở về Tây Ban Nha vào năm 1500. Khi về đến Tây Ban Nha, hầu hết các cáo buộc chống lại hai anh em Columbus cho thấy đã bị phóng đại quá mức và Nữ hoàng Isabella I của Castile đã ra lệnh thả họ. Đến năm 1501, anh họ của Columbus là Giovanni Columbus cũng đã phát hiện ra vàng gần Buenaventura; các mỏ vàng sau đó được gọi là Minas Nuevas. Hai khu vực khai thác chính đã dẫn đến kết quả, một dọc theo San Cristóbal -Buenaventura và một ở Cibao trong tam giác La Vega -Cotuy- Bonao, trong khi Santiago de los Caballeros, Concepcion và Bonao trở thành thị trấn khai thác. Cơn sốt vàng 1500–1508 diễn ra sau đó. Ferdinand II của Aragon "đặt mua vàng từ những mỏ giàu có nhất dành riêng cho Hoàng gia." Như vậy, Ovando tước đoạt các mỏ vàng của Miguel Diaz và Francisco de Garay vào năm 1504, khi mỏ vàng đã trở thành mỏ hoàng gia, mặc dù sa khoáng đã được mở để thăm dò tin. Hơn nữa, Ferdinand muốn những "người da đỏ giỏi nhất" làm việc trong các mỏ hoàng gia của mình, và giữ 967 thợ trong khu vực khai thác San Cristóbal, được giám sát bởi các thợ mỏ làm công ăn lương. Theo Pons, dưới quyền thống đốc của Nicolás de Ovando y Cáceres, người da đỏ phải làm việc trong các mỏ vàng, "tại đó họ phải làm việc quá sức, bị ngược đãi và thiếu ăn". Đến năm 1503, Vương miện Tây Ban Nha hợp pháp hóa việc phân bổ người da đỏ đến làm việc tại các mỏ, như một phần của hệ thống encomienda. Theo Pons, "Một khi thổ dân da đỏ vào hầm mỏ, nạn đói và bệnh tật đã xóa sổ họ theo đúng nghĩa đen." Đến năm 1508, dân số người da đỏ khoảng 400.000 người giảm xuống còn 60.000 người, và đến năm 1514, chỉ còn lại 26.334 người. Khoảng một nửa dân số này có ở các thị trấn khai thác mỏ Concepción, Santiago, Santo Domingo và Buenaventura. Cuộc đại chiến năm 1514 đã đẩy nhanh sự di cư của thực dân Tây Ban Nha, cùng với sự cạn kiệt của các khu mỏ. Năm 1516, một trận dịch đậu mùa đã giết chết thêm 8.000 trong số 11.000 người da đỏ còn lại, trong một tháng. Đến năm 1519, theo Pons, "Cả nền kinh tế vàng và dân số của người da đỏ bản địa đều tuyệt chủng cùng một lúc." Năm 1501, Quân chủ Công giáo lần đầu tiên cấp phép cho những người thuộc địa ở Caribe nhập khẩu nô lệ châu Phi, và nô lệ bắt đầu đến hòn đảo này vào năm 1503. Cây mía được du nhập vào Hispaniola từ quần đảo Canary, và nhà máy đường đầu tiên ở Thế giới mới được thành lập vào năm 1516, trên Hispaniola. Nhu cầu về một lực lượng lao động để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của việc trồng mía đã dẫn đến sự gia tăng theo cấp số nhân của việc nhập khẩu nô lệ trong hai thập kỷ sau đó. Các chủ nhà máy đường sớm hình thành một tầng lớp tinh anh thuộc địa mới và thuyết phục nhà vua Tây Ban Nha cho phép họ bầu các thành viên của Real Audiencia từ hàng ngũ của họ. Những người thực dân nghèo hơn sống bằng cách săn những đàn gia súc hoang dã lang thang khắp hòn đảo và bán da của chúng. Cuộc nổi dậy lớn đầu tiên của nô lệ ở châu Mỹ xảy ra ở Santo Domingo trong năm 1522, khi những người Wolofs bị bắt làm nô lệ lãnh đạo một cuộc nổi dậy ở đồn điền sản xuất đường Diego Columbus. Với cuộc chinh phục lục địa Mỹ, nền kinh tế đồn điền đường của Hispaniola nhanh chóng sa sút. Hầu hết những người thực dân Tây Ban Nha rời đến các mỏ bạc ở Mexico và Peru, trong khi những người nhập cư mới từ Tây Ban Nha bỏ qua hòn đảo này. Nông nghiệp giảm dần, việc nhập khẩu nô lệ mới không còn, và những người thực dân da trắng, người da đen tự do và nô lệ giống nhau sống trong nghèo đói, làm suy yếu hệ thống phân cấp chủng tộc và hỗ trợ cho sự kết hôn đa sắc tộc, dẫn đến một dân số chủ yếu là người gốc Tây Ban Nha, Taíno và châu Phi pha trộn. Ngoại trừ thành phố Santo Domingo, nơi duy trì được một số mặt hàng xuất khẩu hợp pháp, các cảng của Dominica buộc phải dựa vào buôn bán hàng lậu, cùng với chăn nuôi, trở thành một trong những nguồn sinh kế chính của cư dân trên đảo. Vào giữa thế kỷ 17, Pháp đã gửi dân đến định cư đảo trên Tortuga và bờ biển phía tây bắc của Hispaniola (mà người Tây Ban Nha đã từ bỏ vào năm 1606) do vị trí chiến lược của nó trong khu vực. Để lôi kéo bọn cướp biển, Pháp đã cung cấp cho chúng những phụ nữ bị bắt từ nhà tù, bị buộc tội mại dâm và trộm cắp. Sau nhiều thập kỷ đấu tranh vũ trang với những người Pháp định cư, Tây Ban Nha đã nhượng lại bờ biển phía tây của hòn đảo cho Pháp với Hiệp ước Ryswick năm 1697, trong khi Cao nguyên Trung tâm vẫn thuộc địa phận của Tây Ban Nha. Pháp đã tạo ra một thuộc địa giàu có trên đảo, trong khi thuộc địa của Tây Ban Nha tiếp tục bị suy giảm kinh tế. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1655, các lực lượng Anh đổ bộ lên Hispaniola, và hành quân trên bộ 30 dặm đến Santo Domingo, thành trì chính của Tây Ban Nha trên đảo, và đã bao vây nó. Quân Tây Ban Nha tấn công các lực lượng Anh, đuổi họ chạy về phía bãi biển trong sự kinh hoàng. Người chỉ huy người Anh nấp sau một cái cây, nơi mà theo lời của một trong những người lính của ông, ông ta "bị ám ảnh bởi nỗi kinh hoàng đến mức khó có thể nói được". Quân phòng thủ Tây Ban Nha đã giành được chiến thắng và được thưởng các danh hiệu từ Đế quốc Tây Ban Nha. Thế kỷ 18 Nhà Bourbon thay thế Nhà Habsburg ở Tây Ban Nha vào năm 1700, và đưa ra các cải cách kinh tế dần dần bắt đầu phục hồi thương mại ở Santo Domingo. Vương miện dần dần nới lỏng các kiểm soát cứng nhắc và hạn chế đối với thương mại giữa Tây Ban Nha với các thuộc địa và giữa các thuộc địa. Những con tàu cuối cùng ra khơi vào năm 1737; hệ thống cảng độc quyền bị bãi bỏ ngay sau đó. Vào giữa thế kỷ này, dân số hòn đảo đã tăng lên nhờ sự di cư từ quần đảo Canary, tái định cư phần phía bắc của thuộc địa và trồng thuốc lá ở Thung lũng Cibao, và việc nhập khẩu nô lệ đã được đổi mới. Xuất khẩu của Santo Domingo tăng vọt và năng suất nông nghiệp của hòn đảo tăng lên nhờ sự tham gia của Tây Ban Nha trong Chiến tranh Bảy năm, cho phép các tư nhân hoạt động ngoài Santo Domingo một lần nữa tuần tra các vùng biển xung quanh để bắt các tàu của các thương nhân đối phương. Các tư nhân Dominica đã hoạt động trong Chiến tranh Jenkins 'Ear chỉ hai thập kỷ trước đó, và họ đã giảm mạnh số lượng tàu thương mại của kẻ thù hoạt động ở vùng biển Tây Ấn Độ. Giải thưởng mà họ nhận được được mang về Santo Domingo, tại đó hàng hóa của họ được bán cho cư dân thuộc địa hoặc cho các thương nhân nước ngoài làm ăn ở đó. Dân số nô lệ của thuộc địa cũng tăng lên đáng kể, vì nhiều người châu Phi bị giam cầm đã bị bắt từ các tàu nô lệ của kẻ thù ở vùng biển Tây Ấn Độ. Giữa năm 1720 và 1774, các thuyền tư nhân của người Dominica đã đi trên vùng biển từ Santo Domingo đến bờ biển Tierra Firme, đón các tàu của Anh, Pháp và Hà Lan để nhận hàng hóa gồm nô lệ châu Phi và các mặt hàng khác. Thuộc địa Santo Domingo đã chứng kiến sự gia tăng dân số trong thế kỷ 18, lên đến khoảng 91.272 người vào năm 1750. Trong số này, khoảng 38.272 người là chủ đất da trắng, 38.000 người da màu hỗn hợp tự do và khoảng 15.000 người là nô lệ.. Điều này trái ngược hẳn với dân số của thuộc địa Saint-Domingue của Pháp (Haiti ngày nay) - thuộc địa giàu có nhất ở Caribê và dân số của một nửa triệu người bị 90% làm nô lệ và có dân số đông gấp bảy lần so với người Tây Ban Nha. thuộc địa của Santo Domingo. Những người định cư 'Tây Ban Nha', vốn có dòng máu lai với người Taínos, Châu Phi và Canary Guanches, tuyên bố: 'Không quan trọng nếu người Pháp giàu hơn chúng tôi, chúng tôi vẫn là những người thừa kế thực sự của hòn đảo này. Trong huyết quản của chúng tôi chảy máu của những người chinh phục anh hùng, những người đã giành được hòn đảo này bằng gươm và máu.' Khi các hạn chế đối với thương mại thuộc địa được nới lỏng, giới tinh hoa thuộc địa của Saint-Domingue đã cung cấp thị trường chính cho các mặt hàng xuất khẩu thịt bò, da sống, gỗ mahogany và thuốc lá của Santo Domingo. Với sự bùng nổ của Cách mạng Haiti năm 1791, các gia đình giàu có ở thành thị có liên hệ với bộ máy hành chính thuộc địa đã bỏ trốn khỏi đảo, trong khi hầu hết những hateros (chủ trang trại gia súc) vẫn ở lại, mặc dù họ đã mất thị trường chính. Lấy cảm hứng từ những tranh chấp giữa người da trắng và người da trắng ở Saint-Domingue, một cuộc nổi dậy của nô lệ đã nổ ra ở thuộc địa của Pháp. Mặc dù dân số của Santo Domingo có lẽ chỉ bằng 1/4 so với Saint-Domingue, nhưng điều này không ngăn cản được Vua Tây Ban Nha phát động một cuộc xâm lược vào phía thuộc Pháp của hòn đảo vào năm 1793, cố gắng chiếm toàn bộ hoặc một phần phía tây. gồm một phần ba của hòn đảo trong một liên minh tạm thời với những nô lệ nổi loạn. Vào tháng 8 năm 1793, một nhóm quân Dominica đã tiến vào Saint-Domingue và kết nối với quân nổi dậy Haiti. Tuy nhiên, những kẻ nổi dậy này nhanh chóng phản bội Tây Ban Nha và thay vào đó đầu quân cho Pháp. Người Dominica không bị đánh bại về mặt quân sự, nhưng bước tiến của họ đã bị hạn chế, và khi vào năm 1795, Tây Ban Nha nhượng Santo Domingo cho Pháp theo Hiệp ước Basel, các cuộc tấn công của người Dominica vào Saint-Domingue chấm dứt. Sau khi Haiti giành độc lập vào năm 1804, người Pháp vẫn chiếm Santo Domingo cho đến năm 1809. Tây Ban Nha giành lại Santo Domingo theo Hiệp ước Paris (1814). Địa lý Cộng hòa Dominica là một quốc đảo thuộc vùng biển Caribbean, nằm ở phía đông và chiếm đến hai phần ba đảo Hispaniola. Một phần ba ở phía tây của Hispaniola là đất nước Haiti. Địa hình của quốc đảo này gồm vùng đồng bằng ven biển, bốn dãy núi gần như song song trải dài theo hướng Tây-Đông, thung lũng đất đen màu mỡ Cibao trải rộng ở phía Bắc dãy Cordillera Central. Kinh tế Tính đến cuối năm 2020, Cộng hòa Dominica giữ vị trí số 1 về quy mô GDP của vùng Caribe, đạt gần 79 tỉ USD; GDP bình quân đầu người đạt 7.530 USD. Mặc dù sản xuất đường là ngành kinh tế truyền thống, song hiện nay niken và sắt đã trở thành những mặt hàng xuất khẩu chính Dominica là nước đứng đầu Mỹ Latinh và thứ 5 thế giới về khai thác vàng; điện năng sản xuất đạt 6,7 tỷ kWh, tiêu thụ 6,7 tỷ kWh. Du lịch là ngành thu nhiều ngoại tệ nhất; xuất khẩu đạt 1 tỷ USD, nhập khẩu 3,6 tỷ USD, nợ nước ngoài: 3,6 tỷ USD. Những sản phẩm từ các loại cây công nghiệp (mía, cà phê, ca cao, thuốc lá) và niken là nguồn xuất khẩu chủ yếu của đảo này. Việc thành lập khoảng 40 khu chế xuất công nghiệp và sự phát triển ngành du lịch tạo nên một nền kinh tế năng động không thể phủ nhận. Tuy nhiên, mức sống vẫn còn thấp, mức lạm phát cao và kinh tế phụ thuộc nhiều vào Hoa Kỳ. Các tỉnh và đô thị Cộng hòa Dominica có 31 tỉnh và một đơn vị hành chính đặc biệt là Distrito Nacional, nơi có thủ đô Santo Domingo. Dưới cấp tỉnh là cấp đô thị tự trị (municipio). Danh sách tinh và Distrito Nacional: {| | align="left"| | | align="left"| Distrito Nacional Azua Bahoruco Barahona Dajabón Duarte Elías Piña El Seibo Espaillat Hato Mayor Hermanas Mirabal''' | align="left"| <ol start=12> Independencia La Altagracia La Romana La Vega María Trinidad Sánchez Monseñor Nouel Monte Cristi Monte Plata Pedernales Peravia Puerto Plata | | align="left" valign="top"| <li> Samaná <li> Sánchez Ramírez <li> San Cristóbal <li> San José de Ocoa <li> San Juan <li> San Pedro de Macorís <li> Santiago <li> Santiago Rodríguez <li> Santo Domingo <li> Valverde |} Giáo dục Chương trình giáo dục miễn phí đến bậc trung học. Tuy nhiên, nhiều trẻ em vẫn không được đến trường do phải phụ giúp cha mẹ. Cả nước có khoảng 81% số học sinh đi học và khoảng 1/3 số đó tốt nghiệp. Các nguồn tài trợ cho giáo dục còn rất hạn chế. Cộng hòa Dominica có một số trường đại học và trường thương mại. Y tế Y tế Cộng hòa Dominica có hệ thống bệnh viện và phòng khám công miễn phí, nhưng thiếu thốn các phương tiện và thiết bị. Phần lớn những người có khả năng tài chính đến khám tại các dịch vụ y tế tư nhân. Khu vực nông thôn hầu như chưa có bác sĩ.
Grenada (tiếng Anh: Grenada, Tiếng Việt: Grê-na-đa) là một quốc đảo thuộc vùng biển Caribê gồm một đảo chính và sáu đảo nhỏ hơn nằm gần Grenadines. Vị trí địa lý Grenada nằm ở phía Tây Bắc Trinidad & Tobago, phía Đông Bắc của Venezuela và phía Tây Nam Saint Vincent và Grenadines. Diện tích tự nhiên của Grenada hơn 344 km², dân số gần 110.000 người. Thủ đô là St. George's. Lịch sử Đảo Grenada do Cristoforo Colombo khám phá ra năm 1498, và đặt tên là Concepción. trở thành thuộc địa của Pháp (1650), được nhượng lại cho Anh (1762-1779); Pháp chiếm lại thuộc địa cũ và giao lại cho Anh từ năm 1783. Ngay từ thế kỷ XVII, người Pháp đã nhìn thấy tiềm năng của St. George's - thủ đô Grenada - khi so sánh không thuộc địa nào của mình lại có cảng biển tự nhiên như nơi đây. Thế nhưng chế độ thuộc địa của Pháp và sau đó là thực dân Anh đã từng bước "gầy dựng" nên một lịch sử Grenada tang thương và biến động. Suốt những thế kỷ sau là những cuộc cách mạng, đấu tranh triền miên để giành lại nền độc lập của Grenada. Grenada tuyên bố độc lập năm 1974 và là thành viên thuộc Khối Liên hiệp Anh. Từ năm 1979, nhóm quân sự cánh tả thân Cuba lên cầm quyền. Cũng chỉ mới đây, vào những năm đầu thập niên 1980, khi một phần phía tây nam Grenada còn nằm trong hành lang phong tỏa của Mỹ, quốc gia này luôn chìm ngập trong hình ảnh bị bao vây của tầng tầng lớp lớp lực lượng vũ trang cũng như các chuyến xe chở nhiên liệu xuất cảng nối đuôi nhau trong bụi khói mịt mờ.Sau đó, với sự giúp đỡ của Chính phủ Cuba và Nga, một số nhóm đảo chính đã bắt giữ Thủ tướng đương nhiệm. Chính quyền Tổng thống Ronald Reagan chấp nhận rút lui, từ bỏ sự ảnh hưởng lên Grenada khi thấy lực lượng ở đây đang dần lớn mạnh và bắt đầu được sự ủng hộ của các quốc gia khác trên thế giới. Grenada chuyển mình thức dậy và sinh sôi lớn mạnh từ đây. Hoa Kỳ rút quân năm 1985. Đảng Quốc gia Mới (NND) dưới sự lãnh đạo của Dr. Keith C. Mitchel giành thắng lợi trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1995. Đảng này chiếm tất cả 15 ghế trong Quốc hội trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1999. Địa lý Grenada nằm ở quần đảo Tiểu Antilles, Trung Mỹ; gồm đảo Grenada và một phần phía Nam quần đảo Grenadines. Grenada là một đảo núi lửa cách bờ biển Venezuela 161 km; đỉnh St. Catherine (840 m) thuộc dãy núi băng ngang qua đảo này. Các thung lũng nằm giữa các dãy núi trông rất ấn tượng và đất đai cũng rất màu mỡ với rất nhiều dòng suối nhỏ chảy siết. Trên đảo còn có nhiều dòng suối nước nóng, nhiều hồ nước trên núi và những bãi biển tuyệt vời. Khí hậu trên đảo mang tính nhiệt đới. Lượng mưa trung bình là 1.524 mm ở ven biển. Kinh tế Kinh tế quốc gia dựa vào nông nghiệp trồng trọt (ca cao, chuối, nhục đậu khấu), đánh bắt cá và du lịch. Kinh tế đạt được những tiến bộ nhờ chính sách cải cách thuế và quản lý kinh tế vĩ mô một cách cẩn thận. Điều này đã giúp cho sự tăng trường kinh tế năm 1989-1999 đạt 5%-6%. Thương mại, xây dựng và du lịch giúp cho các hoạt động kinh tế đạt hiệu quả hơn. Grenada cùng 7 nước khác trong khu vực thuộc Tổ chức các nước vùng Đông Caribbean (OECS) tham gia vào một Ngân hàng trung ương chung và sử dụng đồng tiền chung là đô la East caribbean (XCD). Grenada là nhà sản xuất hàng đầu về ngành gia vị. Quế, đinh hương, gừng, nhục đậu khấu, tiêu, trần bì, cà phê hoang dã được sử dụng bởi người dân địa phương, và đặc biệt là hạt nhục đậu khấu, cung cấp 20% nguồn cung của thế giới, tất cả đều là các mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Các hạt nhục đậu khấu được in trên lá cờ của quốc gia đại diện cho các cây trồng kinh tế chủ lực của Grenada, nước này cũng là nhà sản xuất lớn thứ hai thế giới về nhục đậu khấu (sau Indonesia). Du lịch là ngành kinh tế chủ yếu của Grenada. Bãi biển đẹp và thể thao dưới nước chủ yếu tập trung ở khu vực phía tây nam xung quanh St. George's, các vùng duyên hải; tuy nhiên, du lịch sinh thái cũng đang phát triển. Hầu hết các nhà nghỉ bình dân nhỏ nằm ở Saint David và Saint John. Ngành công nghiệp du lịch đang gia tăng đáng kể với việc xây dựng một các bến tàu cũng như được đầu tư các loại tàu du lịch lớn. Tối đa bốn tàu du lịch mỗi ngày đã ghé thăm St/ George's năm 2007-2008 trong mùa du lịch. Hòn đảo này cũng đã đi tiên phong trong việc trồng ca cao hữu cơ được chế biến thành những thanh hoàn tất bởi Công ty Sô-cô-la Grenada. Tính đến năm 2016, GDP của Grenada đạt 1.028 USD, đứng thứ 177 thế giới và đứng thứ 8 khu vực Caribe. Chính trị Cũng giống như nhiều quốc gia nằm trong Khối Liên hiệp Anh khác, Grenada là quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến với Quốc vương Anh Charles III là nguyên thủ quốc gia thông qua một Toàn quyền làm đại diện. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Toàn quyền do Quốc vương Anh bổ nhiệm; Toàn quyền bổ nhiệm Thủ tướng. Thủ tướng điều hành các thành viên trong Nội các. Cơ quan lập pháp của Grenada là Quốc hội lưỡng viện: Thượng nghị viện gồm 13 thành viên được bổ nhiệm. Hạ nghị viện gồm 15 thành viên, được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm. Vào ngày 19 tháng 2 năm 2013, Thủ tướng Keith Claudius Mitchell 65 tuổi, lãnh đạo Đảng Quốc gia mới (NNP) đã giành chiến thắng tuyệt đối với 15 ghế Hạ viện. Mitchell đã tuyên thệ nhậm chức vào ngày 21 tháng 2 năm 2013 và là thủ tướng thứ chín của nước này kể từ khi độc lập vào năm 1974. Hành chính Grenada được chia thành các khu vực được gọi là giáo xứ. Một giáo xứ được định nghĩa là một đơn vị lãnh thổ hoặc khu vực, trong lịch sử nó thường là một khu vực nằm dưới sự quản lý của một nhà thờ địa phương như một đơn vị hành chính của Giáo hội và sau đó được sử dụng bởi các nhà hoạch định bản đồ để thiết lập ranh giới diện tích đất. Theo truyền thống, một khu định cư hoặc làng nằm xung quanh với trung tâm là một nhà thờ và sau đó phát triển để trở thành một thị trấn và ngay cả một thành phố. Diện tích khác nhau và hình dạng của mỗi giáo xứ chủ yếu chịu ảnh hưởng của lịch sử và diện tích đất trước đó của hòn đảo này đã được cấp cho những người định cư đầu tiên tuyên bố lãnh thổ trong những năm thực dân của hòn đảo. Hai thập kỷ sau khi Barbados độc lập thống đốc Pháp Martinique đã mua lại đảo Grenada từ một công ty của Pháp và năm 1650 ông cho thành lập một khu định cư gọi là Pháo đài Hoàng gia trong các giáo xứ. Trong thời gian này ranh giới các giáo xứ được đặt ra. Hiện nay, đảo quốc này được chia thành 6 giáo xứ: Nhân khẩu Phần lớn các công dân Grenada là hậu duệ của những người nô lệ châu Phi được đưa đến đây bởi người Anh và người Pháp; ngoài ra còn có người Carib và Arawak bản địa sống sót sau cuộc diệt chủng của Pháp tại Sauteurs. Một tỷ lệ nhỏ là con cháu của người lao động giao kèo từ Ấn Độ đã được đưa đến Grenada chủ yếu là từ các bang Bihar và Uttar Pradesh từ ngày 1 tháng 5]] năm 1857 đến ngày 10 tháng 1 năm 1885. Hiện nay, người Grenada gốc Ấn Độ là nhóm dân tộc lớn thứ hai (sau người Grenada gốc Phi). Ngoài ra còn có một cộng đồng nhỏ người Pháp và Anh. Phần còn lại của dân số là người lai giữa các dân tộc. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh được sử dụng trong chính phủ, nhưng tiếng Creole Grenada được coi là ngôn ngữ chung của hòn đảo. Thổ ngữ Pháp (Antillean Creole) cũng được sử dụng bởi khoảng 10% - 20% dân số. Một số tiếng Hindi vẫn được nói bởi người gốc Ấn Độ. Tôn giáo Hầu hết người dân đảo quốc này theo Thiên Chúa giáo. Khoảng một nửa dân số là Công giáo La Mã, trong khi các giáo phái Tin Lành lớn nhất là Anh giáo, Presbyterian và Seventh Day Adventist chiếm phần lớn còn lại. Còn lại là các nhóm tôn giáo khác như Ấn giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Bahá'í chiếm khoảng 0.14 % dân số. Chú thích
Mục từ DES đổi hướng về đây; xem các nghĩa khác tại DES (định hướng) DES (viết tắt của Data Encryption Standard, hay Tiêu chuẩn Mã hóa Dữ liệu) là một phương pháp mật mã hóa được FIPS (Tiêu chuẩn Xử lý Thông tin Liên bang Hoa Kỳ) chọn làm chuẩn chính thức vào năm 1976. Sau đó chuẩn này được sử dụng rộng rãi trên phạm vi thế giới. Ngay từ đầu, thuật toán của nó đã gây ra rất nhiều tranh cãi, do nó bao gồm các thành phần thiết kế mật, độ dài khóa tương đối ngắn, và các nghi ngờ về cửa sau để Cơ quan An ninh quốc gia Hoa Kỳ (NSA) có thể bẻ khóa. Do đó, DES đã được giới nghiên cứu xem xét rất kỹ lưỡng, việc này đã thúc đẩy hiểu biết hiện đại về mật mã khối (block cipher) và các phương pháp thám mã tương ứng. Hiện nay DES được xem là không đủ an toàn cho nhiều ứng dụng. Nguyên nhân chủ yếu là độ dài 56 bit của khóa là quá nhỏ. Khóa DES đã từng bị phá trong vòng chưa đầy 24 giờ. Đã có rất nhiều kết quả phân tích cho thấy những điểm yếu về mặt lý thuyết của mã hóa có thể dẫn đến phá khóa, tuy chúng không khả thi trong thực tiễn. Thuật toán được tin tưởng là an toàn trong thực tiễn có dạng Triple DES (thực hiện DES ba lần), mặc dù trên lý thuyết phương pháp này vẫn có thể bị phá. Gần đây DES đã được thay thế bằng AES (Advanced Encryption Standard, hay Tiêu chuẩn Mã hóa Tiên tiến). Trong một số tài liệu, người ta phân biệt giữa DES (là một tiêu chuẩn) và thuật toán DEA (Data Encryption Algorithm, hay Thuật toán Mã hóa Dữ liệu) - thuật toán dùng trong chuẩn DES. Lịch sử Khởi nguyên của thuật toán đã có từ đầu thập niên 1970. Vào năm 1972, sau khi tiến hành nghiên cứu về nhu cầu an toàn máy tính của chính phủ Hoa Kỳ, Cục Tiêu chuẩn Liên bang Hoa Kỳ (National Bureau of Standard - NBS), hiện nay đã đổi tên thành Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Hoa Kỳ (National Institute of Standards and Technology - NIST), đã nhận ra nhu cầu về một tiêu chuẩn của chính phủ dùng để mật mã hóa các thông tin mật/nhạy cảm. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1973, sau khi tham khảo với NSA, NBS đưa ra kêu gọi thiết kế một thuật toán mã hóa có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt. Tuy nhiên không có đề xuất nào đáp ứng được yêu cầu đề ra. Ngày 27 tháng 8 năm 1974, NBS đưa ra kêu gọi lần thứ hai. Lần này công ty IBM đã đưa ra một đề xuất có thể chấp nhận được. Đề xuất này được phát triển trong những năm 1973-1974 dựa trên một thuật toán đã có từ trước - thuật toán mật mã Lucifer của Horst Feistel. Đội ngũ tại công ty IBM liên quan tới quá trình thiết kế bao gồm: Feistel, Walter Tuchman, Don Coppersmith, Alan Konheim, Carl Meyer, Mike Matyas, Roy Adler, Edna Grossman, Bill Notz, Lynn Smith và Bryant Tuckerman. Sự tham gia của Cơ quan An ninh quốc gia Hoa Kỳ trong quá trình thiết kế Ngày 17 tháng 3 năm 1975, đề xuất về DES được công bố trên công báo liên bang Hoa Kỳ (Federal Register) để công chúng tham gia ý kiến. Trong năm tiếp theo, hai hội thảo mở rộng được tổ chức để xem xét đề xuất này. Đã có rất nhiều ý kiến chỉ trích được nêu ra, trong đó bao gồm ý kiến của các nhà khoa học tiên phong về mật mã khóa công khai (public-key cryptography) là Martin Hellman và Whitfield Diffie về các vấn đề như độ dài khóa và thành phần của thuật toán không được công khai: S-box. Điều sau được xem như là sự can thiệp (không hợp lý) của NSA làm giảm độ an toàn của thuật toán và cho phép NSA (và không ai khác) có thể dễ dàng đọc được thông tin đã được mã hóa. Alan Konheim, một trong những thành viên thiết kế DES, nói rằng: "Chúng tôi đã gửi thiết kế của S-box tới Washington. Khi trở lại thì mọi thứ đã được thay đổi." Trong một báo cáo mật của ủy ban của Thượng viện Hoa Kỳ được cử để điều tra những sửa đổi của NSA công bố năm 1978 đã viết: "Trong quá trình phát triển DES, NSA thuyết phục IBM rằng độ dài (56 bit) của khóa là đủ an toàn; gián tiếp hỗ trợ sự phát triển cấu trúc của S-box; và chứng nhận rằng thuật toán DES không có điểm yếu về mặt thống kê và toán học." Tuy nhiên, báo cáo cũng viết: "NSA không can thiệp vào quá trình thiết kế thuật toán dưới bất kỳ hình thức nào. IBM đã phát minh và thiết kế ra thuật toán, đưa ra các quyết định, và cho rằng độ dài của khóa là nhiều hơn cần thiết cho các ứng dụng thương mại (mục tiêu của DES)." Một thành viên khác tham gia phát triển DES là Walter Tuchman được cho là đã phát biểu: "Chúng tôi phát triển DES hoàn toàn bên trong IBM và chỉ sử dụng các nhân viên của IBM. NSA đã không ép buộc bất kỳ điều gì!" Những nghi ngờ về điểm yếu được giấu của S-box được giảm bớt trong thập niên 1990 khi Eli Biham và Adi Shamir công bố những nghiên cứu độc lập về thám mã vi sai (differential cryptanalysis, một trong những phương pháp phổ biến để thám mã các dạng mật mã khối). S-box trong cấu trúc của DES có khả năng chống lại dạng tấn công này hiệu quả hơn so với khi nó được chọn một cách ngẫu nhiên. Điều này có thể là do IBM đã biết về dạng tấn công này từ thập niên 1970. Khả năng này một lần nữa được chứng tỏ vào năm 1994 khi Don Coppersmith công bố những tiêu chuẩn ban đầu của việc thiết kế S-box. Sau khi đảm bảo DES có khả năng chống lại đã được kỹ thuật thám mã vi sai, IBM đã giữ bí mật về nó theo yêu cầu của NSA. Coppersmith cũng giải thích thêm: "Nguyên nhân là vì thám mã vi sai là một kỹ thuật rất hiệu quả và công bố thông tin về nó điều này có thể gây nguy hại cho an ninh quốc gia." Ngay cả Shamir cũng nhìn nhận rằng: "Tôi có thể nói rằng, trái với suy nghĩ của nhiều người, không có bằng chứng về sự can thiệp vào thiết kế làm giảm độ an toàn của DES." Lý do mà NSA đưa ra để giải thích về việc giảm độ dài khóa từ 64 bit xuống 56 bit là để dành 8 bit cho việc kiểm tra lỗi (parity checking). Những ý kiến chỉ trích cho rằng đây chỉ là nguyên cớ chứ không phải là nguyên nhân thực sự. Nhiều người tin rằng quyết định giảm độ dài khóa xuống 56 bit là để NSA có thể thực hiện thám mã bằng phương pháp bạo lực (brute force attack) trước vài năm so với phần còn lại của thế giới. DES với vai trò là một tiêu chuẩn Bất chấp những chỉ trích, DES được chọn làm tiêu chuẩn liên bang (Hoa Kỳ) vào tháng 11 năm 1976 và được công bố tại tài liệu có tên là FIPS PUB 46 vào ngày 15 tháng 1 năm 1977 cho phép sử dụng chính thức đối với thông tin không mật. DES tiếp tục được khẳng định là tiêu chuẩn vào các năm 1983, 1988 (với tên FIPS-46-1), 1993 (FIPS-46-2) và 1998 (FIPS-46-3). Lần cuối cùng quy định dùng "Triple DES" (xem thêm ở phần sau). Ngày 26 tháng 5 năm 2002, DES được thay thế bằng AES sau một cuộc thi rộng rãi (xem thêm Quá trình AES). Tuy nhiên, tại thời điểm năm 2004, DES vẫn còn được sử dụng khá phổ biến. Năm 1994, thêm một phương pháp tấn công khác (trên lý thuyết) được công bố là thám mã tuyến tính. Tuy nhiên thời điểm nhu cầu thay thế DES trở nên thực sự cấp thiết là vào năm 1998 khi một cuộc tấn công bạo lực chứng tỏ rằng DES có thể bị phá vỡ trên thực tế. Các phương pháp thám mã này sẽ được miêu tả kỹ hơn ở phần sau. Sự xuất hiện của DES đã tạo nên một làn sóng nghiên cứu trong giới khoa học về lĩnh vực mật mã học, đặc biệt là các phương pháp thám mã mã khối. Về điều này, Bruce Schneier viết: "NSA coi DES là một trong những sai lầm lớn nhất. Nếu họ biết trước rằng chi tiết của thuật toán sẽ được công bố để mọi người có thể viết chương trình phần mềm, họ sẽ không bao giờ đồng ý. DES đã tạo nên nguồn cảm hứng nghiên cứu trong lĩnh vực thám mã hơn bất kỳ điều gì khác: Giới khoa học đã có một thuật toán để nghiên cứu - thuật toán mà NSA khẳng định là an toàn." Quá trình Quá trình thay thế DES Từ cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, xuất phát từ những lo ngại về độ an toàn và tốc độ thấp khi áp dụng bằng phần mềm, giới nghiên cứu đã đề xuất khá nhiều thuật toán mã hóa khối để thay thế DES. Những ví dụ tiêu biểu bao gồm: RC5, Blowfish, IDEA (International Data Encryption Algorithm, hay Thuật toán mã hóa dữ liệu quốc tế), NewDES, SAFER, CAST5 và FEAL. Hầu hết những thuật toán này có thể sử dụng từ khóa 64 bit của DES mặc dù chúng thường được thiết kế hoạt động với từ khóa 64 bit hay 128 bit. Ngay bản thân DES cũng có thể được sử dụng một cách an toàn hơn. Những người sử dụng DES trước đây có thể dùng Triple DES (hay TDES). Đây là phương pháp được một trong những người phát minh ra DES miêu tả và kiểm tra (Xem thêm FIPS PUB 46-3). Triple DES sử dụng DES ba lần cho một văn bản với những khóa khác nhau. Hiện nay Triple DES được xem là an toàn mặc dù tốc độ thực hiện khá chậm. Một phương pháp khác ít đòi hỏi khả năng tính toán hơn là DES-X với việc tăng độ dài từ khóa bằng cách thực hiện phép XOR từ khóa với phần thêm trước và sau khi thực hiện DES. Một phương pháp nữa là GDES được đề xuất làm tăng tốc độ mã hóa nhưng nó được chứng tỏ là không an toàn trước tấn công vi sai (differential cryptanalysis). Năm 2001, sau một cuộc thi quốc tế, NIST đã chọn ra một thuật toán mới, AES, để thay thế cho DES. Thuật toán được trình diện dưới tên là Rijndael. Những thuật toán khác có tên trong danh sách cuối cùng của cuộc thi AES bao gồm: RC6, Serpent, MARS và Twofish. Mô tả thuật toán Phần miêu tả sau đây lược bỏ những chi tiết cụ thể về quá trình chuyển đổi và hoán vị của thuật toán. Những thông tin chính xác có thể được xem thêm tại: thông tin bổ sung về DES. DES là thuật toán mã hóa khối: nó xử lý từng khối thông tin của bản rõ có độ dài xác định và biến đổi theo những quá trình phức tạp để trở thành khối thông tin của bản mã có độ dài không thay đổi. Trong trường hợp của DES, độ dài mỗi khối là 64 bit. DES cũng sử dụng khóa để cá biệt hóa quá trình chuyển đổi. Nhờ vậy, chỉ khi biết khóa mới có thể giải mã được văn bản mã. Khóa dùng trong DES có độ dài toàn bộ là 64 bit. Tuy nhiên chỉ có 56 bit thực sự được sử dụng; 8 bit còn lại chỉ dùng cho việc kiểm tra. Vì thế, độ dài thực tế của khóa chỉ là 56 bit. Giống như các thuật toán mã hóa khối khác, khi áp dụng cho các văn bản dài hơn 64 bit, DES phải được dùng theo một phương pháp nào đó. Trong tài liệu FIPS-81 đã chỉ ra một số phương pháp, trong đó có một phương pháp dùng cho quá trình nhận thực . Một số thông tin thêm về những cách sử dụng DES được miêu tả trong tài liệu FIPS-74 . Tổng thể Cấu trúc tổng thể của thuật toán được thể hiện ở Hình 1: có 16 chu trình giống nhau trong quá trình xử lý. Ngoài ra còn có hai lần hoán vị đầu và cuối (Initial and final permutation - IP & FP). Hai quá trình này có tính chất đối nhau (Trong quá trình mã hóa thì IP trước FP, khi giải mã thì ngược lại). IP và FP không có vai trò xét về mật mã học và việc sử dụng chúng chỉ có ý nghĩa đáp ứng cho quá trình đưa thông tin vào và lấy thông tin ra từ các khối phần cứng có từ thập niên 1970. Trước khi đi vào 16 chu trình chính, khối thông tin 64 bit được tách làm hai phần 32 bit và mỗi phần sẽ được xử lý tuần tự (quá trình này còn được gọi là mạng Feistel). Cấu trúc của thuật toán (mạng Feistel) đảm bảo rằng quá trình mã hóa và giải mã diễn ra tương tự. Điểm khác nhau chỉ ở chỗ các khóa con được sử dụng theo trình tự ngược nhau. Điều này giúp cho việc thực hiện thuật toán trở nên đơn giản, đặc biệt là khi thực hiện bằng phần cứng. Ký hiệu sau: thể hiện phép toán XOR. Hàm F làm biến đổi một nửa của khối đang xử lý với một khóa con. Đầu ra sau hàm F được kết hợp với nửa còn lại của khối và hai phần được tráo đổi để xử lý trong chu trình kế tiếp. Sau chu trình cuối cùng thì 2 nửa không bị tráo đổi; đây là đặc điểm của cấu trúc Feistel khiến cho quá trình mã hóa và giải mã trở nên giống nhau. Hàm Feistel (F) Hàm F, như được miêu tả ở Hình 2, hoạt động trên khối 32 bit và bao gồm bốn giai đoạn: Mở rộng: 32 bit đầu vào được mở rộng thành 48 bit sử dụng thuật toán hoán vị mở rộng (expansion permutation) với việc nhân đôi một số bit. Giai đoạn này được ký hiệu là E trong sơ đồ. Trộn khóa: 48 bit thu được sau quá trình mở rộng được XOR với khóa con. Mười sáu khóa con 48 bit được tạo ra từ khóa chính 56 bit theo một chu trình tạo khóa con (key schedule) miêu tả ở phần sau. Thay thế: 48 bit sau khi trộn được chia làm 8 khối con 6 bit và được xử lý qua hộp thay thế S-box. Đầu ra của mỗi khối 6 bit là một khối 4 bit theo một chuyển đổi phi tuyến được thực hiện bằng một bảng tra. Khối S-box đảm bảo phần quan trọng cho độ an toàn của DES. Nếu không có S-box thì quá trình sẽ là tuyến tính và việc thám mã sẽ rất đơn giản. Hoán vị: Cuối cùng, 32 bit thu được sau S-box sẽ được sắp xếp lại theo một thứ tự cho trước (còn gọi là P-box). Quá trình luân phiên sử dụng S-box và sự hoán vị các bít cũng như quá trình mở rộng đã thực hiện được tính chất gọi là sự xáo trộn và khuếch tán (confusion and diffusion). Đây là yêu cầu cần có của một thuật toán mã hoá được Claude Shannon phát hiện trong những năm 1940. Quá trình tạo khóa con Hình 3 mô tả thuật toán tạo khóa con cho các chu trình. Đầu tiên, từ 64 bit ban đầu của khóa, 56 bit được chọn (Permuted Choice 1, hay PC-1); 8 bit còn lại bị loại bỏ. 56 bit thu được được chia làm hai phần bằng nhau, mỗi phần được xử lý độc lập. Sau mỗi chu trình, mỗi phần được dịch đi 1 hoặc 2 bit (tùy thuộc từng chu trình, nêu đó là chu trình 1,2,9,16 thì đó là dịch 1bit, còn lại thì sẽ được dich 2bit). Các khóa con 48 bit được tạo thành bởi thuật toán lựa chọn 2 (Permuted Choice 2, hay PC-2) gồm 24 bit từ mỗi phần. Quá trình dịch bit (được ký hiệu là "<<<" trong sơ đồ) khiến cho các khóa con sử dụng các bit khác nhau của khóa chính; mỗi bit được sử dụng trung bình ở 14 trong tổng số 16 khóa con. Quá trình tạo khóa con khi thực hiện giải mã cũng diễn ra tương tự nhưng các khóa con được tạo theo thứ tự ngược lại. Ngoài ra sau mỗi chu trình, khóa sẽ được dịch phải thay vì dịch trái như khi mã hóa An toàn và sự giải mã Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về phá mã DES hơn bất kỳ phương pháp mã hóa khối nào khác nhưng phương pháp phá mã thực tế nhất hiện nay vẫn là tấn công Brute-force. Nhiều đặc tính mật mã hóa của DES đã được xác định và từ đó ba phương pháp phá mã khác được xác định với mức độ phức tạp nhỏ hơn tấn công bạo lực. Tuy nhiên các phương pháp này đòi hỏi một số lượng bản rõ quá lớn (để tấn công lựa chọn bản rõ) nên hầu như không thể thực hiện được trong thực tế. Tấn công brute-force (vét cạn) Đối với bất cứ phương pháp mã hóa nào, kiểu tấn công cơ bản và đơn giản nhất là tấn công bằng bạo lực: thử lần lượt tất cả các khóa có thể cho đến khi tìm ra khóa đúng. Độ dài của khóa sẽ xác định số lượng phép thử tối đa cần thực hiện và do đó thể hiện tính khả thi của phương pháp. Trong trường hợp của DES, nghi ngờ về độ an toàn của nó đã được đặt ra ngay từ khi nó chưa trở thành tiêu chuẩn. Người ta cho rằng chính NSA đã ủng hộ (nếu không muốn nói là thuyết phục) IBM giảm độ dài khóa từ 128 bit xuống 64 bit và tiếp tục xuống 56 bit. Điều này dẫn đến suy đoán rằng NSA đã có hệ thống tính toán đủ mạnh để phá vỡ khóa 56 bit ngay từ những năm 1970. Trong giới nghiên cứu, nhiều đề xuất về các hệ thống phá mã DES được đề ra. Năm 1977, Diffie và Hellman dự thảo một hệ thống có giá khoảng 20 triệu đô la Mỹ và có khả năng phá khóa DES trong 1 ngày. Năm 1993, Wiener dự thảo một hệ thống khác có khả năng phá mã trong vòng 7 giờ với giá 1 triệu đô la Mỹ. Những điểm yếu của DES được thực sự chứng minh vào cuối những năm 1990. Vào năm 1997, công ty bảo mật RSA đã tài trợ một chuỗi cuộc thi với giải thưởng 10.000 đô la Mỹ cho đội đầu tiên phá mã được một bản tin mã hóa bằng DES. Đội chiến thắng trong cuộc thi này là dự án DESCHALL với những người dẫn đầu bao gồm Rocke Verser, Matt Curtin và Justin Dolske. Họ đã sử dụng hàng nghìn máy tính nối mạng để phá mã. Khả năng phá mã DES được chứng minh thêm lần nữa vào năm 1998 khi tổ chức Electronic Frontier Foundation (EFF), một tổ chức hoạt động cho quyền công dân trên Internet, xây dựng một hệ thống chuyên biệt để phá mã với giá thành 250000 đô la Mỹ (Xem thêm: hệ thống phá mã DES của EFF). Động cơ thúc đẩy EFF trong hành động này là nhằm chứng minh DES có thể bị phá vỡ trên lý thuyết cũng như trên thực tế: "Nhiều người không tin vào chân lý cho đến khi họ nhìn thấy sự việc bằng chính mắt mình. Xây dựng một bộ máy có thể phá khóa DES trong vòng vài ngày là cách duy nhất chứng tỏ với mọi người rằng họ không thể đảm bảo an ninh thông tin dựa vào DES." Hệ thống này đã tìm được khóa DES bằng phương pháp bạo lực trong thời gian hơn 2 ngày; trong khi vào khoảng thời gian đó, một chưởng lý của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (DOJ) vẫn tuyên bố rằng DES là không thể bị phá vỡ. Các kiểu tấn công khác hiệu quả hơn phương pháp brute-force Hiện nay có 3 kiểu tấn công có khả năng phá vỡ DES (với đủ 16 chu trình) với độ phức tạp thấp hơn phương pháp Brute-force: phá mã vi sai (differential cryptanalysis - DC), phá mã tuyến tính (linear cryptanalysis - LC) và phá mã Davies (Davies' attack). Tuy nhiên các dạng tấn công này chưa thực hiện được trong thực tế. Phá mã vi sai được Eli Biham và Adi Shamir tìm ra vào cuối những năm 1980 mặc dù nó đã được IBM và NSA biết đến trước đó. Để phá mã DES với đủ 16 chu trình, phá mã vi sai cần đến 247 văn bản rõ. DES đã được thiết kế để chống lại tấn công dạng này. Phá mã tuyến tính được tìm ra bởi Mitsuru Matsui và nó đòi hỏi 243 văn bản rõ (Matsui, 1993). Phương pháp này đã được Matsui thực hiện và là thực nghiệm phá mã đầu tiên được công bố. Không có bằng chứng chứng tỏ DES có khả năng chống lại tấn công dạng này. Một phương pháp tổng quát hơn, phá mã tuyến tính đa chiều (multiple linear cryptanalysis), được Kaliski và Robshaw nêu ra vào năm 1994, Biryukov và cộng sự tiếp tục cải tiến vào năm 2004. Nghiên cứu của họ cho thấy mô phỏng tuyến tính đa chiều có thể sử dụng để giảm độ phức tạp của quá trình phá mã tới 4 lần (chỉ còn 241 văn bản rõ). Kết quả tương tự cũng có thể đạt được với kiểu tấn công tuyến tính kết hợp với lựa chọn bản rõ (Knudsen and Mathiassen, 2000). Junod (2001) đã thực hiện một số thực nghiệm để tìm ra độ phức tạp thực tế của phá mã tuyến tính và thấy rằng quá trình thực tế nhanh hơn dự đoán: 239×241. Phá mã Davies: trong khi phá mã vi sai và phá mã tuyến tính là các kỹ thuật phá mã tổng quát, có thể áp dụng cho các thuật toán khác nhau, phá mã Davies là một kỹ thuật dành riêng cho DES. Dạng tấn công này được đề xuất lần đầu bởi Davies vào cuối những năm 1980 và cải tiến bởi Biham và Biryukov (1997). Dạng tấn công mạnh nhất đòi hỏi 250 văn bản rõ, độ phức tạp là 250 và có tỷ lệ thành công là 51%. Ngoài ra còn có những kiểu tấn công dựa trên bản thu gọn của DES - DES với ít hơn 16 chu trình. Những nghiên cứu này cho chúng ta biết số lượng chu trình cần có và ranh giới an toàn của hệ thống. Năm 1994, Langford và Hellman đề xuất phá mã vi sai - tuyến tính (differential-linear cryptanalysis) kết hợp giữa phá mã vi sai và tuyến tính. Một dạng cải tiến của phương pháp này có thể phá vỡ DES 9 chu trình với 215.8 văn bản rõ và có độ phức tạp là 229.2 (Biham et al, 2002). Một vài đặc điểm về cách giải mã DES có tính chất bù: trong đó là phần bù của theo từng bít (1 thay bằng 0 và ngược lại). là bản mã hóa của E với khóa K. và là văn bản rõ (trước khi mã hóa) và văn bản mã (sau khi mã hóa). Do tính bù, ta có thể giảm độ phức tạp của tấn công bạo lực xuống 2 lần (tương ứng với 1 bít) với điều kiện là ta có thể lựa chọn bản rõ. Ngoài ra DES còn có 4 khóa yếu (weak keys). Khi sử dụng khóa yếu thì mã hóa (E) và giải mã (D) sẽ cho ra cùng kết quả: or equivalently, Bên cạnh đó, còn có 6 cặp khóa nửa yếu (semi-weak keys). Mã hóa với một khóa trong cặp, , tương đương với giải mã với khóa còn lại, : or equivalently, Tuy nhiên có thể dễ dàng tránh được những khóa này khi thực hiện thuật toán, có thể bằng cách thử hoặc chọn khóa một cách ngẫu nhiên. Khi đó khả năng chọn phải khóa yếu là rất nhỏ. DES đã được chứng minh là không tạo thành nhóm. Nói một cách khác, tập hợp (cho tất cả các khóa có thể) theo phép hợp thành không tạo thành một nhóm hay gần với một nhóm (Campbell and Wiener, 1992). Vấn đề này đã từng là một câu hỏi mở trong khá lâu và nếu như tạo thành nhóm thì DES có thể bị phá vỡ dễ dàng hơn bởi vì việc áp dụng DES nhiều lần (ví dụ như trong Triple DES) sẽ không làm tăng thêm độ an toàn của DES.
Vương quốc Nepal (), cũng gọi là Vương quốc Gorkha () hay Asal Hindustan (Miền đất thực sự của Hindus), là là một vương quốc Hindu trên tiểu lục địa Ấn Độ, được hình thành vào năm 1768, bởi sự thống nhất Nepal. Được thành lập bởi vua vua Prithvi Narayan Shah, một quốc vương Gorkhali có gốc Rajput từ Ấn Độ trung cổ, nó tồn tại trong 240 năm cho đến khi bãi bỏ chế độ quân chủ Nepal vào năm 2008. Trong thời kỳ này, Nepal chính thức dưới sự cai trị của vương triều Shah, nơi thực hiện các mức độ quyền lực khác nhau trong sự tồn tại của vương quốc. Sau cuộc xâm lược Tây Tạng và cướp bóc Digarcha bởi các lực lượng Nepal dưới thời Hoàng tử Bahadur Shah vào năm 1792, Dalai Lama và người Ambans Trung Hoa đã báo cáo với chính quyền Trung Quốc để hỗ trợ quân sự. Các lực lượng Trung Quốc và Tây Tạng dưới thời Fu Kang An đã tấn công Nepal nhưng đã đi đàm phán sau thất bại tại Nuwakot. Tuy nhiên, trong đầu thế kỷ XIX, việc mở rộng sự cai trị của Công ty Đông Ấn ở Ấn Độ đã dẫn đến Chiến tranh Anh-Nepal (1814 Lời1816), dẫn đến thất bại của Nepal. Theo Hiệp ước Sugauli, vương quốc vẫn giữ được độc lập, nhưng đổi lại sự nhượng bộ lãnh thổ khiến sông Mechi đến sông Mahakali nằm dưới ranh giới của Nepal, đôi khi được gọi là "Đại Nepal mở rộng". Các lực lượng được phái bởi Jung Bahadur Rana đã đánh bại các lực lượng Tây Tạng vào năm 1855 để buộc phía Tây Tạng ký hiệp ước ủng hộ Nepal. Sự bất ổn chính trị sau chiến tranh dẫn đến sự lên ngôi của triều đại Rana của Khas Chhetri Rajput, khiến văn phòng Thủ tướng Nepal di truyền trong gia đình của họ trong thế kỷ tiếp theo, từ 1843 đến 1951. Bắt đầu với Jung Bahadur, Rana đầu tiên người cai trị, triều đại Rana đã giảm quân vương Shah xuống một vai trò đứng đầu. Sự cai trị của Rana được đánh dấu bởi sự chuyên chế, đồi trụy, bóc lột kinh tế và đàn áp tôn giáo. Vào tháng 7 năm 1950, nước cộng hòa mới độc lập của Ấn Độ đã ký một hiệp ước hữu nghị, trong đó cả hai quốc gia đồng ý tôn trọng chủ quyền của nhau. Vào tháng 11 cùng năm, Ấn Độ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Vua Tribhuhvan, người mà nhà lãnh đạo Rana Mohan Shumsher Jang Bahadur Rana đã cố gắng để thay thế và thay thế bằng cháu trai của mình, vua Gyanendra. Với sự hỗ trợ của Ấn Độ cho một chính phủ mới bao gồm phần lớn là Quốc đại Nepal, Quốc vương Tribhuvan đã chấm dứt sự cai trị của vương triều Rana vào năm 1951. Những nỗ lực không thành công đã được thực hiện để thực hiện cải cách và hiến pháp trong những năm 1960 và 1970. Một cuộc khủng hoảng kinh tế vào cuối những năm 1980 đã dẫn đến một phong trào phổ biến dẫn đến bầu cử quốc hội và thông qua chế độ quân chủ lập hiến vào năm 1990. Những năm 1990 chứng kiến ​​sự khởi đầu của Nội chiến Nepal (1996,2006), một cuộc xung đột giữa các lực lượng chính phủ và các lực lượng nổi dậy của Đảng Cộng sản Nepal (Maoist). Tình hình cho chế độ quân chủ Nepal còn bất ổn hơn nữa sau vụ thảm sát hoàng gia Nepal năm 2001, trong đó Thái tử Dipendra đã bắn chết và giết chết mười người, trong đó có cha vua Birendra, và bị thương nặng vì những gì được cho là tự bắn. Hậu quả của vụ thảm sát, vua Gyanendra trở lại ngai vàng. Việc ông áp đặt cai trị trực tiếp vào năm 2005 đã kích động một phong trào phản kháng thống nhất các cuộc nổi dậy của Maoist và các nhà hoạt động dân chủ. Cuối cùng, ông đã bị buộc phải khôi phục Hạ viện của Nepal, vào năm 2007 đã thông qua một hiến pháp tạm thời hạn chế rất nhiều quyền lực của chế độ quân chủ Nepal. Sau một cuộc bầu cử được tổ chức vào năm sau, Quốc hội lập hiến Nepal đã chính thức bãi bỏ vương quốc trong phiên họp đầu tiên vào ngày 28 tháng 5 năm 2008, tuyên bố Cộng hòa Dân chủ Liên bang Nepal thay thế. Cho đến khi bãi bỏ chế độ quân chủ, Nepal là quốc gia duy nhất trên thế giới có Ấn Độ giáo là quốc giáo; đất nước này chính thức là một nhà nước thế tục. Chú thích
Guatemala, tên chính thức Cộng hoà Guatemala (, IPA: , Tiếng Việt: Cộng hòa Goa-tê-ma-la), là một quốc gia tại Trung Mỹ, ở phần phía nam Bắc Mỹ, giáp biên giới với México ở phía tây bắc, Thái Bình Dương ở phía tây nam, Belize và Biển Caribe ở phía đông bắc, và Honduras cùng El Salvador ở phía đông nam. Từ nguyên Tên "Guatemala" bắt nguồn từ Cuauhtēmallān trong tiếng Nahuatl, nghĩa là "nơi có nhiều cây", một từ bắt nguồn từ tiếng Maya K'iche cho cụm từ "nhiều cây" hoặc có lẽ cụ thể hơn dùng để chỉ cây Cuate/Cuatli Eysenhardtia. Đây là tên mà các chiến binh Tlaxcalteca đồng hành với Pedro de Alvarado đặt cho nơi này trong cuộc chinh phạt Guatemala. Lịch sử Từ thế kỷ III TCN tới thế kỷ XII CN, các vùng đất thấp khu vực Petén và Izabal là nơi sinh sống của nhiều bộ lạc người Maya. Vương quốc K'iche ngụ canh ở vùng cao nguyên miền trung Guatemala. Khi được tin người Tây Ban Nha đã chinh phục được đế quốc Aztec ở Mexico thì bộ tộc K'iche ở Guatemala gửi sứ thần ra bắc bái yết Hernán Cortés và xin triều cống, nhận làm thuộc quốc. Bấy giờ là năm 1521. Hai năm sau Cortés phái Pedro de Alvarado vào Guatemala giám sát tình hình, dẫn theo 173 kỵ binh, 300 lính Tây Ban Nha cùng 200 quân Mexico thuộc bộ tộc Tlaxcala. Người K'iche thấy Tây Ban Nha động binh bèn chống cự lại nhưng thua to ở trận Quetzaltenango. Kinh thành Utatlán của K'iche bị đốt rụi. Chính quyền Tây Ban Nha từ đó trực tiếp cai trị xứ Guatemala, lấy Iximché làm thủ phủ. Năm 1527 vì tình hình bất an, Alvarado bỏ Iximché, dời đô về Santiago de los Caballeros để dễ bề phòng thủ. Dù vậy các bộ tộc miền núi như nhóm Achi' vẫn không quy phục nên vùng Alta Verapaz vẫn độc lập nhưng ngược lại nhờ hoạt động truyền giáo của Giáo hội Công giáo La Mã, ảnh hưởng của Tây Ban Nha dần dần lan rộng. Đến năm 1540 thì dân miền núi cũng công nhận chính quyền thuộc địa. Một số nhà truyền giáo, nổi tiếng nhất là tu sĩ Bartolomé de las Casas, đã bảo vệ người bản xứ khi quân đội Tây Ban Nha đàn áp thổ dân. Tuy nhiên Giáo hội thì thi hành chính sách hủy diệt các thư tịch cổ, và hầu như tất cả các sách vở Maya trước thế kỷ XVI nay đã thất truyền. Một số ít còn sót lại gồm có: Popol Vuh, Anales de los Kakchiqueles, và Chilam Balam. Những văn bản này may mắn là được các nhà truyền giáo Tây Ban Nha sau khi phát hiện đã cất giữ nên còn đến nay. Cuộc xâm chiếm của người Tây Ban Nha cũng để lại hai hậu quả lớn. Thứ nhất là bệnh truyền nhiễm như bệnh dịch hạch, đậu mùa, thương hàn, sởi, đã theo chân người Âu Châu tàn phá nhiều nhóm thổ dân vì người bản xứ không có quá khứ miễn dịch để chống các căn bệnh này. Dân số bản xứ vì đó bị giảm thiểu trầm trọng. Có nguồn nhận xét rằng 3/4 thổ dân đã tử vong vì nhiễm bệnh. Hậu quả thứ hai là địa danh "Goathemala" đã khai sinh sau cuộc xâm lăng của người Tây Ban Nha. Danh hiệu này có nguồn gốc từ tiếng thổ dân có nghĩa là "Xứ rậm cây" nhưng đến thế kỷ XVI mới có mặt trong văn bản. Thời kỳ thuộc địa Khi tình hình quân sự đã ổn định hơn thì triều đình Tây Ban Nha cho chỉnh đốn lại việc cai trị, thành lập đơn vị Trấn Guatemala (Capitanía General de Goathemala hay còn gọi là Audiencia de Guatemala) trông coi một dải đất rộng lớn từ phía nam Tân Tây Ban Nha (Nueva España, tức México) đến tận Panama. Đơn vị Guatemala này bao gồm cả Chiapas (nay thuộc México), El Salvador, Honduras, Nicaragua, và Costa Rica. Thủ phủ Santiago de los Caballeros không lâu biến thành đô thị lớn thứ ba ở châu Mỹ La Tinh, chỉ sau Thành phố México và Lima. Vùng đất này không giàu khoáng sản (vàng và bạc) như México và Perú nhưng cung cấp một số nông và lâm sản giá trị như mía, cacao, phẩm chàm (añil), phẩm đỏ rệp son cùng các loại gỗ quý dùng trong việc xây cất và trang trí các công trình bên mẫu quốc. Năm 1776 một chuỗi động đất lớn gây thiệt hại đáng kể, tàn phá thủ phủ Santiago de los Caballeros khiến chính quyền địa phương phải bỏ địa điểm cũ và dời đến Thung lũng Ermita về phía đông-bắc, lập nên Thành phố Guatemala, tức thủ đô của Guatemala ngày nay. Cố đô Santiago sau đó gọi là Antigua Guatemala tức cựu kinh. Ngày 15 tháng 9 năm 1821, Guatemala trở thành một quốc gia độc lập. Nước Cộng hòa Guatemala mới gồm phần vùng Soconusco, và nơi hiện là các quốc gia El Salvador, Honduras, Nicaragua, và Costa Rica. 1.5 triệu dân nước này tập trung tại các trung tâm đô thị. Năm 1821, tỉnh El Salvador thuyết phục được các tỉnh khác của Guatemala gia nhập Đế chế Mexico, một ý tưởng của Agustin Iturbide. Nhưng một năm sau Iturbide buộc phải thoái vị, đế chế của ông sụp đổ và Guatemala tách khỏi Mexico, mất hai vùng Chiapas và Soconusco. Các tỉnh của Guatemala tạo thành Liên hiệp các Tỉnh Trung Mỹ, cũng được gọi là Liên bang Trung Mỹ (Federacion de Estados Centroamericanos). Thành phố thủ đô vẫn là Thành phố Guatemala, ngày nay đây vẫn là thành phố đông đúc nhất Trung Mỹ. Một giai đoạn bất ổn chính trị nối tiếp sau đó, càng trầm trọng thêm với sự sụp đổ của thị trường añil (màu chàm) thế giới, sản phẩm xuất khẩu chính của nước này sang châu Âu, vì sự phát minh thuốc nhuộm nhân tạo. Việc này khiến các tỉnh tách khỏi Liên bang, từ năm 1838 đến năm 1840, bắt đầu với Costa Rica, và Guatemala trở thành một quốc gia độc lập. Guatemala từ lâu đã tuyên bố chủ quyền với toàn bộ lãnh thổ của nước Belize láng giềng, trước kia là một phần của thuộc địa Tây Ban Nha, và sau này đã bị Vương quốc Anh chiếm đóng. Guatemala đã công nhận nền độc lập của Belize năm 1991, nhưng tranh cãi chủ quyền giữa hai nước vẫn chưa được dàn xếp. Những cuộc đàm phán hiện đang diễn ra dưới sự bảo trợ của Tổ chức Quốc gia châu Mỹ để giải quyết vấn đề. Xem: và trang của OAS Thời hiện đại Tháng 10 năm 1944, nhà độc tài Jorge Ubico bị cuộc cách mạng do sinh viên lãnh đạo lật đổ. Sự kiện này dẫn tới cuộc bầu cử đưa Jose Arévalo, tổng thống bầu cử dân chủ đầu tiên của Guatemala cầm quyền đủ nhiệm kỳ, lên nắm quyền. Các chính sách "Xã hội Thiên chúa giáo" của ông, có cảm hứng từ chính sách New Deal của Hoa Kỳ, bị các chủ đất và tầng lớp giàu có chỉ trích là mang hơi hướng cộng sản. Giai đoạn này cũng là thời điểm khởi đầu cuộc Chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô ghi dấu ấn trong lịch sử Guatemala. Năm 1954, người kế nhiệm sau cuộc bầu cử tự do của Arévalo là Jacobo Arbenz bị một nhóm người Guatemala được Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) hậu thuẫn lật đổ, sau khi chính phủ sung công những vùng đất bỏ hoang thuộc sở hữu của Liên minh Công ty Hoa quả, một công ty buôn chuối có trụ sở tại Mỹ. Mật hiệu của CIA cho vụ đảo chính này là Chiến dịch PBSUCCESS, lần thành công thứ hai trong việc lật đổ một chính phủ nước ngoài của CIA. Thời gian cầm quyền quân sự sau đó, bắt đầu bằng nhà độc tài Carlos Castillo Armas, dẫn tới hơn 30 nội chiến, từ 1960, gây ra cái chết của ước tính 200.000 thường dân Guatemala. Vì chính quyền quân sự sử dụng các biện pháp tra tấn, bắt cóc, chiến tranh "tiêu thổ" không hạn chế và các biện pháp tàn bạo khác, đất nước đã trở thành một xã hội cùng khổ. Từ thập kỷ 1950 tới thập kỷ 1990 (chỉ có một giai đoạn ngừng viện trợ quân sự trong giai đoạn giữa 1977 và 1982), chính phủ Hoa Kỳ trực tiếp hỗ trợ quân đội Guatemala trong huấn luyện và vũ khí cũng như cung cấp tiền bạc. Các lực lượng quân sự đặc biệt Hoa Kỳ (Mũ nồi Xanh) được gửi tới Guatemala để biến quân đội nước này trở thành một "lực lượng chống nổi lạon hiện đại" và biến nó trở thành đội quân mạnh nhất, tinh vi nhất vùng Trung Mỹ. Sự dính líu của CIA gồm cả việc huấn luyện 5.000 lính người Cuba chống đối Fidel Castro và dùng máy bay vận chuyển lực lượng này vào trong lãnh thổ Cuba trong sự kiện sau này được gọi là Sự kiện Vịnh con Lợn năm 1961. Năm 1999, tổng thống khi ấy của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Bill Clinton nói rằng Hoa Kỳ đã sai lầm khi cung cấp viện trợ cho các lực lượng quân đội Guatemala, lực lượng đã thực hiện những hành động giết dân thường tàn bạo . Năm 1982, bốn nhóm Mác xít thành lập tổ chức du kích Tổ chức Cách mạng Thống nhất Quốc gia Guatemala (URNG). Năm 1992, Giải Nobel Hòa bình được trao cho Rigoberta Menchú, một nhà hoạt động nhân quyền người bản xứ, vì những nỗ lực lôi kéo sự chú ý quốc tế tới cuộc diệt chủng được chính phủ hậu thuẫn chống lại những người bản xứ. Cuộc chiến tranh đẫm máu dài 36 năm chấm dứt năm 1996 với một thỏa thuận hòa bình giữa phe du lích và chính phủ của Tổng thống Álvaro Arzú, với sự hỗ trợ của Liên hiệp quốc. Hai bên đều có những sự nhượng bộ lớn. Các trung tâm đô thị thuộc quyền kiểm soát của quân đội trong khi URNG tiếp tục có sự hiện diện mạnh mẽ ở vùng nông thôn. Theo Ủy ban Lòng tin do Liên hiệp quốc đỡ đầu, các lực lượng chính phủ và bán quân sự là thủ phạm gây ra hơn 90% các vụ vi phạm nhân quyền trong chiến tranh. Trong mười năm đầu tiên, số nạn nhân của những vụ khủng bố được chính phủ hậu thuẫn chủ yếu là sinh viên, công nhân, nhà chuyên nghiệp, và các nhân vật đối lập thuộc mọi khuynh hướng chính trị, nhưng ở những năm sau này, số nạn nhân lên tới hàng nghìn người chủ yếu là nông dân Maya và những người dân thường. Hơn 450 làng Maya đã bị phá hủy và hơn 1 triệu người trở thành người tị nạn. Đây được coi là một trong những vụ thanh lọc sắc tộc tồi tệ nhất tại Mỹ La tinh thời hiện đại. Ở một số vùng, như Baja Verapaz, Ủy ban Lòng tin cho rằng chính phủ Guatemala đã thực hiện một chính sách diệt chủng có chủ định chống lại một số nhóm sắc tộc. Từ hiệp định hòa bình, Guatemala đã có được các cuộc bầu cử dân chủ, gần đây nhất là vào năm 2003. Tuy nhiên, nạn tham nhũng vẫn lan tràn ở mọi cấp chính phủ, con số các đảng chính trị tăng liên tục và không ổn định. Một lượng lớn các hồ sơ của Cảnh sát Quốc gia đã được khám phá vào tháng 12 năm 2005 tiết lộ những biện pháp an ninh chính phủ đã thực hiện nhằm đương đầu với tình trạng nổi dậy của người dân thời nội chiến . Chính trị Chính trị Guatemala dựa trên hình thức cộng hoà đại diện dân chủ tổng thống, theo đó Tổng thống Guatemala vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là lãnh đạo chính phủ, và một hệ thống đa đảng phái. Quyền hành pháp thuộc chính phủ. Quyền lập pháp do cả chính phủ và Đại hội Cộng hoà đảm nhiệm. Tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp. Quốc hội Guatemala gồm 80 thành viên, được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 4 năm. Các đảng phái chính: Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (DCG); Đảng Tiến bộ quốc gia (PAN); Phong trào Giải phóng dân tộc (MLN); Đảng Dân chủ xã hội (PSD); Đảng Cách mạng (PR); Mặt trận Cộng hòa Guatemala (FRG); Liên minh Dân chủ (UD). Khu vực hành chính Guatemala được chia thành 22 tỉnh (departamentos). Nhỏ hơn là khoảng 332 xã (municipios). Các tỉnh gồm: <table><ol> <li>Alta Verapaz <li>Baja Verapaz <li>Chimaltenango <li>Chiquimula <li>Petén <li>El Progreso <li>El Quiché <li>Escuintla <li>Guatemala <li>Huehuetenango <li>Izabal</ol><ol start=12> <li>Jalapa <li>Jutiapa <li>Quetzaltenango <li>Retalhuleu <li>Sacatepéquez <li>San Marcos <li>Santa Rosa <li>Sololá <li>Suchitepéquez <li>Totonicapán <li>Zacapa</ol></table> Guatemala là quốc gia có mức độ tập trung trung ương cao, tương tự như Pháp. Văn hoá, giao thông vận tải, viễn thông, kinh doanh, chính trị, hội sở, và đa số các hoạt động đô thị khác đều tập trung ở Thành phố Guatemala cũng là thành phố hiện đại nhất Trung Mỹ. Sự nổi trội này khiến thị trưởng Guatemala trở thành nhân vật chính trị đứng thứ hai trong nước, chỉ sau Tổng thống và đây cũng là chức vụ nền tảng cần thiết trước khi tiến vào dinh tổng thống, Berger trước khi trở thành tổng thống cũng từng là thị trưởng Guatemala. Thành phố Guatemala là thành phố khá lớn với khoảng 2 triệu dân sinh sống trong khu vực nội thành và 5 triệu tại các khu vực xung quanh, chiếm một số lượng đông đảo so với tổng số 12 triệu dân cả nước. Trong suốt lịch sử Guatemala đã trải qua nhiều thay đổi. Một số thay đổi nhỏ, nhưng một số thay đổi mang lại những ảnh hưởng to lớn trên quốc gia. Từ khi nền văn minh hiện đại bắt đầu phát triển tại Guatemala, nó đã gây ra hàng loạt các vấn đề chính trị. Các vấn đề này, theo một số mặt, là đặc trưng các quốc gia vùng Trung Mỹ, khiến các nhà lãnh đạo phải đau đầu đối phó. Địa lý Guatemala có địa hình nhiều núi non, ngoại trừ khu vực ven biển phía nam và những vùng đất thấp phía bắc thuộc khu Peten. Khí hậu nhiệt đới nóng – ôn hòa hơn ở vùng cao nguyên trong nội địa, và khô hơn ở các khu cực đông. Tất cả các thành phố lớn đều nằm ở phần phía nam đất nước. Các thành phố chính gồm thủ đô Thành phố Guatemala, Quetzaltenango và Escuintla. Hồ lớn nhất Lago de Izabal nằm gần bờ biển Caribe. Vị trí của Guatemala gần biển Caribe và Thái Bình Dương khiến nước này trở thành mục tiêu của nhiều cơn bão lớn, gồm cả trận Bão Mitch năm 1998 và Bão Stan năm 2005, làm thiệt mạng hơn 1.500 người. Kinh tế Lĩnh vực nông nghiệp chiếm một phần tư Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), hai phần ba xuất khẩu và một nửa lực lượng lao động. Cà phê, đường, và chuối là các mặt hàng xuất khẩu chính. Chế biến và xây dựng chiếm một phần năm GDP. Cũng đóng góp một phần quan trọng trong nền kinh tế là các khoản tiền gửi từ nước ngoài, "remesas" trong tiếng Tây Ban Nha, từ những người Guatemala đang làm việc tại Hoa Kỳ, chủ yếu là lao động bất hợp pháp và tạm thời. Việc ký kết hiệp ước hòa bình đã chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài hàng thập kỷ, dỡ bỏ chướng ngại cho đầu tư nước ngoài. Năm 1998, Bão Mitch gây ra thiệt hại cho Guatemala ở mức thấp so với các quốc gia láng giềng, đặc biệt là Honduras. Những thách thức còn lại gồm tăng cường nguồn thu của chính phủ, đảm phán để có được viện trợ cao hơn nữa từ quốc tế, và tăng năng lực cũng như tính mở của chính phủ và các cơ sở tài chính tư nhân. Năm 2005, dù có những cuộc biểu tình phản đối lớn trên đường phố, nghị viện Guatemala đã phê chuẩn Thỏa thuận Tự do Thương mại Cộng hòa Dominica-Trung Mỹ (DR-CAFTA) giữa nhiều quốc gia Trung Mỹ và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vì những thiệt hại khá lớn và ảnh hưởng tới kinh tế do cơn Bão Stan gây ra tháng 10, 2005, chính phủ đang đánh giá khả năng thực hiện các cơ cấu thỏa thuận trong tương lai và thời gian bắt đầu thực thi các điều khoản của DR-CAFTA vào tháng 2 năm 2006. Tính đến năm 2017, GDP (PPP) của Guatemala đạt 138.3 triệu USD, đứng thứ 75 thế giới (Theo Ngân hàng Thế giới). Nhân khẩu Theo World Fact Book của CIA, người Mestizo, hay như được gọi là Ladino tại Trung Mỹ, (lai người da đỏ châu Mỹ-Tây Ban Nha, hay người thuần chủng da đỏ châu Mỹ nhưng nói tiếng Tây Ban Nha) và những người có tổ tiên Âu (chủ yếu là người Tây Ban Nha, nhưng gồm cả người Đức, người Anh, người Italia, và người vùng Scandinavia) chiếm 60% dân số trong khi người da đỏ châu Mỹ chiếm xấp xỉ 40% (K'iche 9.1%, Kaqchikel 8.4%, Mam 7.9%, Q'eqchi' 6.3%, các nhóm khác Maya 8.6%, bản xứ không phải Maya 0.2%, khác 0.1%). Các nhóm dân tộc khác gồm người Garifuna là hậu duệ của các nô lệ châu Phi sống chủ yếu tại Livingston và Puerto Barrios, và những tộc người da đen và mulattos khác chiếm 1-2% dân số; người Ả rập gốc Liban và Syria, và người châu Á, chủ yếu là hậu duệ người Hán, chiếm khoảng 2% dân số. Cũng có một cộng đồng Triều Tiên tại Thành phố Guatemala và tại Mixco gần đó, hiện khoảng 50.000 người nhưng con số đang tiếp tục tăng lên. Dù đa số dân cư Guatemala sống ở các vùng thôn quê, quá trình đô thị hoá đang tăng tốc. Thành phố Guatemala (trên 2 triệu dân) đang mở rộng với tốc độ nhanh, và Quetzaltenango, thành phố lớn thứ hai (xấp xỉ 300 ngàn dân), cũng đang mở rộng. Di cư từ nông thôn ra thành thị được thúc đẩy bởi sự sao lãng của chính phủ với vùng nông thôn, cộng thêm giá cả hàng nông sản thấp, các điều kiện lao động nặng nhọc, sự tập trung đất trồng trọt vào tay một số gia đình giàu có, và nhận thức (thường là sai lệch) về đồng lương cao sẽ có được trong các thành phố. Nói chung các nông dân nghèo thường tới những khu vực ngoại ô thành phố, sống một cuộc sống bấp bênh trên các sườn núi. Tôn giáo chủ yếu là Cơ đốc giáo La Mã. Đạo Tin Lành và các tôn giáo Maya lần lượt được khoảng 33% và 1% người theo. Thường những lễ nghi truyền thống Maya được kết hợp vào trong các nghi lễ và tín ngưỡng Thiên chúa giáo, một quá trình được gọi là thuyết hổ lốn. Năm 1900, dân số Guatemala là 885.000 . Trong thế kỷ hai mươi dân số nước này đã tăng thêm mười bốn lần, tốc độ tăng trưởng cao nhất Tây Bán Cầu. Quá trình di cư ngày càng mạnh của người dân Guatemala sang Hoa Kỳ khiến số lượng các cộng đồng người Guatemala tại California, Florida, Illinois, New York,Texas và nhiều nơi khác không ngừng phát triển từ thập niên 1970. Ngôn ngữ Dù ngôn ngữ chính thức là tiếng Tây Ban Nha, nó không được dùng phổ thông trong cộng đồng người bản xứ, hay chỉ được dùng như một ngôn ngữ thứ hai; 21 ngôn ngữ Maya riêng biệt vẫn được dùng, đặc biệt tại các vùng nông thôn, và tiếng Garifuna được một lượng nhỏ người ven biển Caribe sử dụng. Tiếng Xinca, một ngôn ngữ không phải Maya và gần như đã biến mất, cũng là một ngôn ngữ bản xứ Guatemala. Hiệp định hòa bình được ký kết tháng 12 năm 1996 cho phép một số văn bản chính thức và các giấy tờ bầu cử được dịch sang các ngôn ngữ bản xứ, và giúp những người không nói tiếng Tây Ban Nha có quyền được phiên dịch tại các vụ xét xử. Hiệp định hòa bình cũng khiến cho hệ thống giáo dục song ngữ tiếng Tây Ban Nha và các loại tiếng bản xứ được đưa vào áp dụng. Tuy nhiên, việc người Guatemala nói tiếng Tây Ban Nha học hay sử dụng thêm một ngôn ngữ khác của đất nước hiếm khi xảy ra. Tôn giáo Thời thuộc địa, Cơ đốc giáo La Mã là tôn giáo duy nhất, và hiện đây vẫn là đức tin vượt trội với khoảng hai phần ba dân chúng là giáo dân. Tuy nhiên, các giáo phái Tin lành cũng đã có sự tăng trưởng đáng kể trong những thập kỷ gần đây, đặc biệt dưới thời cầm quyền của nhà độc tại đồng thời là mục sư Phúc Âm, Tướng Efraín Ríos Montt. Khoảng một phần ba người Guatemala theo Phúc Âm và Tôn giáo tin vào phép lạ. Tôn giáo Maya truyền thống cũng ngày càng được nhiều người tin theo nhờ kết quả của chính sách bảo hộ truyền thống theo hiệp định hòa bình. Chính phủ đã đưa ra chính sách cung cấp án thờ cho mọi tàn tích Maya trong nước để làm nơi tổ chức các nghi lễ. Ngoài ra cũng có các cộng đồng nhỏ Do Thái giáo (khoảng 1200), Hồi giáo (1200), và thành viên của các tín ngưỡng khác. Lãnh đạo Cơ đốc giáo La Mã của Guatemala hiện nay là Ngài Álvaro Leonel Ramazzini Imeri. Giáo dục Chính phủ điều hành một số trường tiểu học và trung học trong nước. Các trường này miễn phí, dù học sinh vẫn phải trả tiền đồng phục, sách vở, và tiền chuyên chở khiến những tầng lớp nghèo khó trong xã hội còn khó tiếp cận. Những trẻ em thuộc các gia đình trung lưu và thượng lưu theo học tại các trường tư. Một số trường gồm: Colegio Americano de Guatemala (CAG), Colegio Interamericano de Guatemala (CIG). Nước này cũng có một trường đại học công lập (Universidad de San Carlos de Guatemala), và 9 trường tư (xem Danh sách các trường Đại học tại Guatemala). Văn hoá Giải Văn học Quốc gia Guatemala là giải chỉ trao một lần, công nhận toàn thể sự nghiệp của một nhà văn. Nó bắt đầu được Bộ Văn hóa và Thể thao trao hàng năm từ năm 1988. Thành phố Guatemala là nơi có nhiều bảo tàng và thư viện quốc gia, gồm Văn khố Quốc gia, Thư viện Quốc gia và Bảo tàng Khảo cổ học và Phong tục học với nhiều bộ sưu tập đồ thủ công Maya lớn. Bảo tàng Thuộc địa, tại Antigua Guatemala, có trưng bày nhiều đồ nghệ thuật từ thời thuộc địa. Các chủ đề khác Viễn thông tại Guatemala Vận tải Guatemala Danh sách nhân vật Guatemala Quetzal (biểu tượng quốc gia Guatemala)
Haiti (; tiếng Pháp Haïti, ; tiếng Haiti: Ayiti), tên chính thức Cộng hòa Haiti ); (Tiếng Haiti: Repiblik Ayiti) (Tiếng Việt: Cộng hòa Ha-i-ti), là một quốc gia ở vùng biển Ca-ri-bê nói tiếng Creole Haiti- và tiếng Pháp. Cùng với Cộng hòa Dominicana, quốc gia này nằm ở đảo Hispaniola, trong quần đảo Đại Antilles. Ayiti (vùng đất núi cao) đã là tên Taíno hay Amerindian bản địa của phía tây núi non của hòn đảo. Điểm cao nhất quốc gia này là Pic la Selle, với độ cao . Tổng diện tích là 27.750 km² và thủ đô là Port-au-Prince. Vị trí dân tộc, ngôn ngữ và lịch sử của Haiti độc đáo vì nhiều lý do. Đây là quốc gia độc lập đầu tiên ở Mỹ Latin, quốc gia do người da đen độc lập phi thực dân hóa đầu tiên trên thế giới, là quốc gia duy nhất mà sự độc lập một phần là nhờ cuộc nổi loạn nô lệ. Dù có mối liên hệ văn hóa với các láng giềng Hispano-Caribbe, Haiti là quốc gia độc lập chủ yếu sử dụng Pháp ngữ ở châu Mỹ, và là một trong hai quốc gia (cùng với Canada) với tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức. Lịch sử Tiền thuộc địa và giai đoạn thực dân Tây Ban Nha Đảo Hispaniola, trong đó Haiti chiếm một phần ba phía tây, là một trong những hòn đảo Caribê có thổ dân Taíno - một nhánh của bộ tộc Nam Mỹ Arawak. Tên Taino cho toàn bộ đảo đã là Kiskeya. Người ta cho ràng người Taínos gọi phía tây hòn đảo là Ayiti, có nghĩa là "đất miền núi", và một phần của Ayiti họ gọi là Bohio, nghĩa là "làng giàu". Trong xã hội Taino ở quần đảo Caribê, các đơn vị lớn nhất của tổ chức chính trị đã được lãnh đạo bởi một Cacique, vì vậy thuật ngữ 'caciquedom' (tù trưởng)(caciquat trong tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha là cacicazgo) cho các xã hội có tổ chức Taino, mà thường được gọi là "thủ lĩnh". Trước khi Christopher Columbus đến đây, đảo Hispaniola được chia cho các năm lãnh thổ của tù trưởng đã hình thành lâu dài: Marien, Xaragua, Maguana, Higuey, và Magua. Haiti ngày nay bao trùm gần như tất cả các lãnh thổ của hai lãnh thổ đầu tiên trong số này. Haiti được nhà thám hiểm Cristobal Colon phát hiện ra vào năm 1492. Lúc đầu, Tây Ban Nha xâm chiếm phần phía Đông đảo La Espanola. Năm 1697, Tây Ban Nha nhượng lại cho Pháp phần phía Tây với tên gọi là Saint Domingue. Trong thế kỷ XVIII, Saint Domingue xuất khẩu đường, ca cao, cà phê và là thuộc địa thịnh vượng nhất của Pháp tại châu Mỹ. Từ 1791 đến 1794, cách mạng giải phóng nô lệ nổ ra, đưa đến xoá bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ ở Haiti. Năm 1794, Pháp chiếm lại toàn bộ đảo La Espanola. Từ 1801-1803, nhân dân Haiti nổi dậy dưới sự lãnh đạo lúc đầu của Toussaint Louverture và sau đó của Jacques Dessalines đánh bại đội quân Napoleon. Năm 1804, J. Dessalines lên ngôi Hoàng đế và tuyên bố Haiti độc lập. Từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Haiti luôn bất ổn định chính trị, nhiều cuộc đảo chính đã xảy ra. Từ 1915 - 1934, Mỹ chiếm đóng Haiti. Sau khi Mỹ rút đi, Haiti lại rơi vào tình trạng bất ổn định. Năm 1957, François Duvalier trúng cử Tổng thống, thiết lập chế độ độc tài. Năm 1964, Duvalier xoá bỏ các đảng phái đối lập và tự xưng Tổng thống suốt đời. Năm 1971, Duvalier chết, con trai là Jean-Claude Duvalier lên thay. Năm 1986, giới quân sự được Mỹ hậu thuẫn đảo chính lật đổ Jean-Claude Duvalier. Năm 1990, trong cuộc tổng tuyển cử tự do đầu tiên, Jean Bertrand Aristide đắc cử Tổng thống nhưng bị giới quân sự đảo chính lật đổ (tháng 9 năm 1991).Trước đòn trừng phạt bao vây kinh tế của Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ (OAS), Liên Hợp Quốc và Mỹ, nhằm đưa Aristide trở lại cầm quyền, tướng Raoul Cedras đã buộc phải ký thoả thuận với Aristide (7/1993), nhưng giới quân sự Haiti chống đối. Tháng 9 năm 1994, Mỹ can thiệp quân sự dưới danh nghĩa LHQ, đưa Tổng thống Aristide trở lại Haiti. Từ 1996 - 2000, Tổng thống René Preval (được Aristide ủng hộ) lên cầm quyền. Tháng 12 năm 2000, Aristide tái đắc cử Tổng thống (nhậm chức 7 tháng 2 năm 2001). Đầu năm 2004, Haiti lại rơi vào khủng hoảng chính trị, Tổng thống Aristide một lần nữa bị lật đổ và đi lưu vong nước ngoài. Thập niên 2000 Aristide tái đắc cử năm 2000. Nhiệm kỳ thứ hai của ông đã được đánh dấu bằng các cáo buộc tham nhũng. Năm 2004, một cuộc đảo chính bán quân sự đã lật đổ Aristide lần thứ hai. (Xem cuộc nổi dậy Haiti năm 2004) Aristide đã được Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đưa đi khỏi nhà trong vụ mà ông mô tả là một vụ bắt cóc, và một thời gian ngắn ông được chính phủ Cộng hòa Nam Phi giữ (Mỹ quyết định đưa ông đến đó). Aristide được thả và sống lưu vong ở Nam Phi. Boniface Alexandre tạm thời nắm quyền. Trong tháng 2 năm 2006, sau cuộc bầu cử đánh dấu bởi sự không chắc chắn và các cuộc biểu tình phổ biến, René Préval được bầu làm tổng thống. Ủy ban ổn định của Liên Hợp Quốc ở Haiti (còn gọi là MINUSTAH) đã ở quốc gia này kể từ cuộc nổi loạn năm 2004 của Haiti. Vào năm 2010, ở Haiti đã có một trận động đất kinh hoàng gây thiệt hại nặng nề cho người dân nơi đây. Chính trị Theo chế độ Cộng hoà. Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia. Thủ tướng là người đứng đầu Chính phủ. Quốc hội lưỡng viện gồm Thượng viện (27 thượng nghị sĩ được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 6 năm) và Hạ viện (83 hạ nghị sĩ được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm). Haiti theo chế độ đa đảng. Các đảng phái chính là: Đảng Fanmi Lavalas (FL), Liên minh hội tụ Dân chủ (CD). Địa lý Haiti nằm ở phía tây của đảo Hispaniola, hòn đảo lớn thứ nhì trong Đại Antilles. Haiti là quốc gia lớn thứ 3 trong vùng Caribe sau Cuba và Cộng hòa Dominica (Cộng hòa Dominica có cùng 360 km biên giới với Haiti). Điểm gần nhất của Haiti cách Cuba khoảng 80 km và có đường bờ biển dài thứ 2 () trong Đại Antilles, sau Cuba. Địa hình của Haiti bao gồm chủ yếu là núi non hiểm trở xen với vùng đồng bằng nhỏ ven biển và thung lũng sông. Vùng phía bắc gồm khối núi phía bắc (Massif du Nord) và đồng bằng phía bắc (Plaine du Nord). Khối núi phía bắc là phần kéo dài của dãy núi trung tâm từ cộng hòa Dominicana. Nó bắt đầu ở biên giới phía đông của Haiti, phía bắc của sông Guayamouc, và kéo dài đến phía tây bắc xuyên qua bán đảo phía bắc. Các vùng đất thấp của Plaine du Nord nằm kéo dài theo ranh giới phía bắc với cộng hòa Dominicana, giữa Massif du Nord và Bắc Đại Tây Dương. Vùng trung tâm gồm hai đồng bằng và hai dãy núi. Cao nguyên trung tâm kéo dài dọc theo cả hai phía của sông Guayamouc, phía nam của Massif du Nord. Nó chạy từ đông nam đến tây bắc. Về phía tây nam của Cao nguyên trung tâm là Montagnes Noires, hầu hết phần phía tây của địa hình này nhập chung với Massif du Nord. Điểm cực tây của nó là mũi Carcasse. Tôn giáo Tôn giáo hiện nay của Haiti gồm có: Công giáo La Mã 80% dân số, Tin lành 16% (Baptist 10%, Phong trào Ngũ Tuần 4%, Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm 1%, khác 1 %), vô thần 1%, tôn giáo khác 3%. Công giáo Rôma Tương tự như phần còn lại của châu Mỹ La tinh, Haiti bị chiếm làm thuộc địa của cường quốc châu Âu theo Công giáo Rôma nên tôn giáo này cũng được mang đến đây. Hiện nay, đạo Công giáo được ghi nhận trong hiến pháp Haiti là quốc giáo chính thức, và từ 80 đến 85% người dân Haiti là người Công giáo. Giáo hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm Haiti vào năm 1983. Theo Giáo hội Công giáo Haiti, hiện tại nước này có 2 Tổng giáo phận, 8 giáo phận, 251 giáo xứ và khoảng 1500 giáo hạt. Các giáo sĩ địa phương có 17 giám mục (có 1 Hồng y là Chibly Langlois), 400 linh mục triều và 300 chủng sinh. Ngoài ra còn có 1.300 linh mục thuộc hơn 70 dòng tu và quân đoàn huynh đệ. Trong trận động đất lịch sử năm 2010, nhà thờ chính tòa Port-au-Prince, một chủng viện, và một số văn phòng của Tổng giáo phận Port-au-Prince bị thiệt hại lớn trong trận động đất này. Trong số rất nhiều nạn nhân của nó có Tổng giám mục Joseph Serge Miot của Tổng giáo phận Port-au-Prince và nhiều chủng sinh cũng như em gái Hồng y Paulo Evaristo Arns của Brazil. Tin Lành Hiện nay, có một số giáo phái Tin Lành đang hoạt động tại Haiti. Giáo phái đông nhất là Anh giáo với 83.698 thành viên năm 2008. Giáo phái thứ hai là Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô tuyên bố có hơn 18.000 thành viên và 42 chi hội ở Haiti. Hồi giáo Có một cộng đồng Hồi giáo nhỏ ở Haiti, chủ yếu cư trú tại Port-au-Prince, Cap-Haitien và vùng ngoại ô của nó. Lịch sử của Hồi giáo trên đảo Hispaniola (trong đó có 2 nước là Haiti và Cộng hòa Dominica) bắt đầu với những nô lệ được đem đến Haiti. Năm 2000, Nawoon Marcellus, một tín đồ Hồi giáo ở San Raphael, đã trở thành người Hồi giáo đầu tiên được bầu vào Viện đại biểu (Quốc hội) Haiti. Bahá'í Tôn giáo Bahá'í ở Haiti được truyền đến năm 1916 và là một trong những đảo quốc vùng Caribbean có số lượng đáng kể tín đồ tôn giáo này. Hội đồng tin thần Bahá'í địa phương đầu tiên của Haiti được thành lập vào năm 1942 tại Port-au-Prince. Năm 1961, Hội đồng tin thần Bahá'í quốc gia Haiti được thành lập. Theo ước tính hiện nay, đạo Baha'í có 21.000 tín đồ tại Haiti vào năm 2005. Phân chia hành chính Haiti được chia thành 10 tỉnh (department). Các tỉnh được chia như danh sách dưới đây, với tỉnh lỵ trong ngoặc đơn. Artibonite (Gonaïves) Centre (Hinche) Grand'Anse (Jérémie) Nippes (Miragoâne) Nord (Cap-Haïtien) Nord-Est (Fort-Liberté) Nord-Ouest (Port-de-Paix) Ouest (Port-au-Prince) Sud-Est (Jacmel) Sud (Les Cayes) Các tỉnh được chia thành 41 huyện (arrondissement) và 133 xã (commune). Kinh tế Theo phần lớn cách đánh giá kinh tế, Haiti là nước nghèo nhất ở châu Mỹ. GDP danh nghĩa của nước này đạt 7,51 tỷ USD trong năm 2016, với GDP bình quân đầu người 825 USD, mức khoảng 2 $ / người / ngày, đứng thứ 142 thế giới và đứng thứ 4 khu vực Caribe.. Đây là một nước nghèo khó, một trong những nước nghèo và kém phát triển nhất thế giới. Các chỉ số so sánh xã hội và kinh tế cho thấy Haiti rơi xuống phía dưới mức các nước có thu nhập thấp đang phát triển (đặc biệt là ở bán cầu) kể từ những năm 1980. Haiti bây giờ đứng thứ 149 trên 182 quốc gia trong chỉ số phát triển con người của Liên Hợp Quốc (2006). Khoảng 80% dân số được ước tính đang sống trong cảnh nghèo đói trong năm 2003.. Hầu hết người dân Haiti sống trên dưới 2 USD mỗi ngày. Haiti có 50% dân số mù chữ,, và hơn 80% sinh viên tốt nghiệp đại học từ Haiti đã di cư, chủ yếu vào Hoa Kỳ.. Cité Soleil được xem là một trong những khu nhà ổ chuột tồi tệ nhất ở châu Mỹ,, [61] nhất của 500.000 cư dân của nó sống trong cảnh nghèo đói cùng cực nghèo đã buộc ít nhất 225.000 trẻ em ở các thành phố của Haiti vào chế độ nô lệ., làm việc như những đầy tớ rong các hộ gia đình mà không được trả lương. Khoảng 66% của lao động Haiti làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm chủ yếu là nông nghiệp tự túc quy mô nhỏ, nhưng hoạt động này chỉ chiếm 30% GDP. Các quốc gia đã trải qua quá trình ít tạo việc làm chính thức trong thập kỷ qua, mặc dù nền kinh tế không chính thức đang tăng. Xoài và cà phê là hai trong số các mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Haiti 1% số người giàu nhất Haiti có gần một nửa tài sản của đất nước. Haiti đã luôn được xếp hạng trong số các quốc gia tham nhũng nhiều nhất trên thế giới về Chỉ số nhận thức tham nhũng.Kể từ ngày "Papa Doc" Duvalier, chính phủ Haiti đã nổi tiếng về tham nhũng. Haiti độc tài "Baby Doc" Duvalier, Michelle vợ ông, và ba người khác được cho là đã lấy 504 triệu USD từ ngân quỹ công cộng Haiti giữa năm 1971 và 1986 Viện trợ nước ngoài chiếm khoảng 30-40% ngân sách quốc gia của chính phủ. Các nhà tài trợ lớn nhất là Hoa Kỳ - theo sau là Canada và Liên minh châu Âu cũng góp phần hỗ trợ . Từ năm 1990-2003, Haiti đã nhận được hơn 4 tỷ USD trong viện trợ. Riêng Hoa Kỳ đã cung cấp cho Haiti 1,5 tỷ USD viện trợ Venezuela và Cuba cũng đóng góp nhiều cho nền kinh tế Haiti, đặc biệt là sau khi các thỏa thuận liên minh đã được gia hạn trong năm 2006 và 2007. Trong tháng 1 năm 2010, Trung Quốc đã hứa viện trợ cấp 4,2 triệu USD cho hòn đảo bị động đất này còn Tổng thống Obama cam kết Mỹ hỗ trợ 100 triệu USD . Viện trợ của Mỹ cho chính phủ Haiti đã bị cắt bỏ hoàn toàn trong giai đoạn 2001-2004 sau cuộc bầu cử năm 2000 bị tranh chấp và Tổng thống Aristide bị cáo buộc có các hành động xấu khác nhau . Sau sự ra đi của Aristide của năm 2004, viện trợ đã được phục hồi, và quân đội Brazil đã chỉ huy cấc hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc tạiHaiti. Sau gần 4 năm suy thoái kết thúc vào năm 2004, nền kinh tế tăng 1,5% trong năm 2005 . Năm 2005 tổng nợ nước ngoài của Haiti đã lên đến 1,3 tỷ đô la Mỹ, tương ứng với một món nợ bình quân đầu người là 169 USD, so với mức nợ bình quân đầu người của Hoa Kỳlà 40.000 USD. Trong tháng 9 năm 2009, Haiti đã đáp ứng các điều kiện đặt ra của IMF và chương trình các quốc gia mắc nợ nặng nề của Ngân hàng Thế giới đủ điều kiện để hủy bỏ nợ nước ngoài . Chú thích
Thảm hoạ Chernobyl (Tiếng Ukraina: Чорнобильська катастрофа; Tiếng Nga: Чернобыльская катастрофа) là một vụ tai nạn hạt nhân xảy ra vào Thứ bảy ngày 25 tháng 4 năm 1986 khi nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ở Pripyat, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina (Xô-viết Ukraina, không phải Ukraina) bị nổ tại lò phản ứng số 4. Nó được coi là thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất trong lịch sử cả về phí tổn và thương vong. Do không có tường chắn, đám mây bụi phóng xạ từ nhà máy lan rộng ra nhiều vùng phía tây Liên bang Xô viết, Đông Âu và Tây Âu, Scandinavia, Anh quốc, và đông Hoa Kỳ. Nhiều vùng rộng lớn thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, Belarus và Nga bị ô nhiễm nghiêm trọng, dẫn tới việc phải sơ tán và tái định cư cho hơn 336.000 người. Khoảng 60% đám mây phóng xạ đã rơi xuống Belarus. Theo bản báo cáo năm 2006 của TORCH, một nửa lượng phóng xạ đã rơi xuống bên ngoài lãnh thổ ba nước cộng hoà Xô viết. Thảm hoạ này phát ra lượng phóng xạ lớn gấp bốn trăm lần so với quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima. Vụ tai nạn làm dấy lên những lo ngại về sự an toàn trong ngành công nghiệp năng lượng hạt nhân Xô viết, làm đình trệ sự phát triển của ngành này trong nhiều năm, đồng thời buộc chính phủ Xô viết phải công bố một số thông tin. Các quốc gia: Nga, Ukraina, Belarus, ngày nay là các quốc gia độc lập, đã phải chịu chi phí cho nhiều chiến dịch khử độc và chăm sóc sức khoẻ cho những người bị ảnh hưởng từ vụ Chernobyl. Rất khó để kiểm kê chính xác số người đã thiệt mạng trong tai nạn này, bởi vì sự che đậy thông tin thời Xô viết gây khó khăn cho việc truy ra những nạn nhân. Danh sách này không đầy đủ, và chính quyền Xô viết sau đó đã cấm các bác sĩ được ghi chữ "phóng xạ" trong giấy chứng tử. Tuy nhiên, đa số những căn bệnh nguy hiểm về lâu dài có thể dự đoán trước như ung thư, trên thực tế vẫn chưa xảy ra, và sẽ rất khó để gắn nó có nguyên nhân trực tiếp với vụ tai nạn. Những ước tính và những con số đưa ra khác nhau rất xa. Một bản báo cáo năm 2005 do Hội nghị Chernobyl, dưới quyền lãnh đạo của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đưa ra cho rằng có 56 người chết ngay lập tức; 47 công nhân và 9 trẻ em vì ung thư tuyến giáp, và ước tính rằng có khoảng 9.000 người, trong số gần 6.6 triệu, cuối cùng sẽ chết vì một loại bệnh ung thư nào đó. Riêng tổ chức Hoà bình xanh ước tính tổng số người chết là 93.000, nhưng đã ghi trong bản báo cáo của họ rằng "Những con số được đưa ra gần đây nhất cho thấy rằng chỉ riêng ở Belarus, Nga và Ukraina vụ tai nạn có thể đã dẫn tới cái chết thêm của khoảng 200.000 người trong giai đoạn từ 1990 đến 2004." Nhà máy Nhà máy điện nguyên tử Chernobyl mang tên V. I. Lenin (Чернобыльская АЭС им. В.И.Ленина; Chernobyl'skaya AES im. V.I.Lenina) () nằm ở thị trấn Pripyat, Ukraina, cách 18 km về phía tây bắc thành phố Chernobyl, 16km từ biên giới Ukraina và Belarus, và khoảng 110km phía bắc Kiev. Nhà máy có bốn lò phản ứng, mỗi lò có thể sản xuất ra 1 gigawatt (GW) điện (3,2 gigawatts nhiệt điện), và cả bốn lò phản ứng sản xuất ra khoảng 10% lượng điện của Ukraina ở thời điểm xảy ra vụ tai nạn. Việc xây dựng nhà máy được bắt đầu từ thập kỷ 1970, lò phản ứng số 1 bắt đầu hoạt động năm 1977, tiếp theo là lò phản ứng số 2 (1978), số 3 (1981), và số 4 (1983). Thêm hai lò phản ứng nữa (số 5 và số 6, mỗi lò cũng có khả năng sản xuất 1 gigawatt) đang được xây dựng ở thời điểm xảy ra tai nạn. Bốn tổ máy phát điện đó sử dụng lò phản ứng kiểu RBMK-1000. Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl vẫn tiếp tục sản xuất điện thêm 14 năm sau thảm hoạ và chỉ đóng cửa hoàn toàn vào năm 2000 do sức ép của quốc tế. Một vùng cách ly có bán kính 30km được thiết lập quanh Chernobyl và đây là một trong những điểm nhiễm phóng xạ đậm đặc nhất trên hành tinh hiện nay. Diễn biến vụ tai nạn Thứ bảy ngày 26 tháng 4 năm 1986, lúc 1:23:45 sáng giờ địa phương, tại lò phản ứng số 4 nhà máy điện Chernobyl, năng lượng đột ngột tăng vọt ở mức cao gây ra hàng loạt các vụ nổ và làm tan chảy lõi lò phản ứng hạt nhân. dẫn đến phát tán một lượng lớn các chất đồng vị phóng xạ vào khí quyển. Các nguyên nhân Có hai giả thuyết chính thức xung đột với nhau về nguyên nhân gây tai nạn. Giả thuyết đầu tiên được đưa ra vào tháng 8 năm 1986 và chỉ buộc tội những người điều hành nhà máy điện. Giả thuyết thứ hai do Valeri Legasov ủng hộ và được đưa ra năm 1991, coi nguyên nhân vụ tai nạn là do những yếu kém trong thiết kế lò RBMK, đặc biệt là các thanh điều khiển. Cả hai giả thuyết này đều được nhiều nhóm ủng hộ, gồm cả các nhà thiết kế lò phản ứng, những người điều hành nhà máy điện Chernobyl, và chính phủ. Một số chuyên gia độc lập hiện nay tin rằng không một giả thuyết nào trong số hai giả thuyết trên là hoàn toàn chính xác. Một nhân tố quan trọng góp phần vào vụ tai nạn là những người điều hành không được thông báo về những vấn đề của lò phản ứng. Theo một người trong số họ, Anatoly Dyatlov, những người thiết kế đã biết rằng lò phản ứng sẽ gặp phải nguy hiểm ở một số điều kiện nhưng đã cố tình che đậy thông tin đó. Một lý do khác là ban quản lý nhà máy điện phần lớn gồm những người chưa được đào tạo về kiểu lò RBMK: giám đốc, V.P. Bryukhanov, có kinh nghiệm và đã được đào tạo về nhà máy nhiệt điện dùng than. Kỹ sư trưởng của ông, Nikolai Fomin, cũng là người đã làm việc tại một nhà máy phát điện thông thường. Chính Anatoly Dyatlov, phó kỹ sư trưởng của các lò phản ứng số 3 và số 4, chỉ có "một số kinh nghiệm về những lò phản ứng hạt nhân loại nhỏ", cụ thể là những lò phản ứng nhỏ kiểu VVER được thiết kế cho các tàu ngầm hạt nhân của Liên Xô. Đặc biệt: Lò phản ứng có một hệ số trống dương lớn rất nguy hiểm. Theo cách hiểu thông thường, điều này có nghĩa là nếu các bong bóng hơi nước hình thành trong nước làm mát của lò phản ứng, phản ứng hạt nhân sẽ tăng tốc, dẫn tới việc phản ứng xảy ra dễ dàng hơn nếu không có một cơ chế kiểm soát khác. Một điều tồi tệ hơn, khi lò phản ứng sản xuất điện ở mức thấp, hệ số trống dương này không được bù đắp bằng những nhân tố khác, nó làm lò phản ứng mất ổn định và nguy hiểm. Việc lò phản ứng gặp nguy hiểm khi nó sản xuất điện ở mức thấp là điều hoàn toàn xa lạ với trực giác của những người điều hành và họ cũng chưa từng biết đến điều đó. Một chỗ yếu kém đáng lưu ý khác của lò phản ứng là thiết kế các thanh điều khiển. Trong một lò phản ứng hạt nhân, các thanh điều khiển được đưa vào trong lò để làm chậm quá trình phản ứng. Tuy nhiên, trong thiết kế lò RBMK, đầu mút của thanh điều khiển được làm bằng graphite, những phần kéo dài ra (phần thuộc thanh điều khiển ở bên trên các đầu mút, dài khoảng 1 mét) là rỗng và chứa đầy nước, trong khi sự cân bằng của thanh điều khiển - phần thực sự hoạt động, hấp thụ các neutron và do đó ngăn chặn phản ứng - được làm bằng carbide bo. Trong vài khoảnh khắc đầu tiên khi các thanh điều khiển kiểu này được đưa vào trong lò, nước làm mát bị những đầu mút bằng graphit chiếm chỗ. Vì thế, (nước) làm mát, một chất hấp thụ neutron, bị graphit (than chì) chiếm chỗ, một cơ cấu điều tiết neutron – là một vật chất có tác dụng làm tăng phản ứng hạt nhân chứ không phải làm chậm nó lại. Trong vài giây đầu tiên khi vận hành, các thanh điều khiển "làm tăng" tốc độ phản ứng, chứ không phải làm giảm như mong muốn. Những người điều hành nhà máy điện không hề biết tới điều đó. Những người điều hành đã thiếu cẩn trọng và vi phạm các quy trình quản lý nhà máy, một phần vì họ thiếu thông tin về những điểm yếu trong thiết kế của lò. Nhiều hành động trái quy tắc khác cũng góp phần vào nguyên nhân gây ra tai nạn. Một nguyên nhân là sự thiếu trao đổi thông tin giữa những nhân viên phụ trách an toàn và những người điều hành lò vào tối hôm đó. Cũng cần phải chú ý rằng những người điều hành đã tắt nhiều hệ thống an toàn của lò phản ứng, điều này nói chung là bị cấm ngặt theo những hướng dẫn kỹ thuật điều hành nhà máy. Theo báo cáo của Uỷ ban chính phủ được đưa ra tháng 8 năm 1986, những người điều hành đã di dời ít nhất 204 thanh điều khiển khỏi tâm lò (trong tổng số 211 thanh của kiểu lò này), chỉ còn để lại bảy thanh. Những hướng dẫn kỹ thuật như vừa đề cập ở trên cũng cấm điều hành lò RBMK-1000 khi có ít hơn 15 thanh điều khiển bên trong vùng tâm lò phản ứng. Các sự kiện Ngày 25 tháng 4 năm 1986, lò phản ứng số 4 được dự định dừng hoạt động cho công việc bảo dưỡng thông thường. Và vì thế, người ta đã muốn tận dụng cơ hội này để thử nghiệm khả năng tua bin phát điện của lò vẫn cấp đủ điện cho hệ thống an toàn của lò phản ứng (đặc biệt là các bơm nước) trong trường hợp nhà máy bị cắt nguồn điện từ bên ngoài. Các lò phản ứng như kiểu Chernobyl có hai máy phát điện diesel luôn để dự phòng, nhưng chúng không thể hoạt động ngay lập tức, vì thế lò phản ứng được dùng để phát động tua bin, tới khi tua bin có thể cắt khỏi lò phản ứng và tự chạy theo lực quay quán tính của nó, và mục đích của việc thử nghiệm này là kiểm tra xem các tua bin khi đang ở tình trạng chạy theo quán tính có thể cung cấp đủ điện cho các máy bơm hay không trong khi khởi động các máy phát điện dự phòng. Cuộc thử nghiệm này trước đó từng thành công ở một lò phản ứng khác (với đầy đủ mọi quy chuẩn an toàn) và dòng xuất là âm (có nghĩa là, các tua bin phát ra đủ điện trong tình trạng chạy theo quán tính để cung cấp cho các máy bơm), nhưng những cải tiến thêm đã được thực hiện để các tua bin có thể cung cấp đủ năng lượng cho một kiểm nghiệm khác. Công suất của lò phản ứng Chernobyl-4 được giảm từ mức thông thường 3.200 MW nhiệt xuống 1.000 MW nhiệt để có thể tiến hành thử nghiệm ở mức độ năng lượng thấp hơn và an toàn hơn. Tuy nhiên, vì có sự chậm trễ trong quá trình thử nghiệm thực tế và lỗi của những người điều hành nên công suất đã giảm xuống quá nhanh, và công suất thực tế giảm xuống còn 30 MW nhiệt. Vì thế, sự tập trung sản phẩm chất thành tạo hạt nhân xenon-135 tăng lên (sản phẩm này thường chỉ được dùng trong lò phản ứng hạt nhân ở những điều kiện phát năng lượng lớn). Dù tỷ lệ giảm năng lượng gần tới mức tối đa do các quy định an toàn đề ra, những người điều hành lại không ngừng hoạt động của lò mà tiếp tục thực nghiệm. Hơn nữa, họ đã quyết định ‘làm tắt’ cuộc thực nghiệm và chỉ tăng công suất lên 200 MW. Nhằm thoát khỏi tình trạng hấp thụ hạt nhân dư thừa xenon-135, các thanh điều khiển được kéo ra khỏi lò nhiều hơn so với mức cho phép trong các quy định an toàn. Lúc 1:05 sáng ngày 26 tháng 4, như một phần thực nghiệm, các máy bơm nước được dẫn động bằng máy phát tua bin được bật lên; dòng nước do chúng tạo ra vượt quá mức các quy định an toàn cho phép. Dòng nước tăng lên lúc 1:19 sáng—bởi vì nước cũng hấp thu neutron, nó càng làm tăng dòng nước cần thiết để có thể kéo các thanh điều khiển ra một cách thủ công, tạo ra một tình trạng hoạt động rất không ổn định và nguy hiểm. Luồng hơi phóng xạ được tạo ra ngay sau vụ nổ ban đầu, bằng chứng ở đây là do nhiệt phân hủy. Những mái che lớn của tuabin bị hư hỏng nặng (giữa ảnh). Nóc nhà của lò phản ứng 3 liền kề (phía dưới bên trái) cho thấy có đám cháy nhẹ. Lúc 1:23:04 sáng, cuộc thực nghiệm bắt đầu. Tình trạng không ổn định của lò không hề được thể hiện theo bất kỳ cách nào trên thanh điều khiển, và có lẽ không một ai trong đội điều hành biết rõ hoàn toàn về mức độ nguy hiểm. Điện cấp cho các máy bơm nước bị ngắt, và khi chúng đang chạy nhờ vào máy phát điện tua bin chạy theo quán tính, dòng nước bơm giảm đi. Tua bin bị ngắt khỏi lò phản ứng, làm tăng lượng hơi trong lõi lò. Khi nước làm mát nóng lên, các bong bóng hơi hình thành bên trong dòng nước làm mát. Thiết kế đặc biệt điều khiển phản ứng bằng graphit của lò RBMK ở Chernobyl có hệ số trống dương rất lớn, có nghĩa là năng lượng của lò phản ứng tăng lên nhanh chóng khi không có hiệu ứng hấp thu neutron của nước, và trong trường hợp đó, hoạt động của lò phản ứng dần trở nên bất ổn định và nguy hiểm. Lúc 1:23:45 sáng, những người điều hành ấn nút AZ-5 ("Bảo vệ nguy hiểm khẩn cấp 5") điều khiển một "SCRAM" — một thiết bị ngắt của lò phản ứng, đưa toàn bộ các thanh điều khiển, gồm cả các thanh điều khiển vận hành thủ công vốn đã được rút ra một cách khinh suất từ trước vào trong lò phản ứng. Vẫn chưa biết rõ liệu đây có phải là một hành động phản ứng khẩn cấp, hay nó chỉ đơn giản là một biện pháp thông thường để ngắt lò phản ứng khi đã hoàn thành một thực nghiệm (lò phản ứng đã được định giờ ngắt cho bảo dưỡng thông thường). Thường mọi người cho rằng SCRAM được dùng để đối phó với trường hợp tăng năng lượng quá nhanh. Mặt khác, Anatoly Dyatlov, là kỹ sư trưởng nhà máy điện nguyên tử Chernobyl khi xảy ra tai nạn, đã viết trong cuốn sách của ông: Vì tốc độ chậm chạp của cơ cấu đưa thanh điều khiển vào trong (18–20 giây để hoàn thành), những đầu rỗng của các thanh và sự chiếm chỗ tạm thời của nước làm mát, SCRAM làm cho mức độ phản ứng tăng lên. Năng lượng được sản xuất ra tăng lên gây ra biến dạng đường dẫn thanh điều khiển. Các thanh điều khiển bị tắc lại sau khi mới chỉ được đưa vào trong một phần ba, và vì thế không thể dừng phản ứng lại được. Lúc 1:23:45 lò phản ứng nhảy lên mức 30 GW, gấp mười lần công suất hoạt động thông thường. Các thanh nhiên liệu bắt đầu chảy ra và áp lực hơi nhanh chóng tăng lên gây ra một vụ nổ hơi lớn, làm bắn tung và phá huỷ nắp lò phản ứng, làm vỡ các ống dẫn nước làm mát và sau đó thổi bay một mảng trần. Để giảm giá thành xây dựng và vì kích cỡ to lớn của lò phản ứng, nó chỉ được xây dựng tường chắn một phần. Điều này làm cho chất ô nhiễm phóng xạ thoát ra ngoài không khí sau khi vụ nổ thổi bay lớp vỏ đầu tiên. Sau đó, một phần mái sụp xuống, oxy tràn vào — cộng với nhiệt độ cực cao của nhiên liệu lò phản ứng và graphit của bộ phận điều tiết — gây cháy graphit. Đám cháy này góp phần lớn vào sự lan tràn nhiên liệu phóng xạ và các nguyên tố gây ô nhiễm ra các vùng xung quanh. Có một số mâu thuẫn về những sự kiện chính xác đã xảy ra sau 1:22:30 (theo giờ địa phương) vì có sự trái ngược giữa những lời kể của nhân chứng và những thông tin lưu trữ của nhà máy. Giả thuyết được chấp nhận rộng rãi là những sự kiện được liệt kê ở trên. Theo giả thuyết này, vụ nổ đầu tiên xảy ra vào khoảng 1:23:45, năm giây sau khi những người vận hành lò phản ứng kích hoạt "SCRAM". Thỉnh thoảng cũng có ý kiến cho rằng vụ nổ đã xảy ra ‘trước khi’ hay ngay lập tức sau khi vận hành SCRAM (đây cũng là quan điểm của Uỷ ban Xô viết điều tra vụ tai nạn). Sự phân biệt này là quan trọng, bởi vì nếu lò phản ứng đạt tới tình trạng tới hạn trong vài giây sau khi vận hành SCRAM, thì lý do có thể bị gán cho thiết kế của các thanh điều khiển, trong khi nếu vụ nổ xảy ra lúc vận hành SCRAM thì lỗi sẽ được quy cho những người điều hành. Quả thực, vụ nổ giống như với một trận động đất yếu, tương đương với cường độ của một trận động đất 2,5 độ, đã được ghi lại lúc 1:23:45 ở vùng Chernobyl. Tình hình càng phức tạp bởi sự thực là nút điều khiển đã được ấn nhiều hơn một lần, và người bấm nút đó đã chết hai tuần sau đó vì bị nhiễm độc phóng xạ. Tháng 1, 1993, IAEA đưa ra một phân tích đã sửa đổi về tai nạn Chernobyl, cho rằng lý do chính của vụ này là thiết kế lò phản ứng chứ không phải lỗi của những người điều hành. Bản phân tích của IAEA năm 1986 đã cho rằng những hành động của những người điều hành là nguyên nhân chính gây ra tai nạn. Phát tán phóng xạ Báo cáo ngắn của cơ quan OSTI về lượng phóng thích của đồng vị phóng xạ Báo cáo chi tiết từ OECD (1,85 MB PDF) Tại mỗi thời điểm khác nhau sau vụ nổ, những đồng vị phóng xạ khác nhau đưa đến những cường độ phóng xạ khác nhau. Chỉ có thể đo lường được độ ảnh hưởng phóng xạ tia gamma cho người đứng lộ thiên. Còn người ở trong nhà thì khó dự đoán hơn. Ảnh hưởng của các sản phẩm phân rã hạt nhân sẽ được tham khảo nơi khác, bài này chỉ chú tâm đến các loại đồng vị phóng xạ tung ra trong vụ nổ Chernobyl. Những loại đồng vị phóng xạ của nguyên liệu nguyên tử được phóng thích theo nhiệt độ sôi của từng chất, phần lớn độ phóng xạ nằm trong lõi lò nguyên tử được giữ yên trong đó. Những khí hiếm như Kr và Xe trong lò bị thả tung ra khí quyển trong đợt nổ hơi nước đầu tiên. Khoảng 55% chất phóng xạ iod bị tung ra trong thể hơi, thể đặc nhỏ li ti và trong thể các phân tử sinh hóa có iod. Xezi và teluride bị phóng thích dưới dạng dung khí Có hai dạng tinh thể được phóng thích, loại nhỏ (0,3 - 1,5 micromet) và loại lớn (10 micromet). Loại lớn chứa 80-90% các chất phóng xạ khó thành hơi (95Zr, 95Nb, 140La, 144Ce) và các nguyên tố trên urani (neptuni, plutoni và các actini phụ) đính vào trong lưới oxide urani. Đối phó thảm hoạ tức thời Mức độ thảm họa vượt quá khả năng đối phó của các quan chức địa phương không có sự chuẩn bị cũng như sự thiếu thốn thiết bị thích hợp. Hai trong số bốn máy đo liều lượng tại lò phản ứng số bốn đều có các giới hạn 1 milliröntgen trên giây. Hai chiếc kia có giới hạn 1.000 R/s; sau vụ nổ mọi người không thể vào tiếp cận một máy, còn chiếc kia bị hỏng khi được bật lên. Vì thế kíp kỹ thuật viên tại chỗ chỉ biết chắc chắn rằng mức độ phóng xạ tại đa số các vị trí trong lò phản ứng vượt quá 4 R/h (mức độ thật sự lên tới 20.000 roentgen trên giờ ở một số vị trí; mức gây chết người ở khoảng 500 roentgen trên 5 giờ). Điều này khiến người chỉ huy kíp kỹ thuật viên, Alexander Akimov, cho rằng lò phản ứng còn nguyên vẹn. Bằng chứng về các mảnh graphit và nhiên liệu rơi vung vãi quanh khu vực bị bỏ qua, và những kết quả lấy được từ các máy đo liều lượng khác vào lúc 4:30 sáng giờ địa phương bị gạt bỏ vì ông cho rằng các máy đo đã báo sai. Akimov tiếp tục ở lại với kíp kỹ thuật viên tới sáng, tìm cách bơm nước vào trong lò phản ứng. Không một ai trong số họ mặc quần áo bảo hộ. Đa số họ, gồm cả chính Akimov, đều chết vì tiếp xúc phóng xạ ba tuần sau thảm hoạ. Một thời gian ngắn sau vụ tai nạn, những người lính cứu hỏa tới nơi và tìm cách dập lửa. Họ không được thông báo về mức độ nguy hiểm từ những đám khói phóng xạ và các loại mảnh vụn ở đó. Tới 5 giờ sáng ngọn lửa được dập tắt, nhưng nhiều lính cứu hỏa đã bị nhiễm phóng xạ liều cao. Ủy ban do chính phủ thành lập điều tra vụ tai nạn tới Chernobyl vào buổi chiều ngày 26 tháng 4. Khi đó, 2 người đã chết và 52 người đang nằm trong bệnh viện. Trong đêm ngày 26 tháng 4–27 tháng 4— hơn 24 giờ sau vụ nổ — Ủy ban đối mặt với nhiều bằng chứng cho thấy mức độ phóng xạ rất cao và một số ca nhiễm phóng xạ, nhận thức được sự cần thiết phải phá bỏ lò phản ứng và ra lệnh sơ tán dân cư ở thành phố Pripyat lân cận. Để giảm bớt số hành lý mang theo, người dân ở đó được thông báo rằng sự sơ tán chỉ là tạm thời, trong ba ngày. Vì thế, tại Pripyat vẫn còn nhiều đồ đạc cá nhân không bao giờ được chuyển đi nữa vì nhiễm phóng xạ. Theo những người lính cứu hỏa tận mắt chứng kiến khi tham gia cứu nạn trước khi họ qua đời (như được đưa tin trong loạt phim truyền hình Nhân chứng của BBC), một người cho rằng ông thấy phóng xạ có "vị như kim loại", và thấy cảm giác tương tự cảm giác của ghim và kim đâm trên mặt. Trong nỗ lực vô ích nhằm dập tắt đám cháy, số nước được vội vã bơm vào lò phản ứng đã ngấm xuống mặt đất bên dưới lò. Vấn đề là các loại nhiên liệu và nguyên liệu khác đã bắt đầu âm ỉ cháy theo cách của chúng thông qua sàn lò, việc ném các loại vật liệu khác từ trực thăng xuống càng gây ủ kín đám cháy khiến nhiệt độ tăng thêm. Để ngăn chặn trường hợp này, "đội xử lý"—các thành viên quân đội và những công nhân khác— được chính phủ Xô viết gửi tới để dọn sạch hiện trường. Hai trong số đó được trang bị đồ bảo hộ ướt để mở các cổng xối nhằm thông hơi cho số nước nhiễm phóng xạ, nhờ thế ngăn chặn khả năng nổ nhiệt. Những người đó, và những người khác thuộc đội xử lý cũng như các lính cứu hỏa tham gia dọn dẹp không được thông báo về sự nguy hiểm họ phải đối mặt. Số rác phóng xạ nguy hiểm nhất được tập hợp bên trong phần còn đứng vững của lò phản ứng. Chính lò phản ứng cũng được bao phủ ngoài bằng các bao cát, chì và bo ném xuống từ máy bay trực thăng (khoảng 5.000 tấn trong tuần lễ sau vụ tai nạn). Tới tháng 12 năm 1986 một quan tài bê tông lớn đã được dựng lên, để phủ kín lò phản ứng và những rác phóng xạ bên trong.(The Social Impact of the Chernobyl Disaster, 1988, p166, by David R. Marples ISBN 0-333-48198-4) Nhiều phương tiện do đội xử lý sử dụng bị bỏ lại rải rác xung quanh vùng Chernobyl cho đến tận ngày nay. Những ảnh hưởng của vụ thảm hoạ Những hậu quả tức thời Hiện tượng tan chảy hạt nhân gây ra một đám mây phóng xạ lan rộng tới Nga, Belarus và Ukraina, ngoài ra còn thêm những vùng khác tại châu Âu như một phần Thổ Nhĩ Kỳ, Moldova, Litva, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển, Áo, Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia, Slovenia, Thụy Sĩ, Đức, Italia, Pháp (gồm cả Corsica ) và Anh. Trên thực tế, bằng chứng đầu tiên xuất hiện tại các nước khác là hiện tượng phát tán phóng xạ đã xảy ra không chỉ từ Xô viết mà cả từ Thụy Điển, ngày 27 tháng 4 các công nhân làm việc tại Nhà máy điện nguyên tử Forsmark (gần 1.100 km từ Chernobyl) đã phát hiện thấy các hạt phóng xạ trên quần áo của họ. Chính việc người Thụy Điển tìm kiếm nguồn gốc phát tán phóng xạ và xác định rằng nhà máy điện nguyên tử của họ không bị rò rỉ khiến bắt đầu có những ý kiến lo ngại về một tai nạn hạt nhân nghiêm trọng ở phía tây Liên bang Xô viết. Tại Pháp, nước này cho rằng đám mây phóng xạ đã dừng lại ở biên giới Đức, Italia. Vì thế, một số loại thực phẩm đã bị cấm sử dụng ở Italia vì nguyên nhân phóng xạ (đặc biệt là nấm), chính quyền Pháp không đưa ra bất kỳ một biện pháp đối phó nào, với mục đích ngăn chặn nỗi ám ảnh của người dân. Ô nhiễm từ tai nạn Chernobyl lan ra các vùng nông thôn xung quanh ở mức độ khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện thời tiết. Các báo cáo từ phía các nhà khoa học Xô viết và phương Tây cho thấy Belarus tiếp nhận 60% lượng ô nhiễm của toàn bộ Liên bang Xô viết cũ. Tuy nhiên báo cáo TORCH 2006 cho thấy hơn một nửa số hạt đã rơi xuống bên ngoài Ukraina, Belarus và Nga. Một diện tích đất đai rộng của Liên bang Nga phía nam Bryansk và nhiều vùng khác phía tây bắc Ukraina cũng bị ô nhiễm. 203 người phải vào viện ngay lập tức. Đa số họ là các nhân viên cứu hỏa và những người cứu nạn tìm cách kiểm soát vụ tai nạn, họ không hiểu rõ mức độ nguy hiểm của việc bị nhiễm phóng xạ (từ khói) (để thảo luận về những đồng vị quan trọng hơn trong bụi phóng xạ, xem các sản phẩm phân rã hạt nhân). 135.000 người phải sơ tán khỏi vùng, gồm 50.000 người từ thị trấn Pripyat cạnh đó. Các quan chức y tế dự đoán rằng trong vòng 70 năm tiếp theo tỷ lệ mắc bệnh ung thư sẽ tăng thêm 2% trong số những người đã tiếp xúc 5–12 (tùy theo nguồn) Bq ô nhiễm phóng xạ thoát ra từ lò phản ứng. Các nhà khoa học Xô viết thông báo rằng lò phản ứng số 4 của nhà máy Chernobyl chứa khoảng 180-190 tấn nhiên liệu và các sản phẩm phân rã hạt nhân urani dioxide. Ước tính số lượng đã phát tán chiếm từ 5 đến 30%. Nhưng có quan điểm cho rằng không quá 5-10% nhiên liệu còn lại bên trong; quả thực, các bức ảnh chụp vỏ lò phản ứng cho thấy nó hầu như trống rỗng. Bởi vì sức nóng mạnh liệt của ngọn lửa, đa số nhiên liệu đã bị đẩy bay lên cao vào khí quyển (vì không có tường chắn ô nhiễm để giữ chúng lại). Những người công nhân tham gia vào quá trình cứu chữa và dọn dẹp sau tai nạn được gọi là "thành viên đội xử lý", nhận những liều phóng xạ cao. Theo các ước tính của Liên Xô, khoảng từ 300.000 tới 600.000 thành viên đội xử lý tham gia vào việc sơ tán một vùng rộng 30 km quanh lò phản ứng, nhưng nhiều người trong số họ vẫn đi vào khu vực này trong thời gian hai năm kể từ vụ tai nạn... Một số trẻ em trong các vùng bị ô nhiễm bị nhiễm phóng xạ ở mức cao tới 50 gray (Gy) vì nhiễm phóng xạ 131I, một chất đồng vị có thời gian tồn tại khá ngắn, với thời gian bán rã 8 ngày, do sử dụng sữa bị nhiễm phóng xạ sản xuất trong vùng. Nhiều cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ mắc ung thư tuyến giáp trong trẻ em tại Belarus, Ukraina và Nga đã tăng rõ rệt. Ngoài ra cũng có thể nhận thấy số lượng người bị bệnh bạch cầu tăng cao, nhưng điều này sẽ được coi thêm là một bằng chứng trong vài năm tới khi số người mắc các chứng ung thư khác cũng tăng. Những ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ Ngay sau vụ nổ, người ta lo sợ về tác hại sức khỏe của chất phóng xạ iod, với chu kỳ bán rã là 8 ngày. Hiện nay thì có lo ngại về chất stronti-90 và xezi-137 ô nhiễm trong đất, với chu kỳ bán rã là 30 năm. Xezi-137 qua đất thấm vào cây cỏ, sâu bọ, các giống nấm, lẫn vào thực phẩm địa phương. Nhiều khoa học gia tiên đoán rằng ảnh hưởng phóng xạ sẽ có tác hại đền nhiều thế hệ trong tương lai. 36 tiếng đồng hồ sau vụ nổ, chính quyền Xô viết tổ chức di tản dân cư sinh sống chung quanh nhà máy điện hạt nhân Chernobyl. Đến tháng 5 1986, dân cư trong vòng bán kính 30 km - khoảng 116.000 người - được di tản định cư nơi khác. Khu vực bỏ trống gọi là "Khu vực xa lánh". Tuy nhiên, tác hại phóng xạ đi xa hơn vòng bán kính 30 km này. Vấn đề tác hại lâu dài với sức khỏe dân chúng hiện nay vẫn chưa ngã ngũ. Ngoài 300.000 người tái định cư vì tai nạn này; hàng triệu vẫn sinh sống trong khu vực bị nhiễm xạ. Tuy thế, phần lớn những người bị tác hại thường bị ít và không có bằng chứng cụ thể chứng minh tăng số tử vong, quái thai và bệnh tật bẩm sinh, ung thư trong những người này. Nếu có xét nghiệm một vài trường hợp, không thể khẳng định nguyên nhân là do tai nạn lò nguyên tử. Một điều đáng ghi nhận là nghiên cứu về tác hại sức khỏe dân chúng trong thảm họa này bị cản trở bởi chính quyền Xô viết lúc bấy giờ, và các khảo cứu khoa học thường thiếu minh bạch dân chủ. Tại Belarus năm 1999, khi khoa học gia Yuri Bandazhevsky đặt câu hỏi về ước tính chính thức hậu quả của thảm họa Chernobyl và sự xác đáng của giới hạn tối đa chính thức 1.000 Bq/kg, ông đã bị đàn áp về mặt chính trị, bị bỏ tù từ năm 2001 cho đến 2005 về tội nhận hối lộ, sau khi ông công bố báo cáo năm 1999 phê phán nghiên cứu chính thức đã bị dàn xếp đối với thảm họa Chernobyl. Đám mây bụi phóng xạ đã lan toả rất rộng và bao phủ cây cỏ cùng mặt đất nhiều quốc gia lân cận. Ở Đức lá cỏ phơi nhiễm phóng xạ này sau 47 giờ đã được một số tác giả chụp lại nhờ kỹ thuật phóng xạ tự chụp rồi in trên giấy ảnh 10×15 cm đã chứng tỏ có đồng vị 131-Iodine gây ra. Những hạn chế về thực phẩm Hai mươi năm sau thảm hoạ, những quy định hạn chế về sản xuất, vận chuyển và tiêu thụ thực phẩm bị ô nhiễm bụi phóng xạ Chernobyl vẫn có hiệu lực. Tại Anh quốc, 374 trang trại với diện tích 750 km² và 200.000 con cừu thuộc diện hạn chế này. Tại nhiều vùng tại Thụy Điển và Phần Lan, các quy định được áp dụng cho các loại động vật nuôi, gồm cả tuần lộc, trong tự nhiên và gần tự nhiên. Theo bản báo cáo TORCH 2006, "tại một số vùng thuộc Đức, Áo, Italia, Thụy Điển, Phần Lan, Latvia và Ba Lan, các loại thú hoang dã (gồm lợn lòi và hươu), các loại nấm rừng, trứng cá và cá ăn sâu bọ từ có hàm lượng xezi-137 trên mỗi kg trọng lượng lên tới hàng ngàn Bq", trong khi "tại Đức, mức độ xezi-137 trong thịt lợn lòi hoang ở mức 40.000 Bq/kg. Mức độ trung bình là 6.800 Bq/kg, lớn gấp mười lần giới hạn của EU là 600 Bq/kg". Ủy ban châu Âu cho rằng "Vì thế các quy định đối với một số loại thực phẩm từ một số quốc gia thành viên cần phải được duy trì trong nhiều năm nữa". Năm 2006, các trang trại nuôi cừu ở một số vùng tại Anh vẫn là đối tượng thanh tra, có thể khiến chúng bị cấm tham gia thị trường thực phẩm của con người bởi lượng ô nhiễm tăng lên do nguyên nhân vụ thảm hoạ: "Một số chất phóng xạ, chủ yếu là phóng xạ 137Cs, đã tích tụ tại một số vùng cao nguyên nước Anh, nơi thường có các trang trại nuôi cừu. Vì những đặc tính hóa học và vật lý đặc biệt của các kiểu đất than bùn tại các vùng đó, xezi phóng xạ vẫn có thể dễ dàng chuyển từ đất vào trong cây cỏ và vì thế tích tụ trong thịt cừu. Một giới hạn tối đa ở mức 1.000 Becquerel xezi phóng xạ trên 1 kilôgam (Bq/kg) đã được áp đặt trên thịt cừu để bảo vệ người tiêu dùng. Giới hạn này được Anh quốc đưa ra năm 1986, dựa trên sự tư vấn từ nhóm chuyên gia của Ủy ban châu Âu theo Điều 31. Theo quyền được quy định trong Luật Bảo vệ Môi trường và Thực phẩm 1985 (FEPA), Các quy định khẩn cấp đã được sử dụng từ năm 1986 để đưa ra những áp đặt giới hạn trên việc vận chuyển và bán thịt cừu vượt mức giới hạn tại một số vùng của Cumbria, Bắc Wales, Scotland và Bắc Ireland... Khi các quy định khẩn cấp được đưa ra áp dụng năm 1986, các vùng hạn chế rất rộng, bao gồm tới 9.000 trang trại và hơn 4 triệu con cừu. Từ năm 1986, các vùng buộc phải tuân theo quy định hạn chế đã giảm nhiều và hiện chỉ còn 374 trang trại, hay một phần các trang trại với khoảng 200.000 con cừu. Con số này có nghĩa số lượng trang trại đã giảm tới 95% kể từ năm 1986, chỉ một số vùng tại Cumbria, Tây Nam Scotland và phía Bắc xứ Wales, vẫn phải tuân thủ giới hạn này. Tại Na Uy, người Sami bị ảnh hưởng bởi thực phẩm ô nhiễm (tuần lộc đã bị nhiễm phóng xạ khi ăn địa y, vốn là loài rất nhạy cảm với phóng xạ) Tranh cãi về những ước tính thương vong Báo cáo của Diễn đàn Chernobyl Tháng 9 năm 2005, một bản thảo báo cáo vắn tắt của Diễn đàn Chernobyl, gồm một số cơ quan Liên hiệp quốc như Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), các tổ chức Liên hiệp quốc khác và các chính phủ Belarus, Liên bang Nga và Ukraina, đưa ra con số dự đoán tổng số người chết vì vụ tai nạn là 4.000 . Con số do WHO đưa ra gồm 47 công nhân đã chết vì hội chứng phóng xạ cấp tính là nguyên nhân trực tiếp của phóng xạ từ vụ thảm họa và 9 trẻ em chết vì ung thư tuyến giáp, trong tổng số 4.000 trường hợp ung thư được xảy ra với tổng số 600.000 người bị phơi nhiễm ở mức độ cao nhất. Bản báo cáo đầy đủ về các hiệu ứng với sức khỏe người dân của WHO được Liên hiệp quốc chấp nhận và được xuất bản tháng 4 năm 2006, gồm có cả việc dự đoán thêm 5.000 trường hợp ảnh hưởng thêm từ những vùng bị ô nhiễm tại Belarus, Nga và Ukraina và cho rằng, tổng số 9.000 sẽ chết vì ung thư trong 6,8 triệu người Xô viết bị nhiễm độc nặng nhất . Báo cáo năm 2006 của TORCH Thành viên Đảng Xanh Đức MEP (thành viên của Nghị viện châu Âu) Rebecca Harms, đã tiến hành lập một bản báo cáo (TORCH, The Other Report on Chernobyl) năm 2006 hưởng ứng theo bản báo cáo của Liên hiệp quốc; trong đó cho rằng: "Về diện tích đất đai Belarus (với 22% tổng diện tích) và Áo (13%) là những nước bị ảnh hưởng ô nhiễm ở mức cao nhất. Các nước khác cũng bị ảnh hưởng trầm trọng; ví dụ như, hơn 5% diện tích Ukraina, Phần Lan và nhiều vùng rộng lớn tại Thụy Điển bị ô nhiễm ở mức cao (> 40.000 Bq/m² xezi-137). Hơn 80% Moldova, phần tại châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ, Slovenia, Thụy Sĩ, Áo và Cộng hoà Slovak bị ảnh hưởng ở mức độ thấp hơn (> 4.000 Bq/m² xezi-137). 44% nước Đức và 34% Anh quốc cũng bị ảnh hưởng ở mức độ tương tự." (Xem bản đồ phân bố xezi-137 tại châu Âu) IAEA/WHO và UNSCEAR lưu tâm tới những vùng bị ảnh hưởng ở mức cao hơn 40.000 Bq/m²; bản báo cáo của TORCH cũng bao gồm những vùng bị ảnh hưởng ở mức lớn hơn 4.000 Bq/m² of Cs-137. Bản báo cáo TORCH 2006 "ước tính rằng hơn một nửa lượng iod-131 từ Chernobyl [làm tăng nguy cơ ung thư tuyến giáp] rơi bên ngoài lãnh thổ Liên bang Xô viết cũ. Có lẽ liên quan tới con số thông báo về những ca ung thư tuyến giáp tăng cao ở Cộng hoà Czech và Anh quốc, nhưng vẫn cần tiến hành nghiên cứu thêm để đánh giá về tác động gây ung thư tuyến giáp tại châu Âu". Bản báo cáo dự đoán rằng sẽ có thêm 30.000 tới 60.000 vụ ung thư gây chết người và cảnh báo rằng những dự đoán về con số thiệt hại nhân mạng do ung thư đó phụ thuộc nhiều vào yếu tố nguy cơ được sử dụng; và dự đoán những ca ung thư tuyến giáp tăng thêm sẽ ở trong khoảng 18.000 và 66.000 tại riêng Belarus phụ thuộc vào hình mẫu phát sinh nguy cơ Tổ chức Hoà bình xanh Tổ chức Hòa bình xanh đã chỉ ra những trái ngược trong các bản báo cáo của Diễn đàn Chernobyl, cho rằng một cuộc nghiên cứu năm 1998 của WHO được trích dẫn trong bản báo cáo năm 2005, đưa ra con số 212 người chết trong tổng số 72.000 người nhiễm . Trong bản báo cáo của mình, Hòa bình xanh cho rằng sẽ có thêm 270.000 ca ung thư có liên quan tới vụ Chernobyl và rằng 93.000 người trong số đó sẽ ở mức nguy hiểm, nhưng cũng nói rõ trong bản báo cáo của họ rằng "Những con số được đưa ra gần đây nhất cho thấy chỉ riêng tại Belarus, và Ukraina thảm họa có thể gây ra khoảng 200.000 cái chết nữa trong giai đoạn 1990 và 2004.". Blake Lee-Harwood, giám đốc điều hành của Hòa bình xanh, tin rằng ung thư dường như là nguyên nhân của chưa tới một nửa những ca bệnh nặng và rằng "các vấn đề về ruột, tim và hệ tuần hoàn, hô hấp, nội tiết, và đặc biệt là các hiệu ứng trên hệ miễn dịch," cũng gây ra các ca bệnh nặng. ====Báo cáo tháng 4 năm 2006 của IPPNW==== Theo một bản báo cáo tháng 4 năm 2006 của chi nhánh Các thầy thuốc quốc tế ngăn chặn chiến tranh hạt nhân (IPPNW) tại Đức, với tiêu đề "Hiệu ứng sức khỏe của Chernobyl", hơn 10.000 người hiện bị ảnh hưởng với bệnh ung thư tuyến giáp và 50.000 ca khác sẽ xảy ra trong tương lai. Bản báo cáo tin rằng hàng chục ngàn cái chết sẽ xảy ra trong số những người nhiễm. Tại châu Âu, có lẽ 10.000 ca dị dạng đã được quan sát thấy trong số trẻ mới sinh vì nguyên nhân phóng xạ từ vụ Chernobyl, với 5.000 ca tử vong trong số trẻ sơ sinh. Họ cũng cho rằng hàng trăm ngàn người làm việc tại địa điểm đó sau khi thảm họa xảy ra hiện đang bị bệnh vì phóng xạ, và hàng chục nghìn người đã chết . Các nghiên cứu khác Năm 2006 Bộ Y tế Ukraina cho rằng hơn 2,4 triệu người Ukraina, trong đó có 428.000 trẻ em, gặp phải các vấn đề sức khỏe liên quan tới thảm hoạ Chernobyl . Ảnh hưởng tâm lý hậu thảm hoạ, như bản báo cáo năm 2006 của Liên hiệp quốc chỉ ra, cũng ảnh hưởng tới những người rời chỗ nội bộ. Một nghiên cứu khác đưa ra tỷ lệ tử vong tại Thụy Điển cao hơn . Theo Liên minh Chernobyl, tổ chức chính của những người bị nhiễm phóng xạ, 10% trong số 600.000 người nhiễm hiện đã chết, và 165.000 người tàn tật. So sánh với các thảm hoạ khác Thảm họa Chernobyl đã được so sánh với Thảm họa Bhopal năm 1984. Ngày 3 tháng 12 năm 1984, một nhà máy hóa chất của Union Carbide tại Bhopal, Ấn Độ đã để rò rỉ 40 tấn khí độc isoxyanat metyl, gây ra cái chết của ít nhất 15.000, và làm bị thương khoảng từ 150.000 tới 600.000 người khác. Các thảm họa khác có nguyên nhân từ con người với số tử vong cao gồm: Trận lụt Johnstown, 1889, 2.209 người chết. Đập Bản Kiều, 1975, tại Trung Quốc, 171.000 người chết. Đám Sương mù Khổng lồ 1952, London, Anh khoảng 12.000 người chết. Các vụ tai nạn hạt nhân và phóng xạ khác đã nhiều lần xảy ra, dù không vụ nào đạt tới mức ảnh hưởng rộng lớn như thảm hoạ Chernobyl. Các vụ tai nạn hạt nhân dân sự có gây thiệt hại nhân mạng đã xảy ra tại Charlestown, đảo Rhode (Hoa Kỳ) ngày 24 tháng 7 năm 1964 (một vụ tai nạn nghiêm trọng đã xảy ra tại nhà máy, giết chết một người) ; tại Buenos Aires, Argentina, ngày 23 tháng 9 năm 1983 (một người chết) , và gần đây nhất là tại nhà máy tái xử lý nhiên liệu hạt nhân Tokaimura Nhật Bản ngày 30 tháng 9 năm 1999 (hai người chết). Những vụ tai nạn hạt nhân nghiêm trọng trước đây gồm vụ cháy lò phản ứng Windscale 1957 tại Anh và vụ tan chảy hạt nhân năm 1979 tại nhà máy hạt nhân Three Mile Island Hoa Kỳ, cả hai đều không gây thiệt hại nhân mạng. Chernobyl trong ý thức mọi người Thảm hoạ Chernobyl đã lôi cuốn sự chú ý quốc tế. Trên khắp thế giới, mọi người theo dõi và xúc động mạnh trước sự kiện. Vì thế, "Chernobyl" đã đi vào tâm tưởng quần chúng theo nhiều cách khác nhau. Hậu quả kinh tế và chính trị Rất khó để báo cáo tổng chi phí kinh tế của thảm họa. Theo Mikhail Gorbachev, Liên Xô đã chi 18 tỷ rúp (tương đương 18 tỷ đô la Mỹ vào thời điểm đó) về ngăn chặn và khử nhiễm, Liên Xô gần như bị phá sản. Tại Belarus tổng chi phí khắc phục hậu quả trong 30 năm (tính đến năm 2005) ước tính khoảng 235 tỷ USD. Chi phí liên tục những năm sau đó đều được công khai, trong báo cáo 2003-2005, Diễn đàn Chernobyl nói rằng từ 5% đến 7% chi tiêu chính phủ ở Ukraine vẫn liên quan đến Chernobyl, trong khi ở Belarus hơn 13 tỷ đô la được cho là đã được chi tiêu từ năm 1991 đến năm 2003, với 22% ngân sách quốc gia có liên quan đến Chernobyl năm 1991, giảm xuống 6% vào năm 2002. Phần lớn chi phí hiện tại liên quan đến việc chi trả các lợi ích xã hội liên quan đến Chernobyl cho khoảng 7 triệu người trên khắp 3 quốc gia. Một tác động kinh tế đáng kể vào thời điểm đó là loại bỏ 784.320 ha (1.938.100 mẫu Anh) đất nông nghiệp và 694.200 ha (1.715.000 mẫu Anh) từ rừng sản xuất. Trong khi phần lớn trong số này đã được trả lại để sử dụng, chi phí sản xuất nông nghiệp đã tăng lên do nhu cầu về kỹ thuật canh tác đặc biệt, phân bón và phụ gia. Về mặt chính trị, vụ tai nạn đã tác động to lớn đối với chính sách Glasnost của Liên Xô, và giúp thúc đẩy quan hệ Xô-Mỹ gần gũi hơn vào cuối Chiến tranh Lạnh, thông qua sự hợp tác về mặt sinh học. Thảm họa Chernobyl là một trong những yếu tố quan trọng gây ra sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu năm 1991, và là một ảnh hưởng lớn trong việc hình thành các nước Đông Âu mới. Cả Ukraine và Belarus, trong những tháng đầu tiên sau khi độc lập, đã giảm ngưỡng bức xạ từ ngưỡng cao của Liên Xô (từ 35 lần/ chu kỳ phóng xạ xuống còn 7 lần/ chu kỳ và 0,1 lần mỗi năm ở Belarus). Điều này đòi hỏi một sự mở rộng lãnh thổ được coi là bị ô nhiễm. Ở Ukraine, hơn 500.000 người hiện đã được tái định cư, nhiều người trong số họ đã trở thành ứng viên cho y tế và phúc lợi khác. Ukraine cũng duy trì các lò phản ứng bị phá hủy, mà nó sử dụng một lực lượng lao động rất lớn để giữ cho thời gian tiếp xúc cá nhân thấp. Nhiều người trong số những công nhân này đã đăng ký khuyết tật và đăng ký phúc lợi. Ở Ukraine, thảm họa Chernobyl là một biểu tượng của phong trào dân tộc chủ nghĩa, biểu tượng của tất cả những gì đã sai với Liên Xô, và phúc lợi trở thành một nền tảng quan trọng để giành được độc lập. Ukraine đã phát triển một hệ thống phúc lợi lớn và nặng nề, ngày càng trở nên hỏng hóc và không hiệu quả. Nó đã trình bày các nhu cầu phúc lợi tăng lên rất nhiều kể từ năm 1991 như là một minh chứng về tính hợp pháp đạo đức của chính nó, và là một lý lẽ cần viện trợ nước ngoài. Belarus, mặt khác, yếu về mặt chính trị khi Belarus giành được độc lập tách khỏi Liên Xô, và tìm đến Moscow để được hướng dẫn; theo nhiều cách, và bị từ chối của Liên Xô cũ. Chernobyl sau thảm hoạ Vấn đề của nhà máy Chernobyl không chấm dứt với thảm họa tại Lò phản ứng số 4. Lò phản ứng bị hư hại đã được hàn kín bằng 200 mét khối bê tông đặt giữa nơi xảy ra thảm họa và các tòa nhà điều hành. Chính phủ Ukraina tiếp tục cho ba lò phản ứng còn lại hoạt động vì tình trạng thiếu hụt năng lượng trong nước. Một đám cháy đã bùng phát tại Lò phản ứng số 2 năm 1991; chính quyền sau đó tuyên bố rằng lò phản ứng bị hư hại tới mức không thể sửa chữa và cho nó ngừng hoạt động. Lò phản ứng số 1 được cho ngừng chạy tháng 11 năm 1996 như một phần của thỏa thuận giữa chính phủ Ukraina và các tổ chức quốc tế như IAEA với mục đích chấm dứt hoàn toàn hoạt động của cả nhà máy. Tháng 11 năm 2000, Tổng thống Ukraina Leonid Kuchma đã đích thân bấm nút dừng hoạt động của lò phản ứng hạt nhân số 3 trong một buổi lễ, chính thức chấm dứt hoạt động của toàn bộ nhà máy. Nhu cầu tái thiết tương lai Quan tài bê tông không phải là một phương án hàn kín hữu hiệu lâu dài cho lò phản ứng đã bị hủy hoại. Việc xây dựng vội vàng, và trong nhiều trường hợp là do các rô bốt công nghiệp tiến hành, khiến nó nhanh chóng lão hoá, và nếu nó sụp đổ, một đám mây bụi phóng xạ khác sẽ được giải phóng. Quan tài bê tông đã hư hại nặng tới mức chỉ cần một rung động nhẹ của Trái Đất hay những trận gió mạnh cũng có thể khiến trần của nó sụp đổ. Một số kế hoạch đã được thảo luận nhằm xây dựng một bức tường bao phủ có độ tin cậy lớn hơn. Theo những ước tính chính thức, khoảng 95% nhiên liệu (khoảng 180 tấn) trong lò phản ứng tại thời điểm xảy ra vụ tai nạn vẫn còn lại bên trong quan tài bê tông, với tổng lượng phóng xạ lên tới gần 180 triệu curie (670 PBq). Vật liệu phóng xạ gồm các mảnh lõi, bụi và "những vật liệu chứa nhiên liệu" (FCM) kiểu dung nham chảy qua lò phản ứng hạt nhân đã bị hư hại trước khi cứng lại dưới dạng gốm. Theo những ước tính thận trọng, ít nhất có bốn tấn bụi phóng xạ bên trong quan tài. Tuy nhiên, những ước tính gần đây đã gây nghi ngờ lớn về những con số được đưa ra từ trước về số lượng nhiên liệu còn lại trong lò. Một số ước tính hiệu nay cho rằng tổng lượng nhiên liệu trong lò phản ứng chỉ khoảng 70% nhiên liệu nạp ban đầu, tuy nhiên IAEA vẫn cho rằng chưa tới 5% nhiên liệu đã thất thoát do vụ nổ. Hơn nữa, một số người tham gia vào việc cứu hộ ước tính rằng chỉ 5-10% nguyên liệu nạp ban đầu còn lại bên trong quan tài bê tông. Nước vẫn tiếp tục chảy vào trong quan tài, khiến các vật liệu phóng xạ rò rỉ qua lò phản ứng đã bị hư hại và có thể cả vào trong nước ngầm tại các khu vực quanh đó. Móng của lò phản ứng dần chứa đầy nước đã bị ô nhiễm nhiên liệu hạt nhân và bị coi là loại rác có mức độ phóng xạ cao. Dù các công việc sửa chữa đã được tiến hành tại một số lỗ lớn nhất bên trên mái quan tài, nó vẫn không tài nào hàn kín được toàn bộ, và tình trạng mái sẽ ngày càng tồi tệ thêm. Quan tài bê tông, không hoàn toàn kín với không khí bên ngoài, sẽ nóng lên nhanh hơn khi nó lạnh đi. Điều này khiến lượng ẩm bên trong quan tài tăng lên. Lượng ẩm cao lại ăn mòn bê tông và cốt thép của nó. Hơn nữa, bụi đang ngày càng trở thành một vấn đề bên trong quan tài bê tông. Các nguyên tử phóng xạ ở mọi kích thước, lượng bụi tro chiếm tỷ lệ lớn bên trong đó. Những dòng đối lưu hòa lẫn với dòng khí xâm nhập từ bên ngoài ngày càng khuấy đảo và đưa thêm vào không khí các nguyên tử phóng xạ. Việc lắp đặt các hệ thống lọc khí năm 2001 có làm giảm bớt nguy cơ này, nhưng không hoàn toàn triệt tiêu được nó. Địa điểm tham quan du lịch Theo Bộ Tình trạng khẩn cấp Ukraine, do phóng xạ rò rỉ thành từng "mảng" tại Chernobyl nên nếu đi đúng các tuyến đường đã được kiểm tra trước sẽ không gây nguy hiểm cho sức khỏe. Để tăng thêm tính an toàn, chính quyền địa phương dự định lắp đặt thêm nhiều trạm đo mức phóng xạ tại đây. Nhiều hãng du lịch Ukraine cung cấp các tour một ngày đi đến Chernobyl, có giá từ 25 đến 650 Euro. Về chương trình: tham quan vỏ lò phản ứng bị tai nạn, thăm các ngôi làng bị bỏ hoang, xem cá da trơn khổng lồ sống ở các vùng nước phóng xạ. Tất cả mọi người được vào tham quan khu vực này, ngoại trừ trẻ em dưới 18 tuổi và các phần tử bị nghi là khủng bố. Các khu nhà và lều bạt của những người cứu trợ từ năm 1986 vẫn còn sử dụng tốt. Cách nhà máy 44 km có một khu nhà dành riêng cho những người cứu nạn có thể đón nhận 60 – 70 khách. Bên cạnh đó, một khách sạn của Bộ Tình trạng đặc biệt có 18 phòng ngủ. Chúng được nâng cấp lên thành những phòng khách sạn từ 3 đến 5 sao. Ngay lối vào chính của khu vực cấm là một quầy lưu niệm bán các loại áo thun được trang trí các biểu tượng phóng xạ màu đen và màu vàng và mặt nạ khí cao su của Liên Xô. Điểm nổi bật của chuyến đi là thăm Pripyat, nơi gần 50.000 cư dân đã được sơ tán trong ba giờ vào ngày 27 tháng 4 năm 1986. Tại đây, du khách sẽ thấy những tòa nhà dân cư bị bỏ hoang, trường học nơi đồ chơi trẻ em, sách hoặc ghi chú viết tay vẫn treo quanh tường, một công viên giải trí có bánh xe lớn vẫn đứng trên quảng trường trung tâm. Rời Chernobyl, tất cả khách du lịch buộc phải vượt qua kiểm tra phóng xạ. Theo các chuyên gia hạt nhân, nồng độ phóng xạ ở các khu vực bình thường vào khoảng 10 microroentgen/giờ. Quá 30 microroentgen/giờ bị coi là nguy hiểm cho con người. Trong khi đó, xung quanh nhà máy điện, nồng độ phóng xạ trung bình vẫn đạt tới 50 microroentgen/giờ. Nồng độ phóng xạ ở khu dân cư gần nhất cũng không dưới 30 microroentgen/giờ. Tuy nhiên, theo các chuyên gia Bộ Tình trạng khẩn cấp Ukraine, trong nồng độ đó, con người vẫn có thể không mặc quần áo bảo hộ phóng xạ hàng tuần mà không bị tác động xấu đến sức khỏe. Một điều thú vị nữa là khu vực  đang trở thành một vườn bảo tồn thiên nhiên tuyệt vời. Bị con người bỏ hoang, khu vực này đang trở thành nơi trú ngụ an toàn cho nhiều giống chim, thú quý hiếm. Thiên nhiên đang tự phục hồi sự cân bằng sinh thái cho chính mình. Quỹ Chernobyl và Kế hoạch xây dựng tường chắn mới Quỹ Chernobyl được thành lập năm 1997 trong cuộc họp thượng đỉnh G7 lần thứ 23 ở Denver để cung cấp vốn cho Kế hoạch xây dựng tường chắn thay cho cấu trúc bê tông được xây dựng vội vã. Kế hoạch xây dựng tường chắn (SIP - Shelter Implementation Plan) có mục đích biến địa điểm này thành nơi có điều kiện sinh thái học an toàn thông nhờ một quan tài ổn định, sau đó là việc xây dựng thêm một lớp Vỏ bọc mới (NSC - New Safe Confinement). Ước tính ban đầu cho NSC là 768 triệu đôla Mỹ, theo ước tính năm 2006 là 1.2 tỉ đôla Mỹ. SIP hiện được một côngxoocxiom gồm Bechtel, Battelle và Electricité de France điều hành, với thiết kế ý tưởng cho NSC theo kiểu một mái vòm di động được nặng 36.000 tấn, được xây dựng tách biệt bên ngoài để tránh lượng bức xạ cao, và có thể trượt trên vỏ cũ bằng cách sử dụng đường ray tàu hỏa. NSC được hi vọng là sẽ được hoàn thành vào năm 2015, và sẽ là kết cấu di động lớn nhất từng được xây dựng. Kích thước Rộng: 260 m Cao: 105 m Dài: 150 m Nặng: 36.000 tấn Trong tương lai Quan tài bê tông hiện nay được xây dựng bên trên đống đổ nát của lò phản ứng. Hai "Xà lớn" đỡ mái quan tài tựa trên kết cấu yếu ớt của bức tường phía tây lò phản ứng vốn đã bị hư hại do vụ nổ. Nếu bức tường của lò phản ứng và cả mái quan tài sụp đổ, những lượng bụi phóng xạ và nguyên tử lớn sẽ được giải phóng trực tiếp vào khí quyển, gây ra một vụ phát tán phóng xạ lớn khác vào môi trường xung quanh. Một nguy cơ khác đối với quan tài là phiến bê tông hình thành nên "Khiên sinh vật học bên trên" (UBS), và được đặt trên lò phản ứng trước khi vụ tai nạn xảy ra. Tấm bê tông này đã bị vụ nổ đẩy lên cao và hiện nằm nghiêng 15 độ theo chiều dọc. Vị trí của tấm khiên sinh vật học bị coi là không an toàn, bởi nó chỉ được chống đỡ theo chiều gần thẳng đứng bởi bụi rác. Nếu tấm sinh học này đổ nó sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng bụi bên trong quan tài và có thể làm phát tán một lượng vật liệu phóng xạ ra ngoài, cũng như có thể gây hư hại cho chính quan tài bê tông. Quan tài bê tông không được thiết kế để tồn tại trong khoảng thời gian 100.000 năm cần thiết để giữ lượng phóng xạ còn sót lại bên trong lò phản ứng số 4. Những thiết kế hiện nay về một bức tường bao phủ mới chỉ có tuổi thọ 100 năm, khoảng thời gian đó chỉ là một nháy mắt so với khoảng thời gian tuổi thọ của vật liệu phóng xạ bên trong. Việc xây dựng một quan tài có khả năng chôn vùi vĩnh viễn những thứ bên trong lò phản ứng số 4 rõ ràng là một thách thức cho các kỹ sư ở nhiều thế hệ sau này. Ukraine đang tìm cách phát triển năng lượng cho riêng mình. Ukraine cũng muốn làm sống lại khu vực cách ly trong bán kính 30 km xung quanh nhà máy Chernobyl, nằm cách Kiev 100 km về phía bắc và gần biên giới với Belarus. Từ năm 2016, Ukraine nói rằng họ có gần 2.500 ha cho các dự án phát triển năng lượng mặt trời quanh khu vực nhà máy Chernobyl. Để khuyến khích các nhà đầu tư, Ukraine hứa mua năng lượng mặt trời với giá cao hơn mức trung bình áp dụng ở châu Âu 50%. Tuy nhiên, các nhà đầu tư phương Tây đã không vội vã tới Chernobyl vì họ biết tình trạng quan liêu và tham nhũng đặc hữu ở Ukraine.
Di truyền là hiện tượng truyền đạt các tính trạng của (bố mẹ, tổ tiên) cho các thế hệ (con, cháu). Chẳng hạn người bố và con trai có đôi tai rất giống nhau, thì được nhận định nôm na rằng "Bố đã di truyền đặc điểm này cho con mình", hoặc "Con trai đã được di truyền đặc điểm tai của bố". Trong sinh học và di truyền học, di truyền chuyển những đặc trưng sinh học từ một sinh vật cha mẹ đến con cái và nó đồng nghĩa với di chuyển gen, gen thừa nhận mang thông tin sinh học (hay thông tin di truyền). Ngoài ra, các đặc điểm về tính cách, nhận thức và tư duy của con cái có thể được tiếp nhận từ cha mẹ thông qua môi trường sinh hoạt gia đình (các thói quen, quy định của gia đình gọi là gia phong, nề nếp). Ở con người, xác định đặc trưng nào phụ thuộc vào di truyền và đặc trưng nào phụ thuộc vào môi trường thường gây tranh cãi; đặc biệt là đối với những đặc tính phức tạp như trí thông minh và màu da; giữa tự nhiên và nuôi dưỡng. Di truyền, tổng của tất cả các quá trình sinh học mà qua đó các đặc điểm cụ thể được truyền từ cha mẹ sang con cái của họ. Khái niệm di truyền bao gồm hai quan sát dường như nghịch lý về các sinh vật: sự bất biến của một loài từ thế hệ này sang thế hệ khác và sự khác biệt giữa các cá thể trong một loài. Sự nhất quán và biến thể thực sự là hai mặt của cùng một đồng tiền, như đã trở nên rõ ràng trong nghiên cứu về di truyền học. Cả hai khía cạnh của di truyền có thể được giải thích bằng gen, các đơn vị chức năng của vật liệu di truyền được tìm thấy trong tất cả các tế bào sống. Mỗi thành viên của một loài có một bộ gen đặc trưng cho loài đó. Chính bộ gen này cung cấp cấu trúc của loài. Tuy nhiên, trong số các cá thể trong một loài, các biến thể có thể xảy ra ở dạng mỗi gen, tạo cơ sở di truyền cho thực tế là không có hai cá thể nào có những đặc điểm giống hệt nhau. Tổng hợp các đặc điểm và tiềm năng có nguồn gốc di truyền từ tổ tiên của một người, việc truyền các phẩm chất đó từ tổ tiên sang hậu duệ thông qua các gen. Việc truyền các đặc tính di truyền từ bố mẹ sang con cái phụ thuộc vào sự phân ly và tái tổ hợp của gen trong quá trình phân bào và thụ tinh và dẫn đến sự hình thành một cá thể mới tương tự các loài khác nhưng biểu hiện một số biến thể nhất định do sự kết hợp của các gen cụ thể và sự tương tác của chúng với môi trường. Các nhân vật di truyền như vậy truyền. Lịch sử Từ thời thượng cổ, người ta đã nhận thức được rằng mọi sinh vật từ thực vật đến động vật đều thể hiện ít nhiều những đặc tính từ cha và mẹ; và khác biệt giữa con và cha mẹ cũng thường được truyền lại cho thế hệ cháu. Từ đó, con người dò đoán và tìm được phương pháp tuyển chọn và phát triển giống tốt cho gia súc cũng như rau cải, lúa gạo, v.v.... Hiện tượng di truyền được con người chấp nhận như chuyện hiển nhiên cho đến cuối thế kỷ 19 mới có giải thích khoa học hơn. Nhóm nghiên cứu di truyền theo chủ thuyết Lamarck cho rằng ngoài di truyền của những biểu hiện bẩm sinh còn có di truyền của những biểu hiện mắc phải (gây nên) bởi môi trường. Charles Darwin đưa lên giả thuyết về tiến hoá vào năm 1859 nhưng gặp một số khúc mắc - khó khăn nhất là giải thích phương thức của di truyền. Darwin cho rằng có pha trộn giữa di truyền bẩm sinh và di truyền của những biểu hiện gây nên bởi môi trường. Nhưng nếu thật sự có sự pha trộn này, chỉ sau một vài thế hệ sẽ nảy sinh ra hiện tượng đồng dạng của toàn chủng và sẽ không có đủ biến dị để sự tuyển chọn tự nhiên có thể xảy ra. Do đó, Darwin phải tiếp thu phần nào giả thuyết của Lamarck vào công trình nghiên cứu của ông. Cách trình bày của Darwin về di truyền là cho thấy nó xảy ra như thế nào và người ta có thể dự đoán hướng di truyền trong thế hệ tới (thí dụ những đặc tính được di truyền nhưng không biểu hiện ở cha hay mẹ vào lúc thụ thai, nhiều cá tính di truyền phân biệt theo giống đực hay cái). Phương thức của di truyền thì Darwin không giải thích được. Khái niệm di truyền của Darwin được người anh em bà con của ông Francis Galton cải tiến, từ đó tạo cơ sở cho nền khoa học di truyền. Tuy nhiên Galton không chấp nhận thuyết tiến hóa toàn diện của Darwin (pangenesis: dựa trên di truyền của các tính trạng mắc phải trong cuộc sống). Năm 1880, August Weismann cắt đuôi của nhiều thế hệ chuột trong phòng thử nghiệm, và cho thấy các con chuột trong thế hệ sau vẫn có đuôi. Từ đó, ông chứng minh rằng không có sự di truyền của các tính trạng mắc phải trong cuộc sống. Tu sĩ Áo Gregor Mendel khám phá ra "di truyền từng phần" khi ông cho thấy các giống đậu có thể được "pha trộn" để cho ra nhiều loại giống khác nhau nhưng vẫn còn một ít tính trạng từ thế hệ trước. Tuy ông tìm ra hiện tượng này năm 1865, mãi cho đến 1901 khoa học mới chú ý đến khám phá này. Ban đầu người ta cho rằng di truyền dạng Mendel chỉ cho tác dụng trên những tính trạng đơn thuần (như kích thước). Nhưng sau đó, năm 1918 Ronald Fisher chứng minh được rằng di truyền còn có thêm tác dụng hòa hợp (như pha hai loài hoa khác màu, cho loại thứ ba có cả hai màu). Từ năm 1930 công trình của Fisher và các bậc nghiên cứu di truyền tiền bối như Mendel và Darwin được phối hợp vào ngành di truyền học hiện đại. Trong thập niên 1960 Trofim Lysenko tái thiết lập lối suy nghĩ của Lamarck (nghĩa là di truyền của các tính trạng mắc phải trong cuộc sống) và đem vào nghiên cứu nông nghiệp của Liên Xô nhưng thất bại. Hình ảnh
Bằng chứng về sự hiện diện của con người ở các vùng cao nguyên phía bắc và trung tâm bán đảo Đông Dương đã tạo nên lãnh thổ của dân tộc Lào hiện đại từ thời đại đồ đá cũ. Những người đến đây sớm nhất là người Australo-Melanesia gắn liền với văn hóa Hòa Bình và đã cư trú ở các vùng cao nguyên và nội địa và toàn bộ Đông Nam Á cho đến ngày nay. Các làn sóng di cư Austroasiatic và Austronesian sau đó chỉ ảnh hưởng đến Lào trong đất liền và sự tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ có tác động lớn đến đất nước này. Vương quốc Lào dành độc lập từ Đế quốc thực dân Pháp vào năm 1953. Vương quốc đầu tiên của người Lào là vương quốc Lan Xang vào thế kỷ thứ mười ba. Lan Xang tồn tại như một vương quốc thống nhất từ ​​năm 1357 đến năm 1707, bị chia thành ba vương quốc đối địch là Luang Phrabang, Viêng Chăn và Champasak từ năm 1707 đến năm 1779, trở thành chư hầu Xiêm La từ năm 1779 đến năm 1893, và được thống nhất dưới sự bảo hộ của Pháp tại Lào năm 1893. Biên giới của Lào hiện nay được chính quyền thực dân Pháp thiết lập vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Thời kỳ đầu Người Lào, nhóm dân tộc chính sống tại nước Lào hiện nay, là một nhánh của các dân tộc sử dụng hệ ngôn ngữ Tai-Kadai, những người mà cho tới thế kỉ 8 đã thiết lập vương quốc Nam Chiếu hùng mạnh ở phía tây nam Trung Quốc. Từ Nam Chiếu, người Thái đã di cư dần dần về phía nam, vào sâu trong bán đảo Trung Ấn; sự di cư của họ đã được đẩy mạnh vào thế kỉ 13 khi quân Nguyên Mông của hoàng đế Hốt Tất Liệt xâm chiếm miền Nam Trung Hoa. Cùng với các dân tộc Thái khác, người Lào đã dần dần chiếm lĩnh địa bàn của các bộ lạc thổ dân bản địa (thường được gọi chung là người Kha, nghĩa là "nô lệ") đã sống từ thế kỉ 5 tại nơi mà nay là nước Lào, dưới quyền cai trị của đế quốc Khmer. Trong các thế kỉ 12 và 13, người Thái thiết lập lãnh địa Muang Swa (sau là Luang Prabang), do các lãnh đạo người Thái cai trị. Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai là ngữ hệ có nguồn gốc từ nam Trung Quốc, gồm người Lào, Xiêm, người Sán Chay ở đông bắc Miến Điện, người Choang ở tỉnh Quảng Tây Trung Quốc và người Thổ, người Nùng ở vùng núi phía đông bắc Việt Nam. Trong thiên niên kỷ đầu tiên sau công nguyên, dưới áp lực bành trướng của người Hán Trung Quốc, người Thái bắt đầu di cư xuống vùng Đông Nam Á. Họ thế chỗ những dân tộc vốn sống ở đó từ trước (gồm cả nền văn hoá ở thời kỳ đồ sắt với những người đã tạo ra những chiếc chum đá khổng lồ đã thành tên cho vùng Cánh đồng Chum ở trung tâm nước Lào). Sông Mekong chảy xuyên qua nước Lào ngày nay là một con đường di cư chính, nhưng sức mạnh của Đế quốc Khmer (Campuchia) đã ngăn không cho người Thái chiếm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thay vào đó, vùng định cư chính của người Thái nằm xa hơn về phía nam, ở châu thổ sông Chao Phraya, nơi họ lập nên nhiều vương quốc tiền thân của nước Xiêm hiện đại hay Thái Lan. Trong thiên niên kỷ đầu tiên sau công nguyên, các dân tộc Thái vẫn còn được tổ chức một cách lỏng lẻo thành nhiều thực thể nhỏ gọi là muang (mường) hay mandalas. Họ bị ảnh hưởng nhiều từ những nền văn hoá văn minh hơn ở xung quanh: văn hoá Khmer ở phía đông nam, các văn hoá Hindu của Ấn Độ ở phía tây. Đa số các dân tộc Thái chuyển sang một hình thức tôn giáo kiểu Hindu giáo, hiện ta vẫn còn thấy những dấu vết của nó trong các tôn giáo Lào hiện nay. Giữa thế kỷ thứ 6 và thứ 9 công nguyên, Phật giáo bắt đầu lan tới những vùng do người nói tiếng Thái sinh sống, có lẽ qua Miến Điện, và trở thành tôn giáo chính. Nhưng Lào vẫn giữ nhiều tôn giáo duy linh từ thời tiền Phật giáo. Khi người Thái đã củng cố được vị trí, họ lại phân chia ra thành nhiều nhóm ngôn ngữ phụ. Các ngôn ngữ đó gồm Thái-Lào, trong khoảng thế kỷ 11 và 12 công nguyên từng lan rộng dọc theo vùng trung Châu thổ sông Cửu Long và qua cao nguyên Khōrāt (hiện nay là vùng Isan ở đông bắc Thái Lan). Bước tiến về phía nam của họ bị người Khmer chặn lại ở Champāsak, người Khmer đã xây dựng lên những đền tháp vĩ đại ở Wat Phū. Tới lượt Lào lại bị chia ra thành nhiều nhóm, dựa trên địa điểm họ sinh sống và quan hệ của họ với dòng sông. Các nhóm đó gồm Lào-Lum (Lào ở vùng trũng của châu thổ), Lào-Thoeng (Lào ở những sườn núi dốc) và Lào-Sūng (Lào ở trên đỉnh núi). Nhóm cuối này gồm nhiều thiểu số ngôn ngữ chỉ còn giữ quan hệ xa với ngôn ngữ Thái. Lào-Lum, có đất canh tác tốt nhất và có con sông làm đường vận chuyển trở thành nhóm giàu có nhất trong khác dân tộc Thái-Lào. Những sự chia tách này để lại dấu ấn trong lịch sử Lào và vẫn tồn tại đến ngày nay, nhiều nhóm dân tộc Lào-Thoeng và Lào-Sūng rất ít trung thành với nhóm Lào-Lum hiện đang thống trị đất nước. Sự nổi lên và suy sụp của nhiều quốc gia Lào thời kỳ đầu hiện nay chỉ còn được ghi lại trong truyền thuyết. Vị lãnh đạo đầu tiên được ghi lại trong lịch sử Lào là Khun Lô, có lẽ ông đã chinh phục vùng Luang Phrabāng từ tay những nhóm người không phải Thái vào thế kỷ thứ 12. Bởi vì sông Cửu Long bị chia thành ba vùng vận tải thủy riêng biệt theo độ dốc của nó, giữa Luang Phrabāng và Viêng Chăn (Vientiane) giữa Viêng Chăn và Savannakhēt, ba thành phố đó trở thành những trung tâm riêng biệt "tượng trưng" của Lào-Lum. Mô hình này chỉ bị phá vỡ khi người Mông Cổ xâm lược năm 1253, khi đội quân do Kublai Khan chỉ huy tiến về hạ lưu sông Cửu Long để tấn công vương quốc Khmer. Khi người Mông Cổ rút đi, một vương quốc mới là Sukhothai được người Xiêm dựng lên, sau này nó phát triển thành một nhà nước Xiêm hùng mạnh hơn với thủ đô ở Ayutthaya (được thành lập năm 1351). Vương quốc Lān Nā, đóng đô ở Chiềng Mai gồm cả những đặc trưng Xiêm và Lào cũng được thành lập vào khoảng thời gian này. Để đáp lại, những vị cai trị Thái-Lào ở Luang Phrabāng (lúc ấy được gọi là Xiang Dong Xiang Thong) lập nên một nhà nước mới, trong khi về danh nghĩa vẫn là nước phụ thuộc của nhà Nguyên (Mông Cổ) ở Trung Quốc, nhưng thực tế nó là lực lượng lãnh đạo các dân tộc Lào. Từ khoảng năm 1271 nước này do triều đình Phrayā cai trị. Khoảng năm 1350 một hoàng tử là Fā Ngum chạy trốn khỏi triều đình với cha sau một vụ bất hoà và tìm nơi ẩn náu ở chỗ người Khmer tại Angkor, ông đã cưới một công chúa ở đây. Năm 1353 ông quay trở với tư cách chỉ huy một đội quân (có lẽ với sự hỗ trợ của người Khmer), chiếm Xiang Dong Xiang Thong và lập nên một nhà nước Lào mới chiếm toàn bộ vùng châu thổ sông Cửu Long nơi sinh sống của những bộ tộc nói tiếng Lào. Đó chính là Lān Xāng, Vương quốc Triệu voi. Vương quốc Lan Xang Vương quốc của người Lào (Vạn Tượng) hiện nay một số sách báo viết là Lan Xang, Lan Ch'ang (tiếng Pali: Sisattanakhanahut, tiếng Lào: ລ້ານຊ້າງ - lâansâang, tiếng Trung: 南掌 - Nam Chưởng hay 萬象 - Vạn Tượng) nghĩa là "đất nước triệu voi", được Somdetch Brhat-Anya Fa Ladhuraniya Sri Sadhana Kanayudha Maharaja Brhat Rajadharana Sri Chudhana Negara (tức vua Fā Ngum) thành lập năm 1354. Phải sống lưu vong từ khi còn nhỏ sang Đế quốc Khmer, hoàng tử Lào từ Xieng Dong Xieng Thong (tên chính thức là Muang Sua sau khi Lào chiếm được nó từ đế quốc Khmer) cuối cùng đã kết hôn với một trong các công chúa của vua Khmer. Năm 1349 bắt đầu từ Angkor với việc chỉ huy của đội quân 10.000 lính, Fā Ngum đã tổ chức các lãnh địa mà ông chiếm được thành các mường (tương tự như tỉnh ngày nay) và giành lại Xieng Dong Xieng Thong từ tay cha và anh trai. Fā Ngum được tôn lên làm vua của Vạn Tượng tại Viêng Chăn, nơi ông đã giành được chiến thắng (trận Phay Nam) vào tháng 6 năm 1354. Vạn Tượng, theo nghĩa đen là "triệu voi", một cách nói bóng gió tới cỗ máy chiến tranh kinh khủng của ông. Đất nước Vạn Tượng trải dài từ biên giới phía bắc với Trung Quốc tới Sambor phía dưới các thác ghềnh của sông Mê Kông tại khu vực đảo Khong và từ phía đông là biên giới với Đại Việt tới các dốc đứng phía tây của cao nguyên Khorat. Khi đó, nó đã từng là một trong các quốc gia lớn nhất tại khu vực Đông Nam Á. Muang Sua là vương quốc đầu tiên được các bộ lạc người Lào/Thái thành lập và chiếm đóng từ lãnh thổ của đế quốc Khmer. Những năm đầu trong thời gian trị vì của Fā Ngum tại kinh đô Xieng Dong Xieng Thong đã không có biến cố gì. Tuy nhiên, sáu năm tiếp theo (từ 1362 tới 1368), lại là khoảng thời gian bất ổn do mâu thuẫn tôn giáo giữa nhánh Lạt ma giáo trong Phật giáo mà Fā Ngum theo với Phật giáo Tiểu thừa (Theravada) truyền thống của khu vực. Ông đã trấn áp khốc liệt sự ủng hộ trong giới bình dân với những ý định chống lại người Mông Cổ và cho phá hủy nhiều chùa chiền. Năm 1368, người vợ gốc Khmer của Fā Ngum chết. Sau đó ông cưới con gái của vua Ayutthaya, người dường như đã có ảnh hưởng tới các cố gắng kiến lập hòa bình. Ví dụ, bà là người ra lệnh chào đón phái bộ tôn giáo và nghệ sĩ đã mang một bức tượng Phật là Phra Bang tới đây, mà theo tên gọi của nó kinh đô của vương quốc được đổi tên. Bức tượng Phật này cũng đã trở thành vật hộ mệnh cho vương quốc. Tuy nhiên, sự oán hận trong dân chúng vẫn tiếp tục diễn ra và năm 1373 Fā Ngum phải rút về Muang Nan (nay thuộc tỉnh Nan của Thái Lan). Con trai của ông, Oun Heuan, người phải sống lưu vong tại miền nam Vân Nam, đã quay trở lại để làm nhiếp chính cho đế quốc mà Fā Ngum đã tạo ra. Oun Heuan chính thức lên ngôi (tức vua Samsenethai – nghĩa là 300.000 người Thái) năm 1393 khi Fā Ngum chết, đánh dấu sự kết thúc vai trò chúa tế của người Mông Cổ tại khu vực thung lũng trung lưu sông Mê Kông. Các ghi chép lịch sử của người Thái cho thấy Samsenthai và toàn bộ các vị vua tiếp theo của Vạn Tượng (Lào) đều đóng vai trò vua của quốc gia chư hầu cho vương quốc Ayutthaya. Vương quốc do người Lào, người Thái và một số bộ lạc miền đồi núi khác dựng lên, đã tồn tại trong vùng ranh giới này trong vòng khoảng 300 năm nữa và trong một khoảng thời gian ngắn thậm chí còn mở rộng thêm được về phía tây bắc. Các hậu duệ của Fā Ngum còn tại vị trên ngai vàng tại Muang Sua, đổi tên nó thành Luang Phrabang, trong gần 600 năm sau khi ông chết, duy trì sự độc lập của Vạn Tượng cho tới cuối thế kỷ 17 thông qua một mạng lưới phức tạp các mối quan hệ chư hầu với các công quốc nhỏ hơn. Những người kế tục Fā Ngum, đặc biệt là vua Photisarath ở thế kỷ 16 đã giúp đưa Phật giáo Tiểu thừa trở thành tôn giáo chính trong nước. Vào cùng khoảng thời gian này, các vị vua của Vạn Tượng cũng phải chiến đấu để đẩy lui các cuộc xâm lấn từ phía Đại Việt (1478-1479), Xiêm La (1536), và Myanmar (1571-1621). Thời kỳ chia cắt và bị phụ thuộc Năm 1694, Vạn Tượng rơi vào cảnh tranh giành ngai vàng, và kết quả là nó đã rơi vào giai đoạn suy tàn. Lãnh thổ Lan Xang bị chia thành ba quốc gia phụ thuộc lẫn nhau với quốc gia lớn nhất Luang Prabang ở phía bắc, Vientiane ở trung tâm, và Champasak ở phía nam vào năm 1707. Khu vực tỉnh Houaphan có địa vị bán độc lập và tự trị do kết quả của cuộc sáp nhập bởi quân đội Đại Việt cuối thế kỷ 15, đây cũng là sự khởi đầu cho quan hệ triều cống cho các triều đại tại Việt Nam sau này. Với sự sụp đổ của Lān Xāng, sự chú ý của người châu Âu tới nước Lào giảm sút, và chỉ có một vài người tới đây trong thế kỷ 18. Có ít tài liệu về những sự việc xảy ra bên trong nước Lào ở thời kỳ này. Năm 1763, cuộc xâm lăng lớn nhất của người Miến Điện đã diễn ra. Tất cả các vùng lãnh thổ Lào đều bị chinh phục. Năm 1767, vương quốc Ayutthaya sụp đổ. Một lần nữa, các dân tộc Thái có nguy cơ trở thành thần dân của Miến Điện. Nhưng người Xiêm ngay lập tức phát động một cuộc phản công. Taksin, một vị tướng gốc Hán, đã tổ chức kháng chiến, đẩy lùi người Miến Điện và lập ra một thủ đô mới ở Bangkok, từ đó ông bắt đầu cuộc chinh phục toàn bộ các dân tộc Thái. Taksin tấn công người Miến Điện ở phía bắc năm 1774 và chiếm Chiềng Mai năm 1776, thống nhất vĩnh viễn hai nước Xiêm và Lān Nā. Tướng của Taksin trong chiến dịch này là Thong Duang, được biết đến với danh hiệu Chaophraya Chakri. Năm 1778, Chakri dẫn một đội quân Xiêm khác đi về phía bắc. Các vương quốc Lào lần lượt bị Xiêm xâm chiếm và trở thành các chư hầu của vương quốc Xiêm. Người Xiêm đến Lào không phải với tư cách những người giải phóng. Viêng Chăn bị cướp bóc sạch trơn. Báu vật được tôn kính nhất, Phật Ngọc, bị đem về Bangkok và vẫn ở đó cho tới nay. Vị vua ở Viêng Chăn trốn thoát nhưng đã chết một thời gian sau đó. Từ đó bắt đầu thời cai trị của các vị vua bù nhìn do Xiêm dựng lên. Nhiều gia đình quý tộc Lào bị lưu đày và bị buộc phải di cư sang đất Xiêm. Champāsak cũng bị đặt dưới quyền kiểm soát của Xiêm, mặc dù một số mường Lào ở miền núi phía đông vẫn tiếp tục triều cống cho triều đình Việt Nam tại Huế. Năm 1792, người Xiêm chiếm Luang Phrabāng, nhưng thủ đô cũ này được đối xử tốt hơn so với những gì đã xảy ra cho Viêng Chăn. Nó không bị cướp phá, và vị vua ở đó vẫn giữ được ngôi vị của mình sau khi đã thần phục người Xiêm. Năm 1782, Chaophraya Chakri phế truất Taksin khỏi ngôi vua nước Xiêm, lên ngôi và trở thành vua Rama I, lập ra triều Chakri mà hiện vẫn giữ ngôi vị ở Thái Lan. Dưới ảnh hưởng ngày càng tăng từ phía tây, các vị vua triều Chakri bắt đầu chuyển đổi hình thức nước Xiêm vốn gồm nhiều vùng khác nhau thành một quốc gia kiểu hiện đại, dù đây là một quá trình chậm chạp, khó khăn và đã kéo dài hơn một thế kỷ. Ban đầu, các vương quốc Lào ở xa không bị ảnh hưởng nhiều. Họ phải nộp cống và tuân phục Bangkok, và vẫn được để yên. Từ sau năm 1785, với sự lớn mạnh của nhà Tây Sơn ở Việt Nam, đặc biệt là sau trận thắng vang dội Rạch Gầm-Xoài Mút trước quân Xiêm, sự kiểm soát từ Bangkok tới các vương quốc Lào có phần nới lỏng. Các vương quốc Lào cũng dần trở thành các vương quốc chư hầu của Việt Nam. Trong chiến dịch giành quyền kiểm soát từ tay nhà Tây Sơn, năm 1802, quân nhà Nguyễn phá thành phố Viêng Chăn, và giành quyền kiểm soát vùng bắc Lào. Khi vua Ānuvong ở vương quốc Viêng Chăn lên ngôi vào năm 1804, ông đã bắt tay xây dựng lại sức mạnh đất nước. Ānuvong xây dựng ngôi chùa Wat Sisakēt tráng lệ để làm biểu tượng cho sự hồi sinh của Lào. Tới năm 1823 ông tin rằng mình đã đủ sức mạnh để gạt bỏ ách thống trị của người Xiêm. Ông dễ dàng chiếm quyền kiểm soát vùng Viêng Chăn, trong khi các đồng minh của mình chiếm Champāsak. Sau đó quân đội Lào vượt sông Mê Kông, với tham vọng giải phóng cao nguyên Khōrāt là nơi các dân tộc nói tiếng Lào sinh sống và tuyên bố độc lập khỏi nước Xiêm. Ānuvonglà vị vua Lào đầu tiên đi tiên phong với vai trò một người yêu nước, kêu gọi sự đoàn kết thống nhất và dẫn dắt các bộ tộc Lào. Nhưng những thành công đầu tiên của ông không kéo dài. Vua Luang Phrabāng liên kết với người Xiêm, người Việt Nam không giúp đỡ, và vua Xiêm Rama III huy động quân đội phản công. Năm 1827, quân Lào thua trận chiến quyết định ở phía nam Viêng Chăn. Thành phố (trừ một số đền chùa) bị đốt cháy trụi và dân cư bị trục xuất. Năm sau đó, Ānuvongbị bắt và chết trong tù tại Bangkok. Vương quốc Viêng Chăn bị tiêu diệt hoàn toàn và trở thành một tỉnh của Xiêm: đây là một sự phát triển mới trong lịch sử Thái, phản ánh sức mạnh ngày càng tăng của các tư tưởng châu Âu. Giữa thế kỷ 19 là khoảng thời gian tồi tệ nhất trong lịch sử Lào. Vua Luang Phrabāng vẫn giữ được độc lập danh nghĩa bằng cách nộp cống cho Trung Quốc và Việt Nam cũng như nước xiêm. Khi Xiêm phát triển cơ cấu của một quốc gia hiện đại, phần còn lại của lãnh thổ Lào bị Bangkok cai trị trực tiếp theo cách càng ngày càng chặt chẽ và đàn áp. Lãnh thổ Lào thưa thớt dân cư vì những cuộc tái định cư ép buộc, và các thành phố đầy những người dân nhập cư Trung Quốc và Việt Nam. Nếu cuộc khởi nghĩa của Ānuvongcho thấy sự khởi đầu của một tinh thần dân tộc Lào thực sự, thì tới những năm 1860, dường như nước Lào sẽ nhanh chóng đánh mất vai trò của một thực thể quốc gia và trở thành một vùng phụ thuộc của vương quốc Xiêm. Sự hình thành Ailao Điều cứu vãn nước Lào chính là sự xuất hiện của chủ nghĩa thực dân châu Âu tại vùng Đông Nam Á. Đây là một điểm mà lịch sử chính thức của Lào, với sự nhấn mạnh vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, không muốn đề cập đến. Nhưng không có sự phủ nhận nào cho thực tế rằng sự chấm dứt thời cai trị của Xiêm đối với các vùng lãnh thổ Lào và sự thành lập nên nhà nước Lào là công của người Pháp, và đó chính là một sản phẩm phụ của tình trạng cạnh tranh giữa hai đế quốc thực dân Anh và Pháp. Không như người Hà Lan và Bồ Đào Nha, hai cường quốc này không chỉ muốn buôn bán với các nước trong vùng Đông Nam Á - họ tìm cách kiểm soát cả lãnh thổ những nước này. Miến Điện, từng là một nỗi sợ hãi ám ảnh của các dân tộc Thái trong nhiều thế kỷ, đã từng bước bị sáp nhập vào Ấn Độ thuộc Anh trong giai đoạn 1826 và 1885. Việt Nam, một nước mạnh khác trong vùng, không chống nổi người Pháp, đã phải chịu một chính quyền bảo hộ được lập lên ở miền Nam Việt Nam và phía đông Campuchia năm 1862 và đến năm 1883 thì kiểm soát toàn bộ vùng lãnh thổ còn lại của Việt Nam. Những sự phát triển đó báo hiệu những rắc rối cho nước Xiêm, đất nước bị kẹp giữa hai cường quốc thực dân. Dưới thời cai trị của các vị vua có tư tưởng tân tiến Rama IV (1851-68) và Rama V (1868-1910), Xiêm tìm cách biến mình thành một quốc gia hiện đại có khả năng tự bảo vệ độc lập, nhưng các biên giới đã xiêu vẹo của đế chế đa sắc tộc này không còn có thể bảo vệ được nữa. Hiệp ước năm 1883 với vua Tự Đức của Việt Nam trao cho Pháp quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ phụ thuộc hoặc đã từng phụ thuộc triều đình Huế, và cũng không có gì ngạc nhiên khi họ chọn cách hiểu hiệp ước này theo một nghĩa rất rộng. Đa phần lãnh thổ của Lào từng một thời là những vùng phụ thuộc của Việt Nam, dù trên thực tế thì điều này thường chẳng có ý nghĩa gì cả. Pháp áp đặt một khái niệm quốc gia kiểu châu Âu lên những quan hệ phong kiến đó, và từ đó dựng lên một tuyên bố chủ quyền về lãnh thổ đối với toàn bộ lãnh thổ từng thuộc về vương quốc Lān Xāng. Người Pháp đóng vai trò chính trong vụ này là Auguste Pavie (1847-1925), ông từng sống 17 năm ở Việt Nam và Campuchia để mở rộng thêm các quyền lợi của Pháp từ khi được bổ nhiệm làm phó lãnh sự ở Luang Phrabāng vào năm 1886. Pavie cũng là một nhà thám hiểm đáng chú ý và là một học giả có tình cảm thực sự với các dân tộc ở Đông Dương, ông cho rằng cần giải phóng họ khỏi tình trạng tách biệt và chế độ phong kiến bằng cách du nhập vào đó các tư tưởng Pháp. Ông coi các vua Xiêm cai trị ở Lào là bọn tham nhũng và áp bức. Khi Luang Phrabāng bị những bộ tộc Thái ở vùng đồi núi tấn công, và những vị quan người Xiêm ở Lào chạy trốn, chính Pavie đã tổ chức phòng thủ thành phố và cứu nguy cho vị vua già Oun Kham. Nhà vua rất cảm kích và ông để nghị nước Pháp đứng ra bảo hộ thay cho nước Xiêm. Pavie không thể dàn xếp được vụ này dù ông đã thực hiện việc sáp nhập vùng Sipsong Chu Thai nói tiếng Thái vào vùng Việt Nam thuộc Pháp. Pavie gọi công cuộc xây dựng thiện chí với Pháp ở Lào của mình là "cuộc chinh phục những trái tim," nhưng sau chót vẫn phải cần đến vũ lực mới hất cẳng được người Xiêm. Tới năm 1890 chính quyền Pháp ở Hà Nội, được hỗ trợ bởi một đảng mạnh trong nghị viện Pháp, quyết định sẽ thôn tính toàn bộ nước Xiêm, mà nước Lào chư hầu của nó chỉ là giai đoạn đầu. Năm 1892 Pavie được chỉ định làm Tổng lãnh sự Pháp ở Bangkok, và yêu cầu người Xiêm chấp nhận "những nhà buôn" Pháp tại các thành phố lớn của Lào, từ Luang Phrabāng đến Stung Treng. Pavie biện bạch rằng pháp sẽ yêu cầu quyền bảo hộ đối với toàn bộ lãnh thổ Lào trên cả hai bờ sông Mê Kông. Ông cho rằng điều này sẽ làm suy yếu nước Xiêm, và sau đó việc thôn tính hoàn toàn nước này sẽ xảy ra. Hoàn toàn hiểu rõ những điều người Pháp dự định tiến hành, Xiêm gấp rút đưa quân và các quan cai trị vào trong lãnh thổ Lào, nhưng cơ cấu của nó vẫn chưa đủ phát triển để thực sự nắm chắc được những tỉnh xa xôi đó. Hơn nữa sự tin tưởng của Rama V rằng người Anh sẽ ủng hộ ông trong mọi xung đột với nước Pháp đã bị chứng minh là không có căn cứ. Tháng 7 năm 1893 những xung đột nhỏ tại biên giới dẫn tới một xung đột vũ trang, với việc các tàu chiến Pháp đi ngược sông Chao Phraya đe dọa Bangkok. Đối mặt với mối đe doạ đó, Xiêm đầu hàng, và Pháp lập lên một chế độ bảo hộ trên toàn vùng phía đông Mê Kông. Năm 1904 lại có xung đột xảy ra, phần lớn do người Pháp. Một lần nữa người Anh lại không giúp đỡ Xiêm và Xiêm buộc phải lùi bước, nhượng lại hai vùng đất phía tây sông Mê Kông là Xainaburī ở phía bắc và Champāsak ở phía nam. Cùng lúc đó, Pháp cắt Stung Treng khỏi Lào để nhập vào Campuchia và thực hiện một số sửa đổi khác về biên giới giữa Lào và Việt Nam. Những thay đổi đó đã thiết lập biên giới Lào từ thời đó đến giờ. Những người Pháp theo chủ nghĩa bành trướng được Pavie hối thúc muốn tiếp tục gây sức ép để đòi hỏi những vùng đất của các dân tộc nói tiếng Lào ở cao nguyên Khōrāt, nhưng người Anh đã can thiệp vào việc này. Sau khi đã chiếm được quyền kiểm soát Miến Điện và Malaya, họ muốn giữ Xiêm lại làm một quốc gia đệm giữa đế chế của mình và Pháp hơn là cho phép người Pháp thôn tính toàn bộ nước Xiêm. Tới năm 1909, tình hình ở châu Âu đã thay đổi, và Pháp quyết định rằng họ cần nước Anh làm đồng minh để chống lại nước Đức đang ngày càng nổi lên hùng mạnh. Vì thế Paris quyết định rằng nước Xiêm không còn đáng giá các rủi ro khi xung đột với các quyền lợi của Anh quốc. Vì thế việc nước Pháp ngừng chiếm quyền kiểm soát toàn bộ các vùng lãnh thổ Lào đã tạo nên các biên giới của nước Lào ngày nay - đường biên giới đã trở nên bền vững khi người Anh phản đối bất kỳ sự lấn sâu thêm nào của Pháp vào đất Xiêm. Nhưng nó cũng tạo ra tình huống khó khăn mà người Lào phải đối mặt kể từ lúc đó. Nếu Pháp đã không can thiệp vào mọi công việc nội bộ của Xiêm, thì chắc Lào đã bị sáp nhập lặng lẽ vào một quốc gia Xiêm nói tiếng Thái lớn hơn. Mặt khác, nếu Pháp thành công trong việc tách mọi vùng lãnh thổ Lào khỏi Xiêm, thì có lẽ ngày nay đã có một nước Lào rộng lớn, một sự tái tạo thực sự của Lān Xāng trên cả hai bờ sông Mê Kông với khoảng 20 triệu người. Thay vào đó, nước Lào ngày nay chỉ có 6 triệu người mà chỉ một nửa trong số đó coi tiếng Lào là tiếng mẹ đẻ. Trong khi đó, vùng Isan của Thái Lan có 15 triệu người nói tiếng Lào (ngôn ngữ hiện nay được gọi chính thức là "tiếng Thái Đông Bắc", nhưng nó hầu như giống hệt với tiếng Lào chuẩn). Với sự di dân lớn gần đây từ Isan tới Bangkok, hiện ở Bangkok có nhiều người nói tiếng Lào hơn so với ở Viêng Chăn, thủ đô Lào. Lào hầu như là dân tộc duy nhất không có sự tương đồng giữa sự phân bố về địa lý của họ và các biên giới của cái hiện nay được cho là quốc gia của dân tộc họ. Lào thuộc Pháp Không thực hiện được đại kế hoạch sáp nhập nước Xiêm, người Pháp không còn chú ý đến Lào và trong 50 năm tiếp sau nó vẫn là một vùng tù túng bên trong liên bang Đông Dương của Pháp. Về mặt chính thức, Vương quốc Luang Phrabāng và Công quốc Champāsak vẫn là những vùng bảo hộ với quyền tự trị bên trong, nhưng trên thực tế chúng bị cai quản bởi các công sứ Pháp. Vua Sisavang Vong, người lên làm vua Luang Phrabāng năm 1904, vẫn giữ sự trung thành rõ ràng với người Pháp trong 55 năm cai trị của mình. Phần còn lại của đất nước ban đầu được chia làm hai vùng, Thượng Lào và Hạ Lào, mỗi vùng được một sĩ quan chỉ huy, và đóng đô tại Luang Phrabāng và Pākxē. Sau đó nước này được chia thành mười một tỉnh, mỗi tỉnh có một vị công sứ người Pháp. Năm 1898 toàn bộ lãnh thổ Lào bị đặt dưới sự tổng giám sát của một Tổng công sứ, đóng đô ở Viêng Chăn (hay Vientiane) chịu trách nhiệm với Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội. An ninh, phong tục và thông tin liên lạc được kiểm soát từ Hà Nội, và vì thế bị sao nhãng ở trên lãnh thổ Lào, nơi có ít ưu tiên về ngân sách. Các chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về sức khoẻ, giáo dục và pháp luật, và tự kiếm lấy tiền ở địa phương mà chi dùng. Người Pháp thừa hưởng một lãnh thổ ít dân và bị đồi phong bại tục trong nhiều năm chiến tranh và mất trật tự: năm 1910 chỉ có khoảng 600.000 người sống ở Lào, gồm nhiều người Trung Quốc và Việt Nam. Để lập lại trật tự, một quân đội địa phương, Garde Indigène, được thành lập gồm một hỗn hợp các đội quân Lào và Việt Nam dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp. Cướp bóc bị áp chế, nô lệ bị bãi bỏ, và chế độ quan liêu Lào Lùm ưu việt hơn so với Lào Thơng và Lào Sủng bị ngăn lại. Các nhân viên người Việt được đưa vào trong bộ máy hành chính để giúp đỡ cho số lượng nhân viên người Pháp ít ỏi – năm 1910 chỉ có khoảng 200 người Pháp trên toàn bộ nước Lào. Các thương nhân Trung Quốc và Việt nam tới những thành phố đang hồi phục (đặc biệt là Viêng Chăn) và hồi sinh thương nghiệp. Người Pháp nắm lấy quyền thu thuế vốn trước kia do người Xiêm đảm nhiệm, nhưng bởi vì các quan chức Pháp ít tham nhũng hơn quan chức Xiêm nên số thuế thu được tăng lên. Người Lào nói chung cũng có trách nhiệm phải đi phu phen, quy định là mười ngày một năm, dù có thể xin miễn bằng cách trả tiền. Người Lào-Lum hay phải đi phu nhất, có lẽ bởi vì họ bị coi là chỉ thích hợp với những vùng núi ở Lào và những công việc kiểu nô lệ. Người Việt Nam và Trung Quốc không phải đi phu (không đúng sự thực, ít nhất là đối với người Việt Nam), nhưng phải chịu một mức thuế theo đầu người bằng tiền mặt lớn hơn. Những khoản thu khác từ việc buôn bán thuốc phiện, rượu và độc quyền muối của nhà nước. Tuy nhiên, chính quyền hành chính ở Lào luôn thiếu tiền, và sự phát triển, đặc biệt ở vùng núi cao rất chậm chạp. Nói chung, người Lào coi sự cai trị của Pháp là dễ chịu hơn so với người Xiêm, và nó bảo đảm rằng thỉnh thoảng không có những cuộc nổi dậy có tổ chức chống lại họ. Tuy nhiên, năm 1901, một cuộc nổi loạn nổ ra ở phía nam do một người Lào Thơng tên là Ong Kẹo lãnh đạo, ông tự coi mình là đức Phu-mi-bun (người thần thánh) và tôn thờ Chúa cứu thế. Cuộc nổi loạn này về tính chất không phải là chống lại pháp hay những người Lào theo chủ nghĩa quốc gia, nhưng lôi cuốn được nhiều người ủng hộ và chỉ tới năm 1910 mới bị đàn áp triệt để khi Ong Kẹo bị giết. Tuy nhiên, một trong những chỉ huy dưới quyền Ong Kẹo, Ong Kommadam, vẫn sống sót và trở thành nhà lãnh đạo những người Lào theo chủ nghĩa quốc gia những năm sau đó. Sau cuộc cách mạng Trung Quốc năm 1911, có những rắc rối xảy ra ở phía bắc Lào khi các vị lãnh chúa và bọn kẻ cướp Trung Quốc đem chiến tranh sang phía bên kia biên giới (vốn chưa được xác định rõ ràng) và bởi vì những người Lào Sủng có quan hệ với Trung Quốc bị lôi kéo vào cuộc xung đột. Pháp cố gắng điều chỉnh việc buôn thuốc phiện cũng dẫn tới nổi loạn ở một số vùng. Trong những năm 1914-16 có một cuộc nổi loạn của người Hmong được gọi là "cuộc nổi loạn của người điên" theo lãnh đạo của nó, một pháp sư được gọi là Pa Chai. Lịch sử chính thức của Lào sau này gọi tất cả những cuộc nổi loạn đó là "những cuộc chiến đấu chống thực dân" nhưng đây là một sự cường điệu. Sự so sánh giữa cách cai trị của người Pháp và người Xiêm đã dẫn tới việc nhiều người Lào ở Isan di cư quay về trong nước, làm tăng dân số và phục hồi thương mại. Những thành phố ở châu thổ sông Cửu Long như Viêng Chăn, Savannakhet và Paksē bắt đầu phát triển, dù người Việt và người Trung Quốc vẫn chiếm số đông ở đó. Nông nghiệp và thương mại phục hồi. Người Pháp hy vọng hướng thương mại Lào về phía hạ lưu sông Cửu Long tới Sài Gòn, nhưng họ không thể cạnh tranh với con đường thương mại nhanh chóng và rẻ hơn qua Bangkok, đặc biệt khi những đường sắt của người Xiêm đã tiến tới sông Cửu Long trong thập kỷ 1920. Điều này khiến cho Xiêm vẫn đóng một vị trí quan trọng trong kinh tế Lào sau khi ảnh hưởng chính trị của Xiêm đã chấm dứt: một sự thực hiện vẫn không thay đổi. Người Pháp đề nghị xây dựng một tuyến đường sắt xuyên qua vùng núi tới Việt Nam, nhưng vốn cho dự án này không bao giờ được Paris duyệt chi. Tuy nhiên người Pháp đã xây dựng tuyến đường quan trọng nhất ở Lào, Quốc lộ 13 từ Viêng Chăn tới Paksē (gần đây hơn nó đã được kéo dài về phía bắc tới Luang Phrabāng). Nhưng phát triển kinh tế vẫn còn chậm chạp. Có một số mỏ thiếc và một số vùng trồng cà phê, nhưng tình trạng cô lập của quốc gia này và địa hình không thích hợp có nghĩa là nó không bao giờ được chính quyền bảo hộ coi là một nơi để kiếm ra tiền. Hơn 90% người Lào vẫn là nông dân, với thặng dư lương thực chỉ vừa đủ để bán lấy tiền nộp thuế. Đa số người Pháp tới Lào là các viên chức, người định cư hay truyền giáo đã phát triển ảnh hưởng mạnh tới đất nước và dân chúng Lào, và nhiều người đã bỏ ra hàng thập kỷ để làm những việc mà họ cho là giúp cải thiện đời sống của dân Lào. Một số lấy vợ người Lào, học tiếng, theo Phật giáo và "trở thành giống dân địa phương" – một điều được chấp nhận nhiều hơn ở đế chế thuộc địa Pháp so với Anh. Tuy nhiên, với những thói quen căn bản đặc trưng của người Âu ở thời gian đó, họ có coi người Lào là hiền lành, tử tế, ngây thơ, khờ dại và lười biếng, coi họ theo điều mà một nhà văn đã gọi là "một sự pha trộn của ảnh hưởng và exasperation." Họ không tin rằng người Lào sẽ có thể tự cai quản lấy mình, và rất đủng đỉnh trong việc lập ra một hệ thống giáo dục kiểu phương Tây ở Lào. Trường trung học đầu tiên ở Viêng Chăn mãi tới năm 1921 mới mở cửa, và chỉ trong thập kỷ 1930 những sinh viên Lào mới được tiếp cận với giáo dục ở mức cao hơn tại Hà Nội hay Paris. Dần dần một mạng lưới các trường tiểu học phát triển ra khắp những vùng đất thấp, và tới những năm 1930 tỷ lệ biết chữ trong cộng đồng Lào-Lum đã tăng khá nhiều. Nhưng ở những vùng cao, nơi người dân nói tiếng Lào thổ ngữ hay tiếng không phải Lào, vẫn còn chưa được tiếp cận với giáo dục. Trong số những người Lào đầu tiên được tiếp thu nền giáo dục tiên tiến phương Tây là ba anh em thuộc tầng lớp trên, con trai (khác mẹ) của Chau Bunkhong, vị uparāt (phó vương có quyền thế tập) ở Luang Phrabāng: gồm Hoàng tử Phetxarāt (1890-1959), Hoàng tử Suvannaphūmā (1901-84) và Hoàng tử Suphānuvong (1909-95), những người này sau đó đã lãnh đạo chính trị Lào trong nhiều năm. Phetxarāt tốt nghiệp Trường thuộc địa ở Paris và là người Lào đầu tiên tới học ở Đại học Oxford. Cả Suvannaphūmā và Suphānuvong đều tốt nghiệp kỹ sư ở Pháp. Suvannaphūmā cũng học những môn kinh điển, tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp và Pali: trở thành một hình mẫu một nhà chính trị học giả kiểu Pháp. Có một sự quan sát tiêu chuẩn của lịch sử hậu thuộc địa rằng những học giả được giáo dục kiểu phương tây sau này sẽ trở thành lãnh đạo của các phong trào chống chủ nghĩa thực dân. Những người được Pháp giáo dục như Phetxarāt, Suvannaphūmā và Suphānuvong có lẽ sẽ xác định trường hợp này ở Lào, nhưng trên thực tế tất cả họ đầu tiên đều là những quan chức Lào và sau đó mới là những trí thức có tinh thần quốc gia, thậm chí Suphānuvong cuối cùng trở thành nhà lãnh đạo tinh thần của nước Lào xã hội chủ nghĩa. Lào không bao giờ sản sinh ra một con người kiểu Pol Pot, một người được đào tạo ở Pháp và hoàn toàn chủ trương tư tưởng Mác xít. Sự đóng góp thực tế của Pháp cho chủ nghĩa quốc gia Lào, tách ra khỏi sự thành lập nước Lào, được thực hiện bởi những chuyên gia đông phương học của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (École Française d'Extrême-Orient), những người đã thực hiện các công việc khảo cổ chính, tìm kiếm và xuất bản những văn bản lịch sử Lào, tiêu chuẩn hoá chữ viết trong ngôn ngữ Lào, phục hồi những đền chùa và lăng tẩm đã hư hại và năm 1931 lập ra Viện Phật giáo Lào độc lập ở Viêng Chăn, nơi Pali từng được dạy dỗ và nhờ thế người Lào có thể nghiên cứu lịch sử cổ đại của riêng nước mình. Sự khôi phục và giữ gìn những vinh quang văn hoá cũ của Luang Phrabāng là một đặc tính và sự nỗ lực của văn minh Pháp. Sự khuyến khích văn hóa và nghiên cứu lịch sử Lào của người Pháp đã tạo ra một tầng lớp trí thức Lào mới, họ nhanh chóng tập hợp dưới sự lãnh đạo của Phetxarāt, một học giả tài năng. Phetxarāt hiện được coi là một người theo chủ nghĩa quốc gia, nhưng ở vị trí số một ông phải là người dẫn đầu sự hợp tác của Lào với Pháp. Năm 1923 ông được chỉ định làm Giám sát bản xứ về những công việc chính trị và hành chính, khiến ông trở thành người Lào có chức vị cao nhất nước. Ông làm việc để tăng số vị trí người Lào trong bộ máy hành chính và giảm bớt vai trò của người Việt Nam. Phetxarāt và những nhà lãnh đạo Lào khác thích kiểu cai trị của Pháp bởi vì nó bảo vệ họ khỏi người Xiêm và người Việt Nam. Chỉ khi người Pháp mất đi quyền lực và uy tín thì tầng lớp trí thức Lào mới quay sang chống lại họ. Giai đoạn từ 1945 Trong thế chiến 2 Lào có vẻ được để kệ là một vùng chậm phát triển dễ chịu của Đế chế Pháp và hầu như hoàn toàn không bị các sự kiện bên ngoài ảnh hưởng tới từ năm 1940 trở về trước. Sự sụp đổ của Pháp trước cuộc tấn công của Đức Phát xít là một cú sốc lớn đối với niềm tin của Lào vào khả năng bảo vệ họ của Pháp. Mối đe doạ lớn nhất của Lào lúc ấy là thuyết phục hồi lãnh thổ của Xiêm. Tháng 12, 1940 quân đội của Thống chế Phibun ở Bangkok tấn công Đông Dương thuộc Pháp với sự ủng hộ ngầm của Nhật Bản, chiếm vùng phía tây Campuchia, và đòi lại Xainaburī cùng Champāsak, vốn từng là một phần của nước Lào thuộc Pháp từ năm 1904. Chính quyền Vichy Pháp cho phép quân đội Nhật đóng ở Đông Dương, mặc dù lúc ấy vẫn chưa cho phép vào Lào. Nỗi sợ hãi bị bỏ lại cho Thái Lan (khi ấy Phibun đã đổi lại tên thành Xiêm) và Nhật Bản dẫn tới việc thành lập tổ chức quốc gia Lào đầu tiên, Phong trào đổi mới quốc gia, tháng 1 năm 1941, do Phetxarāt lãnh đạo và các viên chức pháp ủng hộ, dù không được chính quyền Vichy ở Hà Nội ủng hộ. Nhóm này viết ra quốc ca Lào hiện nay và thiết kế ra lá cờ Lào bây giờ trong khi lại nghịch lý là thề nguyền ủng hộ nước Pháp. Các vị trí thức đó tồn tại tới khi Pháp được giải phóng năm 1944, đưa Charles de Gaulle lên nắm quyền. Điều này có nghĩa là chấm dứt đồng minh giữa Nhật và hành chính Pháp ở Đông Dương. Người Nhật không có ý định cho phép người Pháp hất cẳng, và cuối năm 1944 họ thực hiện một cuộc đảo chính ở Hà Nội. Các đơn vị lính pháp chạy qua vùng núi non biên giới sang Lào, bị người Nhật đuổi theo, chiếm Viêng Chăn tháng 3 năm 1945 và Luang Phrabāng trong tháng 4. Vua Sīsavāngvong được người Nhật giữ lại, nhưng con của ông là Thế tử Savāngvatthanā kêu gọi mọi người Lào ủng hộ Pháp và nhiều người Lào đã chết khi chiến đấu cùng với người Pháp chống lại những kẻ chiếm đóng Nhật Bản. Tuy nhiên, hoàng tử Phetxarāt phản đối tình hình này, dù Lào có thể giành lại độc lập với sự trợ giúp của người Nhật, người đã đưa ông lên làm thủ tướng Luang Phrabāng, dù không phải là toàn bộ nước Lào. Trên thực tế đất nước trong tình trạng hỗn loạn và chính phủ của Phetxarāt không có thực quyền. Một nhóm Lào khác, Lao Sēri (Lào tự do), trở thành đồng minh của Thái, có nghĩa là ủng hộ người Nhật. Một tình hình phức tạp hơn diễn ra khi một số lực lượng Việt Nam tiến sang giúp giải phóng nước Lào. Mặc dù đường lối chính thức của cộng sản ở thời kỳ này là thống nhất mọi lực lượng chống Nhật, người Việt Nam ghét Pháp và vì thế ủng hộ cho chính phủ của Phetxarāt. Tháng 8, 1945, khi đất nước bị tan rã ra trong một cuộc nội chiến nhiều phía, người Nhật bất ngờ đầu hàng đồng minh. Ở Lào và ở thủ đô nhiều nước mới giành lại độc lập khác ở Đông Nam Á, có một sự tranh giành quyền lực đang bị bỏ trống. Những địch thủ chính là người Pháp theo De Gaulle, các lực lượng du kích của họ đang kiên trì chiến đấu ở nhiều vùng thuộc Lào, và một nhóm Lào theo chủ nghĩa quốc gia mới do Phetxarāt lãnh đạo, nhóm Lào Issara (cũng có nghĩa là Lào tự do). Quân đội đồng minh ở gần đó nhất là nhóm Quốc gia Trung Quốc ở phía nam Trung Quốc, và lực lượng này chuẩn bị tiến về phía nam để nhận sự đầu hàng của Nhật Bản. Hoa Kỳ chính thức phản đối người Pháp tái lập quyền cai trị ở Đông Dương và người Anh cũng không thể giúp đỡ gì được. Nhưng người Pháp không chịu từ bỏ Đông Dương mà không chiến đấu. Lào trong chiến tranh Đông Dương Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người Nhật chiếm Đông Dương. Khi Nhật đầu hàng, những người quốc gia Lào tuyên bố độc lập, nhưng tới đầu năm 1946, quân Pháp tái chiếm nước này và chỉ trao cho họ một số quyền tự trị hạn chế. Trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Đảng cộng sản Đông Dương đã lập ra tổ chức kháng chiến Pathet Lào nhằm giành độc lập cho Lào. Lào hoàn toàn độc lập sau khi Pháp bị những người cộng sản Việt Nam đánh bại và sau Hội nghị Genève năm 1954. Các cuộc bầu cử được tổ chức vào năm 1955, và chính phủ liên hiệp đầu tiên, do Hoàng tử Souvanna Phouma lãnh đạo được thành lập năm 1957. Chính phủ liên hiệp sụp đổ năm 1958 vì sức ép của Hoa Kỳ. Năm 1960 các đơn vị quân đội thực hiện một cuộc đảo chính yêu cầu cải cách và một chính phủ trung lập. Chính phủ liên hiệp thứ hai ra đời, và lại do Souvanna Phouma lãnh đạo, nhưng chính phủ này không giữ được quyền lực. Những lực lượng cánh hữu dưới quyền của tướng Phoumi Nosavan loại bỏ những người trung dung ra khỏi chính phủ cùng trong năm đó. Nội chiến 1962-1975 Một hội nghị Genève lần thứ hai được tổ chức năm 1961-62, quy định tính độc lập và trung lập của nước Lào, nhưng thoả thuận này lại bị cả Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà phá vỡ và chiến tranh lại nhanh chóng diễn ra. Lào bị kéo vào Chiến tranh Đông Dương lần hai (1954-1975). Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng vùng cán xoong của Lào làm đường vận chuyển hậu cần và chuyển quân từ miền Bắc Việt Nam vào miền Nam. Để chống lại nỗ lực này, Hoa Kỳ thành lập lực lượng của tướng Vàng Pao với mục đích quấy phá các cơ sở và lực lượng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đặt tại Lào. Xung đột cũng diễn ra giữa Quân đội quốc gia Lào và lực lượng Pathet Lào với hậu thuẫn là Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong gần một thập kỷ, phần đông nam Lào là nơi phải chịu nhiều trận ném bom dữ dội nhất trong lịch sử chiến tranh , khi Hoa Kỳ tìm cách phá huỷ đường mòn Hồ Chí Minh chạy xuyên nước Lào. Khu vực này của Lào cũng nhiều lần bị Quân lực Việt Nam Cộng hòa xâm lấn (ví dụ Chiến dịch Lam Sơn 719) và các đội thám báo Mỹ thâm nhập với mục đích phá hoại tuyến đường hậu cần trên. Giai đoạn từ 1975 đến nay Một thời gian ngắn sau Hiệp định hoà bình Paris dẫn tới sự rút quân của Mỹ khỏi Việt Nam, một cuộc ngừng bắn diễn ra giữa Pathet Lào và chính phủ dẫn tới việc thành lập một chính phủ liên minh mới. Tuy nhiên, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà không thực sự rút quân khỏi Lào và Pathet Lào vẫn là một đội quân phụ thuộc vào Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Pathet Lào với sự hỗ trợ của Việt Nam đã có thể chiếm toàn bộ quyền lực mà chỉ gặp phải một sự chống đối ít ỏi. Ngày 2 tháng 12 năm 1975, nhà vua buộc phải thoái vị và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào được thành lập. Chính phủ mới do Kaysone Phomvihane lãnh đạo áp đặt nền kinh tế tập trung hoá và đưa nhiều thành viên của chính phủ và quân đội trước đây vào các "trại giáo dục tập trung", trong số đó có nhiều người Hmong. Lào phụ thuộc nhiều vào viện trợ của Liên Xô thông qua Việt Nam cho tới khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991. Trong thập kỷ 1990 đảng cộng sản Lào chấm dứt quản lý kinh tế tập trung hoá
Quân ủy Trung ương hoặc là Ủy ban Quân sự Trung ương hoặc Ủy ban Quốc phòng là một tổ chức điển hình của một số quốc gia xã hội chủ nghĩa một đảng và tán thành chủ nghĩa cộng sản, chịu trách nhiệm giám sát các lực lượng vũ trang của quốc gia. Ví dụ về các Quân ủy Trung ương hiện tại có thể được tìm thấy ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Việt Nam. Việt Nam Quân ủy Trung ương Việt Nam Hội đồng Quốc phòng và An ninh Việt Nam Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Ủy ban Quân sự Trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Ủy ban An toàn Quốc gia Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Ủy ban Quân sự Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Ủy ban Quốc phòng Triều Tiên Ủy ban Quân sự Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên Đảng cộng sản Tổ chức quân sự Xã hội học quân sự Hệ thống xã hội chủ nghĩa
Chi Hải đường, còn gọi là chi Táo tây (danh pháp khoa học: Malus), là một chi của khoảng 30-35 loài các loài cây thân gỗ hay cây bụi nhỏ lá sớm rụng trong họ Hoa hồng (Rosaceae), bao gồm trong đó nhiều loài hải đường và một loài được biết đến nhiều là táo tây (Malus domestica, có nguồn gốc từ Malus sieversii). Một số loài khác được biết đến dưới các tên gọi như "táo dại", "táo tây dại" v.v, các tên gọi này có nguồn gốc từ quả nhỏ và chua, không ngon của chúng. Chi này có nguồn gốc ở khu vực ôn đới của Bắc bán cầu, tại châu Âu, châu Á và Bắc Mỹ. Đặc điểm Các loài cây trong chi này nói chung là loại cây nhỏ, thông thường cao 4–12 m khi trưởng thành, với nhiều cành nhỏ. Lá đơn, dài từ 3–10 cm, mọc so le, với mép lá có khía răng cưa. Hoa mọc thành dạng ngù hoa và có 5 cánh, có màu từ trắng, hồng tới đỏ, và là hoa lưỡng tính, với các nhị hoa (thường có màu đỏ) sản sinh ra nhiều phấn hoa và nhụy hoa ở bên dưới. Chúng ra hoa vào mùa xuân khoảng 50-80 ngày sau những ngày có nhiệt độ trung bình trong ngày là 10 °C. Các loài này đòi hỏi có sự thụ phấn chéo giữa các cây nhờ côn trùng (chủ yếu là ong); và tự bản thân chúng là vô sinh (không thể tự thụ phấn), do đó sự có mặt của côn trùng là yếu tố cơ bản. Ong mật là loài có hiệu quả nhất trong việc thụ phấn cho các loài cây này. Các loài trong chi Malus, bao gồm cả táo tây, rất dễ dàng lai ghép với nhau. Chúng cũng bị ấu trùng của một số loài thuộc bộ Lepidoptera phá hại - xem thêm Danh sách các loài cánh vẩy phá hại chi Hải đường. Quả của chúng có dạng hình cầu, dao động về kích thước với đường kính từ 1–4 cm ở phần lớn các loài hoang dại, tới 6 cm ở M. pumila, 8 cm ở M. sieversii và thậm chí lớn hơn ở các loại táo được con người gieo trồng. Ở trung tâm của quả có 5 lá noãn sắp xếp giống hình ngôi sao, mỗi lá noãn chứa 1-2 (ít khi 3) hạt. Một loài, Malus trilobata có nguồn gốc từ vùng Tây Nam Á, có lá có từ 3-7 thùy (bề ngoài tương tự như lá thích) và với một số khác biệt cấu trúc trong quả; nó thông thường được xếp vào một chi riêng, với tên gọi Eriolobus trilobatus. Các loài Plants of the World Online công nhận 29 loài và 3 loài lai ghép như sau: Malus angustifolia (Aiton) Michx., 1803 - táo tây dại miền nam. Malus asiatica Nakai, 1915 Malus baccata (L.) Borkh., 1803 - táo dại Siberi, sơn kinh tử. Malus coronaria (L.) Mill., 1768 - táo dại quả ngọt. Malus crescimannoi Raimondo, 2008 Malus daochengensis C.L.Li, 1989 Malus domestica (Suckow) Borkh., 1803 (đồng nghĩa: M. pumila, M. sieversii) - táo tây, tần bà, mắt phượng, táo dại Tân Cương, bình quả. Malus fusca (Raf.) C.K.Schneid., 1906 - táo dại Oregon. Malus halliana Koehne, 1890 - hải đường tơ rủ. Malus honanensis Rehder, 1920 - hải đường Hà Nam. Malus hupehensis (Pamp.) Rehder, 1933 - hải đường Hồ Bắc. Malus ioensis (Alph.Wood) Britton, 1897 - táo dại đồng cỏ. Malus jinxianensis J.Q.Deng & J.Y.Hong, 1987 Malus kansuensis (Batalin) C.K.Schneid., 1906 - hải đường Lũng Đông. Malus komarovii (Sarg.) Rehder, 1920 Malus leiocalyca S.Z.Huang, 1987 (= Pyrus leiocalyca (S.Z.Huang) M.F.Fay & Christenh., 2018) Malus mandshurica (Maxim.) Kom. ex Skvortsov, 1925 Malus muliensis T.C.Ku, 1991 Malus ombrophila Hand.-Mazz., 1926 Malus orientalis Uglitzk., 1932 Malus prattii (Hemsl.) C.K.Schneid., 1906 - hải đường Tây Thục. Malus prunifolia (Willd.) Borkh., 1803 - thu, táo lá mận. Malus rockii Rehder, 1933 - sơn kinh tử Lệ Giang. Malus sikkimensis (Wenz.) Koehne, 1970 - hải đường Xích Kim. Malus spectabilis (Aiton) Borkh., 1803 - hải đường. Malus spontanea (Makino) Makino, 1914 Malus sylvestris (L.) Mill., 1768 không Moench, 1794 - Loài điển hình. Táo dại châu Âu. Malus toringo (Siebold) de Vriese, 1856 (đồng nghĩa: M. sieboldii) - hải đường ba lá Malus toringoides (Rehder) Hughes, 1920 - hải đường lá rung. Malus transitoria (Batalin) C.K.Schneid., 1906 - hải đường hoa lá. Malus turkmenorum Juz. & Popov, 1939 Malus yunnanensis (Franch.) C.K.Schneid., 1906 - hải đường Vân Nam. Malus × floribunda Siebold ex Van Houtte, 1865 - táo dại Triều Tiên. Malus × soulardii (L.H.Bailey) Britton, 1891 Malus × zumi (Matsum.) Rehder, 1905 Sử dụng Đối với Malus domestica, xem bài Táo tây. Quả của các loài khác không có giá trị thương mại lớn, chủ yếu là do chúng có vị quá chua hay ruột giống như gỗ (ở một số loài), và do vậy ít được dùng để ăn. Tuy nhiên, nếu quả táo tây dại được ép, sau đó được lọc cẩn thận, trộn nước thu được với một lượng đường tương đương và sau đó nấu lên thì nước quả này có thể làm thành một loại thạch táo tây có màu đỏ ruby khá ngon. Một lượng nhỏ táo tây dại trong rượu táo làm cho loại đồ uống này có hương vị hấp dẫn hơn. Các loại hải đường, táo tây dại được trồng nhiều làm cây cảnh, chủ yếu là do có hoa hay quả đẹp, với nhiều giống được chọn lọc vì khả năng chống chịu sâu bệnh hay vì các phẩm chất nêu trên. Một số loài táo dại được dùng làm các thân gốc cho các giống táo tây được con người trồng để bổ sung thêm các đặc trưng có ích. Ví dụ, thân gốc của cây táo dại Siberi thường được dùng để tăng khả năng chịu lạnh cho các giống táo tây trồng tại các khu vực lạnh giá phương bắc. Chúng cũng được dùng trong vai trò của cây thụ phấn nhân tạo cho táo tây. Rất nhiều chủng loại táo tây dại được chọn sao cho chúng nở hoa cùng thời gian với táo tây trồng trong khu vườn, và các cây táo dại được trồng cứ sau mỗi 5-6 cây táo tây, hoặc các cành táo dại được ghép trên một số cây táo tây. Trong các trường hợp khẩn cấp thì các chậu táo dại đang ra hoa cũng được đặt gần các tổ ong trong vai trò của cây thụ phấn nhân tạo cho táo tây. Lưu ý Hiện nay, tại Việt Nam, thông thường người ta gọi Malus domestica đơn giản chỉ là táo, táo tây hoặc bôm. Tuy nhiên, tên gọi táo còn được dùng để chỉ một số loài trong chi Táo ta (Ziziphus) với quả có vỏ màu xanh hay vàng, cũng ăn được và nói chung có kích thước nhỏ hơn mà tiêu biểu là táo Tàu Ziziphus jujuba. Tên gọi này rất dễ gây nhầm lẫn giữa các loại táo.
Người Bắc Kinh, trước đây gọi là người vượn Bắc Kinh (danh pháp hai phần: Homo erectus pekinensis, đồng nghĩa: Sinanthropus pekinensis), là một phân loài người đứng thẳng (Homo erectus). Các dấu vết khảo cổ học của phân loài này được tìm thấy lần đầu vào giai đoạn năm 1923-27 trong một cuộc khai quật tại Chu Khẩu Điếm, về phía tây nam Bắc Kinh, Trung Quốc. Năm 2009 các phát hiện này được xác định có niên đại khoảng 750.000 năm trước và xác định niên đại mới bằng 26Al/10Be cho rằng chúng có niên đại khoảng 680.000–780.000 năm. Trong giai đoạn từ năm 1929 tới năm 1937, 15 hộp sọ không đầy đủ, 11 hàm dưới, nhiều răng, một vài bộ xương và một lượng lớn công cụ đá đã được phát hiện tại hang Hạ ở Vị trí 1 của Di chỉ người Bắc Kinh tại Chu Khẩu Điếm, gần Bắc Kinh, Trung Quốc. Độ tuổi của chúng được ước tính là khoảng từ 500.000 tới 300.000 năm. Một lượng lớn các hóa thạch của người hiện đại cũng được phát hiện tại hang Thượng cùng di chỉ này vào năm 1933. Các hóa thạch hoàn chỉnh nhất, tất cả đều là nắp hộp sọ, bao gồm: Sọ II, phát hiện tại Điểm D năm 1929 nhưng chỉ được công nhận năm 1930, là nắp hộp sọ của người trưởng thành hoặc thanh niên, với kích thước bộ não khoảng 1.030 cm³. Sọ II Sọ III, phát hiện tại Điểm E năm 1929 là nắp hộp sọ của một thanh niên hay trẻ vị thành niên với kích thước bộ não khoảng 915 cm³. Sọ III Các sọ X, XI và XII (đôi khi gọi là LI, LII và LIII) được phát hiện tại Điểm L năm 1936. Chúng được cho là thuộc về một người đàn ông trưởng thành,một người đàn bà trưởng thành và một người trẻ, với kích thước bộ não tương ứng khoảng 1.225 cm³, 1.015 cm³ và 1.030 cm³Sọ X Sọ XI Sọ XII Sọ V: Hai mảnh vỡ sọ được phát hiện năm 1966 khớp với bản đúc của hai mảnh vỡ khác được tìm thấy năm 1934 và 1936 để tạo thành phần lớn của một nắp hộp sọ với kích thước bộ não 1.140 cm³. Các mảnh vỡ này được tìm thấy ở độ sâu nhỏ hơn, và dường như là hiện đại hơn so với các nắp hộp sọ khácSọ V. Phần lớn nghiên cứu về các hóa thạch này được Davidson Black thực hiện cho tới khi ông mất năm 1934. Pierre Teilhard de Chardin tiếp tục công việc cho đến khi Franz Weidenreich thay thế, và ông này tiếp tục nghiên cứu các hóa thạch cho đến khi rời Trung Quốc năm 1941. Các hóa thạch gốc đã biến mất năm 1941, nhưng các bản đúc chất lượng tốt và các mô tả thì vẫn còn. Phát hiện và nhận dạng Nhà địa chất người Thụy Điển là Johan Gunnar Andersson và nhà cổ sinh vật học người Mỹ là Walter W. Granger đã tới Chu Khẩu Điếm, Trung Quốc để nghiên cứu các hóa thạch tiền sử vào năm 1921. Họ đã được các công nhân mỏ đá đưa tới Long Cốt Sơn, nơi Andersson đã nhận ra các trầm tích thạch anh không phải là bản địa của khu vực này. Ngay lập tức sau khi nhận thức được tầm quan trọng của phát hiện này ông đã quay sang các đồng nghiệp và thông báo "Ở đây có người nguyên thủy; bây giờ tất cả mọi điều chúng ta cần làm là tìm kiếm ông ấy!". Công cuộc khai quật đã được trợ lý của Andersson là nhà cổ sinh vật học người Áo Otto Zdansky tiến hành ngay lập tức, và ông đã tìm thấy cái dường như là răng hàm người hóa thạch. Ông trở lại di chỉ này vào năm 1923, và các vật liệu đã khai quật trong 2 cuộc đào bới kế tiếp nhau đã được gửi tới Đại học Uppsala ở Thụy Điển để phân tích. Năm 1926, Andersson thông báo về việc tìm thấy 2 răng hàm người trong các vật liệu này, và Zdansky đã công bố các phát hiện của mình. Nhà giải phẫu học người Canada là Davidson Black thuộc Viện Y học Hiệp hòa Bắc Kinh (北京协和医学院), được kích thích bởi phát hiện của Andersson và Zdansky, nhận được tài trợ của quỹ Rockefeller và khởi động lại các công cuộc khai quật tại di chỉ vào năm 1927 cùng các nhà khoa học phương Tây và Trung Quốc. Nhà cổ sinh vật học người Thụy Điển là Anders Birger Bohlin đã đào được một chiếc răng rơi ra, và Black đặt nó trong một trái tim bằng vàng trên sợi dây đeo đồng hồ của ông Black công bố phân tích của ông trong tạp chí Nature, nhận dạng phát hiện của mình là thuộc về một loài và một chi mới mà ông đặt tên là Sinanthropus pekinensis, nhưng nhiều nhà khoa học đương thời giữ thái độ hoài nghi về nhận định như vậy trên cơ sở chỉ của một chiếc răng, và quỹ Rockefeller đã yêu cầu phải có thêm nhiều mẫu vật nữa trước khi quỹ này có thể đồng ý cấp thêm tiền tài trợ. Một quai hàm dưới, vài chiếc răng và các bộ phận của hộp sọ được khai quật năm 1928. Black đã trình các phát hiện này cho quỹ và được tài trợ $80.000 mà ông đã dùng vào việc thành lập Phòng thí nghiệm Nghiên cứu đại Tân Sinh (新生代地质与环境研究室). Các khai quật tại di chỉ dưới sự giám sát của các nhà khảo cổ học Trung Quốc Dương Chung Kiện (杨钟健, Yang Zhongjian), Bùi Văn Trung (裴文中, Pei Wenzhong) và Giả Lan Pha (贾兰坡, Jia Lanpo) đã phát hiện 200 hóa thạch người (bao gồm 6 nắp hộp sọ gần như hoàn chỉnh) từ trên 40 mẫu vật riêng lẻ. Các cuộc khai quật này kết thúc vào năm 1937 khi chiến tranh Trung-Nhật nổ ra. Công cuộc khai quật tại Chu Khẩu Điếm được tiến hành trở lại sau khi chiến tranh kết thúc. Di chỉ Người Bắc Kinh tại Chu Khẩu Điếm đã được UNESCO liệt kê là Di sản thế giới năm 1987. Các công cuộc khai quật mới lại được tiến hành tại di chỉ này vào tháng 6 năm 2009. Các kết luận cổ sinh vật học Các mẫu vật đầu tiên của Homo erectus đã được Eugène Dubois tìm thấy trên đảo Java vào năm 1891, nhưng bị nhiều người gạt bỏ do chỉ coi đó là di cốt của vượn lớn bị biến dạng. Sự phát hiện với chất lượng tốt các di cốt tại Chu Khẩu Điếm đã kết thúc nghi ngờ này và người Java, nguyên được đặt tên là Pithecanthropus erectus, đã được chuyển sang chi Homo cùng với người Bắc Kinh. Các phát hiện lân cận của các di cốt động vật và chứng cứ về việc sử dụng lửa và công cụ, cũng như việc chế tạo các công cụ, đã được dùng để hỗ trợ cho H. erectus như là những thợ thủ công đầu tiên. Phân tích các di cốt của người Bắc Kinh đã dẫn tới tuyên bố cho rằng các hóa thạch ở Chu Khẩu Điếm và Java là các ví dụ của cùng một giai đoạn rộng trong tiến hóa của loài người. Diễn giải này bị Lewis Binford thách thức năm 1985, khi ông cho rằng người Bắc Kinh chỉ là người ăn xác động vật chết chứ không phải thợ săn. Quan hệ với người hiện đại Franz Weidenreich cho rằng người Bắc Kinh là tổ tiên của người hiện đại và cụ thể là của người Hán, như nhìn nhận trong học thuyết nguồn gốc đa vùng của người hiện đại gốc của ông năm 1946. Các tài liệu Trung Quốc về tiến hóa loài người trong thập niên 1950 nói chung coi chứng cứ là không đủ để xác định xem người Bắc Kinh có phải là tổ tiên của người hiện đại hay không. Một quan điểm cho rằng người Bắc Kinh theo một cách nào đó trông có vẻ giống như người châu Âu hiện đại hơn là với người châu Á hiện đại, nhưng theo Barry Sautman thì cuộc tranh cãi về nguồn gốc này đôi khi bị phức tạp hóa do các vấn đề của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc. Vào năm 1952, người Bắc Kinh được một số tác giả cho là tổ tiên trực tiếp của người hiện đại. Một số nhà cổ sinh vật học đã lưu ý về tính liên tục dễ nhận thấy trong các di cốt này. Tình trạng hiện tại Các hóa thạch của người Bắc Kinh từng được lưu giữ tại Viện Y học Hiệp hòa Bắc Kinh. Những người tận mắt chứng kiến nói rằng vào năm 1941, khi Bắc Kinh đang dưới sự chiếm đóng của người Nhật, ngay trước khi nổ ra chiến sự giữa Nhật Bản và lực lượng Đồng minh trong Thế chiến 2 thì các hóa thạch đã được đóng vào 2 thùng to và được đưa lên xe quân sự của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ khởi hành đến cảng Tần Hoàng Đảo ở miền bắc Trung Quốc, gần với căn cứ hải quân tại trại Holcomb. Từ đây chúng được chuyển bằng tàu thủy tới Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ ở New York, nhưng các hóa thạch đã biến mất trên đường đi. Nhiều cố gắng các loại đã được thực hiện để xác định xem các hóa thạch này ở đâu, nhưng đều không thu được kết quả gì. Năm 1972 một nhà tài chính người Mỹ là Christopher Janus đã treo thưởng $5.000 cho các hộp sọ bị thất lạc này; một phụ nữ đã liên lạc với ông và đề nghị số tiền $500.000,nhưng sau đó người này cũng mất tăm. Tháng 7 năm 2005, trùng với lễ kỷ niệm 60 năm ngày kết thúc Thế chiến 2, chính quyền Trung Quốc đã thành lập một ủy ban để tìm kiếm những chiếc xương này. Các thuyết về số phận của những chiếc xương này như từ cho rằng chúng từng ở trên boong tàu Nhật Bản Awa Maru hay tàu Hoa Kỳ nhưng đã bị chìm, cho tới cho rằng chúng đã bị nghiền nhỏ để dùng trong y học truyền thống Trung Hoa. Tuy nhiên, 4 chiếc răng vẫn còn thuộc sở hữu của Bảo tàng Cổ sinh vật học Đại học Uppsala . Thư viện ảnh Di cốt xương sọ người Bắc Kinh
Václav Havel, GCB, CC (IPA: ; 5 tháng 10 năm 1936 – 18 tháng 12 năm 2011) là một chính khách, nhà viết kịch và cựu nhà bất đồng chính kiến người Séc. Ông từng là Tổng thống cuối cùng của Tiệp Khắc từ năm 1989 cho đến khi Tiệp Khắc bị giải thể vào năm 1992 và sau đó là Tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Séc từ năm 1993 đến năm 2003. Ông là tổng thống đầu tiên được bầu một cách dân chủ của một trong hai quốc gia sau khi Chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ. Là một nhà văn của nền văn học Séc, ông được biết đến với các vở kịch, tiểu luận và hồi ký. Cơ hội học hành của ông bị hạn chế bởi xuất thân tư sản, khi các quyền tự do bị Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc hạn chế, Havel lần đầu tiên nổi tiếng với tư cách là một nhà viết kịch. Trong các tác phẩm như Bữa tiệc trong vườn và Bản ghi nhớ, Havel đã sử dụng một phong cách phi lý để chỉ trích hệ thống Cộng sản. Sau khi tham gia Mùa xuân Praha và bị đưa vào danh sách đen sau cuộc xâm lược Tiệp Khắc của Hiệp ước Warsaw, ông trở nên tích cực hơn về mặt chính trị và giúp đưa ra một số sáng kiến bất đồng chính kiến, bao gồm Hiến chương 77 và Ủy ban Bảo vệ những người bị truy tố bất công. Các hoạt động chính trị của ông khiến ông chịu sự giám sát của cảnh sát mật StB, và ông đã trở thành tù nhân chính trị trong nhiều năm, thời gian bị giam giữ lâu nhất là gần 4 năm, từ năm 1979 đến năm 1983. Đảng Diễn đàn Công dân của Havel đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng Nhung đã lật đổ chế độ Cộng sản ở Tiệp Khắc vào năm 1989. Ông đảm nhận chức vụ tổng thống ngay sau đó, và tái đắc cử vào năm sau đó và sau khi Slovakia độc lập vào năm 1993. Havel có công trong việc phá bỏ Hiệp ước Warsaw và mở rộng tư cách thành viên NATO về phía đông. Nhiều quan điểm và chính sách của ông, chẳng hạn như phản đối nền độc lập của Slovakia, lên án việc đối xử với người Đức Sudeten, chẳng hạn như trục xuất người Đức khỏi Tiệp Khắc sau Thế chiến thứ hai, và ban hành lệnh ân xá chung cho tất cả những người bị giam cầm dưới thời Cộng sản, đã gây tranh cãi rất nhiều trong nước. Vào cuối nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông được yêu thích ở nước ngoài nhiều hơn ở trong nước. Havel tiếp tục cuộc sống của mình với tư cách là một trí thức của công chúng sau nhiệm kỳ tổng thống của mình, đưa ra một số sáng kiến bao gồm Tuyên bố Praha về Lương tâm và Chủ nghĩa Cộng sản Châu Âu, Quỹ VIZE 97, và Hội nghị thường niên Diễn đàn 2000. Triết lý chính trị của Havel là một trong những chủ nghĩa chống chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa môi trường, chủ nghĩa hoạt động dân sự và dân chủ trực tiếp. Ông ủng hộ Đảng Xanh Séc từ năm 2004 cho đến khi qua đời. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng trong suốt cuộc đời của mình, bao gồm Huân chương Tự do của Tổng thống, Giải thưởng Hòa bình Gandhi, Huân chương Tự do Philadelphia, Huân chương Canada, Giải thưởng Bốn Quyền tự do, Giải thưởng Đại sứ Lương tâm và Giải thưởng Công dân Hanno R. Ellenbogen. Năm học 2012–2013 tại Trường Cao đẳng Châu Âu được đặt tên để vinh danh ông. Ông được một số người coi là một trong những trí thức quan trọng nhất của thế kỷ 20. Sân bay quốc tế ở Praha được đổi tên thành Sân bay Václav Havel Praha vào năm 2012. Tuổi thơ Havel sinh ra tại Praha vào ngày 5 tháng 10 năm 1936 trong một gia đình giàu có nổi tiếng ở Tiệp Khắc vì những thành tựu kinh doanh và văn hóa của họ. Ông nội của ông, Vácslav Havel, một nhà phát triển bất động sản, đã xây dựng một khu phức hợp giải trí mang tính bước ngoặt trên Quảng trường Wenceslas của Praha. Cha của ông, Václav Maria Havel, là nhà phát triển bất động sản đằng sau Barrandov Terraces ở ngoại ô, nằm trên điểm cao nhất của Praha — cạnh nơi chú của ông, Miloš Havel, đã xây dựng một trong những xưởng phim lớn nhất ở châu Âu. Mẹ của Havel, Božena Vavrečková, cũng xuất thân từ một gia đình có thế lực; cha của bà là một đại sứ Tiệp Khắc và một nhà báo nổi tiếng. Vào đầu những năm 1950, vì xuất thân tư sản, Havel bắt đầu học việc bốn năm với tư cách là trợ lý phòng thí nghiệm hóa học và đồng thời tham gia các lớp học buổi tối tại một phòng tập thể dục. Ông hoàn thành chương trình giáo dục trung học vào năm 1954. Vì lý do chính trị, ông không được nhận vào bất kỳ trường sau trung học nào có chương trình nhân văn; do đó, ông đã chọn theo học tại Khoa Kinh tế của Đại học Kỹ thuật Séc ở Praha nhưng đã bỏ học sau hai năm. Ngày 9 tháng 7 năm 1964, Havel kết hôn với Olga Šplíchalová. Sự nghiệp kịch nghệ ban đầu Truyền thống trí thức của gia đình ông là điều cần thiết để Havel luôn tuân thủ các giá trị nhân đạo của văn hóa Séc. Sau khi kết thúc nghĩa vụ quân sự (1957–59), Havel phải mang theo những hoài bão trí tuệ của mình phù hợp với hoàn cảnh nhất định, đặc biệt là với những hạn chế áp đặt đối với Havel vì là con cháu của một gia đình tư sản. Havel đã tìm được việc làm trong thế giới sân khấu của Praha với tư cách là một diễn viên sân khấu tại Nhà hát ABC của Praha - Divadlo ABC, và sau đó tại Nhà hát trên Lan can - Divadlo Na zábradlí. Đồng thời, ông là sinh viên nghệ thuật kịch nói tại Khoa Sân khấu của Học viện Nghệ thuật Biểu diễn ở Praha (DAMU). Vở kịch dài đầy đủ đầu tiên của ông được trình diễn trước công chúng, bên cạnh nhiều sự hợp tác tạp kỹ, là The Garden Party (1963). Được trình diễn dưới hình thức một loạt các vở diễn Nhà hát Phi lý, tại Nhà hát trên Lan can, vở kịch này đã giành được sự hoan nghênh của quốc tế đối với ông. Sau vở kịch này là Ký ức, một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của ông, và Độ khó tập trung ngày càng tăng, tất cả đều được trình chiếu tại Nhà hát trên Lan can. Năm 1968, Bản ghi nhớ cũng được đưa đến Nhà hát Công cộng ở New York, nơi giúp tạo dựng danh tiếng của Havel tại Hoa Kỳ. Nhà hát Công chúng tiếp tục sản xuất các vở kịch của ông trong những năm sau đó. Sau năm 1968, các vở kịch của Havel bị cấm chiếu trong thế giới sân khấu ở chính đất nước của ông, và ông không thể rời Tiệp Khắc để xem bất kỳ buổi biểu diễn về các tác phẩm của mình tại nước ngoài nào. Bất đồng chính kiến Trong tuần đầu tiên của cuộc xâm lược Tiệp Khắc của Hiệp ước Warsaw vào tháng 8 năm 1968, Havel hỗ trợ quân kháng chiến bằng cách cung cấp một bản tường thuật trực tuyến qua đài Phát thanh Tự do Tiệp Khắc (tại Liberec). Sau sự kiện Mùa xuân Praha bị đàn áp vào năm 1968, ông bị cấm đến nhà hát và trở nên quan tâm đến hoạt động chính trị hơn. Ông đã nhận một công việc tại nhà máy bia Krakonoš ở Trutnov, một trải nghiệm mà Havel đã viết về trong vở kịch Audience của mình. Vở kịch này, cùng với hai vở kịch "Vaněk" khác (được gọi như vậy vì nhân vật định kỳ Ferdinand Vaněk, đại diện cho Havel), đã được phân phối dưới dạng samizdat trên khắp Tiệp Khắc, và làm tăng thêm danh tiếng của Havel là một nhà bất đồng chính kiến hàng đầu (một số nhà văn Séc khác sau đó đã viết những vở kịch riêng của họ có Vaněk làm nhân vật). Danh tiếng này của ông được củng cố với việc xuất bản bản tuyên ngôn Hiến chương 77, được viết một phần để phản ứng lại việc các thành viên của ban nhạc rock ảo giác người Séc The Plastic People of the Universe bị bỏ tù; Havel đã tham dự phiên tòa của họ. Phiên tòa này tập trung vào sự không phù hợp của nhóm khi để tóc dài, sử dụng những lời tục tĩu trong âm nhạc và sự tham gia tổng thể của họ vào phong trào văn hóa ngầm ở Praha. Havel đồng sáng lập Ủy ban Bảo vệ những Người bị Truy tố Bất công vào năm 1979. Các hoạt động chính trị của ông dẫn đến nhiều lần bị chính quyền bỏ tù, bị cảnh sát mật của chính phủ (Státní bezpečnost) liên tục giám sát và thẩm vấn. Thời gian dài nhất của ông trong tù, từ tháng 5 năm 1979 đến tháng 2 năm 1983, được ghi lại trong các bức thư gửi vợ ông mà sau này được xuất bản dưới tên Thư gửi Olga. Ông được biết đến với các bài tiểu luận, đặc biệt là Quyền lực của không quyền lực (1978), trong đó ông mô tả một mô hình xã hội, trong đó công dân bị buộc phải "sống trong một sự dối trá" dưới chế độ Cộng sản. Khi mô tả vai trò của mình như một nhà bất đồng chính kiến, Havel viết vào năm 1979: “Chúng tôi chưa bao giờ quyết định trở thành những người bất đồng chính kiến. Chúng tôi đã bị biến đổi thành họ, mà không biết làm thế nào, đôi khi chúng tôi đã kết thúc trong tù mà không biết chính xác đã đi tù như thế nào. Chúng tôi chỉ đơn giản là tiếp tục và làm một số việc mà chúng tôi cảm thấy phải làm, và điều đó đối với chúng tôi dường như là việc nên làm, không hơn không kém. " Vở kịch ngắn năm 1982 của Samuel Beckett , Thảm họa, được dành riêng cho Havel trong khi ông bị giam giữ như một tù nhân chính trị ở Tiệp Khắc. Tổng thống Vào ngày 29 tháng 12 năm 1989, khi đang lãnh đạo Diễn đàn Công dân, Havel trở thành Tổng thống Tiệp Khắc bằng một cuộc bỏ phiếu nhất trí của Quốc hội Liên bang. Từ lâu, ông khẳng định rằng ông không quan tâm đến chính trị và đã lập luận rằng thay đổi chính trị trong nước nên được tạo ra thông qua các sáng kiến công dân tự trị hơn là thông qua các thể chế chính thức. Năm 1990, ngay sau khi đắc cử, Havel đã được trao Giải thưởng Vì Tự do của Quốc tế Tự do. Năm 1990, Tiệp Khắc tổ chức cuộc bầu cử tự do đầu tiên sau 44 năm, dẫn đến chiến thắng rộng khắp cho Diễn đàn Công dân và Công chúng Chống Bạo lực, đối tác của diễn đàn này tại Slovakia. Cả hay chiếm đa số áp đảo trong cả hai viện của cơ quan lập pháp, và thống kê tỷ lệ phổ thông đầu phiếu cao nhất được ghi nhận cho một cuộc bầu cử tự do trong cả nước. Havel vẫn giữ chức tổng thống của mình. Mặc dù căng thẳng chính trị ngày càng gia tăng giữa người Séc và người Slovakia vào năm 1992, Havel vẫn ủng hộ việc duy trì Cộng hòa Liên bang Séc và Slovakia trước khi quốc gia này bị giải thể. Havel tái tranh cử vào năm 1992. Mặc dù không có ứng cử viên nào khác nộp đơn, nhưng khi cuộc bỏ phiếu diễn ra vào ngày 3 tháng 7, ông đã không đạt được đa số do thiếu sự ủng hộ từ các đại biểu Slovakia. Đảng chính trị lớn nhất của Séc, Đảng Dân chủ Công dân, cho biết rằng họ sẽ không ủng hộ bất kỳ ứng cử viên nào khác. Sau khi người Slovakia ra Tuyên ngôn Độc lập, ông từ chức tổng thống vào ngày 20 tháng 7, nói rằng ông sẽ không chủ trì sự phân chia của đất nước này. Tuy nhiên, khi Cộng hòa Séc được thành lập với tư cách là một trong hai quốc gia kế nhiệm, ông đã ra tranh cử làm tổng thống đầu tiên vào ngày 26 tháng 1 năm 1993 và giành chiến thắng. Mặc dù trên danh nghĩa, ông là lãnh đạo điều hành của đất nước mới, nhưng các nhà hoạch định Hiến pháp của Cộng hòa Séc đã có ý định trao phần lớn quyền lực thực sự cho thủ tướng. Tuy nhiên, nhờ vào uy tín của mình, ông vẫn có quyền lực đạo đức lớn, và tổng thống có được một vai trò lớn hơn dự định của những người lập khung lập pháp. Ví dụ, phần lớn do ảnh hưởng của ông, Đảng Cộng sản Bohemia và Moravia (KSCM), người kế nhiệm chi nhánh của KSC ở các vùng Séc, bị hạn chế ảnh hưởng trong hầu hết nhiệm kỳ tổng thống của ông. Havel nghi ngờ rằng KSCM vẫn là một đảng theo chủ nghĩa Stalin chưa được cải cách. Sự nổi tiếng của Havel ở nước ngoài hơn hẳn sự nổi tiếng của ông ở trong nước, và ông thường là đối tượng của những tranh cãi và chỉ trích. Trong thời gian tại vị, Havel tuyên bố rằng việc trục xuất cộng đồng người Đức gốc Sudeten sau Thế chiến II là trái đạo đức, gây ra một cuộc tranh cãi lớn ở trong nước. Ông cũng mở rộng lệnh ân xá là một trong những hành động đầu tiên của mình trên cương vị tổng thống, nhằm giảm bớt áp lực trong các nhà tù quá đông cũng như trả tự do cho các tù nhân chính trị và những người có thể đã bị giam cầm sai lầm trong thời kỳ Cộng sản. Havel cảm thấy rằng nhiều quyết định của các tòa án của chế độ trước không đáng tin cậy, và hầu hết những người tù đã không được xét xử công bằng. Tuy nhiên, các nhà phê bình cho rằng lệnh ân xá này đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể tỷ lệ tội phạm: tổng số tội phạm tăng gấp đôi, cũng như số vụ giết người. Một số tội ác tồi tệ nhất trong lịch sử của tội phạm học Séc đã được những tội phạm được thả trong lệnh ân xá này thực hiện. Trong vòng bốn năm kể từ cuộc cách mạng Nhung (và sau hai lần ân xá khác được tuyên bố bởi Havel), tội phạm đã tăng hơn gấp ba lần kể từ năm 1989. Theo cuốn hồi ký To the Castle and Back của Havel, hầu hết những người được trả tự do chỉ có chưa đầy một năm để thụ án trước khi kết thúc bản án, nhưng số liệu thống kê trái ngược với tuyên bố của Havel. Trong một cuộc phỏng vấn với Karel Hvížďala (trong To the Castle and Back), Havel bày tỏ cảm giác rằng thành tựu quan trọng nhất của ông với tư cách là tổng thống đã góp phần vào việc giải thể Hiệp ước Warsaw. Theo tuyên bố của ông, việc giải thể nó rất phức tạp. Cơ sở hạ tầng do Hiệp ước Warsaw tạo ra là một phần của nền kinh tế của tất cả các quốc gia thành viên, và việc giải thể Hiệp ước đòi hỏi phải tái cấu trúc và mất nhiều năm mới hoàn thành. Hơn nữa, phải mất nhiều thời gian để dỡ bỏ các thể chế của Hiệp ước Warsaw; chẳng hạn, quân đội Liên Xô phải mất hai năm mới có thể rút hoàn toàn khỏi Tiệp Khắc. Sau tranh chấp pháp lý với chị dâu Dagmar Havlová (vợ của anh trai Ivan M. Havel), Havel quyết định bán 50% cổ phần của mình trong Cung điện Lucerna trên Quảng trường Wenceslas ở Praha, được ông nội của Havel xây dựng từ năm 1907 đến năm 1921. Ông nội của ông cũng được đặt tên là Václav Havel (đánh vần là Vácslav), và cung điện này một trong những "cung điện" đa chức năng ở trung tâm của Praha một thời bùng nổ trước Thế chiến thứ nhất. Trong một giao dịch do Marián Čalfa dàn xếp, Havel đã bán bất động sản này cho Václav Junek, một cựu điệp viên Cộng sản ở Pháp và là người đứng đầu tập đoàn Chemapol sắp phá sản, người sau đó đã công khai thừa nhận rằng bản thân đã hối lộ các chính trị gia của Đảng Dân chủ Xã hội Séc. Người bạn thân của ông là Ivan Medek, đã trở thành bếp trưởng của văn phòng tổng thống. Vào tháng 1 năm 1996, Olga Havlová, người vợ trong 32 năm của ông, qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi 62. Vào tháng 12 năm 1996, Havel, vốn là người nghiện thuốc lá trong một thời gian dài, được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi. Căn bệnh này xuất hiện trở lại vào hai năm sau đó. Ông sau đó đã bỏ thuốc lá. Năm 1997, Havel tái hôn với nữ diễn viên Dagmar Veškrnová. Havel là một trong những chính trị gia có ảnh hưởng, những người đã đóng góp nhiều nhất vào quá trình chuyển đổi NATO từ một liên minh chống Khối Hiệp ước Warsaw sang hình thức hiện tại. Havel ủng hộ mạnh mẽ việc đưa các thành viên cũ của Hiệp ước Warsaw, như Cộng hòa Séc, vào liên minh phương Tây. Havel tái đắc cử tổng thống năm 1998. Ông đã phải trải qua một cuộc phẫu thuật cắt ruột già ở Innsbruck khi ruột già bị vỡ trong khi ông đang đi nghỉ ở Áo. Vào ngày 30 tháng 1 năm 2003, Havel ký Lá thư của số tám. Havel rời nhiệm sở sau khi nhiệm kỳ tổng thống Séc thứ hai của ông kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 2003. Václav Klaus, một trong những đối thủ chính trị lớn nhất của ông, được bầu làm tổng thống kế nhiệm vào ngày 28 tháng 2 năm 2003. Margaret Thatcher đã viết về hai người đàn ông trong chuyên luận Statecraft về chính sách đối ngoại của cô, thể hiện sự tôn trọng lớn hơn đối với Havel. Sự cống hiến của Havel cho nền dân chủ và sự kiên định chống lại hệ tư tưởng cộng sản khiến ông được mọi người ngưỡng mộ. Ông mất ngày 18 tháng 12 năm 2011 tại Praha, hưởng thọ 75 tuổi. Tác phẩm Quyền lực của không quyền lực viết năm 1978.
Malus không phải là từ trong tiếng Việt, nhưng có thể dùng để chỉ một trong các nghĩa sau: Malus - tên gọi khoa học của một chi thực vật với khoảng 30-35 loài cây thân gỗ hay cây bụi nhỏ có lá sớm rụng trong họ Hoa hồng (Rosaceae), bao gồm táo tây và hải đường. Malus - một chòm sao trong chòm sao Argo Navis. Malus - một cậu bé là sự tái sinh của Dracula trong trò chơi điện tử Castlevania và Castlevania: Legacy of Darkness. Étienne-Louis Malus (23 tháng 7 năm 1775 – 24 tháng 2 năm 1812) - một sĩ quan, kỹ sư, nhà vật lý và nhà toán học người Pháp. Malus, một con quỷ xuất hiện trong loạt phim khoa học viễn tưởng Doctor Who. Trong trò chơi điện tử Shadow of the Colossus.
Dưới đây là danh sách tổng thống Tiệp Khắc từ năm 1918 đến 1992. Tổng thống/Chủ tịch nước Tiệp Khắc Tomáš Garrigue Masaryk: 14 tháng 11 1918 – 14 tháng 12 1935 Milan Hodža (quyền): 14 – 18 tháng 12 1935 Edvard Beneš: 18 tháng 12 1935 – 5 tháng 10 1938 Jan Syrový (quyền): 5 tháng 10 – 30 tháng 12 1938 Emil Hácha: 30 tháng 11 1938 – 15 tháng 3 1939 Edvard Beneš: 4 tháng 4 1945 – 7 tháng 6 1948 bị đày ải, 21 tháng 7 1940 – 2 tháng 4 1945 Klement Gottwald: 14 tháng 6 1948 – 14 tháng 3 1953 Antonín Zápotocký: 21 tháng 3 1953 – 13 tháng 11 1957 Viliam Široký (quyền): 13 – 19 tháng 11 1957 Antonín Novotný: 19 tháng 11 1957 – 22 tháng 3 1968 Jozef Lenárt (quyền): 22 – 30 tháng 3 1968 Ludvík Svoboda: 30 tháng 3 1968 – 28 tháng 5 1975 Gustáv Husák: 29 tháng 5 1975 – 10 tháng 12 1989 Marián Čalfa (quyền): 10 – 29 tháng 12 1989 Václav Havel: 29 tháng 12 1989 – 20 tháng 7 1992 Jan Stráský (quyền): 20 tháng 7 – 31 tháng 12 1992
Dưới đây là Danh sách tổng thống Cộng hòa Séc từ năm 1993 đến nay.
Louis Pasteur (, ; có tên phiên âm là Lu-i Pa-xtơ) sinh ngày 27 tháng 12 năm 1822 - 28 tháng 9 năm 1895) là một nhà sinh học, nhà vi sinh vật học, nhà hoá học, một tín đồ Công giáo người Pháp, với những phát hiện về các nguyên tắc của tiêm chủng, lên men vi sinh và thanh trùng. Ông thường được biết đến qua những nghiên cứu quan trọng về các nguyên nhân và biện pháp chữa bệnh, và những khám phá đó của ông đã cứu sống vô số người kể từ đó. Ông đã đề ra các biện pháp thanh trùng để làm giảm tỷ lệ tử vong sau khi sinh đẻ ở các sản phụ, tạo ra loại vắc-xin đầu tiên cho bệnh dại và bệnh than. Những nghiên cứu của ông góp phần hỗ trợ trực tiếp cho Lý thuyết mầm bệnh và các ứng dụng trong Y học lâm sàng. Ông cũng nổi tiếng trong việc phát minh ra kỹ thuật bảo quản sữa và rượu để ngăn chặn vi khuẩn có hại xâm nhập, một quá trình mà ngày nay được gọi là thanh trùng. Ông được xem là một trong 3 người thiết lập nên lĩnh vực Vi sinh vật học, cùng với Ferdinand Cohn và Robert Koch, và được gọi là "cha đẻ của Vi sinh vật học". Pasteur có vai trò lớn trong việc bác bỏ Thuyết tự sinh, vốn in sâu trong tư tưởng các nhà khoa học trước đó. Ông đã thí nghiệm cho thấy rằng nếu không có sự nhiễm khuẩn từ bên ngoài, vi sinh vật không thể tự xuất hiện. Ông chứng minh rằng trong bình tiệt trùng được đóng kín thì sẽ không có vi khuẩn, nhưng khi mở thì vi khuẩn lại xuất hiện, chứng tỏ vi khuẩn đã xâm nhập vào bình qua đường không khí. Thí nghiệm này giúp ông giành giải Alhumbert. Tuy Pasteur không phải là người đầu tiên đề xuất Lý thuyết mầm bệnh, ông đã phát triển nó và tiến hành các thí nghiệm cho thấy rõ tính đúng đắn của nó và thuyết phục người dân Châu Âu tin rằng đó là sự thật. Pasteur đồng thời có những khám phá quan trọng trong ngành Hóa học, đáng chú ý nhất là cơ bản về phân tử đối với tính không đối xứng của một số tinh thể nhất định và raxemic hóa. Ông là Giám đốc Viện Pasteur cho đến khi ông qua đời, và thi thể ông được chôn cất bên dưới viện, trong một hầm được xây theo phong cách khảm Byzantine. Tiểu sử Ông sinh ra ở vùng Dole nhưng bắt đầu đi học tại Arbois. Từ nhỏ ông không học giỏi, tài năng duy nhất của ông là vẽ, Louis Pasteur muốn vào học Trường Sư phạm Paris (École normale supérieure). Để thực hiện mong muốn này, vào tháng 10 năm 1838 ông chuyển đến Paris. Tuy nhiên vì thất vọng với cuộc sống mới ở đây, ông bỏ luôn ý định vào học Trường Sư phạm và rời Paris để đến học tại Trường Trung học Hoàng gia tại Besançon. Vào năm 1840 rồi năm 1842, ông thi lấy bằng Tú tài Văn chương và Tú tài Toán. Với những kết quả học tập đáng khích lệ này, một lần nữa Louis Pasteur lại chuyển đến Paris và cuối cùng vào năm 1843 ông được xếp hạng tư trong kỳ thi vào Trường Sư phạm Paris và được nhận vào học ở ngôi trường danh tiếng này. Tại đây Louis Pasteur theo học hóa học và vật lý và cả tinh thể học (cristallographie). Vào các buổi chiều chủ nhật, Louis Pasteur thường làm việc tại phòng thí nghiệm của nhà hóa học nổi tiếng Jean-Baptiste Dumas nhờ đó mà ông đã tích lũy được những kiến thức và kỹ năng quý báu cho công việc nghiên cứu độc lập trong tương lai. Sau khi làm việc với vai trò giáo sư hóa học một thời gian ngắn tại Đại học Strasbourg, ở đây ông gặp và quen Marie Laurent, cô là cháu của hiệu trưởng nhà trường năm 1849. Họ cưới nhau ngày 29 tháng 5 năm 1849, và có năm con, chỉ 2 trong số con của họ còn sống, 3 người con còn lại chết vì thương hàn. Nghịch cảnh trên đã thúc đẩy ông có những phát minh trong việc trị các bệnh truyền nhiễm. Chuyên môn Pasteur được chỉ định làm chủ tịch ngành Hóa thuộc khoa Khoa học của Đại học Strasbourg. Năm 1854, ông làm trưởng khoa mới của khoa khoa học tại Đại học Université Lille Nord de France Lille. Đó là dịp ông phát biểu rằng: "dans les champs de l'observation, le hasard ne favorise que les esprits préparés." (Trong lĩnh vực quan sát, cơ hội chỉ đến với những cái đầu biết tính toán.) Năm 1857, ông chuyển đến Paris làm giám đốc cơ quan khảo thí khoa học tại École normale supérieure từ 1858 đến 1867 và đã đưa ra một loạt cải cách. Các kỳ thi đã trở nên cứng nhắc hơn, dẫn đến kết quả tốt hơn, cạnh tranh hơn, và tăng uy tín. Ông đưa ra các tiêu chuẩn về công trình khoa học, dẫn đến hai cuộc nổi dậy nghiêm trọng của sinh viên. Năm 1862, ông được chỉ định làm giáo sư địa chất, vật lý, và hóa học tại École nationale supérieure des Beaux-Arts, ông giữ vị trí này cho đến năm 1867. Ở Paris, ông thành lập Viện Pasteur năm 1887 do ông làm giám đốc cho đến cuối đời. Đóng góp khoa học Tinh thể học Louis Pasteur bảo vệ hai luận án về hóa học và vật lý vào năm 1847. Trong ngành tinh thể học, ông đã có những phát minh đầu tiên liên quan đến sự phân cực của ánh sáng. Năm 1848, Pasteur trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp về những công trình nghiên cứu của ông trong lĩnh vực tinh thể học. Pasteur phát hiện rằng cấu trúc phân tử của tinh thể có ảnh hưởng đến sự khúc xạ ánh sáng khi nghiên cứu các dạng tinh thể của tartrate và paratartrate. Sau đó Pasteur nhanh chóng đi đến kết luận rằng các sản phẩm của vật chất sống là không đối xứng và có hoạt tính trên ánh sáng phân cực. Pasteur phát biểu rằng "Sự sống là một hàm của tính mất đối xứng của vũ trụ". Quá trình lên men Sau khi đi dạy ở Dijon và rồi Strasbourg (tại đây năm 1849, ông đã cưới Marie Laurent, con gái của hiệu trưởng, và hai người có với nhau 5 người con), vào năm 1854 Louis Pasteur được phong giáo sư tại khoa Khoa học của Lille và cũng là trưởng khoa của khoa này. Ông đã thiết lập mối quan hệ rất chặt chẽ giữa công việc nghiên cứu khoa học của mình với nền công nghiệp lúc bấy giờ và đã có những phát hiện vô cùng quan trọng. Ông đã phát hiện rằng chính nấm men là tác nhân gây nên quá trình lên men. Năm 1857 (có tài liệu cho là 1856), Louis Pasteur trở thành giám đốc nghiên cứu khoa học của Trường Sư phạm. Ông yêu cầu có được một nhà kho của trường để thành lập một phòng thí nghiệm của riêng mình. Tại đây ông tiếp tục công cuộc nghiên cứu về quá trình lên men trong ba năm nữa và viết một khảo luận khoa học về nguyên nhân của quá trình lên men rượu butyric. Nhưng cũng ngay từ năm 1858 ông đã là người chống đối thuyết tự sinh đặc biệt của Félix Archimède Pouchet. Pouchet đã báo cáo với Viện Hàn lâm Khoa học vào tháng 12 năm 1858 rằng các tiền sinh vật được sinh ra tự nhiên trong không khí. Ngay lúc đó Louis Pasteur đã cho rằng nhà khoa học này đã sai lầm. Trong sáu năm trời ròng rã, hai nhà khoa học liên tiếp cho ra những bài báo cũng như các bài báo cáo tại các hội nghị nhằm chứng minh đối phương là sai lầm. Đến ngày 7 tháng 4 năm 1864, Pasteur đã tổ chức một hội nghị tại Sorbonne. Tại đây các kết quả thí nghiệm của Pasteur đã chinh phục được cử tọa, hội đồng chuyên gia cũng như giới truyền thông. Pouchet phải chấp nhận rằng mình đã lầm và từ đó thuyết tự sinh cũng không còn tồn tại trong đời sống khoa học nữa. Từ những quan sát dưới kính hiển vi, Pasteur phân chia thế giới vi sinh thành hai nhóm lớn: các vi sinh vật ái khí (không thể sống thiếu oxy) và nhóm vi sinh vật kị khí (có thể sống trong môi trường không có oxy). Các công trình nghiên cứu về bia và rượu vang Theo yêu cầu của Hoàng đế Napoléon III, Louis Pasteur tiến hành các nghiên cứu về sự biến đổi của rượu vang trong quá trình lên men nước ép của nho. Ông phát hiện rằng tất cả các biến đổi này đều do các sinh vật "ký sinh" vì chúng phát triển nhiều hơn các vi sinh cần thiết cho quá trình lên men rượu bình thường. Ông đã hướng dẫn những người làm rượu chỉ nên sử dụng nguồn vi sinh vật sạch, không lẫn các sinh vật ký sinh để tránh các trường hợp sản phẩm bị hư hỏng. Trong khi cố gắng "tìm ra một phương thuốc hữu hiệu để điều trị chứng bệnh mà ông đã tìm ra nguyên nhân", Pasteur lại phát minh ra một kỹ thuật nhằm giảm thiểu sự tạp nhiễm môi trường nuôi cấy bằng cách đun nóng môi trường này lên đến khoảng 55-60 °C trong điều kiện không có không khí. Kỹ thuật này sau đó được đặt tên là phương pháp khử khuẩn Pasteur (pasteurisation), một phương pháp được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp chế tạo và bảo quản rượu vang. Đối với công nghiệp sản xuất bia, ông khuyên nên tiệt khuẩn dung dịch nước ép bằng cách đun nóng với điều kiện không để bị tạp nhiễm và sau đó làm lạnh trước khi cho lên men bằng nguồn nấm men tinh khiết. Tính acid hợp lý của bia cũng có tác dụng hạn chế sự phát triển của các mầm ký sinh sau này cũng như giúp bảo quản tốt bia sau khi đã vào chai. Bệnh ở nhộng tằm Mặc dù đạt được thành công rực rỡ về mặt khoa học nhưng vai trò quản lý của ông tại Trường Sư phạm thì không như vậy. Tại đây do tính cách của mình, ông đã vấp phải rất nhiều sự chống đối đến độ cuối cùng ông mất chức. Nhờ đó ông có thời gian hơn để chuyên tâm vào công việc nghiên cứu khoa học. Từ tháng 6 năm 1865, Pasteur chuyển đến Alès và trải qua bốn năm ở đây nhằm nghiên cứu một loại bệnh ảnh hưởng nặng nề đến ngành chăn nuôi tằm. Tại đây ông đã cùng các học trò của mình miệt mài nghiên cứu. Do áp lực công việc và, quan trọng hơn cả, chuyện buồn gia đình (nhiều người trong gia đình chết do bệnh tật), Pasteur đã bị tai biến mạch máu não vào đêm 19 tháng 10 năm 1868. Nhiều người tưởng ông không thể qua khỏi, thế nhưng chỉ ba tháng sau ông đã trở lại với công việc nghiên cứu mặc dù cơ thể vẫn còn những di chứng nặng của bệnh. Nhờ sự quan sát tỉ mỉ của mình, ông đã nhận diện được các con tằm bị bệnh và tiêu diệt trứng của chúng trước khi bệnh lây lan cho các cá thể khác. Tại đây ông cũng lần đầu tiên nêu lên khái niệm "cơ địa" dễ mắc bệnh: các cá thể có "cơ địa" suy yếu thường là những cơ địa thuận lợi cho sự phát triển của vi sinh vật và như vậy có khuynh hướng dễ mắc bệnh hơn các cá thể khác. Những nghiên cứu bệnh lý nhiễm trùng ở người và động vật Pasteur khẳng định rằng các bệnh truyền nhiễm ở người và động vật là do các vi sinh vật gây nên. Từ năm 1878 đến 1880, ông đã khám phá ra ba chủng vi khuẩn: liên cầu khuẩn (streptococcus), tụ cầu khuẩn (staphylococcus) và phế cầu khuẩn (pneumococcus). Xuất phát từ quan niệm rằng một loại bệnh được gây nên do một loại vi sinh vật nhất định do nhiễm từ môi trường bên ngoài, Pasteur đã thiết lập nên những nguyên tắc quan trọng trong vô khuẩn. Tỉ lệ tử vong hậu phẫu cũng như hậu sản giảm xuống một cách ngoạn mục nhờ áp dụng những nguyên tắc này. Pasteur cũng tìm hiểu liệu người và động vật có thể được miễn dịch chống lại các bệnh truyền nhiễm nặng thường gặp như Jenner đã từng thực hiện với bệnh đậu mùa hay không. Năm 1880, Pasteur thành công trong việc tạo miễn dịch cho gà chống lại bệnh tả bằng cách cho chúng tiếp xúc với môi trường nuôi cấy vi khuẩn tả "già" (vi khuẩn này giảm độc lực). Những con gà này sau đó có khả năng chống lại bệnh tả khi được tiêm vi khuẩn độc lực mạnh. Pasteur nhanh chóng áp dụng nguyên lý chủng ngừa này cho các bệnh truyền nhiễm khác như bệnh than ở lợn. Điều trị dự phòng bệnh dại Trong những năm 1880, phần lớn dân số châu Âu sống ở các vùng nông thôn, nơi tiếp xúc với động vật có thể mang mầm bệnh dại, bao gồm chó, mèo, chồn, dơi và chuột. Người dân thành phố cũng không an toàn trước căn bệnh này. Chó mèo và chuột đi lạc có thể mang bệnh dại. Nếu bị chó, mèo dại cắn thì căn bệnh là vô phương cứu chữa, người nhiễm bệnh chắc chắn sẽ chết. Các phác đồ chủng ngừa một số bệnh truyền nhiễm đến thời điểm đó đã được chuẩn hóa. Nguyên tắc chung thì luôn luôn giống nhau: đầu tiên phải phân lập cho được tác nhân gây bệnh, nuôi cấy chúng để làm giảm độc lực trước khi tiêm cho người. Trong trường hợp bệnh dại, tác nhân gây bệnh là virus, nhưng loại vi sinh vật này quá nhỏ nên không thể thấy được dưới kính hiển vi quang học thời bấy giờ. Pasteur đã dành 5 năm, từ 1880 đến 1885, để nghiên cứu bệnh này. Xuất phát từ thực tế là bệnh dại tác động đến hệ thần kinh, Pasteur dự đoán rằng tác nhân gây bệnh phải nằm trong não và tủy sống của những người mắc bệnh. Khi lấy bệnh phẩm thần kinh của những động vật mắc bệnh dại (chó, thỏ...) tiêm vào những cá thể khỏe mạnh, ông đã gây được biểu hiện bệnh dại ở các động vật này. Pasteur dùng tủy sống của thỏ mắc bệnh dại để lấy mầm bệnh dại và nuôi mầm bệnh này qua nhiều thể hệ khác nhau (thời đó người ta chưa khám phá ra virus nên Pasteur chỉ gọi chung chung là "mầm bệnh"). Sau quá trình này, mầm bệnh thu được đã giảm độc lực rất nhiều so với chủng virus dại ban đầu. Virus này có thể không gây bệnh do đã giảm độc lực nhưng vẫn có thể còn giữ được tính kháng nguyên có thể kích thích hệ miễn dịch sản xuất kháng thể chống lại bệnh. Vaccine ngừa bệnh dại đầu tiên trên cơ sở virus giảm độc lực này đã được Pasteur, sau nhiều đắn đo suy tính, sử dụng vào ngày 6 tháng 7 năm 1885 ở một bé trai tên là Joseph Meister, người bị chó dại cắn trước đó. Thử nghiệm đã thành công, đây là một thành quả vang dội của Pasteur cũng như của nền y khoa thế giới. Việc điều trị cho Meister là trường hợp đầu tiên được Pasteur công bố đã tiêm vắc xin phòng bệnh dại - ông đã thử vắc xin này nhưng vô ích trong một trường hợp khác được tuyên bố là mắc bệnh dại, đó là cô bé Pougho. Trong năm sau đó, Louis Pasteur và nhóm của ông đã thực hiện hơn 350 lần tiêm, nhưng không phải tất cả đều hiệu quả. Sau này, người ra mới khám phá ra rằng vắc xin phòng bệnh dại cần phải tiêm kịp thời càng sớm càng tốt, vì kháng thể chỉ xuất hiện sau khi tiêm vắc-xin khoảng 10 ngày, còn nếu người bệnh đã xuất hiện triệu chứng thì họ sẽ chỉ còn sống được khoảng 2 - 10 ngày nữa, lúc đó thì việc tiêm vắc-xin sẽ không còn tác dụng nữa (vì người bệnh đã chết trước khi vắc-xin kịp tạo ra tác dụng). Kết quả công trình nghiên cứu về bệnh dại được Pasteur trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp vào ngày 1 tháng 3 năm 1886. Nhân dịp này ông cũng đề nghị thành lập một cơ sở nhằm sản xuất vaccine chống bệnh dại. Năm 1887 lời kêu gọi này được công bố rộng rãi và nhận được 2 triệu Franc Pháp quyên góp. Nhờ đó vào năm 1888, Tổng thống Sadi Carnot cho tiến hành xây dựng Viện Pasteur đầu tiên tại Pháp. Các Viện Pasteur khác sau đó cũng được thành lập ở những nơi khác trên thế giới nhờ ảnh hưởng của các nhà vi sinh vật học như Albert Calmette và Alexandre Yersin. Tôn chỉ của Viện Pasteur từ đó đến nay không thay đổi: tiến hành các nghiên cứu chế tạo vaccine và các chiến dịch tiêm phòng chống lại các bệnh truyền nhiễm. Tranh cãi Vắc-xin bệnh than Vào 1995, sau 100 năm ngày mất của Louis Pasteur, tờ New York Times chạy dòng tít "Pasteur's Deception". Sau khi đã đọc kỹ ghi chú của phòng thí nghiệm Pasteur, nhà lịch sử khoa học Gerald L. Geison đã tuyên bố rằng Pasteur đã đưa ra cách tính sai lệch về việc điều chế vắc-xin bệnh than được sử dụng trong thử nghiệm ở Pouilly-le-Fort. Max Perutz đã xuất bản nhiều bài bảo vệ Pasteur trên New York Review of Books. Thực tế là Pasteur tuyên bố công khai thành công của ông trong việc phát triển vắc-xin bệnh than năm 1881. Tuy nhiên, một bác sĩ thú y Toussaint là người đã phát triển vắc-xin này đầu tiên. Toussaint đã cô lập vi khuẩn Gram-âm cholera des poules (sau này được đặt tên có thêm chữ irony Pasteurella để vinh danh Pasteur) năm 1879 và đã đưa ra các mẫu để Pasteur sử dụng trong các công trình của ông (Pasteur). Năm 1880 với công bố của ông vào 12 tháng 7 tại Viện hàm lâm khoa học Pháp, Toussaint đã trình bày kết quả thành công của mình với một loại vắc-xin chống lại bệnh than trên chó và cừu. Pasteur hoàn toàn tự hào về những tranh luận ganh tị trong những khám phá bằng cách xuất bản những phương pháp vắc-xin của ông trên Pouilly-le-Fort vào ngày 5 tháng 5 năm 1881. Thí nghiệm xúc tiến thành công và đã giúp Pasteur bán sản phẩm của ông, và nhận được tất cả lợi nhuận và vinh quang. Đạo đức trong thí nghiệm Các thí nghiệm của Pasteur thường bị chỉ trích là trái với tiêu chuẩn y đức, đặc biệt đối với vắc-xin của ông về Meister. Khi đó, ông không có bất kỳ kinh nghiệm nào về thực hành y học, và quan trọng hơn là giấy phép hành nghề y. Điều này thường được trích dẫn là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với uy tín nghề nghiệp và cá nhân ông. Thậm chí cộng sự thân cận nhất của ông là Dr. Emile Roux đã từ chối hợp tác trong thử nghiệm lâm sàng bất công. Nhưng Pasteur đã tiến hành thử nghiệm vắc-xin trên một cậu bé dưới sự giám sát của bác sĩ Jacques-Joseph Grancher, Trưởng phòng khám nhi khoa của bệnh viện Nhi Paris. Ông thậm chí còn không được phép giữ ống tiêm, mặc dù việc tiêm chủng đã hoàn toàn dưới sự giám sát của mình. Người chịu trách nhiệm về tiêm là Grancher và ông đã bảo vệ Pasteur trước Viện hàm lâm Y quốc gia Pháp về vấn đề này. Trong thử nghiệm vắc-xin bệnh dại, có những cáo buộc rằng việc Pasteur đem một ai đó làm thử nghiệm lâm sàng mà không cần chẩn đoán là phản y đức (Meister đã không xuất hiện triệu chứng của bệnh dại tại thời điểm đó). Thứ hai, ông giữ bí mật về thủ tục của mình và không đưa ra các thử nghiệm tiền lâm sàng thích hợp. Nhưng những cáo buộc trên là không chính xác. Pasteur đã tiết lộ phương pháp của ông cho một nhóm nhỏ các nhà khoa học. Ông cũng đã thử nghiệm tiêm chủng trong 40 con chó và đã thành công tốt đẹp trước khi sử dụng vắc-xin của mình trong con người. Trước khi tiêm cho Meister, Pasteur đã tham khảo ý kiến ​​của các nhà khoa học Alfred Vulpian và Jacques-Joseph Grancher, và cùng với Roux, 4 người đã thảo luận về trường hợp của Meister và tranh luận về vấn đề y đức của việc thử nghiệm vắc-xin trong trường hợp này. Sự lựa chọn là hiển nhiên: nếu họ không làm gì cho đến khi cậu bé xuất hiện triệu chứng bệnh dại, thì cậu bé chắc chắn sẽ chết (con chó cắn cậu bé rất có thể đã bị bệnh dại, và vắc-xin không có tác dụng với những bệnh nhân đã xuất hiện triệu chứng bệnh), việc thử nghiệm vắc-xin tuy rủi ro nhưng ít ra cũng tạo nên cơ hội cứu sống Meister. Viện Pasteur Viện Pasteur được Pasteur thành lập để duy trì cam kết của mình để nghiên cứu cơ bản và ứng dụng thực tế của nó. Ông đã tập hợp nhiều nhà khoa học với chuyên môn khác nhau. 5 bộ môn đầu tiên được chỉ huy bởi hai normaliens (tốt nghiệp sau đại học từ École Normale Supérieure): Emile Duclaux (trưởng nhóm nghiên cứu chung về vi sinh vật) và Charles Chamberland (nghiên cứu vi sinh ứng dụng trong hygiene), cũng như các nhà sinh vật học Ilya Ilyich Mechnikov (nghiên cứu hình thái vi sinh vật) và hai bác sĩ, Jacques-Joseph Grancher (bệnh dại) và Emile Roux (nghiên cứu công nghệ vi sinh). Một năm sau khi nhậm chức, ở viện, Roux đã thiết lập khóa học về vi sinh vật được giảng dạy đầu tiên trên thế giới, với tiêu đề Cours de Microbie Technique (khóa học về công nghệ nghiên cứu vi sinh). Từ năm 1891, viện Pasteur đã mở rộng ở nhiều nước trên thế giới, và hiện có 32 viện nghiên cứu ở 29 quốc gia trên thế giới. Tôn vinh Pasteur được tôn vinh là "cha đẻ của ngành vi sinh vật học". Ông chưa bao giờ chính thức học y khoa nhưng vẫn được xem như người thầy thuốc vĩ đại và là Ân nhân của Nhân loại (Benefactor of Humanity). Ông cũng là thành viên của rất nhiều Viện Hàn lâm tại Pháp cũng như ở nước ngoài. Nhiều ngôi làng và đường phố trên thế giới mang tên ông. Có thể nói tài năng và cống hiến của ông đã vượt qua biên giới địa lý và chính trị. Tại Việt Nam, những con đường mang tên ông từ thời kỳ thuộc địa đã không hề thay đổi cho đến hôm nay mặc dù các con đường khác mang tên danh nhân Việt Nam lại bị thay đổi qua nhiều biến thiên thời cuộc. Louis Pasteur mất ngày 28 tháng 9 năm 1895 tại Marnes la Coquette, Paris. Nhưng từ đó đến nay, thi hài ông vẫn luôn được giữ gìn trong giáo đường trong khuôn viên Viện Pasteur ở Paris chứ không phải ở Điện Panthéon như dự định trước đó. Rất nhiều tượng đài đã được xây dựng để tưởng nhớ đến ông. Các giai thoại Lần nọ, có một sinh viên đại học ở Paris ngồi cạnh một người đàn ông lớn tuổi trên một đoàn tàu. Khi thấy ông già đang lần chuỗi Kinh Mân Côi, cậu này nói: "Bây giờ mà cụ còn tin vào điều lỗi thời này sao?". Ông già đáp: "Vâng, thế còn cậu?". Anh sinh viên cười một cách tự đắc mà nói: "Tôi không tin vào những điều ngớ ngẩn như vậy. Xin cụ nghe tôi, ném bỏ cái chuỗi hạt kia ra cửa sổ và tìm hiểu về khoa học đi thôi". Người đàn ông nói: "Khoa học không hiểu được thứ này. Cậu giải thích cho tôi đi". Chàng sinh viên hí hửng nói: "Xin cụ vui lòng cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi cho cụ một số tài liệu khoa học để giải thích vấn đề này cho cụ". Người đàn ông mò mẫm bên trong túi áo khoác và lấy ra một danh thiếp. Vừa đọc tấm danh thiếp, cậu sinh viên cúi đầu xuống trong sự xấu hổ và không nói thêm được một lời. Tấm danh thiếp viết: "Louis Pasteur, Giám đốc Viện nghiên cứu khoa học Paris". Joseph Meister, bệnh nhân đầu tiên bị chó dại cắn được dự phòng khỏi bệnh nhờ vaccine phòng bệnh dại sau này trở thành người gác cổng của Viện Pasteur ở Paris. Khi Đức xâm chiếm thành phố này, Joseph Meister đã gửi gia đình mình đi sơ tán, còn ông vẫn ở lại bảo vệ cho Viện Pasteur ở Paris. Meister đã tự vẫn vào ngày 24/6/1940, có câu chuyện kể rằng lính Đức đã bắt ông phải mở cửa hầm mộ của Pasteur, và ông đã tự sát để không bao giờ xúc phạm đến thi thể ân nhân cứu mạng của mình. Tuy nhiên, cháu gái Meister thì cho rằng Meister đã tự sát do bị sốc khi nhận được tin báo nhầm lẫn là gia đình của ông đã bị quân Đức sát hại. Các tác phẩm chính Các công trình chính của Pasteur gồm: {| class="wikitable" |- ! Tiếng Pháp!! Năm!! Tạm dịch |- |Études sur le Vin|| 1866|| Các nghiên cứu về rượu vang |- | "Études sur le Vinaigre"|| 1868|| Các nghiên cứu về giấm |- | "Études sur la Maladie des Vers à Soie" (2 volumes)|| 1870|| Các nghiên cứu về bệnh tằm tơ |- |; "Quelques Réflexions sur la Science en France" || 1871|| Một số phản ảnh về khoa học ở Pháp |- | "Études sur la Bière" || 1876|| Các nghiên cứu về bia |- | "Les Microbes organisés, leur rôle dans la Fermentation, la Putréfaction et la Contagion'''"|| 1878|| Tổ chức vi sinh vật, vai trò của chúng trong việc lên men, thối rữa, và nhiễm trùng |- | "Discours de Réception de M.L. Pasteur à l'Académie française" || 1882|| Phát biểu của Mr L. Pasteur khi được tiếp nhận vào Viện hàm lâm Pháp (Académie française) |- | "Traitement de la Rage"|| 1886|| Điều trị bệnh dại |} Xem thêm Ignaz Semmelweis Ilya Ilyich Mechnikov Tham khảo Đọc thêm Reynolds, Moira Davison. How Pasteur Changed History: The Story of Louis Pasteur and the Pasteur Institute'' (1994)
Port-au-Prince, (tiếng Creole Haiti: Pòtoprens), với số dân 1.277.000 (2006), là thủ đô và là thành phố lớn nhất Haiti. Nếu tính cả vùng ngoại ô gia cư lụp xụp thì dân số Port-au-Prince là khoảng 2 triệu 5 đến 3 triệu người. Thành phố nằm sát bên bờ Vũng Gonâve với khu thương mại tập trung ở khu bến và khu dân cư lan toả ra đến vùng đồi núi bao quanh. Sân bay quốc tế Toussaint Louverture (Aéroport International Toussaint Louverture), khai trương năm 1965 (với tên là Sân bay quốc tế François Duvalier), nằm 10 km về phía bắc thành phố. Cảng của thành phố này lớn nhất Haiti nhưng lạc hậu và sử dụng dưới công suất do phí cao hơn cảng ở Cộng hoà Dominica. Năm 2010, Port-au-Prince đã bị phá hoại nặng nề bởi một trận động đất với nhiều công trình bị phá huỷ số lượng thương vong chưa được xác nhận chính thức . Khí hậu Kinh tế Port-au-Prince là trung tâm kinh tế và tài chính lớn nhất của quốc gia này. Thành phố này hiện đang xuất khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng như cà phê và đường, trong quá khứ, xuất khẩu hàng hoá khác, chẳng hạn như giày dép và bóng bầu dục. Port-au-Prince có các nhà máy chế biến thực phẩm cũng như xà phòng, dệt may, và các nhà máy xi măng. Dù có tình trạng bất ổn chính trị, thành phố cũng dựa vào các ngành công nghiệp du lịch và công ngành xây dựng. Port-au-Prince đã từng là nơi du lịch phổ biến của tàu biển, nhưng đã đánh mất gần như tất cả ngành du lịch của mình, và không còn có tàu du lịch cập cảng.
Orlando Jonathan Blanchard Bloom (sinh ngày 13 tháng 1 năm 1977) là nam diễn viên người Anh. Anh trở nên nổi tiếng với vai diễn đột phá vào năm 2001 là hoàng tử tiên Legolas trong loạt phim Chúa tể những chiếc nhẫn và năm 2003 với vai người thợ rèn Will Turner trong Cướp biển vùng Caribbe. Ngay lập tức anh vươn lên vị trí ngôi sao trong các phim của Hollywood như Elizabethtown và Kingdom of Heaven. Anh còn tham gia cùng lúc trong các phim Black Hawk Down; Troy; New York, I Love You; Sympathy for Delicious; và Main Street. Bloom đã trình diễn hết sức chuyên nghiệp trên sân khấu kịch với vở diễn West End's In Celebration tại Nhà hát Quận công York, St. Martin's Lane, diễn ra cho tới ngày 15 tháng 9 năm 2007. Ngày 12 tháng 10 năm 2009, Bloom được bầu làm Đại sứ Thiện chí của tổ chức UNICEF. Anh còn trở lại với vai Legolas trong phần 2 và 3 của loạt phim The Hobbit. Tiểu sử Orlando Bloom sinh ra tại Canterbury, Kent, nước Anh, và có một chị gái là Samantha Bloom sinh năm 1975. Bloom được đặt theo tên của nhà soạn nhạc ở thế kỷ thứ XVI là Orlando Gibbons. Mẹ anh là bà Sonia Constance Josephine (nhũ danh Copeland), là người gốc Anh thuộc một nhánh của Kolkata, Ấn Độ, là con gái của Betty Constance Josephine (Walker) và Francis John Copeland, là y sĩ và bác sĩ phẫu thuật. Nhờ đó mà Bloom là anh em họ với nhiếp ảnh gia Sebastian Copeland. Họ ngoại của Bloom sống rải rác tại Tasmania, Úc, Nhật, Ấn Độ, và nhờ có nguồn gốc người Anh mà một vài người trong số đó gốc gác từ Kent. Hồi nhỏ, Bloom được nghe về cha mình là chồng của mẹ, là tiểu thuyết gia chống chủ nghĩa Apartheid người Do Thái-Nam Phi, Harry Saul Bloom; tuy nhiên khi anh lên 13 tuổi (9 năm sau khi ông Harry qua đời), mẹ của Bloom mới tiết lộ rằng cha đẻ của anh là Colin Stone, một đối tác của mẹ và bạn của gia đình. Ông Stone là hiệu trưởng của trường "Concorde International language school", trở thành người giám hộ về mặt pháp lý cho Orlando sau khi ông Harry Bloom qua đời. Bloom lớn lên trong Nhà thờ Thanh giáo Anh. Anh theo học tại The King's School Canterbury và St Edmund's School tại Canterbury, và bị mắc hội chứng khó đọc. Mẹ anh khuyến khích con trai theo học các lớp kịch và nghệ thuật. Năm 1993, anh chuyển tới Luân Đôn để theo học khóa học Kịch nghệ, nhiếp ảnh, điêu khắc trong hệ thống chứng chỉ "A Level" tại "Cao đẳng Mỹ thuật ở Hampstead". Sau này anh tham gia vào "Nhà hát Thanh thiếu niên Quốc gia", dành ra hai mùa sinh hoạt tại đó và giành học bổng để chuyển tới Học viện British American Drama Academy. Bloom bắt đầu tham gia diễn xuất trên truyền hình trong loạt phim nhiều tập như Casualty và Midsomer Murders và không lâu có vai diễn đầu tay trong Wilde (1997), vai phản diện của Stephen Fry, trước khi theo học về diễn xuất tại tại "Guildhall School of Music and Drama" ở Luân Đôn. Danh sách phim Giải thưởng và đề cử
Văn Giảng (12 tháng 5 năm 1924 – 9 tháng 5 năm 2013) là nhạc sĩ Việt Nam có sáng tác thuộc nhiều thể loại. Các bút danh khác của ông là Thông Đạt, Nguyên Thông, Nguyên Đàm & Tiến Tài, Anh Phương & Nguyên Diệu. Cuộc đời Ông tên thật là Ngô Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 5 năm 1924 trong một gia đình trung lưu có truyền thống về âm nhạc tại Huế. Ông nội của ông là một nhạc sĩ cổ nhạc. Ngay từ bé, Văn Giảng đã tỏ ra những năng khiếu về âm nhạc. Ông bắt đầu tập chơi mandolin rồi sau đó đến guitar. Sinh hoạt đầu tiên của Văn Giảng là tham gia hòa nhạc với các bạn Nguyễn Văn Thương, Lê Quang Nhạc khi ông mới 18 tuổi. Sau đó vào khoảng năm 1944, nối gót nhạc sĩ Thẩm Oánh, tác giả bài A Di Đà Phật ở ngoài Bắc, Văn Giảng cùng với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba khởi xướng và phát triển nền Phật nhạc tại Huế. Ông vào Sài Gòn thi tú tài và tốt nghiệp cử nhân. Sau khi thi đỗ Anh văn ở Hội Việt Mỹ, Văn Giảng sang tu nghiệp âm nhạc tại Hawaii và Bloomington (Hoa Kỳ). Tốt nghiệp xuất sắc, ông được học bổng để tiếp tục nghiên cứu bậc cao học âm nhạc, để rồi sau đó trở về nước và được đề cử làm giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế. Sau Tết Mậu Thân 1968, cảm thấy sinh sống ở Huế bất an (Tăng Duyệt, bạn thân của ông, bị giết trong biến cố này) nhạc sĩ Văn Giảng vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 1969. Ông dạy nhạc tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền hình và soạn hòa âm cho hãng đĩa Asia, Sóng Nhạc. Đồng thời, Văn Giảng còn được Bộ Văn hóa Giáo dục đề cử làm Trưởng phòng Học vụ Nha Mỹ thuật, đảm trách học vấn của các trường Âm nhạc Sài Gòn, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật. Năm 1970, ông được huy chương vàng Giải Văn học Nghệ thuật Quốc gia của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với tác phẩm Ngũ tấu khúc (Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm Giám đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền Đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế EXPO 70 tại Osaka, Nhật Bản. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông ở lại Việt Nam cho đến năm 1981 thì vượt biên đến quần đảo Natuna, rồi đảo Galang thuộc Indonesia. Trong 6 tháng ở đây, ông sáng tác một số bài nói lên thân phận của những người lưu vong mà bài đầu tiên là Natuna người tình đầu. Ngày 20 tháng 5 năm 1982, Văn Giảng được chính thức định cư tại Úc. Ông tiếp tục con đường âm nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách dạy nhạc viết bằng Việt ngữ và Anh ngữ, sách nhạc lý như cách dùng hợp âm, tự học Tây Ban cầm, hòa âm, sáng tác, học hát, học đàn... Văn Giảng còn sáng tác thêm nhiều tình khúc được tập hợp thành một số tập, như "12 Tình Khúc (Tập I)", "12 Tình Khúc (Tập II)". Văn Giảng mất ngày 9 tháng 5 năm 2013 ở thành phố Footscray, tiểu bang Victoria, nước Úc. Vợ ông lên cơn đau tim sau khi rải cốt tro ông trên biển vào ngày 17 tháng 5 và mất sau khi đưa vào bệnh viện cùng chiều hôm đó. Sự nghiệp âm nhạc Khởi đầu với hùng ca Phần lớn các sáng tác đầu tiên của Văn Giảng đều thuộc thể loại hùng ca như Thúc quân (1949), Lục quân Việt Nam (1950), Đêm Mê Linh (1951), Quân hành ca (1951), Qua đèo (1952), Nhảy lửa (1953)... nhưng ông còn viết tình ca với bài đầu tiên là Ai về sông Tương ký tên Thông Đạt. Bút danh này chính là tên ghép pháp danh Nguyên Thông của ông và Tâm Đạt của người vợ. Ai về sông Tương được Thông Đạt viết vào năm 1949. Lúc đó, Văn Giảng có chơi thân cùng ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản Tinh Hoa, một số hành khúc của Văn Giảng cũng được nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành. Một lần Tăng Duyệt nói đùa ngụ ý rằng nhạc sĩ Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở trường của Văn Giảng. Văn Giảng nghe như vậy và không trả lời. Sau đó ông viết bản Ai về sông Tương và ký tên Thông Đạt. Ai về sông Tương được tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và nhanh chóng nổi tiếng. Sau nhiều lần được nghe bản nhạc đó trên đài, Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài Ai về sông Tương là ai không. Tăng Duyệt muốn tìm mua lại bản quyền để xuất bản nhạc phẩm đó nhưng Văn Giảng trả lời không biết. Hai người bạn của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng và nhà văn Lữ Hồ tới chơi và tình cờ nhìn thấy bản thảo của Ai về sông Tương. Nhờ đó Tăng Duyệt mới biết Văn Giảng chính là Thông Đạt, tác giả của bài hát. Nhạc Phật giáo Văn Giảng còn có một bút danh khác nữa là Nguyên Thông khi viết những ca khúc về Phật giáo. Dưới bút hiệu này, ông đã sáng tác khoảng vài chục ca khúc về Phật giáo, đóng góp không nhỏ cho nền Phật nhạc của Việt Nam. Các bài của ông được thường xuyên hát lên trong các buổi tụng niệm tại các chùa từ Huế vào đến Sài Gòn. Bài Mừng ngày Đản Sanh của ông được dùng làm ca khúc chính thức cho lễ Phật Đản đến tận bây giờ. Một ca khúc khác cũng nổi tiếng không kém là Từ Đàm quê hương tôi. Nhạc thiếu nhi Trong thời gian làm nhạc trưởng Đài Phát thanh Huế và giáo sư âm nhạc tại các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học và trường Sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học, nhạc sĩ Văn Giảng có sáng tác và ấn hành một tập nhạc dành cho thiếu nhi mang tên Hát mà học gồm có 10 ca khúc: Đến trường, Chơi ná, Chê trò xấu nết, Mèo chuột, Tham mồi, Gương sáng Lê Lai, Quang Trung hùng ca, Trăng Trung thu, Chúc xuân và Tạm biệt. Tân cổ nhạc hòa tấu Xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc, Văn Giảng thích tìm tòi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt Nam. Năm 1956, ông đã tìm ra phương pháp ký âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể nhìn bài bản mà trình tấu chung với nhạc sĩ tân nhạc và từ đó, ông thành lập ban cổ kim hòa điệu Việt Thanh, ban nhạc đầu tiên trong nước dưới hình thức tân cổ hòa điệu với những nhạc khí tranh, tỳ, nhị huyền, nhị hồ, đàn nguyệt... hoà tấu chung với dương cầm, tây ban cầm, đại hồ cầm... Trong lĩnh vực này, ông đã hoàn thành bản đại hòa tấu độc đáo Ai đưa con sáo sang sông thời lượng 60 phút, trình diễn bởi các nhạc sĩ cổ truyền. Ông cũng soạn nhiều sách giáo khoa về âm nhạc, hoàn thành quyển "Kỹ thuật hoà âm" dày 350 trang được dùng làm tài liệu dạy âm nhạc ở các trường. Tác phẩm Văn Giảng Chê trò xấu nết Chơi ná Chúc xuân Đêm Mê Linh Đến trường Đoàn hùng binh Đoàn người phiêu lưu Gương sáng Lê Lai Kéo gỗ rừng khuya Lục Quân Việt Nam Mèo chuột Nam Quan hận khúc (lời Hồ Đình Phương) Nhạc bình minh Nhảy lửa Quang Trung hùng ca Quân hành ca Quê ngoại (lời Hồ Đình Phương) Sầu Ô Thước Sĩ Nông Công Thương Tạm biệt Tham mồi Thanh niên! Thanh niên! Thúc quân (Hồn quân reo) Thương tà áo bay (Văn Giảng - Nguyên Đàm) Tiếng hát dân quê Trăng trung thu Tuổi hoa Thông Đạt Ai về Sông Tương Áo cưới màu hoa Bàng hoàng Căn nhà hoà bình Có thế thôi Duyên tình hai đứa Đôi mắt huyền Hoa cài mái tóc Hồn viễn khách (thơ Hồ Đình Phương) Lỗi hẹn Luyến quê Năm nay em mấy tuổi đầu Nói chi đến chuyện mai sau Thương về quê tôi Tiếng hò trên sông Tình em biển rộng sông dài Tình thôn nữ Tuổi hoa Xin cho tôi giấc mộng bình yên Xin đừng bỏ nhau Xin đừng chờ em nữa Xin lễ cưới em Nguyên Thông Bao la vô tận Bờ mê bến giác Buông xả Ca Tỳ La Vệ Có những hồi chuông Đời sống Đức Phật Giả hợp Giòng sinh diệt Hãy tự giác Hoa cài áo lam Mong tỉnh ngộ Mừng ngày Đản Sanh Tâm bệnh Tìm đâu xa Từ Đàm quê hương tôi Vô thường Vũ khí chơn tâm Nguyên Diệu Thôn trăng (Mạnh Bích - Nguyên Diệu) (1956) Thư người chiến binh (Nguyên Đàm - Nguyên Diệu) (1959) Tiễn anh (Anh Phương - Nguyên Diệu) (1960) Tiến Tài Nếu duyên không thành 100 bến nước Cây dừa trước ngõ Đường phố không người Người yêu quay mặt Sao em không nói (Tiến Tài - Nguyên Đàm) Hữu Nghĩa Đón mừng ánh đạo (Nguyên Đàm - Hữu Nghĩa) Anh Phương Bình minh trên đầu núi Mơ ngày tái ngộ Một đêm vui Tình xuân Trong mơ Chiều kinh đô
Mạnh Phát (tên đầy đủ: Lê Mạnh Phát, 1926 - 1973) là một ca sĩ, nhạc sĩ nhạc tiền chiến và nhạc vàng, có nhiều sáng tác được yêu thích như "Ai về quê tôi", "Hoa nở về đêm", "Ngày xưa anh nói", "Sương lạnh chiều đông",... Ông còn ký các tên khác trên nhạc phẩm là Tiến Đạt và Thúc Đăng. Cuộc đời Ông tên đầy đủ là Lê Mạnh Phát, sinh năm 1926 tại tỉnh Nghệ An. Năm 1940, ông cùng gia đình di cư vào Sài Gòn. Sau khi học xong bậc trung học, ông được mời hát cho hai hãng đĩa Béka và Asia. Thời đỉnh cao của sự nghiệp ca sĩ, ông thường hát trên Đài phát thanh Pháp Á chung với nữ ca sĩ Minh Diệu, cũng là vợ ông sau này. Từ cuối năm 1949 đến năm 1955, ông bắt đầu soạn nhạc với bút danh Tiến Đạt và Thúc Đăng. Một số sáng tác của ông giai đoạn này là Ai về quê tôi, Anh đã về, Hồn trai Việt, Mong người trở lại, Trăng sáng trong làng,... Năm 1958, Mạnh Phát đóng vai chính trong phim Tình quê ý nhạc, cùng tên với một bản nhạc của ông. Đến đầu thập niên 1960, cũng như một số nhạc sĩ cùng thời khác như Châu Kỳ, Hoài Linh, Minh Kỳ..., Mạnh Phát chuyển sang sáng tác nhạc vàng theo thể điệu bolero. Phần lớn các ca khúc của ông ở giai đoạn này như Hoa nở về đêm, Ngày xưa anh nói (chung với Thanh Tuyền), Sương lạnh chiều đông, Phố vắng em rồi (thơ Nguyễn Đan Thanh), Vọng gác đêm sương,... trở nên phổ biến và vẫn còn được yêu thích cho đến tận nay. Năm 1962, ông cùng Nguyễn Văn Đông đưa nữ sinh Phạm Như Mai (khi đi hát lấy nghệ danh là Thanh Tuyền) từ Đà Lạt về Sài Gòn nuôi dưỡng, lăng-xê, tạo nên sự nghiệp ca hát lẫy lừng cho bà. Thanh Tuyền sống tại nhà của Mạnh Phát - Minh Diệu và nhận Mạnh Phát - Minh Diệu là cha mẹ nuôi, được chỉ dạy nhiều về âm nhạc. Ngoài ra, ông còn phụ trách chương trình Tiếng Ca Gửi Người Tiền Tuyến trên Đài Tiếng nói Quân đội của VTVN. Ông mất ngày 2 tháng 1 năm 1973 vì bệnh xơ gan cổ trướng tại Sài Gòn hưởng dương 47 tuổi Thông tin khác Trong chương trình đại nhạc hội trực tiếp thu hình Asia 50: Anh Không Chết Đâu Anh do Trung tâm Asia thực hiện vào năm 2005, ca sĩ Thanh Tuyền kể lại câu chuyện bài Chuyến đi về sáng đứng tên Mạnh Phát nhưng thật ra do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác. Khi đó vợ Trần Thiện Thanh đang ở cữ, gia cảnh túng thiếu nên ông đã bán lại bài này cho nhạc sĩ Mạnh Phát kèm điều kiện Mạnh Phát được sửa tùy ý. Cũng trong chương trình này, bà Trần Thị Liên (vợ đầu của Trần Thiện Thanh) cho biết nhạc sĩ Trần Thiện Thanh là tác giả của bài Qua xóm nhỏ. Sáng tác Chú thích Người Nghệ An Nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa Nhạc sĩ nhạc vàng Nhạc sĩ tiền chiến Ca sĩ nhạc tiền chiến Việt Nam Nam ca sĩ Việt Nam Cộng hòa Người họ Lê tại Việt Nam
Tô Vĩnh Diện (1924 – 1954) là một chiến sĩ thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam được trao tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nổi tiếng với hành động lấy chính cơ thể mình chèn vào càng pháo để không cho khẩu pháo cao xạ 37 mm không bị lăn xuống vực trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tiểu sử Anh sinh năm 1924, quê ở thôn Dược Khê, xã Nông Trường, huyện Nông Cống (nay thuộc huyện Triệu Sơn), tỉnh Thanh Hóa. Trang thông tin của họ Tô Việt Nam cho biết anh thuộc đời thứ 15, phân ngành 2, chi 4 họ Tô làng Bao Hàm, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Tổ 5 đời của Tô Vĩnh Diện là ông Tô Phúc Chân đưa cả gia đình vào định cư và lập nghiệp ở Nông Cống. Cha anh là cụ Tô Uy, một bần nông trong làng. Anh là con trai lớn của cụ Tô. Do gia đình nghèo, cuộc sống khó khăn, từ năm 8 tuổi, anh đã phải đi ở, lớn lên làm tá điền cho nhà địa chủ ở làng bên. Binh nghiệp Năm 1946, quân viễn chinh của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Tô Vĩnh Diện tham gia chỉ huy dân quân ở địa phương. Năm 1950, tại Thanh Hóa nổ ra một vụ bạo loạn, khiến nhiều dân quân (trong đó có Tô Vĩnh Diện) bị bắt giữ. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải cử một đơn vị bộ đội xuống giải cứu. Từ đó, Tô Vĩnh Diện chính thức gia nhập quân đội Nhân dân Việt Nam. Tháng 3 năm 1953, Tô Vĩnh Diện được triệu tập để tham gia lực lượng phòng không chuẩn bị thành lập. Anh cùng đơn vị sang Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) để tập huấn pháo binh. Trong thời gian huấn luyện, Tô Vĩnh Diện được chỉ định là trung đội phó thuộc đại đội 829, tiểu đoàn 394, trung đoàn 367 và được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam. Sau 8 tháng huấn luyện ở Trung Quốc, tháng 12/1953, Tô Vĩnh Diện cùng đơn vị về nước và ngay lập tức hành quân lên Điện Biên Phủ để chuẩn bị tham chiến. Anh được điều về đại đội 827 làm trung đội phó của trung đội 2, trực tiếp phụ trách khẩu đội 3 thay khẩu đội trưởng bị thương. Khẩu đội Tô Vĩnh Diện được giao sử dụng khẩu pháo cao xạ 37mm số hiệu 510681, thuộc loại pháo phòng không 37mm mẫu 61-K kiểu M1939 có gắn lá chắn đạn với 2 cửa ngắm dành cho 2 pháo thủ, do Liên Xô sản xuất và viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hy sinh Để giữ bí mật chiến lược, các đơn vị cao xạ đều phải vận chuyển hai loại lựu pháo 105mm và cao xạ 37mm (lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường) vào ban đêm, liên tục trong các ngày 13, 14 và 15 tháng 1 năm 1954, từ Tuần Giáo vào tập kết ở km 63 đường 42. Sau đó, từ vị trí tập kết, bộ đội phải kéo pháo bằng sức người trên đường quân sự mới mở, có chỗ phải vượt qua núi cao 1450m để vào trận địa cách xa vị trí tập kết 15 km. Từ trưa ngày 16/1, được sự trợ giúp của bộ binh và công binh, các đơn vị bắt đầu kéo pháo, đến ngày 24/1 mới đưa được pháo vào trận địa. Tuy nhiên trận đánh đã không diễn ra như dự kiến. Ngày 26 tháng 1, tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp quyết định đổi phương án tác chiến từ "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc". Các đơn vị pháo binh nhận lệnh phối hợp với các đơn vị bộ binh kéo pháo trở ra. Đơn vị của Tô Vĩnh Diện được lệnh kéo pháo ra điểm tập kết tại Bắng Hôm để ăn tết Giáp Ngọ và chờ lệnh mới. Ngày 1/2/1954, đơn vị của Tô Vĩnh Diện (đại đội 827) trên đường kéo pháo ra, đến một con dốc cao và hẹp ở gần Bản Chuối. Anh cùng pháo thủ Nguyễn Văn Chi phụ trách điều khiển càng pháo để chỉnh hướng cho một đơn vị bộ đội kéo dây tời giữ pháo, ngoài ra còn có 2 chiến sĩ phụ trách chèn bánh pháo. Quân Pháp bất ngờ bắn pháo từ Mường Thanh lên, buộc đơn vị kéo giữ pháo nằm rạp xuống, đúng lúc dây tời bị đứt. Lực giữ pháo yếu đi, cả trăm bộ đội vẫn không đủ sức níu lại, khẩu pháo dần tuột xuống dốc. Pháo thủ Nguyễn Văn Chi lái càng phía ngoài bị càng pháo hất xuống vực và pháo trôi dần về phía vực sâu. Tô Vĩnh Diện lập tức bỏ càng pháo phía trong, chuyển sang ghì người vào càng pháo phía ngoài, lấy một chân đạp vào một gốc cây, cố gắng đẩy hướng càng pháo đâm vào vách núi. Tuy cản được pháo lăn xuống vực, nhưng anh cũng bị bánh xe của khẩu pháo nặng hơn 2 tấn đè lên người trọng thương. Chính trị viên tiểu đoàn Phạm Đăng Ty chạy tới cấp cứu, nhưng đã quá muộn. Trước lúc ra đi, anh vẫn còn hỏi "Pháo có việc gì không anh em?". Vinh danh Ngày 7 tháng 5 năm 1955, Tô Vĩnh Diện được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương quân công hạng nhì, Huân chương chiến công hạng nhất và được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1956. Hiện nay, mộ Tô Vĩnh Diện nằm ở khu đặc biệt của nghĩa trang Điện Biên cùng với mộ của 3 anh hùng nổi bật khác trong trận Điện Biên Phủ là Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Trần Can. Một bia tưởng niệm cũng được dựng lên gần vị trị đường kéo pháo nơi hy sinh của anh. Khẩu pháo cao xạ 37mm số hiệu 510681 sau đó tiếp tục được đưa vào tham chiến trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, bắn rơi 3 máy bay, làm hư hỏng 13 chiếc khác. Năm 1958, khẩu pháo được đưa về trưng bày tại Phòng truyền thống của Bộ Tư lệnh Phòng không, nay là Bảo tàng quân chủng Phòng không- Không quân. Ngày 1 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1426/QĐ-TTg công nhận pháo cao xạ 37mm số hiệu 510681 là Bảo vật quốc gia đợt một. Anh được xướng tên cho nhiều đường phố và trường học trên khắp Việt Nam. Những thông tin sai sót Sau khi ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng, do thiếu thông tin cũng như những ghi nhớ sai sót trong quá trình kể truyền miệng của nhiều người, một số tài liệu đã mô tả lại câu chuyện về hành động dũng cảm Tô Vĩnh Diện với những thông tin không chính xác. Nhầm lẫn phổ biến nhất là việc cho rằng Tô Vĩnh Diện đã cứu khẩu đại bác cỡ 105mm, thực ra khẩu pháo mà Tô Vĩnh Diện cứu được là pháo cao xạ 37mm. Một nhầm lẫn khác cũng rất phổ biến là cho rằng "Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn bánh pháo" để ngăn pháo lao xuống dốc, thực ra Tô Vĩnh Diện đã lấy thân chèn vào càng pháo chứ không phải bánh pháo. Thời điểm cũng như vị trí anh hy sinh cũng bị ghi chép khác nhau. Nhiều tài liệu dựa vào lời kể truyền miệng đã chép thời điểm hy sinh của anh vào tháng 3 năm 1953. Trên bia mộ ông khắc thời điểm hy sinh là ngày 21 tháng 1 năm 1954). Các tài liệu sau này, căn cứ vào các nhân chứng lịch sử, đã xác định chính xác thời điểm anh hy sinh là lúc khoảng 22 giờ ngày 28 tháng Chạp (tức 1 tháng 2 năm 1954). Địa điểm hy sinh cũng được xác định ở rừng Pá Có, sườn phía tây Pha Sung, thuộc xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Chú thích
Phan Đình Giót (1922-1954) là một trong 16 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân được tuyên dương vì thành tích trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Chức vụ cuối của ông là Tiểu đội phó bộ binh Đại đội 58, Tiểu đoàn 428, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Quê của ông ở làng Vĩnh Yên ( nay là thôn 8 ) xã Cẩm Quan huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong 1 gia đình rất nghèo, bố ông bị chết sớm vì đói. Buộc ông phải đi ở đợ ở tuổi 13. Sau Cách Mạng Tháng 8, ông tham gia lực lượng tự vệ chiến đấu. Năm 1950, ông xung phong đi bộ đội chủ lực. Ông cũng góp mặt trong một số chiến dịch lớn như : Trung Du, Hòa Bình, Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Mùa đông năm 1953, lực lượng gồm 500 người tham gia phải vượt qua đèo dốc,…. Vào ngày 13/3/1954, ông đã hi sinh ở tuổi 32 khi dùng thân mình lắp lỗ châu mai để tạo đường tấn công cho quân Cách mạng. Tiểu sử Phan Đình Giót sinh ở làng Vĩnh Yên (nay là thôn 8), xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, ông sinh ra trong một gia đình rất nghèo. Bố ông bị chết vì đói. Ông phải đi ở đợ từ năm 13 tuổi và chịu cảnh cực nhọc, vất vả. Sau Cách mạng tháng Tám, Phan Đình Giót tham gia lực lượng tự vệ chiến đấu. Đến năm 1950, Phan Đình Giót xung phong đi bộ đội chủ lực. Phan Đình Giót đã tham gia nhiều chiến dịch lớn như: Trung Du, Hòa Bình, Tây Bắc và Điện Biên Phủ. Hoàn cảnh hi sinh Mùa đông năm 1953, đơn vị được lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Lực lượng gần 500 người, vượt qua nhiều đèo dốc, mang vác nặng nhưng ông vẫn kiên trì, giúp đồng đội về tới đích. Chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, đơn vị của ông tấn công tiêu diệt địch ở Him Lam. Bộ đội Đại đội 58 lao lên mở đường, đã liên tiếp đánh đến quả bộc phá thứ tám. Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi nhưng vẫn xung phong đánh tiếp quả thứ mười. Quân Pháp tập trung hỏa lực trút đạn như mưa xuống trận địa. Bộ đội bị thương vong nhiều. Sau đó, Phan Đình Giót đánh liên tiếp hai quả bộc phá nữa, phá hàng rào cuối cùng, mở thông đường để đồng đội lên đánh lô cốt đầu cầu. Quân Pháp hoang mang, lợi dụng thời cơ, ông vọt lên tiến công lô cốt số 2, ném thủ pháo, bắn yểm trợ cho đơn vị tiến lên. Trong đợt xung phong này, ông bị thương vào vai và đùi, mất máu rất nhiều. Bất ngờ, hỏa điểm lô cốt số 3 của lính Pháp bắn mạnh. Lực lượng xung kích Việt Nam bị chặn lại, Phan Đình Giót bò đến lô cốt số 3 với ý nghĩ là dập tắt ngay lô cốt này. Phan Đình Giót đã dùng hết sức (khi đã bị thương, mất máu) nâng tiểu liên bắn vào lỗ châu mai, miệng hô to: Rồi vươn người lấy đà, dùng thân mình vào bịt kín lỗ châu mai của địch. Tiếng súng đạn bỗng im bặt, nhưng chiến sĩ Phan Đình Giót đã hi sinh, toàn thân ông bị đạn kẻ thù bắn nát. Thi thể Phan Đình Giót đã lấp kín lỗ châu mai, quân Pháp bên trong bị vướng không bắn ra được nữa, quân Việt Nam nắm bắt thời cơ xông lên tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam vào ngày 13 tháng 3 năm 1954, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Phan Đình Giót đã hi sinh lúc 22 giờ 30 phút ngày 13/3/1954 ở tuổi 32. Ông là một trong 16 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân được tuyên dương thành tích trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Khen thưởng & Đường phố mang tên Phan Đình Giót Ngày 31 tháng 3 năm 1955, Phan Đình Giót được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Sau được truy tặng thêm Huân chương Quân công hạng Nhì. Chiếc bi đông và khẩu súng kỷ vật của ông được gìn giữ tại Bảo tàng Quân đoàn 1. Hiện nay tại các tỉnh thành đều có các đường phố mang tên ông như Tại Thành phố Pleiku (nối Nguyễn Tất Thành với Lê Lợi) Tại Thành Phố Kon Tum (Phường Trường Trinh & Duy Tân)... Tại Quận Hoàng Mai, Hà Nội Chú thích Người Hà Tĩnh Nhân vật trong Chiến tranh Đông Dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Chiến dịch Điện Biên Phủ Huân chương Quân công Người họ Phan tại Việt Nam
Câu lạc bộ bóng đá Long An là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại Việt Nam có trụ sở ở Quốc lộ 1, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Lịch sử Tiền thân của đội là Đội bóng đá Long An, thành lập năm 1976. Là một đội bóng nghiệp dư đại diện cho tỉnh Long An, do Sở Thể dục Thể thao Long An quản lý, kể từ khi thành lập cho đến năm 2000, đội thường xuyên chỉ thi đấu lên xuống giữa giải hạng Nhất và hạng Nhì (sau đổi thành giải đội mạnh và A1), chứ không thể vươn lên tốp đầu của bóng đá quốc gia. Năm 2001, đội được chuyển sang mô hình chuyên nghiệp, được chuyển giao cho Công ty Cổ phần Đồng Tâm quản lý (từ năm 2002, do Công ty TNHH Thể thao Đồng Tâm quản lý), sáp nhập vào đội bóng của Công ty, thi đấu với tên gọi mới là Câu lạc bộ bóng đá Gạch Đồng Tâm Long An. Được ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Công ty Cổ phần Đồng Tâm, quan tâm đầu tư xây dựng, đội đã có nhiều bước phát triển vượt bậc và trở thành một trong "Tứ đại gia" ở giải V-League cùng với Becamex Bình Dương, SHB Đà Nẵng và đối thủ truyền kiếp Hoàng Anh Gia Lai. Trong giai đoạn thành công của đội bóng ở giữa thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, những trận thư hùng giữa Đồng Tâm Long An và Hoàng Anh Gia Lai diễn ra rất hấp dẫn và kịch tính, thu hút sự chú ý của người hâm mộ. Đội bóng miền Tây đã vô địch V-League 2 mùa giải liên tiếp trong các năm 2005 và 2006, cũng như vô địch Cúp Quốc gia năm 2005 và đoạt Siêu Cúp Quốc gia năm 2006. Trên đấu trường châu lục, Đồng Tâm Long An thi đấu rất nhiệt tình và hết mình ở AFC Champions League 2006 dù không thể vượt qua vòng bảng, trái ngược với tâm lý buông bỏ như SHB Đà Nẵng đã làm ở cùng giải đấu khi đã từng để thua Gamba Osaka đến 0-15. Câu lạc bộ cũng xây dựng một đội hình dự bị có tên là Ngói Đồng Tâm Long An để thi đấu ở giải hạng Nhì. Cuối năm 2005, Câu lạc bộ tiếp nhận đội bóng của Câu lạc bộ bóng đá Ngân hàng Đông Á để xây dựng thành đội hình 2 với tên gọi Sơn Đồng Tâm Long An để thi đấu ở Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam 2006. Tuy nhiên, kết thúc mùa bóng 2006, đội bóng Sơn Đồng Tâm Long An được chuyển nhượng sang cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thể thao Hoàng Phát để làm nòng cốt thành lập Câu lạc bộ bóng đá Xi măng Vinakansai Ninh Bình. Từ mùa bóng 2007, câu lạc bộ đổi tên thành Câu lạc bộ bóng đá Đồng Tâm Long An (bỏ chữ Gạch). Tại mùa giải 2011, đội thi đấu không thành công, đứng thứ 13/14 đội, phải xuống thi đấu ở Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam 2012. Mùa giải 2012 Đồng Tâm Long An giành được quyền thăng hạng với chức vô địch giải hạng nhất. Ngày 12 tháng 12 năm 2015 với việc ra mắt Công ty cổ phần phát triển bóng đá Long An, đơn vị chủ quản mới của đội bóng, đội được đổi tên thành Câu lạc bộ bóng đá Long An từ mùa giải 2016. Ngày 4 tháng 11 năm 2017 Long An xuống hạng Nhất mùa bóng 2018 sớm hơn 2 vòng đấu.  Trong mùa giải hạng Nhất 2018, đội bóng thi đấu rất kịch tính nhưng chỉ kết thúc với vị trí hạng 5 sau khi thua đội bóng đầu bảng là Viettel với tỉ số 1-2. Trang phục áo đấu Thành tích V League: Vô địch (2): 2005, 2006 Á quân (3) 2003, 2007, 2008 Giải phong cách (1) 2005 Cúp bóng đá Việt Nam: Vô địch (1): 2005 Đồng hạng ba (3): 2013, 2014, 2015 Siêu cúp bóng đá Việt Nam: Vô địch (1): 2006 Giải hạng nhất: Vô địch (2): 2002, 2012 Các giải giao hữu Cúp BTV: Vô địch (2): 2004, 2010 ==Danh sách đăng ký thi đấu V League 2 năm 2023 - 2024. Ban huấn luyện hiện tại . Thành viên nổi bật Quả bóng vàng Việt Nam Cầu thủ đoạt giải Quả bóng vàng Việt Nam khi đang chơi cho Đồng Tâm Long An: Phan Văn Tài Em – 2005 Nguyễn Minh Phương – 2010 Cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất Cầu thủ đoạt giải Cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất khi đang chơi cho Đồng Tâm Long An: Fabio dos Santos – 2002 Vua phá lưới Cầu thủ đoạt giải Vua phá lưới khi đang chơi cho Long An: Bùi Sĩ Thành – 1993-94 Các huấn luyện viên trong lịch sử Thành tích tại V-League Thành tích tại các Cúp châu Á Biểu trưng của câu lạc bộ
Hàm trong tiếng Việt có thể là: Trong toán học: Cách gọi tắt của hàm số. Từ đồng nghĩa với ánh xạ. Hàm chứa răng trong miệng của người hay động vật.
La Văn Cầu (sinh 1932) là một sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam mang quân hàm Đại tá. Ông là một trong bảy người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tại Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc lần I. Ông nguyên là Ủy viên trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngay khi còn đang sống, La Văn Cầu đã được đặt tên cho trường học và đường phố ở Việt Nam. Sự nghiệp La Văn Cầu tên thật là Sầm Phúc Hướng, ông là người dân tộc Tày, quê xã Phong Nặm, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng Năm 1948, ông gia nhập Đại đội 671, một đơn vị địa phương Cao Bằng của quân đội Việt Minh (khi đó gọi là Quân đội Quốc gia Việt Nam, từ năm 1950 gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam). La Văn Cầu được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1950. Trong chiến tranh Đông Dương, từ năm 1948 đến năm 1952, La Văn Cầu đã tham gia chiến đấu 29 trận. Trận phục kích trên đường Bông Lau-Lũng Phầy ở Cao Bằng năm 1949, ông đã xung phong và một mình bắn chết lính Pháp trên xe tăng rồi nhảy lên xe đối phương dùng súng trên xe diệt thêm 10 lính Pháp nữa. Trong Trận Đông Khê thuộc Chiến dịch biên giới năm 1950, La Văn Cầu là chỉ huy tổ bộc phá hàng rào để đơn vị phía sau tiến công đồn. Ông Cầu bị trúng đạn dập nát một phần cánh tay phải. La Văn Cầu đã nghiến răng nhờ đồng đội dùng lưỡi lê chặt đứt cánh tay bị thương và tiếp tục chiến đấu. Ông dùng tay trái ôm bọc phá đánh mở đường, tạo thời cơ cho các lực lượng khác tiếp đánh chiếm đồn quân đối phương Trong thời gian dưỡng thương, La Văn Cầu tập trung học văn hóa và chính trị. Ông tiếp tục ở lại trong quân đội với công việc là cán bộ tuyên huấn, chuyên trách công tác thanh niên Năm 1983, ông Cầu được chuyển về Hà Nội do điều kiện gia đình rồi công tác tại Tổng cục Chính trị. Một thời gian sau, ông chuyển về Bảo tàng Quân đội làm công tác cán bộ. Ngày 1 tháng 8 năm 1996, La Văn Cầu nghỉ hưu theo chế độ. Sau khi về hưu, ông La Văn Cầu tham gia hoạt động Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông đảm nhiệm chức vụ Ủy viên trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Gia đình La Văn Cầu nghỉ hưu tại phố Hoàng Quốc Việt, Hà Nội cùng gia đình. Ông có bốn người con gồm hai con trai, hai con gái và hiện có 6 cháu nội, ngoại. Vinh danh Với các thành tích trong chiến đấu, ngày 19 tháng 5 năm 1952, La Văn Cầu được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, khi đó ông đang là tiểu đội phó thuộc Trung đoàn 174, Đại đoàn 316. Cùng năm 1952, La Văn Cầu được trao tặng danh hiệu Anh hùng thi đua ái quốc theo Sắc lệnh số 107-SL ngày 10 tháng 8 năm 1952. Ông được phong hàm Đại tá từ năm 1985, và được tặng Huân chương Quân công, hạng nhì, hạng ba và Huân chương kháng chiến hạng nhất. Cuộc đời của La Văn Cầu từng được đưa vào bài tập đọc của sách giáo khoa tiểu học ở Việt Nam. Tên ông được dùng để đặt cho nhiều trường học và một số con đường ở Thủ đô Hà Nội, ở phường Thắng Tam, thành phố Vũng Tàu, một con phố ở thành phố Nam Định và một khu phố ở thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Ông là một trường hợp đặc biệt và hiếm có ở Việt Nam lẫn trên thế giới vì ngay khi còn đang sống đã được đặt tên đường. Theo ông Cầu, việc tên ông được dùng để đặt cho một con đường là một vinh dự. Nhưng bên cạnh đó, ông cũng băn khoăn vì nhiều người khi biết có đường phố mang tên ông, lại tưởng ông đã qua đời. Ông được vinh danh công dân thủ đô ưu tú năm 2019 tại Hội nghị Hội nghị biểu dương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt tiêu biểu và vinh danh công dân thủ đô ưu tú ngày 05 tháng 11 năm 2019. Chú thích
Điện tâm đồ (tiếng Anh: electrocardiogram hay thường gọi tắt là ECG) là đồ thị ghi những thay đổi của dòng điện trong tim. Quả tim co bóp theo nhịp được điều khiển của một hệ thống dẫn truyền trong cơ tim. Những dòng điện tuy rất nhỏ, khoảng một phần nghìn volt, nhưng có thể dò thấy được từ các cực điện đặt trên tay, chân và ngực bệnh nhân và chuyển đến máy ghi. Máy ghi điện khuếch đại lên và ghi lại trên điện tâm đồ. Điện tâm đồ được sử dụng trong y học để phát hiện các bệnh về tim như rối loạn nhịp tim, suy tim, nhồi máu cơ tim v.v... Lịch sử 1887 - Augustus D. Waller (St Mary's Medical School, Luân Đôn) trình bày ECG đầu tiên trên người của Thomas Goswell, một người làm việc trong phòng thử nghiệm. 1893 - Willem Einthoven giới thiệu từ 'electrocardiogram' tại buổi họp của Hội Y Học Hà Lan. (nhưng sau đó ông sửa lại rằng Waller là người đầu tiên dùng chữ này). 1895 - Einthoven cải tiến dụng cụ và công thức ghi điện, ghi được 5 thay đổi điện trong một nhịp tim, ông ghép chữ cho 5 thay đổi này (P, Q, R, S, T, U). Sơ lược về hệ thống điện tim Tim người có 4 buồng để chứa và bơm máu. Hai phần nhỏ ở phía trên gọi là tâm nhĩ (vì trông giống lỗ tai). Hai phần dưới lớn hơn gọi là tâm thất. Máu theo tĩnh mạch từ cơ thể trở về tâm nhĩ phải, từ phổi trở về tâm nhĩ trái. Tâm nhĩ trái bóp bơm máu vào tâm thất trái, tâm nhĩ phải đưa máu vào tâm thất phải. Sau đó tâm thất phải bóp để bơm máu theo động mạch lên phổi và tâm thất trái bóp để bơm máu xuống cơ thể. Tim có khả năng hoạt động đều đặn và thứ tự như thế là nhờ một hệ thống các tế bào dẫn điện đặc biệt nằm trong cơ tim. Trong tâm nhĩ bên phải có nút xoang nhĩ (sinoatrial node) gồm các tế bào có khả năng tự tạo xung điện (electric impulse). Xung điện này truyền ra các cơ chung quanh làm co bóp hai tâm nhĩ (tạo nên sóng P trên Điện Tâm đồ). Sau có dòng điện tiếp tục truyền theo 1 chuỗi tế bào đặc biệt tới nút nhĩ thất (atrioventricular node) nằm gần vách liên thất rồi theo chuỗi tế bào sợi Purkinje chạy dọc vách liên thất lan vào các cơ chung quanh (loạt sóng QRS) làm hai thất này co bóp. Sau đó xung điện giảm đi, tâm thất giãn ra (tạo nên sóng T). Áp dụng y học Điện tâm đồ được sử dụng trong nhiều trường hợp y học: * Chẩn đoán nhồi máu cơ tim khi cơ tim bị thiếu máu và dưỡng khí,bị tổn thương hay hoại tử, khả năng dẫn truyền điện của cơ sẽ thay đổi. Sự thay đổi này có thể ghi nhận được trên điện tâm đồ, đây là một trong những giá trị nhất của phương pháp cận lâm sàng này. * Chẩn đoán Thiếu máu cơ tim: cơ tim bị thiếu máu sẽ cho thấy hình ảnh sóng T trên điện tâm đồ dẹt, âm. * Chẩn đoán và theo dõi rối loạn nhịp tim bất thường tại vị trí phát nhịp (nút xoang, nút nhĩ nhất, cơ tim) và dẫn truyền một chiều của tim sẽ cho thấy hình ảnh nhịp tim bất thường trên điện tâm đồ * Chẩn đoán và theo dõi rối loạn dẫn truyền nhịp tim đập do một hệ thống dẫn truyền khoa học, việc tổn thương hay mất sự mạch lạc dẫn truyền cho thấy các bất thường về các nhánh điện học của tim trên điện tâm đồ (Block AV, Block nhánh tim) * Chẩn đoán các chứng tim lớn khi cơ tim dày hay dãn, quá trình khử cực, tái cực của từng thành phần trong cơ tim sẽ thay đổi, qua đó trên giấy ghi sẽ cho những gợi ý nhất định về tình trạng lớn buồng tim, tuy nhiên giá trị của ECG không ưu thế là trường hợp này, vì thay đổi nhiều vào chủng tộc, nhiều yếu tố gây nhiễu và độ nhạy kém, y học cũng có nhiều công cụ chẩn đoán tim to tốt hơn. * Chẩn đoán một số thay đổi sinh hóa máu vì điện tim là do sự di chuyển của các ion như natri, kali, calci, v.v.... Khi có thay đổi lớn trong nồng độ các chất này, điện tâm đồ có khả năng thay đổi. * Chẩn đoán một số ngộ độc thuốc Thuốc digoxin làm thay đổi đoạn ST của mọi cực. Thuốc chống trầm cảm 3 vòng làm dài đoạn QT. Ý nghĩa cơ bản của các thành phần trên điện tâm đồ Một chu kỳ tim biểu hiện trên điện tâm đồ là: sóng P, phức bộ QRS, sóng T, và sóng U (nếu có), hình dạng, thời gian kéo dài của sóng/phức bộ và cả thời gian giữa các thành phần với nhau đều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc chẩn đoán. Biên độ và khoảng thời gian Tất cả các sóng trên đồ thị ECG và khoảng thời gian giữa chúng có khoảng thời gian dự đoán được, phạm vi biên độ (điện áp) có thể chấp nhận được và hình thái điển hình. Bất kỳ sai lệch nào so với dấu vết bình thường đều có khả năng là bệnh lý và do đó có ý nghĩa lâm sàng. Để dễ đo biên độ và khoảng cách, ECG được in trên giấy kẻ ô vuông ở tỷ lệ tiêu chuẩn: mỗi 1 mm (một ô nhỏ trên giấy ECG 25 mm/s tiêu chuẩn) biểu thị 40 mili giây thời gian trên trục x và 0,1 milivôn trên trục y. Các sóng và phức bộ Sóng P Sóng P hình thành do quá trình khử cực tâm nhĩ (cả nhĩ trái và nhĩ phải), bình thường biên độ của sóng P thường dưới 2mm (0.2mmV), và thời gian của sóng P là từ 0.08 đến 0.1 giây, việc tăng biên độ và kéo dài thời gian của sóng gợi ý đến một tình trạng tâm nhĩ lớn (tăng biên độ gợi ý lớn nhĩ phải. thời gian khử cực kéo dài gợi ý đến lớn nhĩ trái). Phức bộ QRS Phức bộ QRS thể hiện quá trình khử cực của tâm thất, tùy vào chiều khử cực và vị trí đặt điện cực mà trên giấy ghi sẽ cho thấy các phức bộ khác nhau, ưu thế sóng R hay S, bình thường QRS kéo dài từ 0.06 đến 0.1 giây. Sóng Q là sóng âm đầu tiên của phức bộ QRS, sóng Q trên bệnh nhân bình thường thường nhỏ và ngắn (hình thành do quá trình khử cực vách liên thất), một sóng Q sâu (biên độ âm lớn) và kéo dài cho thấy một tình trạng hoại tử cơ tim (Trong nhồi máu cơ tim cũ hay nhồi máu cơ tim không có ST chênh lệch). Sóng R là sóng dương đầu tiên của phức bộ, và sóng âm sau nó là S, đây là hai sóng hình thành do khử cực thất, về bản chất là giống nhau, nếu điện cực đặt ở vị trị chiều khử cực hướng đến thì sóng R sẽ ưu thế, như trong chuyển đạo DII, V5, V6. Sóng R sẽ ưu thế hơn nếu chiều khử cực đi xa vị trí đặt điện cực như V1, V2. Sóng T Là sóng theo sau phức bộ QRS, thể hiện quá trình tái cực muộn của 2 tâm thất, sóng T có giá trị rất lớn trong việc nhận định một tình trạng cơ tim thiếu máu. Sóng U Nguồn gốc sóng U vẫn chưa điện xác định rõ ràng, các giả thuyết đặt ra là: Tái cực chậm sợi Purkinje. Tái cực kéo dài giữa cơ tim tế bào M (mid-myocardial cell) Sau kết quả điện thế của trương lực cơ trong các thành tâm thất. Bình thường không thấy sóng U trên điện tâm đồ, nếu có thì là sóng nhỏ sau sóng T, sóng U đảo ngược hay nhô cao nhọn gặp trong rất nhiều loại bệnh lý tim (bệnh mạch vành, tăng huyết áp, bệnh van tim, tim bẩm sinh, bệnh lý cơ tim, cường giáp, ngộ độc, rối loạn điện giải,...) Các đoạn - khoảng Khoảng PQ Là thời gian dẫn truyền từ nhĩ đến thất, bình thường từ 0.12 - 0.2 giây, việc kéo dài thể hiện quá trình chậm dẫn truyền (do bị block), PQ ngắn sẽ gợi ý đến một hội chứng kích thích sớm (Wolf-Parkinson-White) Đoạn ST Ý nghĩa là giai đoạn tái cực thất sớm, thời gian của ST thường không quan trọng bằng hình dạng của nó, bình thường ST nằm chênh lệch lên hoặc chênh xuống khỏi đường đẳng điện rất ít. Đoạn ST cực kỳ quan trọng trong việc chẩn đoán nhồi máu cơ tim. ST chênh lên nếu cao hơn đường đẳng điện 1mm ở chuyển đạo chi và hơn 2mm ở chuyển đạo trước ngực ST chênh xuống khi nằm dưới đường đẳng điện hơn 0.5mm Đoạn QT Là thời gian tâm thu điện học của tâm thất, khoảng giá trị bình thường của đoạn QT phụ thuộc vào tần số tim, QT kéo dài bất thường có liên quan với tăng nguy cơ loạn nhịp thất, đặc biệt là xoắn đỉnh. Gần đây, hội chứng QT ngắn bẩm sinh đã được tìm thấy có liên quan với tăng nguy cơ rung nhĩ và thất kịch phát và đột tử do tim.
Lý tính là một thuật ngữ dùng trong triết học và các khoa học khác về con người để chỉ các năng lực nhận thức của tâm thức con người. Nó miêu tả một sự nhìn thấy và nhìn nhận về tư duy hay khía cạnh tư duy, đặc biệt là tư duy trừu tượng, và khả năng tư duy trừu tượng - cái được cho là chỉ con người mới có. Khái niệm lý tính có liên quan đến ngôn ngữ, như thể hiện trong nghĩa của từ tương đương trong tiếng Hy Lạp "logos", từ này sau được dịch sang tiếng Latin thành "ratio" rồi sang tiếng Pháp thành "raison", từ đó phát sinh từ tiếng Anh "reason". Có nhiều bất đồng giữa các trường phái triết học về bản chất và chức năng của lý tính, đặc biệt về các vấn đề: quan hệ của lý tính đối với các khái niệm có liên quan như ngôn ngữ, logic, ý thức.v.v... tầm quan trọng của nó trong việc giúp con người quyết định đúng sai. Trong ngôn ngữ ngoài triết học, lý trí là từ rất gần nghĩa với lý tính và được dùng phổ biến hơn. Cả hai từ đều có nghĩa năng lực suy luận và phán đoán. Tuy nhiên, lý trí là nhận thức bằng khái niệm trên cơ sở xử lý chất liệu cảm tính do các tri giác cảm tính (sensatio) mang lại, và do đó không vượt ra ngoài phạm vi của kinh nghiệm. Còn lý tính vượt ra ngoài phạm vi của kinh nghiệm. Lý trí thường được dùng khi mang ý nghĩa đối lập với tình cảm, ví dụ: "Anh ta là người sống thiên về lý trí hơn là tình cảm". Lý trí được đối với niềm tin khi muốn nói về sự đối lập giữa tư duy và cảm xúc. Còn lý tính được đối với niềm tin khi muốn nói về sự đối lập giữa tri giác chủ động và tri giác thụ động. Tuy nhiên, đôi khi rất khó xác định sự khác biệt về ngữ nghĩa của hai từ này. Do đó, nhiều khi hai từ này được dùng tương đương nhau. Lý tính, chân lý và cảm xúc Trong văn học, lý tính hay lý trí thường được đối lập với tình cảm, cảm xúc, ước muốn, nhu cầu, hay sự say mê. Những người khác lại coi lý trí như là một công cụ của những điều trên - công cụ để đạt được cái mà người ta muốn. Tuy nhiên, một số người có thể nói rằng các nhà triết học quan trọng trong lịch sử (ví dụ Plato, Rousseau, Hume, Nietzsche) đã kết hợp cả hai cách nhìn trên - làm cho tư duy dựa trên lý tính không chỉ là một công cụ của lòng ham muốn, mà còn là cái gì đó được mong muốn không chỉ vì tính hữu ích của nó trong việc thỏa mãn các ước muốn. Còn Schiller thì nói về việc "giáo dục các cảm xúc", đưa chúng đến chỗ hòa hợp với lý tính, một trạng thái của sự trưởng thành mà Schiller gọi là "tâm hồn đẹp" (Schöne Seele.) Trong khi đó, đôi khi lý tính mâu thuẫn rõ ràng với một số mong muốn (thậm chí trong khi không mâu thuẫn với các mong muốn khác) và cho ta ấn tượng rằng lý tính tách rời với cảm xúc. Chỉ có trong con người, các lựa chọn đôi khi được thực hiện dựa trên một liên tưởng nhân tạo của các ý niệm thay cho một liên tưởng chưa bị kiểm soát của các kinh nghiệm thô. Kiểu liên tưởng này có "cảm giác" khác với khi ta bị chiếm lĩnh bởi một cảm xúc mạnh mẽ được hỗ trợ bởi "tình cảm" thô. Điều đối lập cũng rất đặc biệt: đôi khi ta cảm thấy một cảm xúc mạnh mẽ đã chiến thắng các lý luận của chúng ta một cách "phi lý" mặc dầu cảm xúc đó đã không còn luận cứ xác đáng nào; hoặc khi nó chưa kịp là chủ đề của tranh luận thì hành động đã xảy ra (chẳng hạn trong trường hợp phản xạ). Câu hỏi lý tính có bị dẫn dắt bởi cảm xúc hay không là một câu hỏi quan trọng của các nhà triết học vì chúng ta đều xem lý tính là con đường dẫn đến chân lý, và ta coi chân lý là cái gì đó tồn tại ngoài ý thức của chúng ta. Nếu lý tính bị dẫn dắt bởi các cảm xúc, thì làm sao ta có thể biết được ta có đang tự lừa dối chính mình về chân lý hay không? Lý tính và đức tin Trong thần học, lý tính, phân biệt với đức tin, là năng lực phê phán của con người đối với các chân lý tôn giáo trong khi phát kiến hoặc giải thích. Một số nhà bình luận đã cho rằng hầu như có thể định nghĩa văn minh phương Tây là sự thử nghiệm giới hạn của sự căng thẳng giữa lý tính (không được hỗ trợ) và đức tin trong lĩnh vực các chân lý được mặc khải - tóm tắt một cách hình tượng là giữa Jerusalem và Athens. Leo Strauss nói về một "phương Tây lớn hơn", bao gồm tất cả các khu vực chịu ảnh hưởng của tình trạng căng thẳng giữa chủ nghĩa duy lý Hy Lạp và mặc khải của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, trong đó có cả các vùng đất Hồi giáo. Ông chịu ảnh hưởng lớn của nhà triết học Hồi giáo Al-Farabi. Để xem xét mức độ tham gia của triết học phương Đông vào tình trạng căng thẳng này, cách tốt nhất là xét xem pháp (dharma) hay đạo có tương đương với Tự nhiên (physis–Hy Lạp) hay không. Các giới hạn của việc sử dụng lý tính tuỳ thuộc các giáo hội khác nhau đặt ra và tuỳ vào các thời kỳ tư tưởng. Nhìn chung, tôn giáo hiện đại có xu hướng chấp nhận lý tính ở một phạm vi rộng, nhưng vẫn giữ những chân lý tối thượng (siêu nhiên) của thần học trong giới hạn đức tin. Về phê phán vị trí ưu việt của lý tính trong văn hóa phương Tây kể từ thời Phục Hưng, xem tác phẩm "Những đứa con hoang của Voltaire" (Voltaire's Bastards) của tác giả John Ralston Saul.
Tiếng Wallon (tiếng Wallon: Walon) là một trong những ngôn ngữ nhỏ của nhóm Rôman (thuộc hệ Ấn-Âu). Những người sử dụng tiếng Wallon chủ yếu cư ngụ tại nước Bỉ (và một ít tại nước Pháp và nước Hoa Kỳ). Có 600.000 người sử dụng tiếng Wallon, nhưng họ cũng sử dụng ngôn ngữ khác. Tiếng Wallon là một ngôn ngữ trong Nhóm ngôn ngữ Oïl như tiếng Pháp.
Nhồi máu cơ tim là bệnh lý nguy hiểm đe doạ tính mạng do tắc nghẽn đột ngột mạch máu nuôi tim. Khi cơ tim hoàn toàn không được cung cấp máu thì cơ vùng cơ tim ấy sẽ hoại tử gây triệu chứng đau ngực dữ dội. Tùy theo bao nhiêu cơ tim bị hủy, bệnh có thể nhẹ hoặc nặng. Nếu cơ chưa bị hủy hẳn thì gọi là "đau tim" (angina). Dấu hiệu Biểu hiện thường gặp là đau ngực trái dữ dội, kéo dài hơn 15-30 phút. Đau có khi kèm vã mồ hôi và khó thở, mệt nhiều, không dám vận động nặng vì gia tăng cơn đau. Đau có thể lan ra cánh tay cẳng tay trái đến ngón út và áp út bàn tay trái, hoặc có thể lan sau lưng hoặc hàm dưới trái. Ở những người đã có tiền sử bệnh thiếu máu cơ tim, đau ngực dữ dội không giảm sau khi sử dụng nitroglycerine hoặc isosrbide dinitrate (Risordane) ngậm dưới lưởi, cần tham vấn bác sĩ ngay. Một số người bị nhồi máu cơ tim có thể chỉ biểu hiện bằng khó thở nhẹ hay mệt khi vận động mà không đau ngực. Do đó có thể nhồi máu cơ tim sẽ bị bỏ sót. Cho nên trong cuộc sống hàng ngày chúng ta vẫn có thể gặp những trường hợp chỉ than mệt trước đó vài giờ sau đó đột nhiên tử vong. Theo định nghĩa lần thứ III toàn cầu về nhồi máu cơ tim cấp Thuật ngữ nhồi máu cơ tim cấp được khuyến nghị sử dụng khi có bằng chứng hoại tử cơ tim trong tình huống lâm sàng phù hợp với thiếu máu cục bộ cơ tim cấp. Được xác định khi có một trong các tiêu chuẩn sau: - Có sự tăng hay giảm của chất chỉ điểm sinh học (khuyến cáo sử dụng men trôponin tim) với ít nhất có một giá trị đạt mức 99% bác phân vị của giới hạn trên dựa theo tham chiếu, và kèm với ít nhất một tiêu chuẩn kèm theo sau đây: + Có triệu chứng của thiếu máu cục bộ cơ tim. + Biến đổi ST-T mới hoặc tái xuất hiện hoặc có sự biểu hiện của block nhánh trái mới. + Xuất hiện sóng Q bệnh lý trên ECG. + Bằng chứng hình ảnh học ghi nhận sự mới mất cơ tim hoặc rối loạn vận động vùng. + Xác định huyết khối mạch vành qua chụp mạch vành hay mổ tử thi. - Đột tử với triệu chứng hướng tới thiếu máu cuc bộ cơ tim, có dấu hiệu thiếu máu cục bộ cơ tim mới trên ECG hoặc block nhánh trái mới, nhưng tử vong xảy ra trước khi lấy được mẫu chất chỉ điểm sinh học, hoặc trước khi giá trị chất chỉ điểm tăng. - Nhồi máu do can thiệp mạch vành qua da (PCI) được định nghĩa khi tăng giá trị của cTn (> 5 lần 99% bách phân vị của giới hạn trên) ở các bệnh nhân có giá trị nền bình thường (<= 99% bách phân vị giới hạn trên) hoặc có sự gia tăng của cTn > 20% nếu giá trị nền đã tăng, ổn định hoặc đang giảm. ngoài ra còn phải có một trong các điều kiện sau: (1) triệu chứng thiếu máu cục bộ; (2) ECG thiếu máu cục bộ; (3) chụp mạch vành phù hợp tai biến thủ thuật; (4) hình ảnh học cho thấy tổn thương mất cơ tim hoặc rối loạn vận động vùng. - Nhồi máu cơ tim do huyết khối trong stent khi xác định bằng chụp động mạch vành hoặc mổ tử thi trọng bệnh cảnh thiếu máu cục bộ cơ tim kèm theo tăng hay giảm chất chỉ điểm sinh học với ít nhất giá trị trên 99% bách phân vị của giới hạn trên. - Nhồi máu cơ tim do bắc cầu động mạch vành được định nghĩa bằng sư đồng thuận tăng giá trị của cTn ở các bện nhân có mức giá trị bình thường. Ngoài ra kèm theo một trong ác dấu hiệu sau: (1) sóng Q hoặc block nhánh trái mới xuất hiện; (2) chụp mạch vành cho thấy tắc nghẽn cầu nối; (3) hình ảnh học tổn thương cơ tim hoặc rối loạn vận động vùng. Nhồi máu cơ tim cũ Nhồi máu cơ tim cũ được chẩn đoán khi có một trong các tiêu chuẩn sau: - Sóng Q bệnh lý có hoặc không kèm theo triệu chứng của thiếu máu cục bộ cơ tim và cần loại trừ các nguyên nhân có sóng Q không do thiếu máu cục bộ cơ tim. - Bằng chứng hình ảnh học cho thấy một vùng cơ tim không còn sống, cần loại trừ các nguyên nhân khác gây tổn thương cơ tim không do thiếu máu cục bộ. - Giải phẫu bệnh cho thấy đã nhồi máu cơ tim trước đó. Định nghĩa khác về nhồi máu cơ timTierney, Mc Phee, Paradakis, (2010), Chẩn đoán và điều trị y học hiện đại, nhà xuất bản Y học, trang 500 – 530. Nhồi máu cơ tim là hoại tử do thiếu máu cục bộ cơ tim kéo dài của một vùng cơ tim với diện tích lớn hơn 2 cm², gây nên do tắc nghẽn hay co thắt mạch vành. Lịch sử Trước khi có máy ghi điện tim, không thể nào chẩn đoán chính xác được chứng nhồi máu cơ tim. Năm 1772, bác sĩ William Heberden có viết về chứng "đau ngực" nhưng chẳng mấy ai hiểu về căn bản nguyên nhân của loại bệnh tim mạch này Năm 1912 James Herrick miêu tả căn bệnh về tim và là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về huyết khối làm nghẽn mạch vành tim. Sau đó mới có khám phá về nguyên nhân chính (màng xơ vữa bị nứt gây tụ máu). Năm 1956 các cuộc khảo cứu (của nhóm y sĩ Anh) khám phá về các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch – nhất là tác hại của thuốc lá. Cơ chế bệnh sinh Giải phẫu động mạch vành Động mạch vành cấp máu cho tim xuất phát từ động mạch chủ lên chia làm hai nhánh động mạch vành phải và động mạch vành trái. - Động mạch vành phải tách ra từ cung động mạch chủ ngay phía trên van động mạch chủ chui ra mặt trước tim qua khe giữa động mạch phổi và tiểu nhĩ phải rồi đi xuống vào mặt hoành vào rãnh gian thất sau và tận cùng ở đỉnh tim. Nó cấp máu cho nhĩ trái, phần lớn thất phải và thành dưới thất trái, 1/3 vách liên thất, nút xoang và nút nhĩ thất. Khi tắc gây thiếu máu thành dưới. - Động mạch vành trái cũng tách ra từ cung động mạch chủ ngay phía trên van động mạch chủ, chui ra mặt trước tim qua khe giữa thân động mạch phổi và tiểu nhĩ trái. Động mạch vành trái chia làm hai nhánh: nhánh gian thất trước nối động mạch vành phải cung cấp máu nuôi 2 thất và vách lên thất (khi tắc gây thiếu máu vùng trước mõm) và nhánh mũ đi xuống mặt hoành, cung cấp máu cho nhĩ trái, phần lớn thất trái, một phần thất phải, 2/3 trước vách liên thất (khi tắc gây thiếu máu thành dưới). Cơ chế bệnh sinh Chủ yếu là do xơ vữa động mạch vành (90%). Mảng xơ vữa tiến triển dần gây hẹp lòng động mạch vành và cuối cùng gây tắc hẳn. Bệnh cảnh là cơn đau thắt ngực không ổn định (ĐTNKOĐ) với tần suất, cường độ và thời gian tăng dần dẫn tới nhồi máu cơ tim (NMCT). Mặt khác, mảng xơ vữa không vững có thể bị bong ra và huyết khối thành lập nhanh chóng gây nên hội chứng vành cấp, với bệnh cảnh ĐTNKOĐ mới xuất hiện có thể dẫn đến NMCT. Một số ít trường hợp NMCT do co thắt mạch vành. Số ít còn lại NMCT không do xơ vữa như tổn thương động mạch vành, bất thương động mạch vành bẩm sinh, chấn thương ngực, bệnh hồng cầu, tiểu cầu... Sinh lý bệnh Hoạt hóa thần kinh, hormone sau tổn thương cơ tim Tổn thương cơ tim làm giảm cung lượng tim, dẫn tới hoạt hóa 3 hệ thống bù trừ: hệ giao cảm, Renin – Angiotensin, Arginine Vasopressin gây co mạch giữ muối, nước hậu quả làm tăng tiền tải và hậu tải, gây giảm chức năng cơ tim và sung huyết mạch máu. Tái cấu trúc thất trái sau nhồi máu cơ tim Kết quả hoạt hóa hệ thống thần kinh, hormone gây tăng áp lực thất trái cuối tâm trương, làm gia tăng sức căng thành tim cuối tâm thu. Điều này dẫn đến hệ lụy: (1) vùng nhồi máu bị dãn ra và dần dần mỏng hơn, gây nguy cơ suy tim, túi phình hay vỡ tim; (2) vùng không nhồi máu sẽ phì đại để giảm bớt sức căng thành. Tái cấu trúc thất trái giai đoạn đầu giúp cải thiện cung lượng tim, nhưng về lâu dài các buồng tim sẽ dãn, dẫn tới suy tim. Các biến cố dẫn tới tử vong Nhồi máu cơ tim dẫn tới 3 hệ quả: rối loạn nhịp tim (có thể gây đột tử), tổn thương cơ tim, hoạt hóa thần kinh hormone (dẫn đến tái cấu trúc thất, về lâu dài sẽ dẫn tới suy tim và tử vong). Dịch tễ học Thế giới Năm 1990, thế giới có 50,4 triệu người chết thì tử vong do bệnh mạch vành chiếm 28%, trong số 1,4 tỷ người giảm chất lượng cuộc sống thì bệnh tim mạch gây ra 9,7%. Đến năm 2001, tử vong do bệnh tim mạch tăng lên 29%, dự đoán đến 2030 thì con số này khoảng 30%, trong số đó 14,9% ở nam và 13,1% ở nữ tử vong vì bệnh mạch vành. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, năm 2004 thế giới có 7,2 triệu người, chiếm 12,2% chết vì bệnh mạch vành, có hơn 3 triệu người nhồi máu cơ tim ST trên lên, 4 triệu người bị hội chứng vành cấp ST không chênh lên. Đến năm 2008, trong tổng số 57 triệu người chết trên toàn thế giới thì tử vong do bệnh tim mạch là 17,3 triệu người (31%), trong đó tử vong do bệnh mạch vành chiếm 46% ở nam và 38% ở nữ. Trên thế giới mỗi năm có 2,5 triệu người chết do bệnh nhồi máu cơ tim, trong đó 25% chết trong giai đoạn cấp tính của bệnh. Trong vòng năm sau đó chết thêm 5% – 10% nữa. Ở Hoa Kỳ, cứ 6 người chết là có một người chết vì bệnh tim mạch. Trong năm 2009 có 386.324 người tử vong bì bệnh mạch vành. Mỗi năm có khoảng 635.000 trường hợp nhồi máu mới xuất hiện và 280.000 trường hợp nhồi máu tái phát, 150.000 nhồi máu im lặng. Ước tính cứ mỗi 34 giây là có một trường hợp nhồi máu xuất hiện, 1 phút là có một trường hợp tử vong. Hungari là nước được xếp thứ 10 trên thế giới về bệnh nhồi máu cơ tim. Tuy chỉ có 10 triệu dân mà mỗi năm có 25.000 người Hungari bị nhồi máu cơ tim mới (không kể những trường hợp nhồi máu cơ tim cũ). Cũng ở nước này, tỷ lệ tử vong do các bệnh tim mạch chiếm 47% tổng số tử vong chung, trong đó 60% tử vong do bệnh động mạch vành mà hàng đầu là nhồi máu cơ tim. Hai nhóm nghiên cứu Baltimore và Framingham của Mỹ đã mổ tử thi trên một nghìn trường hợp đột tử, 20 – 51% nam giới ở độ tuổi 35–54 đột tử do nhồi máu cơ tim, 6 – 10% phụ nữ ở độ tuổi này đột tử vì nhồi máu cơ tim. Việt Nam Ở Việt Nam tuy chưa có số liệu thống kê đầy đủ về số bệnh nhân nhồi máu cơ tim nhưng số bệnh nhân nhồi máu ngày càng tăng. Những năm 50 của thế kỉ XX, số bệnh nhân nhồi máu cơ tim là hiếm thì ngày nay, mức độ phổ biến của bệnh ngày càng nhiều và hầu như ngày nào cũng có người nhập viện. Năm 2003, theo thống kê của Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam, tỷ lệ bệnh nhân vào viện vì nhồi máu cơ tim cấp là 4,2% đến năm 2007 con số này là 9,1%. Ở Bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn, năm 2010 có tới 7.421 trường hợp nhập viện vì đau thắt ngực, 1.538 ca phải nhập viện và điều trị vì hội chứng vành cấp, 267 trường hợp tử vong. Các yếu tố nguy cơ Tuổi và giới tính Tuổi cao là yếu tố nguy cơ chính của bệnh mạch vành. Nguy cơ bệnh mạch vành do xơ vữa tăng theo tuổi, nguy cơ tử vong là 1,5/1.000 người ở độ tuổi 50. Ở nam giới tuổi mắc bệnh mạch vành trung bình là 55, ở nữ giới là 65. Nam giới có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 5 lần nữ giới ở độ tuổi 50, càng về sau thì tỷ lệ này càng nhỏ lại. Đến 75 tuổi thì tần suất mắc bệnh ở nam và nữ như nhau. Tiền sử gia đình Gia đình có người mắc bệnh sớm trước 55 tuổi ở nam và 65 tuổi ở nữ. Bệnh mạch vành có thể di truyền được, tỷ lệ tim mạch ở người có tiền sử gia đình cao gấp 3-4 lần người không có tiền sử. Hút thuốc lá Thuốc lá liên quan đến cái chết của khoảng 5 triệu người, chiếm 9%,  xấp xỉ 1,6 triệu người có liên quan tới bệnh tim mạch tử vong. So với những người không hút thuốc lá thì người hút thuốc lá có nguy cơ tiến đến bệnh mạch vành do xơ vữa tới 60%, tăng 50% tử vong bệnh tim mạch. Hút thuốc lá gây gia tăng nồng độ carbon monoxide trong máu, dẫn tới phá hủy tế bào nội mô mạch vành, gia tăng kết tập tiểu cầu, tăng nguy cơ hình thành huyết khối tắc nghẽn. Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ độc lập với các yếu tố khác. Rối loạn mỡ máu Nồng độ Cholesterol cao là nguyên nhân của 56% bệnh thiếu máu cơ tim, gây nên tử vong của khoảng 4,4 triệu người mỗi năm. Tăng LDL, tăng cholesterol, tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong do bệnh mạch vành, người có nồng độ cholesterol >200 mg% cao gấp 6 lần người có nồng độ không đạt mức đó. Giảm HDL gây gia tăng nguy cơ bệnh tim mạch. Đái tháo đường Biến chứng tim mạch là biến chứng phổ biến và nguy hiểm nhất của bệnh đái tháo đường, gây gia tăng 50% nguy cơ bệnh mạch vành do xơ vữa ở nam, 99% ở nữ. Nguy cơ chết do bệnh mạch vành ở bệnh nhân có đái tháo đường không có tiền sử nhồi máu cơ tim tương đương với bệnh nhân từng bị nhồi máu cơ tim không có đái tháo đường. Bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch vành là nguyên nhân khiến 65% tử vong của bệnh đái tháo đường. Tăng huyết áp Tăng huyết áp là bệnh lý thường gặp nhất trong các bệnh lý tim mạch, là nguyên nhân khiến cho 7 triệu người chết mỗi năm trên toàn thế giới, 49% các trường hợp bệnh mạch vành được quy cho là do tăng huyết áp. Mặc dù tăng huyết áp được định nghĩa khi huyết áp tâm thu lớn hơn 140mmHg, nhưng Lawes và cộng sự nghiên cứu thấy có tới 50% gánh nặng bệnh tim mạch khi huyết áp tâm thu ở mức dưới 145mmHg. Huyết áp càng tăng thì nguy cơ bệnh mạch vành càng cao. Ít vận động thể lực Vận động thể lực vừa ít nhất 30 phút mỗi ngày, ít nhất 5 ngày trong tuần, đối với vận động mạnh thì ít nhất 20 phút mỗi ngày, ít nhất 3 ngày một tuần làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Người trưởng thành vận động thể lực thường xuyên thì khả năng mắc bệnh mạch vành giảm. Béo phì trung tâm Béo phì là một trong yếu tố nguy cơ chính của bệnh mạch vành, nguy cơ mắc bệnh xơ vữa mạch vành càng cao nếu béo phì chủ yếu ở phần bụng. Béo phì thường đi kèm với nhiều yếu tố nguy cơ khác như tăng huyết áp, rối loạn lipid, rối loạn dung nạp glucose. Người béo phì dễ mắc bệnh đái tháo đường type 2 hơn so với người nhẹ cân. Stress Thái độ thù địch, trầm cảm, cô lập về mặt xã hội hay trạng thái căng thẳng kéo dài có giá trị dự báo bệnh động mạch vành. Những sang chấn tinh thần là yếu tố khởi phát nhồi máu cơ tim. CRP Tăng CRP cho thấy có giá trị dự báo các biến cố tim mạch. Đo CRP–hs có giá trị bổ sung cho việc lượng giá nguy cơ trong phòng ngừa tiên phát bệnh mạch vành, còn ở người có bệnh mạch vành thì đo CRP-hs có ý nghĩa dự báo biến cố tử vong. Có 3 mức nguy cơ bệnh mạch vành đối với nồng độ CRP-hs là: nguy cơ thấp (<1 mg/L), nguy cơ trung bình (1–3 mg/L), nguy cơ cao (>3 mg/L). Gia tăng kết hợp giữa CRP và LDL gia tăng đáng kể nguy cơ tim mạch so với bệnh mạch vành. Lâm sàng Tiền sử - Bệnh sử - Hầu hết bệnh nhân nhập viện với hội chứng vành cấp đều có bệnh mạch vành trước đó (80%), ¾ có nhồi máu cơ tim ST không chênh lên, một ít có cơn đau thất ngực không ổn định ở nam giới. Tuy nhiên ở nữ giới thì đau thắt ngực không ổn định chiếm tỷ lệ cao hơn.  - Thời gian khởi phát: thường xảy ra vào ban đêm, nhiều vào sáng sớm.  - Hoàn cảnh khởi phát: 50% không có yếu tố dẫn đến khởi bệnh, còn lại xảy ra khi gắng sức, sang chấn tinh thần, bị bệnh nội ngoại khoa khác. Triệu chứng cơ năng Triệu chứng điển hình và thường gặp nhất của nhồi máu cơ tim là: Đau ngực: hay gặp nhất, cảm giác đau sâu trong cơ thể với cảm giác đau như bị đè ép, bóp chặt ở giữa ngực, diễn ra trong khoảng 5–15 phút (khác về thời hạn và độ đau với cơn đau ngực thông thường), thường không quá 1 giờ. Cơn đau có thể lan lên vai, cổ, hàm hoặc lan dọc theo cánh tay, đặc biệt là tay trái. Các triệu chứng phụ như: vã mồ hôi, buồn nôn, chóng mặt, bất tỉnh, mệt nhọc, khó thở, tái nhợt, tim đập mạnh. Nhiều trường hợp nhồi máu cơ tim lại có biểu hiện không rõ ràng như tiêu chảy, đau bụng, hoặc chẳng hề có triệu chứng (nhồi máu cơ tim thầm lặng – thấy nhiều trong các bệnh nhân đái tháo đường), hoặc lại hết sức đột ngột, biểu hiện bằng biến chứng hôn mê, rối loạn nhịp tim, ngừng tim hay chết bất ngờ… Triệu chứng thực thể - Huyết áp: có thể tăng cao do hệ quả của việc tăng tiết catecholamine, hoặc có thể giảm thấp trong trường hợp suy tim nặng, shock tim.  - Mạch: có thể rất chậm hoặc rất nhanh.  - Tiếng tim: T1, T2 thường nhỏ, có thể có T3, T4, âm thổi cuối tâm thu ngắn. Âm thổi có thể nghe được ở mỏm tim.  - Tĩnh mạch cổ nổi: có thể thấy nếu nhồi máu cơ tim thất phải   - Nhiệt độ: thường tăng, khoảng 38 °C trong tuần đầu.  - Rale phổi: có thể có rale ẩm đáy phổi. Cận lâm sàng Điện tim đồ Điện tâm đồ có thể bình thường ở bệnh nhân mới mắc bệnh nên cần được theo dõi thường xuyên mỗi 6 giờ.  Vai trò: phân biệt giai đoạn tối cấp, cấp hay đã ổn định của nhồi máu. Ngoài ra còn giúp định khu vùng nhồi máu cơ tim.  Hình ảnh điện tâm đồ nhồi máu cơ tim: biến đổi thiếu máu ở điện tim đồ biểu hiện ở sự thay đổi của sóng T, dẫn đến cơ tim bị tổn thương ghi nhận được sự thay đổi của đoạn ST bắt đầu chênh lên, cuối cùng là sóng Q xuất hiện biểu hiện của hoại tử cơ tim. Cần phân biệt nhồi máu cơ tim có sóng Q và không có Q vì có giá trị tiên lượng khác nhau.  Nhồi máu cơ tim thành dưới thì 70–80% có kèm theo nhồi máu thất phải, cần khảo sát thêm V3R và V4R. Men tim Myoglobin Thấy trong các cơ kể cả cơ tim. Bình thường, nộng độ trong huyết thanh là <70 ng/ml, sẽ tăng trong các bệnh có tổn thương cơ. Trong nhồi máu cơ tim, myoglobin sẽ tăng sớm nhất, từ giờ thứ 2, nhanh hơn cả các men tim khác, đạt tối đa có thể gấp 6 lần bình thường, trở về bình thường sau 2-3 ngày. CK và CK-MB Dùng để ước lượng độ rộng của nhồi máu cơ tim hơn là dùng để chẩn đoán. Tăng vào giờ thứ hai của bệnh, đạt đỉnh vào 24 giờ và trở về bình thường sau 48–72 giờ nếu men tăng cao 3-4 ngày cho biết sự tái phát. CK-MB có giá trị đặc hiệu >95%. LDH  Tăng vào khoảng 24–48 giờ sau khi nhồi máu, duy trì đến ngày thứ 7, có khi đến 14 ngày. Có giá trị trong chẩn đoán nhồi máu muộn. Hiện nay ít được sử dụng để chẩn đoán nhồi máu cơ tim. Transaminase  Gồm GOT và GPT, hiện nay ít được sử dụng trong chẩn đoán. Troponin T và I  Đặc hiệu nhất, chỉ tăng khi có nhồi máu cơ tim hay suy tim rất nặng. Cả troponin T và I điều có giá trị chẩn đoán như nhau và thường tăng vào giờ thứ ba của bệnh, đạt đỉnh sau 24–48 giờ, kéo dài 5–14 ngày. Trong nhồi máu cơ tim, troponin có thể tăng gấp 20 lần giá trị bình thường. CRP  Xét nghiệm không giúp ích cho chẩn đoán nhồi máu cơ tim, nhưng có ích trong việc tiên lượng mức độ nặng, đánh giá nguy cơ tử vong nhồi máu cơ tim cấp. Có 3 mức nguy cơ bệnh mạch vành đối với nồng độ CRP-hs là: nguy cơ thấp (<1 mg/L), nguy cơ trung bình (1–3 mg/L), nguy cơ cao (>3 mg/L). Gia tăng kết hợp giữa CRP và LDL gia tăng đáng kể nguy cơ tim mạch so với bệnh mạch vành. BNP và NT-PRO-BNP  Giá trị nồng độ NT-proBNP của bệnh nhân đau thắt ngực 3 giờ đầu trong giới hạn bình thường và đạt đỉnh sau 24 giờ. Ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp, nồng độ NT-proBNP và BNP tăng một cách nhanh chóng đạt tối đa vào thời điểm 20-30 giờ sau khởi phát triệu chứng. Nồng độ NT-proBNP là yếu tố tiên lượng tử vong độc lập với các yếu tố nguy cơ khác và liên quan chặt chẽ với tình trạng suy tim sau hội chứng vành cấp. Giá trị tiên lượng tử vong của nồng độ NT-proBNP ở bệnh nhân bệnh động mạch vành là 721 ng/L (độ nhạy 71,3% và độ đặc hiệu 71,3%. Siêu âm tim  Siêu âm tim 2D hữu ích trong phụ giúp chẩn đoán. Hình ảnh rối loạn vận động khu trú có thể thấy ở thiếu máu cục bộ cơ tim, nhồi máu cơ tim cấp, sợi hóa cơ tim hay trong các loạn nhịp tim.  Nhồi máu cơ tim cấp dẫn đến rối loạn vận động khu trú, các vùng còn lại tăng động bù trừ, khi không thấy bù trừ có thể là tổn thương nhiều nhánh động mạch vành hoặc tắc nghẽn đã được thông thương.  Nhồi máu cơ tim cũ biểu hiện trên siêu âm 2D bằng hình ảnh vô động hay loạn động, sợi hóa cơ tim sáng hơn, mỏng hơn các vùng kế.  Siêu âm 2D hữu ích trong chẩn đoán nhồi máu thất phải, còn nhạy hơn cả điện tim đồ. Chụp động mạch vành  Được sử dụng khi triệu chứng cơ năng không đặc hiệu, ECG khó cắt nghĩa. Trên hình ảnh chụp động mạch vành có dấu hiệu tắc nghẽn và rối loạn vận động vùng. Phân loại nhồi máu cơ tim Định nghĩa nhồi máu cơ tim cấp quốc tế lần thứ III đã phân loại nhồi máu cơ tim thành các loại sau: Loại 1: Nhồi máu cơ tim nguyên phát: do mảng xơ vữa dẫn tới hình thành cục máu đông trong lòng mạch vành kết quả làm giảm tưới máu nuôi hoại tử cơ tim. Loại 2: Nhồi máu cơ tim thứ phát: tổn thương hoại tử cơ tim có bệnh khác ngoài bệnh mạch vành gây mất cân bằng cung cầu oxy của cơ tim.  Loại 3: Nhồi máu cơ tim dẫn tới tử vong trong trường hợp không có kết quả men tim: đột tử nghi ngờ thiếu máu cục bộ cơ tim và  có dấu thiếu máu cục bộ cơ tim mới hoặc block nhánh trái mới, nhưng tử vong xảy ra trước khi có thể lấy được mẫu máu hoặc trước thời điểm men tim tăng. Loại 4a: Nhồi máu cơ tim do can thiệp động mạch mạch vành qua da (PCI). Loại 4b: Nhồi máu cơ tim do huyết khối trong stent. Loại 5: Nhồi máu cơ tim do mổ bắc cầu mạch vành. Phân độ nhồi máu cơ tim cấp Phân độ theo suy bơm thì Killip & Kimball đã lập bảng xếp loại phân ra 4 tầng I-IV nhằm tiên lượng mỗi NMCT cấp sau lần khám đầu tiên: Biến chứng nhồi máu cơ tim cấp Biến chứng cơ học: Thông liên thất do thủng vách liên thất, hở van 2 lá cấp do đứt dây chằng cột cơ, vỡ tim. Shock tim: thường do rối loạn chức năng thất trái nặng. Nhồi máu thất phải: thường gặp ở bệnh nhân nhồi máu vùng dưới. Suy tim: là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong ở NMCT. Viêm màng ngoài tim: Viêm màng ngoài tim cấp xảy ra trong vòng 24 – 96 giờ sau NMCT cấp. Hội chứng Dressler xảy ra từ 1-8 tuần sau NMCT cấp, có thể do tự miễn. Biến chứng điện học  - Rối loạn nhịp thất: các rối loạn nhịp thất nặng như rung thất và nhịp nhanh thất thường xuất hiện sớm trong 48 giờ đầu.   - Rối loạn nhịp trên thất: nhịp nhanh xoang, nhịp nhanh kịch phát trên thất, rung nhĩ.  - Rối loạn nhịp chậm: nhịp chậm xoang, block nhĩ thất. Tiên lượng nhồi máu cơ tim  Trong nghiên cứu TIMI II, tạo thành thang điểm đánh giá nguy cơ tử vong của bệnh nhồi máu cơ tim trong 30 ngày. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân trong 30 ngày có điểm TIMI < 4 điểm là 1%, trong khi đó TIMI > 8 là 8,8%. Chẩn đoán Vì nhồi máu cơ tim nguy hiểm đến tính mạng và diễn biến nhanh chóng, phương châm chẩn bệnh là tuyệt đối tránh bỏ sót. Bất cứ bệnh nhân nào tuổi trên 45, bị đau ngực (nhất là bên trái) hay khó thở và nhất là có các yếu tố nguy cơ trên, cần phải chứng minh không bị nhồi máu cơ tim trước khi nghĩ đến căn bệnh gì khác. Thường nên đưa vào bệnh viện để theo dõi. Chẩn đoán nhồi máu cơ tim: Bệnh sử: đặc điểm của đau ngực Kiểm tra: các biến đổi trên điện tâm đồ: Nhồi máu cơ tim thường làm ST chênh lên và thay đổi sóng T. Sau khi cơ tim bị hủy thành sẹo, thường có biến đổi sóng Q. Điều cần biết là đôi khi bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim nhưng điện tâm đồ vẫn hoàn toàn bình thường. Dựa theo thay đổi của phần nào của điện tâm đồ có thể biết phần nào của tim bị nhồi máu (Zimetbaum & Josephson, 2003): Vách tim trước (I21.0): V1-V4 Vách tim dưới (I21.1): II, III, F Vách tim bên (I21.2): I, F, V5, V6 Vách tim sau (I21.2): V1, V2 Kiểm tra: các thay đổi về nồng độ men tim và troponin. Khi cơ tim bị thiếu oxygen, màng tế bào của cơ bị rạn nứt và các chất bên trong bị phóng thích vào máu. Nồng lượng trong máu của số chất đặc biệt của cơ tim ("men tim" Creatinine kinase (CK) và Troponin – dạng I hay T) có thể được dùng để chẩn đoán sự hủy hoại cơ tim. Điều cần biết là đôi khi mặc dầu bệnh nhân đang bị nhồi máu cơ tim nồng độ men tim có thể vẫn bình thường trong vài giờ đầu. Do đó, trong khi bệnh nhân nằm tại bệnh viện để theo dõi, điện tâm đồ và nồng độ men tim phải được lập lại sau 6–8 tiếng để xác định bệnh. Kiểm tra: chụp động mạch vành (coronary angiogram) sẽ xác định được mạch nào bị nghẽn. Đây là cách chắc chắn nhất để xác định, định dạng và quyết định phương thức điều trị nhồi máu cơ tim. Theo Tổ chức Y tế Thế giới WHO chẩn đoán xác định bệnh nhồi máu cơ tim phải có hai trong ba tiêu chuẩn sau: Đau ngực thắt (như trên) trên 20 phút Thay đổi trên một loạt 2 (hoặc 3) điện tâm đồ (cách nhau vài tiếng) Men tim tăng (rồi giảm) Cách sơ cấp cứu: Gọi xe cấp cứu 115; Nếu họ còn tỉnh, cho họ ở tư thế ngồi hoặc thoải mái nhất với họ; Nếu họ bất tỉnh nhưng còn thở bình thường, đặt họ nằm nghiêng 1 bên; Nếu họ bất tỉnh, thở bất thường hoặc không còn thở, lập tức ép tim và thổi ô-xy (CPR). Điều trị Nguyên tắc chính của điều trị là đưa oxygen tới phần cơ tim đang bị tiêu hủy vì mạch nghẽn. Cấp cứu Bệnh nhân có triệu chứng đau thắt ngực cần được điều trị trong phòng cấp cứu. Dưỡng khí oxygen Điện tâm đồ Aspirin: thuốc này có cộng dụng làm loãng máu và làm giảm sự tăng trưởng của cục máu đông. Glyceryl trinitrat: thuốc này có thể cho vào dưới lưỡi bệnh nhân – có nhiều tác dụng: làm thư giãn mạch máu (tăng đường kính mạch máu dễ cho máu đi qua chỗ nghẽn, giảm lượng máu trở về tim phải (bớt công việc cho tim – preload), giảm huyết áp (dễ cho tim thất trái bơm máu ra – afterload) Chống đau: morphine có thể dùng để chống đau, làm bệnh nhân bớt sợ hãi (giảm adrenaline, giảm độ nhịp tim, bớt công việc cho tim) Theo dõi biến chứng: loạn nhịp tim, thay đổi huyết áp. Làm thông động mạch vành tim Điều trị nội khoa: thuốc làm tan cục máu đông (thrombolysis): streptokianse, urokinase...trong giai đoạn cấp cứu, điều trị duy trì chống cục máu đông bằng Asprin hoặc Vasopolis (trong trường hợp dị ứng với Aspirin hoặc ở những bệnh nhân loét dạ dày, hành tá tràng) Điều trị ngoại khoa: thò ống thông xuyên qua động mạch đùi đi vào động mạch vành tim, làm nong mạch, phá vỡ cục máu đông và mảng xơ vữa, đồng thời có thể nhét ống căng mạch (cardiac catherization & angioplasty +/- stent). Giải phẫu ghép động mạch tim Mục đích của phẫu thuật này tiếp tế máu cho phần tim đang bị khủng hoảng do động mạch khu vực bị nghẽn Tĩnh mạch từ chân bệnh nhân được cắt lấy và đem lên nối từ động mạch chủ vào phần động mạch phía sau khúc bị nghẽn. Theo dõi Sau khi qua giai đoạn hiểm nghèo ban đầu của nhồi máu cơ tim, bệnh nhân cần nằm một thời gian (2–3 ngày) trong đơn vị điều trị tim hoặc đơn vị điều trị tăng cấp đề phòng để chữa kịp thời những biến chứng như loạn nhịp tim. Trong thời gian hồi phục sau khi xuất viện, bệnh nhân nên tránh hoạt động quá sức (thí dụ giao hợp), mang vác vật nặng... khoảng một vài tháng, tránh hồi hộp, căng thẳng, xúc động mạnh (không xem bóng đá, phim kinh dị...). Nhiều địa phương cấm lái xe vài tuần. Duy trì Vasopolis ở những bệnh nhân mẫn cảm với thuốc chống đông khác. Bác sĩ sẽ gặp lại bệnh nhân sau vài tuần để theo dõi và tra cứu xét nghiệm thêm. Phòng ngừa biến chứng khác Đa số bệnh nhân sẽ phải tiếp tục dùng thuốc điều trị tránh bị nhồi máu cơ tim lần nữa và những bệnh tương tự như tai biến mạch máu não. aspirin: liều thấp, cần theo dõi tác dụng phụ trên đường tiêu hóa (loét dạ dày, tá tràng, rối loạn tiêu hóa), những trường hợp mẫn cảm với Aspirin có thể dự phòng bằng các sản phẩm giúp phòng nhồi máu cơ tim khác (Vasopolis) clopidogrel Thuốc chẹn β Thuốc ức chế men chuyển (ACE) Thuốc giảm mỡ máu
Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu là một trong các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được ký tại Vòng đàm phán Uruguay vào năm 1994. Hiệp định quy định việc cấp phép nhập khẩu phải được tiến hành một cách đơn giản, minh bạch, và có thể đoán định trước được. Chẳng hạn như Hiệp định yêu cầu các thành viên phải công bố công khai những thông tin chi tiết về việc giấy phép nhập khẩu được cấp như thế nào, và tại sao lại được cấp. Hiệp định cũng yêu cầu các thành viên phải thông báo với WTO khi đưa ra những thủ tục cấp phép mới hoặc thay đổi những thủ tục đang có hiệu lực. Hiệp định còn hướng dẫn các thành viên phải đánh giá các đơn xin cấp giấy phép nhập khẩu như thế nào. Một số loại giấy phép được cấp tự động nếu như đã thỏa mãn một số điều kiện nhất định được đặt ra từ trước. Hiệp định quy định những tiêu chuẩn cho việc cấp phép tự động để thủ tục này không làm cản trở trao đổi thương mại. Một số loại giấy phép khác không được cấp tự động. Đối với những loại giấy phép này, Hiệp định có những quy định nhằm tối thiểu hóa gánh nặng của người nhập khẩu khi tiến hành nộp đơn xin giấy phép, để cho các thủ tục hành chính không làm cản trở hay biến dạng trao đổi thương mại. Hiệp định đặt ra thời hạn để cơ quan hữu trách của nước thành viên phải đưa ra quyết định có cấp giấy phép nhập khẩu hay không: 30 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ trong trường hợp xem xét từng hồ sơ một, hoặc 60 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ trong trường hợp xem xét tất cả các hồ sơ cùng một lúc.
Times New Roman là phông chữ kiểu serif được nhật báo The Times (Luân Đôn) ủy thác Stanley Morison thiết kế năm 1931 cùng với Starling Burgess và Victor Lardent. Nó được phát hành lần đầu tiên bởi Công ty Monotype năm 1932. Tuy The Times không còn sử dụng nó, nhưng nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong cuốn sách. Do nó được sử dụng ở khắp mọi nơi, Times New Roman đã có nhiều ảnh hưởng đối với nhiều phông chữ kiểu serif trước và sau thời phông máy tính. Một thí dụ nổi tiếng là Georgia, nó có những nét rất giống với Times New Roman nhưng có serif dày hơn. Một phiên bản của Times New Roman được phát triển bởi Monotype cho Microsoft, và nó được cung cấp với Microsoft Windows từ khi phiên bản 3.1 được phát hành. Giống như Times trên Apple Macintosh, nó được chọn là phông chữ mặc định trong nhiều phần mềm ứng dụng, nhất là trong trình duyệt mạng và trình soạn thảo. Times New Roman là tên mà Microsoft đặt cho phiên bản TrueType của Times New Roman PS, một loại hẹp hơn của phông chữ Times New Roman của Monotype. Phiên bản PS được phát hành để hợp với các kích thước của Times Roman (phông PostScript căn bản của Linotype). Các chữ hoa của nó được vẽ nhẹ hơn, mới đầu để in ra tiếng Đức (trong tiếng đó, các danh từ bắt đầu với chữ hoa). Năm 2004, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố rằng, từ ngày 1 tháng 2 năm 2004, tất cả những văn kiện ngoại giao Mỹ sẽ bắt đầu sử dụng Times New Roman với kích thước 14 point thay vì Courier New với kích thước 12 point như trước. Phông chữ Unicode này hỗ trợ các ký tự tiếng Việt.
The Times là nhật báo quốc gia được xuất bản hàng ngày ở Vương quốc Anh từ năm 1785, và được xuất bản dưới tên The Times (tiếng Anh của "Thời báo") từ năm 1788; nó là "Thời báo" đầu tiên. Trong phần lớn của lịch sử nó, nhật báo này được coi là tờ báo danh giá (newspaper of record) của nước Anh. The Times được xuất bản bởi Times Newspapers Limited, công ty phụ của News International, nó thuộc về tổ chức News Corporation, dẫn đầu là Rupert Murdoch. Nó có nhiều ảnh hưởng đối với chính trị và dư luận về sự kiện ở nước ngoài. Có những người cho rằng, gần đây, nó phản ánh quan điểm bảo thủ của ông Murdoch, dù tờ báo này đã ủng hộ đảng Lao động vào hai kỳ bầu cử trước. Tuy nhiên, ông Murdoch đã gắn mình với Thủ tướng Tony Blair của đảng Lao động và gặp với ông thường xuyên. Ngoài nước Anh, The Times đôi khi được gọi là "the London Times" hay "The Times of London" (Thời báo Luân Đôn) để phân biệt nó với nhiều thời báo khác như là The New York Times. Tuy nhiên, nó là báo "Times" đầu tiên, và nó là báo quốc gia, không chỉ của thành phố Luân Đôn. Nó cũng tạo ra phông chữ Times New Roman được sử dụng khắp nơi, phông chữ này do Stanley Morison của The Times cộng tác với Công ty Monotype. Mới đầu nó được in ra giấy khổ rộng (broadsheet) 200 năm nay, nhưng nó đổi qua cỡ compact vào năm 2004. Giá mặt của nó ở Vương quốc Anh là 60p ngày thương (20p cho học sinh) và £1,10 vào chủ nhật. Tờ liên quan chủ nhật của The Times là The Sunday Times, in ra giấy khổ broadsheet. Giá mặt của nó là £1,80. Chú thích
Arial là phông chữ kiểu sans-serif được gói với vài phần mềm ứng dụng của Microsoft. Nó được phát triển năm 1982 bởi Robin Nicholas và Patricia Saunders cho Monotype Typography là phông rẻ để thay cho phông Helvetica phổ biến của Linotype. Helvetica là một trong nhiều phông chữ mà các máy in phải có để hỗ trợ ngôn ngữ PostScript của Adobe Systems. Khi chỉ định Helvetica, người dùng có thể bảo đảm là máy in sẽ in ra dùng phông đó được. Microsoft không muốn bao gồm Helvetica với Windows, nên họ phát hành Arial dưới giấy phép để phá giá. Tuy Arial là một trong những phông phổ biến nhất trên thế giới ngày nay do được gói với Windows, phông này có nhiều nhà in ấn ghét. Nó chắc nổi tiếng hơn Helvetica ngày nay; tuy nhiên, các nhà in ấn coi nó là phông giả rẻ, thiếu lịch sử của phông gốc Thụy Sĩ. Kiểu chữ Arial bao gồm nhiều kiểu và tất cả chúng đều hỗ trợ các các ký tự tiếng Việt, trong đó bao gồm: Regular, Italic, Medium, Medium Italic, Bold, Bold Italic, Black, Black Italic, Extra Bold, Extra Bold Italic, Light, Light Italic, Narrow, Narrow Italic, Narrow Bold, Narrow Bold Italic, Condensed, Light Condensed, Bold Condensed, and Extra Bold Condensed. Trong Office 2007, Arial đã được thay thế bằng Calibri làm kiểu chữ mặc định trong PowerPoint, Excel và Outlook. Các biến thể của font Arial Arial: đôi khi được gọi là Arial Regular để phân biệt chiều rộng của nó với Arial Narrow, nó cũng bao gồm Arial Italic, Arial Bold, Arial Bold Italic Arial Unicode MS Arial Black: Font chữ Arial nhưng to hơn, mở rộng chiều ngang ra hơn rất nhiều so với Arial thường. Arial Rounded: Phiên bản tròn hơn của Arial thường, có các kiểu sau: Arial Rounded Light, Arial Rounded Regular, Arial Rounded Medium, Arial Rounded Bold, Arial Rounded Extra Bold
Trong tiếng Việt, tụng kinh thường là một hoạt động thờ phượng trong một số tôn giáo. Và có thể là: Tụng kinh trong Phật giáo Đọc kinh trong Công giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung Đôi khi tụng kinh cũng có thể hiểu là vịnh xướng
Nước Lào chỉ bắt đầu từ năm 1945. Ý tưởng về một quốc gia Lào riêng biệt được hình thành từ thế kỷ 19, khi những tư tưởng phương tây về đặc tính quốc gia lan tới Đông Nam Á, và khi những bộ tộc nói tiếng Lào bị áp lực từ hai quốc gia mạnh hơn và có ý đồ bành trướng ở bên cạnh là Xiêm (Thái Lan) và Việt Nam. Biên giới hiện nay của Lào được người Pháp vẽ ra năm 1893 và 1904. Hiện nay "Lịch sử Lào" chính thức được tính từ Vương quốc Lān Xāng, được thành lập năm 1353. Nhưng trên thực tế, Lào có lịch sử chung với người Xiêm và các dân tộc khác thuộc nhóm ngôn ngữ Thái, và Lān Xāng chỉ là một trong một số vương quốc Thái trong một vùng có một sự thống nhất ngôn ngữ và văn hoá rộng trước khi các cường quốc bên ngoài xuất hiện. Sơ khởi Thái là nhóm ngôn ngữ có nguồn gốc từ nam Trung Quốc, gồm người Lào, Xiêm, người Lự ở đông bắc Miến Điện, người Choang ở tỉnh Quảng Tây Trung Quốc và người Thổ, người Nùng ở vùng núi phía bắc Việt Nam. Trong thiên niên kỷ đầu tiên sau công nguyên, dưới áp lực bành trướng của người Hán Trung Quốc, người Thái bắt đầu di cư xuống vùng Đông Nam Á. Họ thế chỗ những dân tộc vốn sống ở đó từ trước (gồm cả nền văn hoá ở thời kỳ đồ sắt với những người đã tạo ra những chiếc chum đá khổng lồ đã thành tên cho vùng Cánh đồng Chum ở trung tâm nước Lào). Sông Mekong chảy xuyên qua nước Lào ngày nay là một con đường di cư chính, nhưng sức mạnh của Đế quốc Khmer (Campuchia) đã ngăn không cho người Thái chiếm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thay vào đó, vùng định cư chính của người Thái nằm xa hơn về phía nam, ở châu thổ sông Chao Phraya, nơi họ lập nên nhiều vương quốc tiền thân của nước Xiêm hiện đại hay Thái Lan. Trong thiên niên kỷ đầu tiên sau công nguyên, các dân tộc Thái vẫn còn được tổ chức một cách lỏng lẻo thành nhiều thực thể nhỏ gọi là muang (mường) hay mandalas. Họ bị ảnh hưởng nhiều từ những nền văn hoá văn minh hơn ở xung quanh: văn hoá Khmer ở phía đông nam, các văn hoá Hindu của Ấn Độ ở phía tây. Đa số các dân tộc Thái chuyển sang một hình thức tôn giáo kiểu Hindu giáo, hiện ta vẫn còn thấy những dấu vết của nó trong các tôn giáo Lào hiện nay. Giữa thế kỷ thứ 6 và thứ 9 công nguyên, Phật giáo bắt đầu lan tới những vùng do người nói tiếng Thái sinh sống, có lẽ qua Miến Điện, và trở thành tôn giáo chính. Nhưng Lào vẫn giữ nhiều tôn giáo duy linh từ thời tiền Phật giáo. Khi người Thái đã củng cố được vị trí, họ lại phân chia ra thành nhiều nhóm ngôn ngữ phụ. Các ngôn ngữ đó gồm Thái-Lào, trong khoảng thế kỷ 11 và 12 công nguyên từng lan rộng dọc theo vùng trung Châu thổ sông Cửu Long và qua Cao nguyên Khōrāt (hiện nay là vùng Isan đông bắc Thái Lan). Bước tiến về phía nam của họ bị người Khmer chặn lại ở Champāsak, người Khmer đã xây dựng lên những đền tháp vĩ đại ở Wat Phū. Tới lượt Lào lại bị chia ra thành nhiều nhóm, dựa trên địa điểm họ sinh sống và quan hệ của họ với dòng sông. Các nhóm đó gồm Lào Lùm (Lào ở vùng trũng của châu thổ), Lào Thơng (Lào ở những sườn núi dốc) và Lào Sủng (Lào ở trên đỉnh núi). Nhóm cuối này gồm nhiều thiểu số ngôn ngữ chỉ còn giữ quan hệ xa với ngôn ngữ Thái. Lào-Lum, có đất canh tác tốt nhất và có con sông làm đường vận chuyển trở thành nhóm giàu có nhất trong khác dân tộc Thái-Lào. Những sự chia tách này để lại dấu ấn trong lịch sử Lào và vẫn tồn tại đến ngày nay, nhiều nhóm dân tộc Lào-Thoeng và Lào-Sūng rất ít trung thành với nhóm Lào-Lum hiện đang thống trị đất nước. Sự nổi lên và suy sụp của nhiều quốc gia Lào thời kỳ đầu hiện nay chỉ còn được ghi lại trong truyền thuyết. Vị lãnh đạo đầu tiên được ghi lại trong lịch sử Lào là Khun Lô, có lẽ ông đã chinh phục vùng Luang Phrabāng từ tay những nhóm người không phải Thái vào thế kỷ thứ 12. Bởi vì sông Cửu Long bị chia thành ba vùng vận tải thủy riêng biệt theo độ dốc của nó, giữa Luang Phrabāng và Viêng Chăn (Vientiane) giữa Viêng Chăn và Savannakhēt, ba thành phố đó trở thành những trung tâm riêng biệt "tượng trưng" của Lào-Lum. Mô hình này chỉ bị phá vỡ khi người Mông Cổ xâm lược năm 1253, khi đội quân do Kublai Khan chỉ huy tiến về hạ lưu sông Cửu Long để tấn công vương quốc Khmer. Khi người Mông Cổ rút đi, một vương quốc mới là Sukhothai được người Xiêm dựng lên, sau này nó phát triển thành một nhà nước Xiêm hùng mạnh hơn với thủ đô ở Ayutthaya (được thành lập năm 1351). Vương quốc Lān Nā, đóng đô ở Chiềng Mai gồm cả những đặc trưng Xiêm và Lào cũng được thành lập vào khoảng thời gian này. Để đáp lại, những vị cai trị Thái-Lào ở Luang Phrabāng (lúc ấy được gọi là Xiang Dong Xiang Thong) lập nên một nhà nước mới, trong khi về danh nghĩa vẫn là nước phụ thuộc của nhà Nguyên (Mông Cổ) ở Trung Quốc, nhưng thực tế nó là lực lượng lãnh đạo các dân tộc Lào. Từ khoảng năm 1271 nước này do triều đình Phrayā cai trị. Khoảng năm 1350 một hoàng tử của triều đình là, Fā Ngum, chạy trốn khỏi triều đình với cha sau một vụ bất hoà và tìm nơi ẩn náu ở chỗ người Khmer tại Angkor, ông đã cưới một công chúa ở đây. Năm 1353 ông quay trở với tư cách chỉ huy một đội quân (có lẽ với sự hỗ trợ của người Khmer), chiếm Xiang Dong Xiang Thong và lập nên một nhà nước Lào mới chiếm toàn bộ vùng châu thổ sông Cửu Long nơi sinh sống của những bộ tộc nói tiếng Lào. Đó chính là Lān Xāng, Vương quốc Triệu voi. Vương quốc Lān Xāng Trong thập kỷ tiếp theo Fā Ngum tìm cách thống nhất toàn bộ nước Lào dưới quyền kiểm soát của ông. Ông chinh phục hầu như toàn bộ cao nguyên Khōrāt, cũng như những vùng lãnh thổ hiện nay là vùng tây bắc Việt Nam. Triều đình Khmer coi ông là một chư hầu, nhưng ông đã thành công trong việc lập lên một vùng ảnh hưởng của Lào bao gồm toàn bộ Champāsak và có lẽ còn kéo dài về phía nam tới tận Stung Treng ở nơi hiện nay là biên giới phía bắc của Campuchia. Vợ ông được cho là người đã đưa Phật giáo tiểu thừa vào trong nước, nhánh Phật giáo này được các nhà sư truyền giáo từ Sri Lanka đưa sang Xiêm trong thế kỷ 13, và từ đó nó lan sang Đế chế Khmer. Tuy nhiên, năm 1368, vợ Fā Ngum chết, chỉ một thời gian ngắn sau khi triều đình nhà Nguyên ở Trung Quốc sụp đổ. Các sự kiện đó đã phá vỡ những mối quan hệ vốn có tác dụng duy trì quyền lực cho Fā Ngum, và năm 1373 ông bị lật đổ bởi một mưu đồ bên trong triều đình và bị thay thế bởi con trai mình là Unheuan, vị vua mới lấy tên là Sāmsaentai ("Vua của 300.000 người Thái"). Lān Xāng không phải là một quốc gia theo nghĩa hiện đại của từ này. Nhà vua ở Xiang Dong Xiang Thong cai trị trực tiếp thành phố đó và vùng xung quanh. Các vị lãnh chúa ở các vùng khác tự đặt ra thuế riêng của họ và tự cai trị theo kiểu mà họ cho là thích hợp. Những trách nhiệm của họ đối với nhà vua chỉ là nộp cống, tham dự các nghi lễ lớn của triều đình, và đưa lực lượng của mình tới giúp vua khi xảy ra chiến tranh. Vì thế Lān Xāng là một liên bang phong kiến lỏng lẻo chứ không phải là một vương quốc tập trung hành chính. Nó có tính linh hoạt rất cao nhưng cũng có nghĩa rằng sự liên kết lẫn nhau phụ thuộc vào cá nhân nhà vua và chính quyền tôn giáo. Trong nửa thế kỷ sau cái chết của Sāmsaentai năm 1416 có hàng loạt những vị vua kém cỏi nối tiếp nhau, và thời huy hoàng của Lān Xāng dần chấm dứt. Tới thế kỷ 15 tất cả các dân tộc Thái phải đối mặt với những thách thức từ các quốc gia mạnh ở xung quanh, người Việt Nam ở phía đông, Miến Điện ở phía tây (người Xiêm Ayutthaya đã tiêu diệt sức mạnh của người Khmer năm 1431). Năm 1479 người Việt Nam xâm lấn lãnh thổ của Lào, cướp phá Luang Phrabāng. Đối mặt với tình hình đó, vua Vixun (cai trị giai đoạn 1501-20) đã đưa ra hai bước quan trọng nhằm củng cố ngai vàng. Đầu tiên ông ra lệnh viết cuốn biên niên sử hoàng gia được gọi là Nithān Khun Bôrum (Câu chuyện về vua Bôrum), khẳng định tính hợp pháp của triều đình. Thứ hai, ông mang từ Angkor về Lān Xāng nhiều tượng Phật bằng vàng, được gọi là Phra Bāng hay Tượng Phật linh thiêng. (Theo niềm tin dân tộc bức tượng đó đã được đúc ở Sri Lanka vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên và sau đó được dâng lên các vị vua Khmer. Quan điểm hiện nay cho rằng bức tượng đó có nguồn gốc Khmer và niên đại ở giai đoạn Đế chế Khmer.) Hai việc đó nhấn mạnh rằng nhà vua Lān Xāng vừa cai trị bằng quyền thừa kế chính thống từ vị vua huyền thoại Bôrum, vừa bằng những phẩm chất (merit) tốt đẹp của mình, đó là khái niệm then chốt của Phật giáo. Sau khi Vixun chết, hai vị vua tài giỏi khác là Phōthisālarāt (1520-48) và con trai ông Xētthāthirāt (1548-71) duy trì được sức mạnh và uy thế của vương quốc. Tuy nhiên, năm 1558, cuộc tấn công đầu tiên trong một loạt những cuộc tấn công của người Miến Điện diễn ra. Người Miến Điện cướp phá Chiềng Mai, chấm dứt sự tồn tại độc lập của Lān Nā, và phá huỷ các vùng phía tây Lān Xāng. Để đương đầu, Xētthāthirāt đã lập lên một liên minh với Ayutthaya, và vào năm 1560 ông chuyển thủ đô về hạ lưu dòng sông tới Viêng Chăn, là nơi dễ phòng ngự hơn và gần với đồng minh Xiêm. Ông đã xây dựng ở đó một điện vĩ đại, là Ho Phra Kaeo, ông đưa bức tượng Phật Lục Bảo là vật sùng kính từ xa xưa của quốc gia (được người Lào cứu được khi Chiềng Mai thất thủ) vào đó làm biểu tượng mới của thời cai trị của ông. Phra Bāng bị bỏ lại phía sau ở Xiang Dong Xiang Thong để bảo vệ thành phố, thành phố này hiện được đổi tên thành Luang Phrabāng ("Phra Bāng vĩ đại"). Năm 1569 người Miến Điện lại tấn công, chiếm Ayutthaya và đặt Lān Xāng vào tình trạng nguy hiểm. Người Miến Điện chiếm Viêng Chăn một thời gian ngắn năm 1570, nhưng chỉ sau vài tháng Xētthāthirāt đã buộc họ phải rút lui, và làm tăng uy tín của ông lên cao hơn bao giờ hết. Nhưng những năm sau đó ông lại tìm cách tấn công Campuchia. Trong khi đang thực hiện tham vọng của mình, ông bị giết và quân đội của ông tan rã. Việc này khiến Lān Xāng lại bị để trống không được bảo vệ trước người Miến Điện, và trong 60 năm tiếp sau đó Lān Xāng là vùng phụ thuộc của Miến Điện, thỉnh thoảng nó bị chiếm giữ trực tiếp. Có nhiều giai đoạn không hề có một vị vua nào và nước Lào dường như sẽ bị người Miến Điện hay người Xiêm sáp nhập. Nhưng vào năm 1637 Surinyavongsā, vị vua vĩ đại nhất và là vua cuối cùng của Lān Xāng, lên ngôi và tái lập nền động lập của vương quốc. Ông thiết lập các quan hệ thân thiện với vua Xiêm là Narai ở Ayutthaya, và liên minh đó đủ mạnh để đối phó với người Miến Điện và người Việt Nam trong nhiều năm. Dưới thời cai trị của ông, vương quốc ngày càng thịnh vượng và Viêng Chăn được xây dựng thêm nhiều đền chùa và cung điện (chỉ một số ít còn tồn tại). Thành phố trở thành trung tâm truyền bá Phật giáo lớn, với các nhà sư từ Xiêm và Campuchia tới học trong các wat (trường) của nó. Cũng trong thời cai trị của Surinyavongsā những người châu Âu đầu tiên đã đặt chân tới Lào. Một thương gia Hà Lan, Gerritt van Wuysthoff đã đi đường sông từ Phnom Penh tới Lào khoảng năm 1641. Những miêu tả của ông đã gây sự chú ý của các thầy tu dòng Tên, những người luôn nhiệt tình muốn trở thành người đầu tiên dẫn dắt linh hồn cho các dân tộc mới được phát hiện. Nhà truyền giáo đầu tiên, Giovanni-Maria Leria, nhanh chóng nối bước van Wuysthoff và ông đã ở đó sáu năm, học tiếng và nghiên cứu tôn giáo và phong tục Lào. Đa số những hiểu biết về Lān Xāng và giai đoạn lịch sử tiếp sau của nó đều được lấy từ những bản ghi chép của Leria. Ông thuyết phục được một số người cải sang Thiên chúa giáo, nhưng điều thành công hơn cả là ông đã khiến cho thế giới bên ngoài biết về sự giàu mạnh của vương quốc Lào. Hai hoàn cảnh cùng tác động đã gây ra sự sụp đổ của Lān Xāng. Surinyavongsā chỉ có một người con trai, và ông đã ra lệnh xử tử người này vì tội thông dâm. Vì thế, khi Surinyavongsā chết năm 1694, không có ai là người kế vị và một cuộc chiến giành ngôi diễn ra và các nước lân cận của Lān Xāng cũng nhanh chóng dính dáng vào. Nguyên nhân thứ hai là sự tách biệt của vương quốc. Cả người Xiêm và người Việt Nam đều đã có quan hệ với người châu Âu trong thời gian dài hơn Lào, và đều đã sử dụng súng cầm tay, trong khi nước Lào nằm tách biệt riêng trong lục địa không thể buôn bán trực tiếp với người châu Âu. Bị chia cắt và không có người lãnh đạo, họ không phải là đối thủ tướng xúng với người Xiêm được trang bị súng và những cố vấn châu Âu. Sau một thập kỷ chiến tranh và hỗn loạn, năm 1707 Lān Xāng bị chia thành ba vùng, là các vương quốc chư hầu của người Xiêm ở Luang Phrabāng, Viêng Chăn và Champāsak. Viêng Chăn và Champāsak phải nộp cống cho cả người Việt Nam và người Xiêm - một việc sẽ có tầm quan trọng lớn sau này. Hiện nay lịch sử chính thức của Lào miêu tả Lān Xāng là quốc gia dân tộc Lào, và vì thế là tổ tiên trực tiếp của nước Lào hiện nay. Quan điểm này vẫn còn phải xem xét nhiều. Không có sự phân biệt thực tế rõ ràng giữa người Xiêm, người Lào và những dân tộc nói tiếng Thái trước thế kỷ 19. Văn hoá và tôn giáo của họ hầu như giống nhau và các ngôn ngữ cũng có liên quan gần gũi. Các vị vua Lān Xāng là người Lào-Lum, nhưng các dân tộc thuộc quyền cai quản của họ lại nói nhiều loại ngôn ngữ, gồm cả tiếng Xiêm, tiếng Khmer và nhiều nhóm ngôn ngữ Lào-Thoeng, Lào-Sūng nhỏ khác. Lào-Lum coi những người Lào ở miền núi là dân kém văn minh (mọi rợ), coi họ là khā (bọn nô lệ) và maeo (bọn man rợ). Nền tảng quyền lực của nhà vua là triều đình và tôn giáo chứ không phải dân tộc hay quốc gia. Khi cần thiết, họ nộp cống cho người Xiêm, người Việt Nam, người Miến Điện nay những vị quan cai trị Trung Quốc với sự sốt sắng như nhau. Như sẽ thấy, chỉ sau khi Lān Xāng sụp đổ, khi người Xiêm đã hấp thụ một số tư tưởng châu Âu về tính ưu việt quốc gia và áp đặt một chế độ bán thuộc địa lên Viêng Chăn Lào, một ý thức dân tộc Lào mới bắt đầu xuất hiện. Sự cai trị của người Xiêm và người Việt Với sự sụp đổ của Lān Xāng, sự chú ý của người châu Âu tới nước Lào giảm sút, và chỉ có một vài người tới đây trong thế kỷ 18. Có ít tài liệu về những sự việc xảy ra bên trong nước Lào ở thời kỳ này. Năm 1763, cuộc xâm lăng lớn nhất của người Miến Điện đã diễn ra. Tất cả các vùng lãnh thổ Lào đều bị chinh phục. Năm 1767, vương quốc Ayutthaya sụp đổ. Một lần nữa, các dân tộc Thái có nguy cơ trở thành thần dân của Miến Điện. Nhưng người Xiêm ngay lập tức phát động một cuộc phản công. Taksin, một vị tướng gốc Hán, đã tổ chức kháng chiến, đẩy lùi người Miến Điện và lập ra một thủ đô mới ở Bangkok, từ đó ông bắt đầu cuộc chinh phục toàn bộ các dân tộc Thái. Taksin tấn công người Miến Điện ở phía bắc năm 1774 và chiếm Chiềng Mai năm 1776, thống nhất vĩnh viễn hai nước Xiêm và Lān Nā. Tướng của Taksin trong chiến dịch này là Thong Duang, được biết đến với danh hiệu Chaophraya Chakri. Năm 1778, Chakri dẫn một đội quân Xiêm khác đi về phía bắc, chiếm Viêng Chăn và lập ra chế độ thống trị Xiêm trên toàn bộ Lào. Người Xiêm đến Lào không phải với tư cách những người giải phóng. Viêng Chăn bị cướp bóc sạch trơn. Báu vật được tôn kính nhất, Phật Ngọc, bị đem về Bangkok và vẫn ở đó cho tới nay. Vị vua ở Viêng Chăn trốn thoát nhưng đã chết một thời gian ngắn sau đó. Từ đó bắt đầu thời cai trị của các vị vua bù nhìn do Xiêm dựng lên. Nhiều gia đình quý tộc Lào bị lưu đày và bị buộc phải di cư sang đất Xiêm. Champāsak cũng bị đặt dưới quyền kiểm soát của Xiêm, mặc dù một số mường Lào ở miền núi phía đông vẫn tiếp tục triều cống cho triều đình Việt Nam tại Huế. Năm 1792, người Xiêm chiếm Luang Phrabāng, nhưng thủ đô cũ này được đối xử tốt hơn so với những gì đã xảy ra cho Viêng Chăn. Nó không bị cướp phá, và vị vua ở đó vẫn giữ được ngôi vị của mình sau khi đã thần phục người Xiêm. Năm 1782, Chaophraya Chakri phế truất Taksin khỏi ngôi vua nước Xiêm, lên ngôi và trở thành vua Rama I, lập ra triều Chakri mà hiện vẫn giữ ngôi vị ở Thái Lan. Dưới ảnh hưởng ngày càng tăng từ phía tây, các vị vua triều Chakri bắt đầu chuyển đổi hình thức nước Xiêm vốn gồm nhiều vùng khác nhau thành một quốc gia kiểu hiện đại, dù đây là một quá trình chậm chạp, khó khăn và đã kéo dài hơn một thế kỷ. Ban đầu, các vương quốc Lào ở xa không bị ảnh hưởng nhiều. Họ phải nộp cống và tuân phục Bangkok, và vẫn được để yên. Trong các năm 1795 và 1828, vương quốc Lào trở thành một nước chư hầu của Việt Nam. Năm 1802, quân nhà Nguyễn phá thành phố Viêng Chăn, và giành quyền kiểm soát vùng bắc Lào. Vì thế khi vua Ānuvong ở Viêng Chăn, lên ngôi năm 1804, bắt đầu xây dựng lại sức mạnh đất nước, với sự giúp đỡ ngầm từ phía Việt Nam, Bangkok cũng không để ý lắm. Ānuvong xây dựng ngôi chùa Wat Sisakēt tráng lệ để làm biểu tượng cho sự hồi sinh của Lào. Tới năm 1823 ông tin rằng mình đã đủ sức mạnh để gạt bỏ ách thống trị của người Xiêm. Ông dễ dàng chiếm quyền kiểm soát vùng Viêng Chăn, trong khi các đồng minh của mình chiếm Champāsak. Sau đó quân đội Lào vượt sông Mê Kông, với tham vọng giải phóng cao nguyên Khōrāt là nơi các dân tộc nói tiếng Lào sinh sống và tuyên bố độc lập khỏi nước Xiêm. Ānuvong là vị vua Lào đầu tiên đi tiên phong với vai trò một người yêu nước, kêu gọi sự đoàn kết thống nhất và dẫn dắt các bộ tộc Lào. Nhưng những thành công đầu tiên của ông không kéo dài. Vua Luang Phrabāng liên kết với người Xiêm, người Việt Nam không giúp đỡ, và vua Xiêm Rama III huy động quân đội phản công. Năm 1827, quân Lào thua trận chiến quyết định ở phía nam Viêng Chăn. Thành phố (trừ một số đền chùa) bị đốt cháy trụi và dân cư bị trục xuất. Năm sau đó, Ānuvong bị bắt và chết trong tù tại Bangkok. Vương quốc Viêng Chăn bị tiêu diệt hoàn toàn và trở thành một tỉnh của Xiêm: đây là một sự phát triển mới trong lịch sử Thái, phản ánh sức mạnh ngày càng tăng của các tư tưởng châu Âu. Giữa thế kỷ 19 là khoảng thời gian tồi tệ nhất trong lịch sử Lào. Vua Luang Phrabāng vẫn giữ được độc lập danh nghĩa bằng cách nộp cống cho Trung Quốc và Việt Nam cũng như nước Xiêm. Khi Xiêm phát triển cơ cấu của một quốc gia hiện đại, phần còn lại của lãnh thổ Lào bị Bangkok cai trị trực tiếp theo cách càng ngày càng chặt chẽ và đàn áp. Lãnh thổ Lào thưa thớt dân cư vì những cuộc tái định cư ép buộc, và các thành phố đầy những người dân nhập cư Trung Quốc và Việt Nam. Nếu cuộc khởi nghĩa của Ānuvong cho thấy sự khởi đầu của một tinh thần dân tộc Lào thực sự, thì tới những năm 1860, dường như nước Lào sẽ nhanh chóng đánh mất vai trò của một thực thể quốc gia và trở thành một vùng phụ thuộc của vương quốc Xiêm. Sự thành lập nước Lào Điều cứu vãn nước Lào chính là sự xuất hiện của chủ nghĩa thực dân châu Âu tại vùng Đông Nam Á. Đây là một điểm mà lịch sử chính thức của Lào, với sự nhấn mạnh vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, không muốn đề cập đến. Nhưng không có sự phủ nhận nào cho thực tế rằng sự chấm dứt thời cai trị của Xiêm đối với các vùng lãnh thổ Lào và sự thành lập nên nhà nước Lào là công của người Pháp, và đó chính là một sản phẩm phụ của tình trạng cạnh tranh giữa hai đế quốc thực dân Anh và Pháp. Không như người Hà Lan và Bồ Đào Nha, hai cường quốc này không chỉ muốn buôn bán với các nước trong vùng Đông Nam Á - họ tìm cách kiểm soát cả lãnh thổ những nước này. Miến Điện, từng là một nỗi sợ hãi ám ảnh của các dân tộc Thái trong nhiều thế kỷ, đã từng bước bị sáp nhập vào Ấn Độ thuộc Anh trong giai đoạn 1826 và 1885. Việt Nam, một nước mạnh khác trong vùng, không chống nổi người Pháp, đã phải chịu một chính quyền bảo hộ được lập lên ở miền Nam Việt Nam và phía đông Campuchia năm 1862 và đến năm 1883 thì kiểm soát toàn bộ vùng lãnh thổ còn lại của Việt Nam. Những sự phát triển đó báo hiệu những rắc rối cho nước Xiêm, đất nước bị kẹp giữa hai cường quốc thực dân. Dưới thời cai trị của các vị vua có tư tưởng tân tiến Rama IV (1851-68) và Rama V (1868-1910), Xiêm tìm cách biến mình thành một quốc gia hiện đại có khả năng tự bảo vệ độc lập, nhưng các biên giới đã xiêu vẹo của đế chế đa sắc tộc này không còn có thể bảo vệ được nữa. Hiệp ước năm 1883 với vua Tự Đức của Việt Nam trao cho Pháp quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ phụ thuộc hoặc đã từng phụ thuộc triều đình Huế, và cũng không có gì ngạc nhiên khi họ chọn cách hiểu hiệp ước này theo một nghĩa rất rộng. Đa phần lãnh thổ của Lào từng một thời là những vùng phụ thuộc của Việt Nam, dù trên thực tế thì điều này thường chẳng có ý nghĩa gì cả. Pháp áp đặt một khái niệm quốc gia kiểu châu Âu lên những quan hệ phong kiến đó, và từ đó dựng lên một tuyên bố chủ quyền về lãnh thổ đối với toàn bộ lãnh thổ từng thuộc về vương quốc Lān Xāng. Người Pháp đóng vai trò chính trong vụ này là Auguste Pavie (1847-1925), ông từng sống 17 năm ở Việt Nam và Campuchia để mở rộng thêm các quyền lợi của Pháp từ khi được bổ nhiệm làm phó lãnh sự ở Luang Phrabāng vào năm 1886. Pavie cũng là một nhà thám hiểm đáng chú ý và là một học giả có tình cảm thực sự với các dân tộc ở Đông Dương, ông cho rằng cần giải phóng họ khỏi tình trạng tách biệt và chế độ phong kiến bằng cách du nhập vào đó các tư tưởng Pháp. Ông coi các vua Xiêm cai trị ở Lào là bọn tham nhũng và áp bức. Khi Luang Phrabāng bị những bộ tộc Thái ở vùng đồi núi tấn công, và những vị quan người Xiêm ở Lào chạy trốn, chính Pavie đã tổ chức phòng thủ thành phố và cứu nguy cho vị vua già Unkham. Nhà vua rất cảm kích và ông để nghị nước Pháp đứng ra bảo hộ thay cho nước Xiêm. Pavie không thể dàn xếp được vụ này dù ông đã thực hiện việc sáp nhập vùng Sipsông Chu nói tiếng Thái vào vùng Việt Nam thuộc Pháp. Pavie gọi công cuộc xây dựng thiện chí với Pháp ở Lào của mình là "cuộc chinh phục những trái tim," nhưng sau chót vẫn phải cần đến vũ lực mới hất cẳng được người Xiêm. Tới năm 1890 chính quyền Pháp ở Hà Nội, được hỗ trợ bởi một đảng mạnh trong nghị viện Pháp, quyết định sẽ thôn tính toàn bộ nước Xiêm, mà nước Lào chư hầu của nó chỉ là giai đoạn đầu. Năm 1892 Pavie được chỉ định làm Tổng lãnh sự Pháp ở Bangkok, và yêu cầu người Xiêm chấp nhận "những nhà buôn" Pháp tại các thành phố lớn của Lào, từ Luang Phrabāng đến Stung Treng. Pavie biện bạch rằng pháp sẽ yêu cầu quyền bảo hộ đối với toàn bộ lãnh thổ Lào trên cả hai bờ sông Mê Kông. Ông cho rằng điều này sẽ làm suy yếu nước Xiêm, và sau đó việc thôn tính hoàn toàn nước này sẽ xảy ra. Hoàn toàn hiểu rõ những điều người Pháp dự định tiến hành, Xiêm gấp rút đưa quân và các quan cai trị vào trong lãnh thổ Lào, nhưng cơ cấu của nó vẫn chưa đủ phát triển để thực sự nắm chắc được những tỉnh xa xôi đó. Hơn nữa sự tin tưởng của Rama V rằng người Anh sẽ ủng hộ ông trong mọi xung đột với nước Pháp đã bị chứng minh là không có căn cứ. Tháng 7 năm 1893 những xung đột nhỏ tại biên giới dẫn tới một xung đột vũ trang, với việc các tàu chiến Pháp đi ngược sông Chao Phraya đe dọa Bangkok. Đối mặt với mối đe doạ đó, Xiêm đầu hàng, và Pháp lập lên một chế độ bảo hộ trên toàn vùng phía đông Mê Kông. Năm 1904 lại có xung đột xảy ra, phần lớn do người Pháp. Một lần nữa người Anh lại không giúp đỡ Xiêm và Xiêm buộc phải lùi bước, nhượng lại hai vùng đất phía tây sông Mê Kông là Xainaburī ở phía bắc và Champāsak ở phía nam. Cùng lúc đó, Pháp cắt Stung Treng khỏi Lào để nhập vào Campuchia và thực hiện một số sửa đổi khác về biên giới giữa Lào và Việt Nam. Những thay đổi đó đã thiết lập biên giới Lào từ thời đó đến giờ. Những người Pháp theo chủ nghĩa bành trướng được Pavie hối thúc muốn tiếp tục gây sức ép để đòi hỏi những vùng đất của các dân tộc nói tiếng Lào ở cao nguyên Khōrāt, nhưng người Anh đã can thiệp vào việc này. Sau khi đã chiếm được quyền kiểm soát Miến Điện và Malaya, họ muốn giữ Xiêm lại làm một quốc gia đệm giữa đế chế của mình và Pháp hơn là cho phép người Pháp thôn tính toàn bộ nước Xiêm. Tới năm 1909, tình hình ở châu Âu đã thay đổi, và Pháp quyết định rằng họ cần nước Anh làm đồng minh để chống lại nước Đức đang ngày càng nổi lên hùng mạnh. Vì thế Paris quyết định rằng nước Xiêm không còn đáng giá các rủi ro khi xung đột với các quyền lợi của Anh quốc. Vì thế việc nước Pháp ngừng chiếm quyền kiểm soát toàn bộ các vùng lãnh thổ Lào đã tạo nên các biên giới của nước Lào ngày nay - đường biên giới đã trở nên bền vững khi người Anh phản đối bất kỳ sự lấn xâu thêm nào của Pháp vào đất Xiêm. Nhưng nó cũng tạo ra tình huống khó khăn mà người Lào phải đối mặt kể từ lúc đó. Nếu Pháp đã không can thiệp vào mọi công việc nội bộ của Xiêm, thì chắc Lào đã bị sáp nhập lặng lẽ vào một quốc gia Xiêm nói tiếng Thái lớn hơn. Mặt khác, nếu Pháp thành công trong việc tách mọi vùng lãnh thổ Lào khỏi Xiêm, thì có lẽ ngày nay đã có một nước Lào rộng lớn, một sự tái tạo thực sự của Lān Xāng trên cả hai bờ sông Mê Kông với khoảng 20 triệu người. Thay vào đó, nước Lào ngày nay chỉ có 6 triệu người mà chỉ một nửa trong số đó coi tiếng Lào là tiếng mẹ đẻ. Trong khi đó, vùng Isan của Thái Lan có 15 triệu người nói tiếng Lào (ngôn ngữ hiện nay được gọi chính thức là "tiếng Thái Đông Bắc", nhưng nó hầu như giống hệt với tiếng Lào chuẩn). Với sự di dân lớn gần đây từ Isan tới Bangkok, hiện ở Bangkok có nhiều người nói tiếng Lào hơn so với ở Viêng Chăn, thủ đô Lào. Lào hầu như là dân tộc duy nhất không có sự tương đồng giữa sự phân bố về địa lý của họ và các biên giới của cái hiện nay được cho là quốc gia của dân tộc họ. Lào thuộc Pháp Xứ bảo hộ Lào là một vùng đất bảo hộ thuộc Đế quốc thực dân Pháp, bao gồm hầu hết lãnh thổ Vương quốc Lan Xang trước đây. Xứ bảo hộ Lào là một phần của Đông Dương thuộc Pháp từ năm 1893 cho tới khi được trao quyền tự trị nằm trong Liên hiệp Pháp vào năm 1946. Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Pháp-Lào ký ngày 22 tháng 10 năm 1953 đã thiết lập Lào là một thành viên độc lập thuộc Liên hiệp Pháp. Với Hiệp định Genève, sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương sau cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Lào đã được trao trả độc lập năm 1954. Cuộc khủng hoảng Chiến tranh thế giới thứ hai Lào có vẻ được để kệ là một vùng chậm phát triển dễ chịu của Đế chế Pháp và hầu như hoàn toàn không bị các sự kiện bên ngoài ảnh hưởng tới từ năm 1940 trở về trước. Sự sụp đổ của Pháp trước cuộc tấn công của Đức Phát xít là một cú sốc lớn đối với niềm tin của Lào vào khả năng bảo vệ họ của Pháp. Mối đe doạ lớn nhất của Lào lúc ấy là thuyết phục hồi lãnh thổ của Xiêm. Tháng 12, 1940 quân đội của Marshall Phibun ở Bangkok tấn công Đông Dương thuộc pháp với sự ủng hộ ngầm của Nhật Bản, chiếm vùng phía tây Campuchia, và đòi lại Xainaburī cùng Champāsak, vốn từng là một phần của nước Lào thuộc pháp từ năm 1904. Chính quyền Vichy Pháp cho phép quân đội Nhật đóng ở Đông Dương, mặc dù lúc ấy vẫn chưa cho phép vào Lào. Nỗi sợ hãi bị bỏ lại cho thái Lan (khi ấy Phibun đã đổi lại tên thành Xiêm) và Nhật Bản dẫn tới việc thành lập tổ chức quốc gia Lào đầu tiên, Phong trào đổi mới quốc gia, tháng 1 năm 1941, do Phetxarāt lãnh đạo và các viên chức pháp ủng hộ, dù không được chính quyền Vichy ở Hà Nội ủng hộ. Nhóm này viết ra quốc ca Lào hiện nay và thiết kế ra lá cờ Lào bây giờ trong khi lại nghịch lý là thề nguyền ủng hộ nước Pháp. Các vị trí thức đó tồn tại tới khi Pháp được giải phóng năm 1944, đưa Charles de Gaulle lên nắm quyền. Điều này có nghĩa là chấm dứt đồng minh giữa Nhật và hành chính Pháp ở Đông Dương. Người Nhật không có ý định cho phép người Pháp hất cẳng, và cuối năm 1944 họ thực hiện một cuộc đảo chính ở Hà Nội. Các đơn vị lính pháp chạy qua vùng núi non biên giới sang Lào, bị người Nhật đuổi theo, chiếm Viêng Chăn tháng 3 năm 1945 và Luang Phrabāng trong tháng 4. Vua Sīsavāngvong được người Nhật giữ lại, nhưng con của ông là Thế tử Savāngvatthanā kêu gọi mọi người Lào ủng hộ Pháp và nhiều người Lào đã chết khi chiến đấu cùng với người pháp chống lại những kẻ chiếm đóng Nhật Bản. Tuy nhiên, hoàng tử Phetxarāt phản đối tình hình này, dù Lào có thể giành lại độc lập với sự trợ giúp của người Nhật, người đã đưa ông lên làm thủ tướng Luang Phrabāng, dù không phải là toàn bộ nước Lào. Trên thực tế đất nước trong tình trạng hỗn loạn và chính phủ của Phetxarāt không có thực quyền. Một nhóm Lào khác, Lao Sēri (Lào tự do), trở thành đồng minh của thái, có nghĩa là ủng hộ người Nhật. Một tình hình phức tạp hơn diễn ra khi một số lực lượng Việt Nam trung thành với lãnh tụ cộng sản Hồ Chí Minh tràn sang. Mặc dù đường lối chính thức của cộng sản ở thời kỳ này là thống nhất mọi lực lượng chống Nhật, người Việt Nam ghét Pháp và vì thế ủng hộ cho chính phủ của Phetxarāt. Tháng 8, 1945, khi đất nước bị tan rã ra trong một cuộc nội chiến nhiều phía, người Nhật bất ngờ đầu hàng đồng minh. Ở Lào và ở thủ đô nhiều nước mới giành lại độc lập khác ở Đông Nam Á, có một sự tranh giành cướp lấy quyền lực đang bị bỏ trống. Những địch thủ chính là người Pháp theo De Gaulle, các lực lượng du kích của họ đang kiên trì chiến đấu ở nhiều vùng thuộc Lào, và một nhóm Lào theo chủ nghĩa quốc gia mới do Phetxarāt lãnh đạo, nhóm Lào Issara (cũng có nghĩa là Lào tự do). Quân đội đồng minh ở gần đó nhất là nhóm Quốc gia Trung Quốc ở phía nam Trung Quốc, và lực lượng này chuẩn bị tiến về phía nam để nhận sự đầu hàng của Nhật Bản. Hoa Kỳ chính thức phản đối người Pháp tái lập quyền cai trị ở Đông Dương và người Anh cũng không thể giúp đỡ gì được. Nhưng người Pháp không chịu từ bỏ Đông Dương mà không chiến đấu.
Trong mạng máy tính, Point-to-Point Protocol (hoặc PPP) là một giao thức liên kết dữ liệu, thường được dùng để thiết lập một kết nối trực tiếp giữa 2 nút mạng. Nó có thể cung cấp kết nối xác thực, mã hóa việc truyền dữ liệu... PPP được sử dụng bằng nhiều kiểu mạng vật lý khác nhau, bao gồm cáp tuần tự (serial cable), dây điện thoại, mạng điện thoại, radio và cáp quang giống như SONET. Đa phần các nhà cung cấp dịch vụ Internet đều sử dụng PPP cho khách hàng để truy cập Internet. Hai kiểu đóng gói dữ liệu của PPP là PPPoE (Point-to-Point Protocol over Ethernet) và PPPoA (Point-to-Point Protocol over ATM), chúng được sử dụng bởi các nhà cung cấp dịch vụ Internet để kết nối tới dịch vụ Internet. PPPoE PPPoE là một giao thức mạng cho đóng gói khung PPP bên trong khung Ethernet (chú ý đây là một định nghĩa khác hoàn toàn so với PoE). Nó xuất hiện vào năm 1999, trong bối cảnh bùng nổ DSL như là giải pháp cho các đường hầm (tunneling) thông qua kết nối DSL đến mạng IP của ISP và từ đó đến phần còn lại của Internet. Một cuốn sách mạng năm 2005 đã lưu ý rằng "Hầu hết các nhà cung cấp DSL đều sử dụng PPPoE, cung cấp xác thực, mã hóa và nén." Việc sử dụng PPPoE điển hình liên quan đến việc tận dụng các cơ sở PPP để xác thực người dùng bằng tên người dùng và mật khẩu, chủ yếu thông qua giao thức PAP và đôi khi thông qua CHAP. Trên thiết bị đầu cuối của khách hàng, PPPoE có thể được thực hiện trong thiết bị xử lý cả hai chức năng modem DSL và định tuyến IP hoặc trong trường hợp của một modem DSL (không hỗ trợ định tuyến), PPPoE có thể được xử lý trên bộ định tuyến chỉ Ethernet (đằng sau modem DSL) hoặc thậm chí trực tiếp trên máy tính của người dùng. Hỗ trợ PPPoE hiện diện trong hầu hết các hệ điều hành, từ Windows XP, Linux đến Mac OS X. Gần đây, một số các cổng dựa trên nền tảng GPON (thay vì dựa trên DSL) cũng sử dụng PPPoE. PPPoE được phát triển bởi UUNET, Redback Networks (nay là Ericsson) và RouterWare (nay là Wind River Systems) và có sẵn dưới dạng thông tin RFC 2516. Trong thế giới của DSL, PPPoE thường được hiểu chạy trên ATM (hoặc DSL) như là giao thức vận chuyển cơ bản, mặc dù không có giới hạn nào như vậy tồn tại trong chính giao thức PPPoE. Các kịch bản sử dụng khác đôi khi được phân biệt bằng cách xử lý như một giao thức vận chuyển cơ bản khác. Ví dụ, PPPoEoE chính là giao thức vận chuyển Ethernet, như trong trường hợp mạng Metro Ethernet. (Trong ký hiệu này, việc sử dụng ban đầu của PPPoE sẽ được gắn nhãn PPPoEoA, mặc dù không nên nhầm lẫn với PPPoA, một giao thức đóng gói khác.) PPPoE đã được mô tả trong một số cuốn sách như một lớp giao thức "lớp 2,5 " thô sơ tương tự như MPLS vì nó có thể được sử dụng để phân biệt IP khác nhau trong chia sẻ cơ sở hạ tầng Ethernet. PPPoE được sử dụng chủ yếu: Với các dịch vụ DSL Internet sử dụng PPPoE trong đó modem hỗ trợ PPPoE - bộ định tuyến (cổng chung) kết nối với dịch vụ DSL. Ở đây, cả ISP và bộ định tuyến đều cần hỗ trợ PPPoE. (Lưu ý rằng trong trường hợp này, đôi khi được gọi là PPPoEoA, hay 'PPPoE qua ATM '.) Hoặc khi modem DSL hỗ trợ PPPoE được kết nối với bộ định tuyến Ethernet hỗ trợ PPPoE bằng cáp Ethernet. Lý do PPPoE được phát triển Ở thời điểm ban đầu PPPoE được phát triển, một vấn đề với việc tạo ra một giao thức hoàn toàn mới để đáp ứng những nhu cầu này là thời gian. Thiết bị phải có sẵn ngay lập tức, cũng như dịch vụ và một chồng giao thức hoàn toàn mới (Microsoft lúc đó đang ủng hộ máy atm-cell-to-the-desktop dựa trên fiber và L2TP cũng đang sản xuất, nhưng chưa hoàn thành) sẽ mất rất nhiều thời gian để thực hiện khối lượng công việc đó mà cơ hội có thể trôi qua bất kỳ lúc nào. Một số quyết định đã được thực hiện để đơn giản hóa việc thực hiện và tiêu chuẩn hóa trong nỗ lực cung cấp một giải pháp hoàn chỉnh một cách nhanh chóng. PPPoE sử dụng lại phần mềm hiện có PPPoE hy vọng hợp nhất cơ sở hạ tầng Ethernet rộng rãi với PPP phổ biến, cho phép các nhà cung cấp sử dụng lại phần mềm hiện có của họ và cung cấp sản phẩm trong thời gian rất ngắn. Về cơ bản, tất cả các hệ điều hành tại thời điểm đó đều có ngăn xếp PPP và thiết kế của PPPoE cho phép chuyển đổi đơn giản ở giai đoạn mã hóa dòng từ PPP sang PPPoE. Đơn giản hóa các yêu cầu phần cứng Các công nghệ mạng cạnh tranh (T1, ISDN) yêu cầu bộ định tuyến tại cơ sở của khách hàng. PPPoE đã sử dụng một loại khung Ethernet khác, cho phép phần cứng DSL hoạt động đơn giản như một cây cầu, chuyển một số khung cho mạng WAN và bỏ qua các khung khác. Việc thực hiện một cây cầu như vậy là đơn giản hơn một bộ định tuyến. Thông tin RFC RFC 2516 ban đầu được phát hành dưới dạng RFC thông tin (chứ không phải theo tiêu chuẩn) vì lý do tương tự: thời gian áp dụng cho RFC theo tiêu chuẩn quá dài. Thành công của PPPoE PPPoE ban đầu được thiết kế để cung cấp một mạng LAN nhỏ với các kết nối độc lập riêng lẻ với Internet, nhưng cũng chính vì vậy, giao thức sẽ đủ nhẹ để nó không bị ảnh hưởng trên thị trường sử dụng gia đình nơi mà nó nhắm đến. Mặc dù vấn đề thứ hai vẫn có ý kiến phản bác (một số người phàn nàn rằng 8 byte cho mỗi gói là quá nhiều), PPPoE rõ ràng đã thành công trong việc giảm giá dịch vụ xuống mức mà người dùng gia đình có thể trả.
Nguyễn Văn Đông (15 tháng 3 năm 1932–26 tháng 2 năm 2018) nguyên là một sĩ quan bộ binh cao cấp trong Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang cấp bậc Đại tá, khởi binh nghiệp từ thời Quốc gia Việt Nam. Đồng thời, ông được nhiều người biết đến với tư cách là nhạc sĩ nổi tiếng qua rất nhiều nhạc phẩm tiêu biểu như "Chiều mưa biên giới", "Hải ngoại thương ca", "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp", "Mấy dặm sơn khê", "Phiên gác đêm xuân", "Sắc hoa màu nhớ",... Các nghệ danh của ông là Vì Dân, Phượng Linh, Phương Hà, Đông Phương Tử, Thùy Linh, Hoàng Long Nguyên (trước 1975) và Anh Nguyên (sau 1975). Thiếu thời Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại Quận 1, Sài Gòn, nguyên quán ở làng Lợi Thuận, tổng Mỹ Ninh, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Nam Kỳ; nay thuộc huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam. Ông sinh trưởng trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở tỉnh này. Thuở nhỏ, nhờ gia đình khá giả nên ông học tại tư gia dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau đó ông theo học bậc Trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh ở khu Đa Kao, Quận 1. Khoảng 1945-1946, trường này bị đóng cửa. Gia sản bị tịch biên để sung vào quỹ kháng chiến chống Pháp; cha mẹ bị bắt tù vì là điền chủ. Thời đó có viên Đại úy Pháp là Vieux từng coi ông như nghĩa đệ đã nhận ông làm dưỡng tử và gửi vào học ở Trường Thiếu sinh quân Đông Dương (tiếng Pháp: École d'enfants de troupe) ở Vũng Tàu khi ông 14 tuổi. Năm 19 tuổi, ông tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân và nhận chứng chỉ tốt nghiệp tương đương với văn bằng Tú tài bán phần (Tú tài I). Binh nghiệp Quân đội Quốc gia Việt Nam Cuối năm 1951, ông nhập ngũ Quân đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân 52/120.117, sau đó được cử theo học Khóa 4 Trường Võ bị Địa phương ở Vũng Tàu (École militaire Cap Saint-Jacques). Tháng 10 năm 1952, ông mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy phục vụ đơn vị Bộ binh. Đầu năm 1953, ông được cử đi học khóa huấn luyện "Đại đội trưởng" tại Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (École militaire interarmes de Dalat). Đầu năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa "Tiểu đoàn trưởng" tại Trung tâm Chiến thuật Hà Nội (Centre de formation tactique des officiers vietnamiens d'Hanoï). Ra trường, ông được cử giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia khi mới 22 tuổi. Trong những tháng cuối cùng của chiến tranh Đông Dương, ông chỉ huy trọng pháo ở Móng Cái và Lạng Sơn. Không lâu sau Hiệp định Genève, đầu tháng 8 năm 1954 ông di chuyển vào miền Nam Việt Nam và được thăng cấp Trung úy, phục vụ tại phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng phòng Hành quân. Quân lực Việt Nam Cộng hòa Đầu tháng 11 năm 1955, ông được chuyển biên chế sang Quân lực Việt Nam Cộng hòa, kiêm nhiệm chức vụ Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của phân khu Đồng Tháp Mười, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là. Trước đó ông đóng quân ở khu vực mà nay là các huyện Đức Hòa, Đức Huệ tỉnh Long An. Năm 1956 ông tham gia chiến dịch Thoại Ngọc Hầu do tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh để đánh dẹp lực lượng quân sự Phật giáo Hòa Hảo, và tướng Minh từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ. Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy Tham mưu sơ cấp tại quần đảo Hawaii, Hoa Kỳ. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm. Ông kiêm nhiệm nhiều chức vụ như Bí thư Tổng giám đốc Cảnh sát, Công an Quốc gia và Chánh văn phòng Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tháng 11 năm 1961, ông chuyển về Bộ Tổng tham mưu, phục vụ trong khối Lãnh thổ, dưới quyền Tổng Tham mưu trưởng là Đại tướng Lê Văn Tỵ. Sau Đảo chính 1963, ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ phó phòng Nhân viên ở khối Lãnh thổ. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung tá lên làm Trưởng phòng Nhân viên trong khối Lãnh thổ. Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Đại tá, chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu phó, trải qua hai đời Tổng Tham mưu phó là Trung tướng Nguyễn Văn Là (1968-1974) và Trung tướng Nguyễn Văn Mạnh (1974-1975), cùng Tổng Tham mưu trưởng là Đại tướng Cao Văn Viên. Ông giữ chức vụ này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông được tặng thưởng Đệ Tứ đẳng Bảo quốc Huân chương và một số huy chương quân sự, dân sự khác. Nhạc nghiệp trước 1975 Tân nhạc Thời gian học tại Trường Thiếu sinh quân Đông Dương, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc Học viện Âm nhạc Paris sang giảng dạy. Năm 15 tuổi, ông trở thành thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như "Thiếu sinh quân hành khúc", "Tạm biệt mùa hè",... Nhạc sĩ chơi kèn trumpet, kèn clairon, trống, chập chả, mandoline, Hạ Uy cầm,... Nguyễn Văn Đông lấy binh nghiệp làm chính, xem âm nhạc là nghề tay trái. Dù vậy, ngay từ cuối thập niên 1950 ông đã nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim,... Ông đã tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1958, ông là Trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc,... Năm sau, ông là Trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp Quốc gia, đã quy tụ trên 40 đoàn văn nghệ đại diện Việt Nam Cộng hòa cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải Âm nhạc Quốc gia do Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân trao tặng. Rất nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính miền Nam thời đó, thường ký "Vì Dân" hoặc "Nguyễn Văn Đông". Nhạc phẩm habanera "Phiên gác đêm xuân" được ông phát hành năm 1959 trong niềm hồi tưởng đêm 30 Tết Nguyên Đán năm 1956 khi đang gác phiên ở Khu 9 Đồng Tháp Mười. Bản slow-tango "Chiều mưa biên giới" cũng xuất bản năm 1959 trong nỗi hoài niệm khoảng thời gian đóng quân miền biên giới Việt Nam-Campuchia kể trên. Bài này nổi tiếng qua giọng Trần Văn Trạch, người đã ca bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp trong hợp đồng thu thanh với một hãng dĩa của Pháp, thu âm thu hình cho hai đài Europe No.1 và Ðài Truyền hình Pháp. Trong vòng ba tháng, Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam phá kỷ lục xuất bản với doanh số hơn sáu vạn tờ nhạc. Nhạc khúc điệu slow "Mấy dặm sơn khê" cũng vang danh qua giọng ca Trần Văn Trạch và ca sĩ Lệ Thanh; đến năm 1961, trong đại nhạc hội Trăm Hoa Miền Nam kéo dài 10 đêm ở rạp Hưng Đạo (Sài Gòn), tác giả song ca với ca sĩ Thái Thanh ca khúc này cùng ban đại hòa tấu của nhạc trưởng Nghiêm Phú Phi và sự tham gia của nhạc sĩ Lê Thương. Bản tango habanera "Sắc hoa màu nhớ" ghi lại tình cảm nhẹ nhàng thuở học trò trong lòng người quân nhân một chiều hành quân qua lối cũ. Điệu slow "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp" thì nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh. Khoảng năm 1968, ông viết bài "Anh trước tôi sau" để tưởng nhớ người đồng môn ở Trường Thiếu sinh quân là Thiếu tướng Trương Quang Ân, nội dung hàm ý người lính chấp nhận chuyện sống chết, chỉ là ai trước ai sau. Tuy nhiên, vào khoảng từ tháng 11 năm 1961, đã có đồng thời hoặc lần lượt bốn bài hát của ông bị Bộ Thông tin Đệ nhất Cộng hòa cấm phổ biến với lý do gây bất lợi cho chiến cuộc, gồm "Chiều mưa biên giới", "Phiên gác đêm xuân", "Mấy dặm sơn khê" và "Nhớ một chiều xuân". Cùng thời gian này hai bản "Cuốn theo chiều gió" và "Bến đò biên giới" cũng từng bị nhạc sĩ thông báo là không xuất bản nữa. Bài "Mấy dặm sơn khê" phải chỉnh sửa hàng loạt câu từ thì về sau mới lưu hành trở lại. Vì sự vụ này mà ông bị quân đội phạt 15 ngày trọng cấm và cấm hiện diện trong tất cả sinh hoạt ca nhạc tại địa điểm công cộng, đồng thời đình chỉ thăng hàm trong vòng hai năm kế tiếp. Ông còn có nhiều nghệ danh khác như Phượng Linh, Phương Hà, trên nhiều nhạc phẩm tình cảm như "Cay đắng tình đời", "Chiếc bóng công viên", "Dạ sầu", "Khi đã yêu", "Niềm đau dĩ vãng", "Thầm kín", "Thương muộn", "Thương về mùa đông biên giới", "Xin đừng trách anh", "Nhớ Huế", "Màu xanh Noel",... Ông còn có một nghệ danh rất hiếm là Hoàng Long Nguyên với bài "Truông mây". Tân cổ giao duyên Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 như Đoạn tuyệt, Mắt em là bể oan cừu, Mưa rừng, Nửa đời hương phấn, Sân khấu về khuya, Tiếng hạc trong trăng,... và vô số bản tân cổ giao duyên. Ông chủ động học hỏi soạn giả Hoàng Khâm, các danh cầm Văn Vĩ, Năm Cơ, Hai Thơm,...để có đủ kiến thức cộng tác cùng các soạn giả cải lương nhằm phát triển song song hai bộ môn tân nhạc và cổ nhạc như chủ trương hoạt động của hãng Continental. Xuất phát từ sáng kiến nghiên cứu cách cải cách sáu câu vọng cổ của kỹ sư Ngô Văn Đức (hãng dĩa Asia), Nguyễn Văn Đông trở thành người có công hàng đầu trong sự phát triển của phong trào tân cổ giao duyên. Ông và soạn giả Viễn Châu đã nghiên cứu lắp ráp tân nhạc-cổ nhạc sao cho ăn khớp nhau. Ông cho ra đời phương pháp ký âm bài nhạc hòa hợp giữa tân nhạc và cổ nhạc bằng một cách thức dễ hiểu, hợp mọi trình độ nhạc lý, hầu giúp nghệ sĩ cổ nhạc mang lên sân khấu hát dễ dàng như bản tân nhạc, nhan đề là Hướng dẫn ca và kỹ thuật sáng tác bài tân cổ giao duyên. Tân cổ giao duyên đã cứu vãn tình thế ế ẩm của các băng dĩa cổ nhạc thuần túy đương thời. Giám đốc âm nhạc Từ khi chuyển qua Bộ Tổng Tham mưu, dù Bộ Quốc phòng không ưa chuyện ông làm âm nhạc, nhưng ông tự tả mình là "người chia làm hai" vì làm quân sự trong tuần còn làm nhạc và băng dĩa vào tối thứ Bảy và Chủ Nhật. Ông là Giám đốc nghệ thuật của hai hãng ghi âm là Continental (thành lập năm 1960) và Sơn Ca (thành lập năm 1967), cũng như nhãn hiệu băng nhạc Premier, cộng tác với các tài danh hòa âm phối khí tên tuổi như Lê Văn Thiện, Nghiêm Phú Phi, Văn Phụng, Y Vân,... Các cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở tuồng cải lương. Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong thực hiện album phòng thu riêng cho từng ca sĩ, mở ra một hướng đi mới mẻ cho nhiều băng khác về sau, trong bối cảnh các băng nhạc đương thời phần lớn là băng tổng hợp nhiều ca sĩ. Sự khai phá ấy chính là loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng, có thể kể đến Khánh Ly với băng nhạc Trịnh Công Sơn - Sơn Ca 7, Thái Thanh và Ban Thăng Long – Sơn Ca 10, Lệ Thu – Sơn Ca 9, Phương Dung – Sơn Ca 5 và Sơn Ca 11, Giao Linh – Sơn Ca 6, Sơn Ca – Sơn Ca 8,... Ông cũng chủ trương bốn nhà xuất bản tờ nhạc là: Trăm Hoa Miền Nam (lập năm 1966, Phượng Linh chủ trương), Nhạc Quê Hương (1967, Đông Phương Tử chủ trương), Hoa Bốn Phương (1971) và Việt Nhạc. Hai nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và Y Vân cùng nhau thực hiện công trình nghệ thuật Dân ca ba miền về sưu tầm và quảng bá các làn điệu dân ca Việt Nam, trong đó Nguyễn Văn Đông phác thảo, còn Y Vân sưu tầm, sàng lọc, tuyển lựa dày công trong hai năm. Năm 1974, hãng dĩa Continental thu âm và phát hành thành băng Continental 6: Dân ca 3 miền - Nam, Trung, Bắc, nhan đề tiếng Anh là Vietnamese Traditional Songs, gửi tặng đại sứ quán các nước đóng tại đô thành và các cơ quan phụ trách văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Công trình này từng được Tổng Giám đốc UNESCO khích lệ lập hồ sơ đề nghị xét duyệt di sản cho dân ca Việt Nam, và dù hồ sơ đã trình cơ quan chính phủ nhưng vĩnh viễn không kịp gửi đi vì hoàn cảnh lịch sử vào năm sau. Cơ duyên với các ca sĩ Ông đã đào tạo hai học trò thành ca sĩ nổi tiếng, được đông đảo người yêu thích nhạc vàng biết đến, đó là Thanh Tuyền và Giao Linh. Ông phát hiện Thanh Tuyền từ khi bà còn là nữ sinh trung học ở Đà Lạt, gầy dựng nền tảng cho sự nghiệp lừng lẫy của bà sau này. Những năm sau đó, ông lại thu nhận thêm gương mặt mới Giao Linh, rèn giũa và lăng xê bà với bản hợp đồng độc quyền qua hãng Continental. Sau này, cả hai giọng ca đều là tượng đài của dòng nhạc vàng. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông dùng lời lẽ sau để nói về giọng hát của Hà Thanh khi biểu diễn nhạc của ông: "Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa, trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác giả khi trình bày một bản nhạc có tầm vóc nghệ thuật." Hà Thanh cũng phát biểu với báo chí đương thời rằng "air" nhạc của ông hợp với chất giọng của bà. Sau năm 1975 Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vì là một sĩ quan cao cấp của chính thể cũ nên ông bị bắt đi học tập cải tạo, bắt đầu từ trại Suối Máu (tức trại Tam Hiệp, ở Biên Hòa, Đồng Nai), tới năm 1978 thì bị đưa về giam ở khám Chí Hòa. Đầu năm 1985, ông được trả về với lý do "đương sự bị bệnh sắp chết", cho "đem về nhà chôn cất". Khi đó ông thuộc danh sách ưu tiên đi định cư Hoa Kỳ diện H.O. nhưng vì sức khỏe đã tàn tạ, nghĩ rằng không thể sống thêm nên ông rút hồ sơ hòng qua đời tại quê hương. Tuy nhiên, may mắn nhờ các loại tân dược hữu hiệu nên sức khỏe được phần hồi phục, đến năm 1995 ông đã có thể đứng được mà không cần chống nạng. Ông sống thầm lặng tại quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh cùng vợ là bà Trần Thị Nguyệt Thu, cựu nhân viên hãng dĩa Continental. Một thời gian dài, toàn bộ sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông bị nhà đương cục cấm lưu hành, phổ biến. Dần dà khi Việt Nam trở nên cởi mở hơn, năm 2003, Cục Nghệ thuật biểu diễn nước này cấp phép lưu hành khoảng 24 ca khúc. Năm 2017, ca khúc đắc ý "Chiều mưa biên giới" mới được cấp phép. Một điều ít biết là bài "Chiều mưa biên giới" đã theo các dĩa hát phát tán đi nhiều nơi ở nước Việt Nam thống nhất kể từ sau năm 1975; có chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nghe ca khúc này và thêm lòng tin chiến đấu ngay trong giai đoạn Chiến tranh biên giới Việt–Trung năm 1979. Suốt hàng chục năm ông không hoạt động nghệ thuật. Giai đoạn ở trại Suối Máu, ông cảm tác bài "Sài Gòn trong trái tim tôi". Bài "Sài Gòn trong trái tim tôi" và "Chào đất nước tự do và hy vọng" được ông tập cho Hà Thanh hát năm 1999 khi gia đình bà về Việt Nam lo việc riêng. Về Hoa Kỳ, Hà Thanh đã chép lại và được tác giả đề nghị đề nghệ danh là Anh Nguyên. Sáng tác cuối cùng của ông là bài "Việt Nam quê hương lộng lẫy". Cuối thập niên 1990, ông hướng dẫn hát và sáng tác cho ca sĩ Trần Tuấn Kiệt quê Sa Đéc, Đồng Tháp và đây được coi là học trò thứ ba của ông. Vào hồi 19 giờ 30 phút ngày 26 tháng 2 năm 2018, Nguyễn Văn Đông qua đời tại bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 86 tuổi. Tro cốt của ông được rải xuống biển Vũng Tàu thể theo di nguyện. Cuối tháng 4 năm 2018, Trung tâm Thúy Nga đã thực hiện chương trình Paris By Night 125 - Chiều mưa biên giới để vinh danh dòng nhạc và tưởng niệm ông. Danh sách tác phẩm Ca khúc Tân cổ giao duyên Lời tân nhạc hoặc phần âm nhạc Lời vọng cổ Đặt lời Việt
Mänttä là thành phố tự trị của Phần Lan. Thành phố nằm tại tỉnh Tây Phần Lan và là một phần của vùng Pirkanmaa, có số dân 6.680 (2003) và diện tích 85.84 km² bao gồm 21.61 km² nước. Mật độ dân là 104.0 người trên km². Mänttä dùng tiếng Phần Lan.
Sailor Moon, tên đầy đủ là , hay còn biết tới với tên gọi Thủy Thủ Mặt Trăng tại Việt Nam là bộ truyện tranh Nhật Bản rất nổi tiếng, thuộc thể loại shoujo của mangaka Takeuchi Naoko. Bộ truyện đã được chuyển thể thành anime, live action và game. Manga được đăng lần đầu trên tạp chí Nakayoshi (thuộc Nhà xuất bản Kodansha) từ năm 1992 đến năm 1997. Bộ truyện gồm 52 chương - được tổng hợp thành 18 quyển (riêng quyển 11 tập hợp những câu chuyện ngắn có nội dung khác hoàn toàn với cốt truyện chính). Bộ truyện còn được dịch ra nhiều thứ tiếng và nổi tiếng khắp thế giới. Đầu năm 2003, Sailor Moon được tái bản tại Nhật với dạng "bản tân trang" (新装版, shinshouban). Phiên bản này có bìa và logo hoàn toàn mới, các khung tranh được tác giả chỉnh sửa lại ở một số chỗ. Phiên bản này gồm 60 chương - tổng hợp thành 12 quyển (riêng 2 quyển cuối tập hợp những câu chuyện ngắn có nội dung khác hoàn toàn với cốt truyện chính). Cuối năm 2013, Nhân dịp kỉ niệm 20 năm ra mắt, Sailor Moon một lần nữa được tái bản tại Nhật với phiên bản mang tên "kanzenban" (完全版). Phiên bản này được tổng hợp thành 10 quyển - được thay toàn bộ bìa mới cũng như khung tranh được chỉnh sửa trau chuốt hơn; ngoài ra còn kèm theo một số trang tranh in màu và kích thước sách cũng to hơn. Tại Việt Nam, Sailor Moon được xuất bản lần đầu vào năm 1995 với tên Thủy Thủ Mặt Trăng. Bộ truyện được dịch và vẽ lại lại theo nội dung của anime, do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành, gồm 70 quyển. Năm 2002, truyện được Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành với tên Sailor Moon, do dịch giả Bùi Anh Đào dịch từ bản manga tiếng Nhật. Tháng 8/2016, Sailor Moon một lần nữa chính thức trở lại Việt Nam. Truyện đã được Nhà xuất bản Kim Đồng mua bản quyền chính thức từ tác giả Takeuchi Naoko và Nhà xuất bản Kodansha tại Nhật Bản. Nội dung Truyện xoay quanh hành trình tiêu diệt cái ác, bảo vệ Trái Đất, hệ Mặt Trời, thiên hà, và cả vũ trụ của nhóm chiến binh thủy thủ thái dương hệ. Bối cảnh chính của truyện là ở thành phố Tokyo, Nhật Bản thời hiện đại với nhân vật chính là Usagi Tsukino - một cô bé hậu đậu, học kém, làm việc gì cũng không nên thân, hay đi học muộn đã thế lại còn thường hay khóc nhè. Sau cuộc gặp gỡ định mệnh với mèo Luna, Usagi trở thành Thủy thủ Mặt Trăng (Sailor Moon) - chiến binh chính nghĩa tiêu diệt Thế Lực Bóng Đêm. Qua các cuộc chiến, cô gặp gỡ và kết bạn với các chiến binh khác là Thủy Thủ Sao Thủy (Sailor Mercury), Thủy Thủ Sao Hỏa (Sailor Mars), Thủy Thủ Sao Mộc (Sailor Jupiter), Thủy Thủ Sao Kim (Sailor Venus) và Tuxedo Mặt Nạ (Tuxedo Mask). Cả nhóm cũng khám phá ra thân thế thật sự của mình sau khi đồng hành chiến đấu cùng nhau. Arc 1: Vương quốc Bóng Đêm (Dark Kingdom) Trong Arc đầu tiên, cả nhóm chống lại Vương quốc bóng tối (Dark Kingdom). Đứng đầu bởi nữ hoàng Beryl cùng một nhóm quân sư hộ vệ là Shinteno – tìm kiếm Pha lê Bạc để giải thoát cho một kẻ bị giam cầm, một thực thể xấu xa gọi là hoàng hậu Metaria. Usagi và đồng đội của mình phát hiện ra rằng kiếp trước họ là những cư dân của vương quốc Mặt Trăng cổ xưa có tên gọi là Vương quốc Thiên niên Kỷ Bạc. Vương quốc Bóng tối phát động chiến tranh dẫn đến sự hủy diệt của Vương quốc Mặt Trăng, khiến nữ hoàng Serenity phải gửi con gái mình là công chúa Serenity, những Thủy thủ Bảo hộ, những người hướng dẫn là Luna và Artemis, và tình yêu đích thực của Công chúa là Hoàng tử Endymion đến tương lai để được đầu thai thông qua sức mạnh của Pha lê Bạc. Cả nhóm sau đó phát hiện ra Usagi là hiện thân của Công chúa Serenity và Mamoru chính là Hoàng tử Endymion, Minako (Thủy thủ Sao Kim) lúc này thừa nhận ban đầu cô đã nói dối mình chính là công chúa Serenity để bảo vệ công chúa thật là Usagi còn thân phận thực sự của Minako là thủ lĩnh của các Chiến binh Thủy thủ Thái Dương Hệ (Inner Senshi). Nhóm chiến binh Thủy thủ sau đó giết chết nhóm Shinteno, những người từng là hộ vệ của hoàng tử Endymion và phản bội trong kiếp trước của mình. Trong trận đấu cuối cùng với Vương quốc Bóng tối, Thủy thủ Mặt Trăng (Usagi) tiêu diệt nữ hoàng Beryl, đồng thời cùng những Chiến binh Thủy thủ khác hy sinh mạng sống nhằm giết chết nữ hoàng Metaria. Bằng sức mạnh của Pha lê bạc, Usagi thành công trong việc tiêu diệt nữ hoàng Metaria và hồi sinh các bạn của mình. Arc 2: Mặt Trăng Đen (Black Moon) Ở Arc thứ hai, Chibiusa - con gái trong tương lai của Usagi và Mamoru đến từ thế kỷ 30 để tìm Pha lê Bạc. Các Chiến binh Thủy thủ Sao Hỏa, Sao Thủy, Sao Mộc lần lượt bị tấn công và bị bắt đi bởi một nhóm gọi là Mặt Trăng Đen, riêng Thủy thủ Sao Kim thì được Thủy thủ Mặt Trăng cứu kịp thời nên đã không bị bắt. Chibiusa sau đó đã nói ra thân phận của mình và đưa Thủy thủ Mặt Trăng, Thủy thủ Sao Kim và Tuxedo Mặt nạ tới Vương quốc Thiên niên Kỷ Bạc ở tương lai để cứu giúp khỏi sự tấn công của nhóm Mặt Trăng Đen, nơi mà cha mẹ cô bé là Nữ hoàng Neo Serenity và vua Endymion trị vì. Trong cuộc hành trình họ gặp Thủy thủ Sao Diêm Vương, người canh gác cánh cổng không - thời gian, cô là người đã làm ngưng lại sự liên tục của không gian - thời gian để ngăn chặn hoàng tử Demand của nhóm Mặt Trăng Đen phá hủy Vương quốc, do đó dẫn đến cái chết của bản thân. Chibiusa sau đó thức tỉnh sức mạnh Bảo hộ - Thủy thủ Mặt trăng Chibi và giúp Usagi giết chết thực thể thực sự của Wiseman (là cố vấn của nhóm Mặt Trăng Đen) - Death Phantom. Arc 3: Ngôi sao Tử Thần (Death Busters - Mugen/Infinity Arc) Arc thứ ba xoay quanh một nhóm sinh vật gọi là Ngôi sao Tử thần, được tạo ra bởi giáo sư Soichi Tomoe, người đã tìm cách chuyển dịch thực thể của Pharaoh 90 tới Trái Đất để nhập lại thành một. Hotaru là con gái của Tomoe bị chiếm giữ linh hồn bởi Mistress 9, kẻ mở cánh cổng xuyên không - thời gian để Pharaoh 90 du hành. Tay đua Haruka Tenoh và nghệ sĩ vĩ cầm Michiru Kaioh xuất hiện với vai trò Thủy thủ Sao Thiên Vương và Thủy thủ Sao Hải Vương - những người canh gác Hệ Mặt trời khỏi những mối nguy hại từ bên ngoài. Học sinh vật lý Setsuna Meioh - hiện thân tái sinh của Thủy thủ Sao Diêm Vương, họ lập thành một nhóm - được gọi là Outer Senshi (nhóm Chiến binh ngoài Thái Dương Hệ). Sau khi cùng Chibiusa và Tuxedo Mặt nạ kết hợp sức mạnh để phá vỡ phép thuật của Cyprine và Pitol đang tác dụng lên các Thủy thủ, khiến họ chiến đấu chống lại nhau, Usagi đã nhận được Chén thánh. Sau khi tỉnh lại, các Thủy thủ đã cùng nhau truyền sức mạnh vào Chén Thánh, nhờ đó Usagi có thể biến thân thành Siêu Thủy thủ Mặt Trăng, họ dự định sử dụng sức mạnh của Chén thánh và Pha lê bạc để tiêu diệt Pharaoh 90. Điều này khiến Hotaru thức tỉnh sức mạnh Thủy thủ Sao Thổ - người mà Haruka, Michiru và Setsuna xem như mối nguy hại, họ cho rằng cô là người mang đến cái chết và hủy diệt thế giới nên lập kế hoạch để giết chết cô. Chibiusa tới để cảnh báo Hotaru, nhưng vừa lúc đó Mistress 9 thức tỉnh, cướp Pha lê Chiến binh và linh hồn của Chibiusa. Tuy nhiên, cho dù Mistress 9 điều khiển cơ thể, linh hồn của Hotaru vẫn tồn tại và quan sát hết tất cả các sự việc. Cô bảo vệ linh hồn của Chibiusa và sức mạnh của viên Pha lê từ tay Mistress 9, cố gắng đuổi thực thể đó ra khỏi cơ thể của mình. Khi Mistress 9 cố gắng ăn tươi nuốt sống linh hồn của các Inner Senshi để có nhiều năng lượng, Hotaru đã giải thoát cho họ trở lại cơ thể chính mình, và trả lại Pha lê Chiến binh cho Chibiusa. Cô biến mất sau đó, nhưng nhanh chóng trở lại dưới hình dạng Thủy thủ Sao Thổ, cùng với Thủy thủ Sao Diêm Vương (Sailor Pluto) tiêu diệt Pharaoh 90, đánh đổi lại là cái chết của cô (bị hút cùng với Pharaoh 90 sang một khoảng không - thời gian khác). Sau sự qua đời của Thủy thủ Sao Thổ khi cô thoát khỏi nhóm Ngôi sao Tử Thần, Outer Senshi phát hiện ra Hotaru đã tái sinh trong hình dạng một bé sơ sinh khỏe mạnh, họ quyết định nhận nuôi cô bé và sau đó rời khỏi thành phố với lời hứa sẽ gặp lại nhóm Usagi vào một ngày không xa. Arc 4: Gánh xiếc Tử Nguyệt (Dead Moon Circus - Dream Arc) Trong Arc thứ tư, Usagi và các bạn đã nhập học trường cấp III, chống lại Đoàn xiếc Tử Nguyệt do nữ hoàng Nehelenia đứng đầu, kẻ tự nhận là "người thống trị đích thực" của cả vương quốc Thiên niên kỷ Bạc và Trái Đất. Nehelenia xâm chiếm Elysion, thánh địa Vương quốc Hoàng kim của Trái Đất, bắt giữ linh mục Helios và ra lệnh cho thuộc hạ đánh cắp Pha lê Bạc. Vì là hoàng tử Endymion, Mamoru được cho biết anh chính là người sở hữu của Pha lê Vàng – viên đá thiêng liêng của Vương quốc Hoàng kim. Mamoru và những Chiến binh Thủy thủ kết hợp sức mạnh với Chén thánh, biến Usagi trở thành Thủy thủ Mặt trăng Vĩnh cửu và tiêu diệt nữ hoàng Nehelenia. Bốn tay sai của nữ hoàng Nehelenia, Tứ nữ quái Amazon, được tiết lộ chính là những Thủy thủ Bảo hộ với cái tên Bộ tứ Thủy thủ, những người đã được định sẵn sẽ trở thành người bảo hộ của Chibiusa sau này, họ đã bị đánh thức sớm hơn dự định và bị điều khiển bởi nữ hoàng Nehelenia. Bộ tứ Thủy thủ sau đó rời đi, còn Helios thì trở về Elyson với lời hứa họ sẽ gặp lại Chibiusa trong tương lai. Chibiusa cũng hy vọng khi gặp lại họ, cô sẽ là một chiến binh dũng mãnh, một công chúa xinh đẹp. Arc 5: Vũ trụ Ngân hà (Stars Arc) Trong Arc cuối cùng, Usagi và nhóm bạn bị cuốn vào cuộc chiến với nhóm Bóng tối Ngân hà (Shadow Galactica), một nhóm những Thủy thủ bảo hộ sa ngã. Thủ lĩnh của họ - Thủy thủ Ngân Hà (Sailor Galaxia) lên kế hoạch đánh cắp Pha lê Thủy thủ từ những Thủy thủ đích thực để thống trị ngân hà và tiêu diệt một thực thể xấu xa có tên gọi là Chaos. Sau khi giết chết Mamoru và hầu hết các Chiến binh Thủy thủ, Thủy thủ Ngân Hà đánh cắp Pha lê Thủy thủ của họ. Usagi sau đó du hành đến Vạc Ngân Hà để đánh bại nhóm Galaxia và hồi sinh đồng đội. Đồng hành cùng Usagi là nhóm Thủy thủ Ánh Sao (Sailor Starlights) đến từ hành tinh Kinmoku, cùng Công chúa của họ là Kakyuu và Thủy thủ Chibichibi đến từ tương lai. Sau đó, Chibiusa và nhóm tứ Thủy thủ cũng tới để trợ giúp cho Usagi. Sau trận chiến và cái chết của Galaxia, Thủy thủ Chibichibi hiện nguyên hình là Thủy thủ Vũ Trụ (Sailor Cosmos) - là một hình thái tối cao trong tương lai của Usagi, Usagi sau đó tiêu diệt Chaos bằng Pha lê Bạc. Mamoru và những Chiến binh Thủy thủ được hồi sinh và quay trở về Trái Đất. Câu chuyện kết thúc bằng đám cưới của Usagi và Mamoru 6 năm sau đó. Nhân vật Tsukino Usagi (月野 うさぎ) / Thủy Thủ Mặt Trăng (Sailor Moon) Mizuno Ami (水野 亜美) / Thủy Thủ Sao Thủy (Sailor Mercury) Hino Rei (火野 レイ) / Thủy Thủ Sao Hỏa (Sailor Mars) Kino Makoto (木野 まこと) / Thủy Thủ Sao Mộc (Sailor Jupiter) Aino Minako (愛野 美奈子) / Thủy Thủ Sao Kim (Sailor Venus) Mamoru Chiba (地場衛) / Tuxedo Mặt Nạ (Tuxedo Mask) Chibiusa (ちびうさ) / Thủy Thủ Mặt Trăng Chibi (Sailor Chibi Moon) Tenou Haruka (天王はるか) / Thủy Thủ Sao Thiên Vương (Sailor Uranus) Kaiou Michiru (海王みちる) / Thủy Thủ Sao Hải Vương (Sailor Neptune) Meiou Setsuna (冥王せつな) / Thủy Thủ Sao Diêm Vương (Sailor Pluto) Tomoe Hotaru (土萠 ほたる) / Thủy Thủ Sao Thổ (Sailor Saturn) Những phụ kiện - vũ khí trong Sailor Moon Trong Sailor Moon, mỗi Chiến binh thủy thủ đều có những món phụ kiện và vũ khí đặc biệt để chiến đấu với kẻ xấu. Và cũng có rất nhiều những phụ kiện góp phần không nhỏ trong cốt truyện cũng như trong các phiên bản phim. Đa số chúng đều đến từ Lâu đài Thiên niên Kỷ bạc, hầu hết được đưa vào dựa theo Thần thoại Hy Lạp. Có một số phụ kiện chỉ xuất hiện trong Manga chứ không xuất hiện trong Anime 90s và ngược lại. Và cũng có một số phụ kiện được thay đổi một chút so với bản gốc. Chuyển thể Anime Sailor Moon (TV series) Toei Animation đã sản xuất một series truyền hình anime dựa trên 52 chương manga, có tựa đề là Pretty Soldier Sailor Moon. Junichi Sato đạo diễn phần đầu tiên, Kunihiko Ikuhara đảm nhận phần thứ hai đến phần thứ tư, và Takuya Igarashi đạo diễn phần thứ năm cũng là phần cuối cùng. Bộ phim được công chiếu lần đầu tại Nhật Bản trên TV Asahi vào ngày 7 tháng 3 năm 1992, kéo dài 200 tập, được chia làm 5 phần: Sailor Moon, Sailor Moon R, Sailor Moon S, Sailor Moon SuperS và Sailor Moon Sailor Stars. Ngoài ra còn có 3 phim điện ảnh là Sailor Moon R Movie - Promise of the Rose, Sailor Moon S Movie - Hearts in Ice và Sailor Moon SuperS Movie - Black Dream Hole. Và còn có một số OVA chưa được chiếu trên TV như Ami's First Love. Bộ phim kết thúc vào ngày 8 tháng 2 năm 1997. Hầu hết các phiên bản quốc tế, bao gồm cả các phiên bản chuyển thể bằng tiếng Anh, đều ghi tựa đề là Sailor Moon. Tại Việt Nam, bộ phim đã được chiếu ở Việt Nam trên kênh VTV3 từ năm 1996 - 1998 nhưng dừng lại ở phần Sailor Moon S. Sau hơn 20 năm vắng bóng tại Việt Nam kể từ khi kênh VTV3 phát sóng vào năm 1996, vào năm 2015, bộ phim này đã chính thức trở lại Việt Nam một lần nữa. Sailor Moon đã được kênh giải trí hàng đầu dành cho thiếu nhi và gia đình là HTV3 mua bản quyền phát sóng chính thức từ tác giả của bộ phim là Takeuchi Naoko/Kodansha - Toei Animation. Với kĩ thuật lồng tiếng hiện đại của HTV3 và chất lượng hình ảnh rõ nét vào năm 2015, bộ phim đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía của rất nhiều khán giả. Bộ phim được phát sóng trên kênh HTV3 vào lúc 18h, từ thứ 2 - thứ 5 hàng tuần bắt đầu từ ngày 30/4/2015 và chiếu hết đến tập 46 ngày 20/7/2015 với tên gọi "Thủy Thủ Mặt Trăng". Sailor Moon Crystal Năm 2014, nhân kỉ niệm lần thứ 20 cho manga Sailor Moon. Hãng Toei Animation đã cho ra mắt bộ phim Sailor Moon Crystal với nội dung bám sát vào bộ manga của tác giả Naoko. Vào ngày 6 tháng 7 năm 2012, Kodansha và Toei Animation thông báo rằng họ sẽ bắt đầu sản xuất anime chuyển thể mới của Sailor Moon, được gọi là Bishōjo Senshi Sailor Moon Crystal để phát hành đồng thời trên toàn thế giới vào năm 2013 như một phần của lễ kỷ niệm 20 năm của bộ truyện, và nó sẽ được chuyển thể từ manga chặt chẽ hơn so với chuyển thể anime đầu tiên. Phim được công chiếu vào ngày 5 tháng 7 năm 2014, và các tập mới sẽ phát sóng vào các ngày thứ Bảy đầu tiên và thứ Ba hàng tháng. Dàn diễn viên mới đã được công bố, cùng với Kotono Mitsuishi đảm nhận vai diễn Sailor Moon. Hai mùa đầu tiên được phát hành cùng nhau, bao gồm các arc tương ứng của manga (Vương quốc bóng tối và Mặt trăng đen). Phần thứ ba (có tiêu đề là Ngôi sao tử thần, dựa trên arc Infinity của manga) được công chiếu trên truyền hình Nhật Bản vào ngày 4 tháng 4 năm 2016. Sailor Moon Eternal Vào năm 2017, có thông tin tiết lộ rằng mùa thứ tư của anime Pretty Guardian Sailor Moon Crystal sẽ tiếp tục như một dự án phim hoạt hình chiếu rạp gồm hai phần chuyển thể từ Dream arc từ manga (tiêu đề là Dead Moon). Vào ngày 30 tháng 6 năm 2019, có thông báo rằng tựa đề của các phần phim sẽ là Pretty Guardian Sailor Moon Eternal: The Movie. Phần phim đầu tiên ban đầu được phát hành vào ngày 11 tháng 9 năm 2020, nhưng đã bị hoãn lại và phát hành vào ngày 8 tháng 1 năm 2021, và phần phim thứ hai được phát hành vào ngày 11 tháng 2 năm 2021. Chiaki Kon trở lại từ mùa thứ ba của phiên bản anime Crystal để đạo diễn hai phần phim. Phiên bản Live Action Tokyo Broadcasting System và Chubu-Nippon Broadcasting (Nhật Bản) trình chiếu phiên bản phim truyền hình Sailor Moon từ ngày 4 tháng 10 năm 2003 đến ngày 25 tháng 9 năm 2004. Phim bao gồm 49 tập. Ban đầu, bộ phim theo khá sát với nguyên tác truyện tranh nhưng về sau phim có những thay đổi quan trọng trong cốt truyện khi xuất hiện những tình tiết mới. Ngoài ra, còn có 2 tập được phát hành Video trực tiếp sau khi phim kết thúc trên TV. Đó là Special Act, kể về 4 năm sau khi phim truyền hình kết thúc và Act Zero, kể về xuất thân của Thủy thủ Sao Kim và Tuxedo Mặt nạ.
Silicone là các polyme bao gồm bất kỳ hợp chất tổng hợp, trơ được tạo thành từ các đơn vị lặp lại của siloxan, gồm một nhóm chức của hai nguyên tử silic và một nguyên tử oxy thường xuyên kết hợp với cacbon và/hoặc hydro. Silicon thường chịu nhiệt và đàn hồi như cao su, được sử dụng trong chất bịt kín, chất kết dính, chất bôi trơn, thuốc men, dụng cụ nấu ăn và dùng trong cách nhiệt và cách điện. Một số hình thức phổ biến bao gồm dầu silicon, mỡ silicon, cao su silicon, nhựa silicon. Chú thích
, được biết nhiều hơn với cái tên là một nhân vật trong bộ truyện Sailor Moon được viết bởi Naoko Takeuchi. Cô là thành viên của nhóm Chiến binh Thủy thủ, cô chiến đấu để bảo vệ Hệ mặt trời khỏi bọn ác quỷ. Rei là thành viên thứ hai được tìm thấy bởi Sailor Moon, cô mang trong mình quyền năng của lửa. Rei là Chiến binh của tranh đấu (戦いの戦士) và Chiến binh của lửa và sự phẫn nộ (炎と情熱の戦士), dưới sự giám hộ của Hành tinh của Lửa (nghĩa đen của từ Sao Hoả trong tiếng Nhật). Tuỳ thuộc vào những chiêu thức mình đưa ra có liên quan tới gì, cô cũng sẽ tự phong mình là Chiến binh của Lửa (炎の戦士) hoặc Chiến binh của sự phẫn nộ (情熱の戦士). Ngoài series Sailor Moon, cô còn là nhân vật chính trong ngoại truyện đặc biệt Trận chiến trường nữ sinh của Rei và Minako và Ký ức Casablanca. Thân thế Rei Hino sinh ngày 17 tháng 4, mang nhóm máu AB, thuộc chòm sao Bạch Dương. Rei là hóa thân hiện tại của Sailor Mars. Cô xuất hiện trong tất cả các season của Series Sailor Moon. Tính cách của Rei được thay đổi hoàn toàn từ bản manga gốc cho tới anime. Cô có ngoại hình được cho là rất xinh đẹp, tóc đen dài và thường xuất hiện trong trang phục của một Vu nữ, cùng với vật nuôi của mình là hai con quạ là Phobos và Deimos, đặt tên theo hai vệ tinh tự nhiên của sao Hỏa. Ở tập 3, Ami đã nói với Usagi rằng nếu đi trên chuyến xe buýt lúc 6h thì có thể gặp một cô gái rất đẹp. Hai người cùng lên xe và Ami đã chỉ cho Usagi nhìn thấy Rei. Usagi đã ngắm Rei mất một lúc đến khi Ami nhắc không nên nhìn chằm chằm vào người khác như vậy. Anime 90s Trong anime, Rei là một người "nóng tính", ý chí mạnh mẽ và có phần hống hách - nghĩa là một cô gái muốn có tất cả mọi thứ, từ việc ước muốn đi du lịch khắp thế giới cho đến trở thành thần tượng âm nhạc, cũng như có một người bạn trai (tính cách này của Rei trong musicals được miêu tả là tốt). Cô có một khía cạnh khác trong Anime. Lòng trung thành của cô đối với Sailor Moon cực kỳ mạnh mẽ và sự cương quyết của cô rất đáng để ngưỡng mộ. Rei thể hiện tình cảm đối với những người cô quan tâm nhất theo những cách "kỳ quặc", chẳng hạn như cô hay trêu chọc Usagi hoặc hay nói đùa với Yuuichirou. Mặc dù Rei hay cãi nhau với Usagi, cô vẫn quan tâm tới Usagi rất nhiều và hai người có một tình bạn thân thiết, Usagi cũng có vẻ gần gũi với Rei hơn các Senshi khác (trong season 5, Rei là người đầu tiên mà Usagi chia sẻ rằng Mamoru không liên lạc với cô, và Rei bực đến mức đã hỏi Usagi rằng tại sao cô phải chịu đựng nhiều như thế.) Manga Trong manga, Rei là một người khắc kỷ, ghét những người không liên quan đến mình, và ghét nhất là đàn ông (một phần do sự ghẻ lạnh từ người cha - một chính trị gia - của cô). Cô thể hiện tất cả những phẩm chất của một người phụ nữ Nhật Bản hoàn hảo: thanh lịch, sang trọng, kín đáo, thông minh và xinh đẹp. Hình ảnh Rei trong manga với vai trò một Miko hợp hơn với tính cách Rei trong Anime. Live action Tính cách của Rei trong Live Action rất giống với tính cách của cô đã được miêu tả trong Manga. Rei thích tỏ ra lạnh lùng và nghiêm túc trong phần đầu của Series này. Thêm nữa, nó còn nhấn mạnh rằng cô không quan tâm đến việc kết bạn với những cô gái khác hoặc tham gia vào các hoạt động của họ (đặc biệt là hát karaoke, thú vui mà chính cô nói rằng mình ghét nó). Thời gian trôi qua, Rei trở nên ấm áp và trở nên gần gũi với các Senshi khác hơn. Trong tất cả các Senshi, Rei là người ít quan tâm nhất về cuộc sống trong quá khứ của mình. Cô thường tranh luận với Sailor Venus về điều này. Đôi khi cô cũng có vài tranh cãi, quan điểm khác biệt với Sailor Venus, tương tự như với Sailor Moon trong Anime. Nhạc kịch Trong Sailor Moon Musicals, tính cách của Rei có vẻ giống trong Anime hơn là Manga. Cô ước mơ trở thành một nhà soạn nhạc. Gia đình Rei sống với ông nội của cô, các linh mục của đền Hikawa. Cha cô là một chính trị gia được đánh giá cao, một thành viên của đảng chính trị chiếm ưu thế ở Nhật Bản vào thời điểm đó, người không tham gia vào cuộc sống của cô. Mẹ Rei đã qua đời khi cô còn nhỏ (Điều này được đề cập trong cả manga và PGSM, nhưng nó chưa được nêu ra rõ ràng trong Anime.). Trong Anime, ngôi đền có một người giúp việc vụng về tên là Yuuichirou, người cũng đã từng là người yêu của Rei. Cô cũng có một người anh em họ, một nghệ nhân làm gốm tên là Kengo Ibuki, mặc dù điều này không được đề cập đến trong manga. Trong Parallel Sailor Moon, Rei vẫn làm việc trong đền Hikawa, dạy một khoá học thư pháp cho trẻ em, và có một cô con gái cũng được gọi là Rei, với một người chồng từng là linh mục Shinto. Các mối quan hệ Trong phiên bản anime 90s, Rei thường xung đột với Usagi vì những lý do nhỏ nhặt nhưng cũng chỉ là thoáng qua, và sau đó họ lại thân thiết với nhau. Dù Rei thường xuyên châm chọc Usagi vì tính hậu đậu của cô ấy, nhưng bất cứ khi nào Usagi cần, Rei đều giúp đỡ. Rei cũng được mô tả là có hứng thú với những chàng trai đẹp. Cô từng có giai đoạn phải lòng Chiba Mamoru, một anh chàng sinh viên đại học đẹp trai. Cô nhiều lần tán tỉnh anh, và cũng đã có nhiều buổi hẹn hò. Trong anime 90s bạn cũng thấy không ít cảnh Rei tay trong tay với Mamoru trong những phân đoạn ngoài chiến đấu với kẻ địch. Sau khi biết được Mamoru – Tuxedo mặt nạ chính là kiếp sau của Hoàng tử Endymion, là người tình của Usagi – Công chúa Serenity, người mà cô phải bảo vệ, Rei đã chủ động rút lui để giữ lại tình bạn giữa mình và Usagi Trong Senshi/Shitennou, Rei được ghép cặp với Jadeite. Cặp đôi này rất phổ biến trong Fan Fiction cũng như Fan Art. Một mối quan hệ khác tồn tại trong Anime 90s đó là với Yuuichirou Kumada. Lần đầu tiên Rei gặp Yuuichirou, cô có vẻ không thích anh. Nhưng dần dần, Rei cũng đã có cảm tình với Yuuichirou hơn. Về phần mình, Yuuichirou có thể bất chấp mạng sống chỉ để bảo vệ Rei. Trong tập 99, Yuuichirou đã vô cùng ghen với Haruka, người mà anh cho rằng là một chàng trai đang tán tỉnh Rei. Trong ngoại truyện Ký ức Casablanca, Rei yêu thầm thư ký của bố cô - Kaidou. Anh ta quan tâm đến Rei hơn là cha cô, và mua quà tặng Rei trong ngày sinh nhật của cô. Mặc dù Rei có hôn Kaidou một lần, nhưng mối quan hệ này không hề đi đến một kết thúc lãng mạn, Kaidou thì đính hôn với một người phụ nữ khác. Anh ta nói với Rei rằng đây là một mối quan hệ đã được sắp đặt từ trước, và anh chỉ chấp nhận chủ yếu trên danh dự, nhưng Rei không tin anh ta. Theo quan điểm của cô, nếu Kaidou thực sự muốn một cuộc hôn nhân để đạt được quyền lực, thì anh ta sẽ kết hôn với cô thay vì người phụ nữ kia. Ngoài ra, có rất nhiều người hâm mộ thường gán ghép cô với Aino Minako do mối quan hệ của hai người trong Live Action. Mặc dù đôi khi có bất đồng, nhưng Rei và Minako giành tình cảm và sự tôn trọng đặc biệt cho nhau nhiều hơn với các thành viên còn lại. Giữa họ có một "mối liên kết" mạnh mẽ. Biệt hiệu Sailor Mars Sailor Mars là hình dạng thứ hai của Hino Rei sau khi biến hình. Princess Mars Khi còn ở Thiên Niên Kỷ Bạc, cô là Công chúa Sao Hỏa, sống trong lâu đài Phobos and Deimos. Nhiệm vụ của cô là bảo vệ Công chúa Serenity. Những phụ kiện của Thủy thủ sao Hỏa Bùa hộ mệnh Bùa hộ mệnh (Ofuda) là loại bùa hộ mệnh, trừ tà và cả những loại bùa mê được làm / bán tại những đền thờ ở Nhật Bản. Người ta truyền rằng Ofuda mang lại may mắn, sự bảo vệ cho người sử dụng, ofuda còn có những công năng khác tùy thuộc vào những lời niệm được viết trên nó. Trong series Sailor Moon, Rei Hino đã sử dụng ofuda trong cả hình dạng người thường lẫn chiến binh thủy thủ. Với công việc là một miko cộng với khả năng ngoại cảm của mình, Rei có thể sử dụng năng lượng đặc biệt để diệt trừ ma quỷ trước khi cô ấy trở thành Sailor Mars (trong series Sailor Moon, Rei và Hotaru là 2 chiến binh duy nhất có thể sử dụng năng lượng đặc biệt trong hình dạng người thường). Trong hình dạng Sailor Mars, Rei sử dụng ofuda trong các tuyệt chiêu "Akuryo Taisan" và "Fire Sould Bird". Rei thường tung ofuda về phía kẻ thù, làm chúng tê liệt và bất lực. Nhờ đó, Sailor Moon sẽ tận dụng cơ hội tung tuyệt chiêu kết liễu kẻ thù. Với những kẻ thù yếu hơn, ofuda cũng đủ mạnh để kết liễu chúng ngay lập tức. Chúng ta thường chỉ nhìn thấy Rei sử dụng 1 hoặc 2 ofuda trong mỗi cuộc chiến đấu, nhưng trong cả series, dường như cô ấy mang theo rất nhiều ofuda bên mình. Ví dụ như trong tập phim Sailor Moon R The Movie: Promise Of The Rose, cô ấy đã tung hàng chục ofuda về phía kẻ thù. Chú thích thêm: – Những ký tự trên Ofuda được đọc là "悪霊退散 (Akuryou Taisan)" dịch nghĩa "Evil Spirits, Begone" or "Evil Spirits, Disperse" (Linh Hồn Quỷ Dữ, Hãy Tan Biến Đi). – Ofuda có nghĩa là "bùa" hay "bùa hộ mệnh". Mỗi Ofuda là một loại bùa chú được phát hành bởi ngôi đền Shinto. Chúng được cho rằng là có thể giúp tránh được xui xẻo và đem lại may mắn. – Ở trong Manga (Ngoại truyện: Rei's & Minako's Girls School Battle?), Khi Rei bị điều khiển bởi một linh hồn ma quỷ, Sailor Venus đã sử dụng chính Ofuda của Rei để diệt trừ linh hồn này. Có vẻ như trong thế giới của Sailor Moon, những ai được hướng dẫn đúng cách cũng có thể sử dụng năng lượng của Ofuda. – Kỹ thuật gọi Ofuda của Rei là "Ofuda Hurricane" (お札ハリケーン; Ofuda Harikeen) và "Ofuda Paste" (お札貼り; Ofuda Hari) trong game đầu tiên của Sailor Moon dành cho hệ máy Super Famicom. – Trong thực tế, Ofuda có thể được tạo ra trên nhiều vật liệu như giấy, gỗ, vải hoặc kim loại. Rei thường chỉ sử dụng Ofuda bằng giấy. – Các chữ Hán trên Ofuda đã bị bóp méo hoặc bị xóa đi trong bản lồng tiếng của Hàn Quốc. Tất cả các yếu tố Phật giáo / đạo Shinto của bản Anime đầu tiên đều bị kiểm duyệt hoặc bị chỉnh sửa hoàn toàn khỏi series. Mũi tên Sao Hỏa Mũi tên Sao Hỏa (Mars arrow) là một trang bị quan trọng nhất của Thủy thủ Sao Hỏa, được cô sử dụng trong suốt các phần SuperS (Anime), Dream & Stars (Manga). Với mũi tên này, cô có thể khai triển đòn tấn công tối hậu: Mars Flame Sniper. Trong Manga, Mũi tên Sao Hỏa xuất hiện ở những tình tiết đầu phần 4. Rei và những chiến binh khác đi đến một rạp xiếc, nơi mà thực ra là căn cứ ngầm của Nhóm Dead Moon Circus. Rei đi tách ra khỏi nhóm và bước vào ngôi nhà gương nơi Mắt Hổ đã bẫy cô vào một cơn ác mộng. Mặc dù Rei đã rất tỉnh táo và sử dụng ofuda khai triển đòn tấn công Akuryo Taisan để tạm thời thoát khỏi những ảo giác song cô không thể biến thân thành Thủy Thủ Sao Hỏa. Sau đó cô nhanh chóng rơi vào trạng thái vô thức. Lúc bấy giờ, Phobos và Deimos (2 nữ hộ vệ của Rei ở kiếp trước, sống trong hình hài chim quạ ở kiếp này và được Rei nuôi tại đền Hikawa) lao vào nhà gương tấn công Mắt Hổ, đưa cho Rei "Pha lê sao Hỏa" và nói với cô về những gì đang xảy ra với các đồng đội ở bên ngoài. Rei nhanh chóng biến thân thành Siêu Thủy Thủ Sao Hỏa. Mũi tên sao Hỏa xuất hiện ngay sau khi Rei biến thân. Cô sử dụng nó để khai triển tuyệt chiêu Mars Flame Sniper ngay sau đó, giết chết mắt hổ và xóa sạch tất cả những phù phép của nhóm Dead Moon Circus. Thủy Thủ Sao Hỏa tiếp tục sử dụng tuyệt chiêu này trong suốt phần 4 và phần 5 của bộ truyện. Trong Anime, giống như mọi vũ khí của nhóm chiến binh hộ vệ công chúa. Mũi tên Sao Hỏa không phải là một vũ khí hữu hình. Tuy nhiên biểu tượng của nó luôn xuất hiện trước và sau khi Rei biến thân thành Thủy Thủ Sao Hỏa, biểu tượng cũng xuất hiện trước khi Rei khai triển đòn tấn công Mars Flame Sinper bằng bộ cung tên hình thành từ lửa. Chú thích thêm: - Trong thần thoại cổ. Mũi tên Sao Hỏa là một vũ khí được sử dụng bởi thần chiến tranh Ares/Mars. Ngoài ra, những người con của thần là Eros/Cupid, và cả nữ thần tình yêu Aphrodite/Venus cũng sử dụng cung tên. - Trong văn hóa Nhật Bản, các miko được biết đến với kỹ năng bắn cung điêu luyện, họ còn có thể trừ tà bằng kỹ năng này (Giống nhân vật Kikyou trong Inuyasha). Tuyệt kỹ Mars Flame Sniper sử dụng cung tên làm vũ khí có vẻ rất phù hợp với Rei, người đồng thời cũng là một miko. - Trong Manga, Mũi tên Sao Hỏa được hình thành từ dòng lửa do Rei tạo ra và được cột thêm những thẻ bùa trừ yêu ở thân. - Không giống như đàn hạc của Ami, không có tình tiết Mũi tên sao Hỏa nói chuyện với chủ nhân của nó, song có thể giả định rằng nó cũng là một vũ khí có tri giác. Trang phục Anime Trong trang phục của Sailor Mars, màu chủ đạo là màu đỏ (Giày, váy, cổ áo, viền găng tay, vòng đeo cổ, trâm cài ở nơ, nơ sau) và màu nhấn là màu tím (nơ ở ngực). Hoa tai của cô là một ngôi sao năm cánh màu đỏ, cổ áo có một sọc màu trắng, và mang giày cao gót đỏ chứ không phải là bốt. Sau khi được nâng cấp thành Super Sailor Mars, hoa tai của cô có 6 cánh, vòng cổ của cô đã có một ngôi sao vàng năm cánh đính thêm vào. Cổ áo của cô vẫn chỉ có một sọc trắng, trâm cài của cô có màu đỏ, hình trái tim. Nơ sau được kéo dài hơn. Phía dưới miếng đệm vai bình thường là một miếng đệm nhọn, trong suốt. Manga Trang phục đầu tiên của Sailor Mars trong manga chủ yếu giống trong Anime. Có một vài điểm khác biệt là: Cổ áo của cô có ba sọc trắng, hoa tai của cô có hình ngôi sao 6 cánh ngay từ đầu và có một viên ngọc màu đỏ được gắn liền ở giữa thắt lưng. Trong Materials Collection, đôi giày cao gót của cô có đính cườm hoặc dây đeo đá quý trên mu bàn chân. Trâm của cô thay đổi từ hình tròn thành hình trái tim sau khi Sailor Moon được nâng cấp thành Super Sailor Moon. Sau khi được nâng lên cấp Super, trang phục của cô giống hệt trong Anime, trừ phần vòng cổ, ở ngôi sao có đính thêm một viên đá quý. Sau khi được nâng lên cấp Eternal trong Stars Arc, vòng cổ của cô có hình chữ V. Ở nơ trước của cô có đính ngôi sao năm cánh màu đỏ. Miếng đệm vai của cô phồng lên, màu đỏ nhạt với hai miếng vải ở dưới. Găng tay cô dài đến cánh tay. Trong artbook minh hoạ, cô có đeo chiếc vòng ruy băng ở cổ tay, màu đỏ, đính ngôi sao năm cánh màu vàng. Nhưng nó không xuất hiện trong manga. Thắt lưng của cô gồm có 2 dải ruy băng màu đỏ. Một đỏ nhạt và một đỏ đậm, dài và mỏng. Ở nơi giao nhau của hai mảnh ruy băng có đính một ngôi sao năm cánh màu vàng. Nơ sau của cô có màu đỏ nhạt. Váy của cô có hai lớp. Một lớp màu đỏ đậm, lớp dưới màu đỏ nhạt. Bốt của cô dài đến đầu gối, trắng, có viền hình chữ V màu đỏ với một ngôi sao năm cánh đính vào. Hoa tai của cô màu đỏ, hình sao năm cánh. Vương miện của cô đính một ngôi sao năm cánh màu đỏ. Live action Trang phục của Sailor Mars trong PGSM gần như giống hoàn toàn với Manga. Sự khác biệt duy nhất là găng tay của cô dài hơn, gần tới khuỷu tay (không giống như các Senshi khác) và hoa tai của cô chỉ có bốn cánh sao. Nhạc kịch Trang phục của Sailor Mars trong vở nhạc kịch có tới hai phiên bản Trong phiên bản đầu tiên, viền găng tay, nơ trước, nơ sau, tay áo của cô có màu tím. Trong khi cổ áo, vòng cổ, váy có màu đỏ. Các phiên bản sau của trang phục đã đổi tay áo thành màu đỏ (như trong hình). Chiếc trâm cài gắn liền với nơ trước có hình một ngôi sao màu vàng, với một viên ngọc màu đỏ ở giữa. Cô cũng có một ngôi sao vàng ở trên vòng cổ và ở hoa tai. Tất cả các trang trí trên trang phục, kể cả sọc áo có màu vàng. Phiên bản này không bao giờ được nhìn thấy sau Sailor Moon S - Henshin - Super Senshi e no Michi (Kaiteiban). Phiên bản thứ hai về cơ bản thì giống như trong manga và anime. Nơ trước của cô có màu hoa oải hương, cổ áo, viền găng tay, vòng cổ, nơ sau có màu đỏ. Váy của cô có hai lớp: Lớp trên màu đỏ và lớp dưới màu tím. Trang trí ở vòng cổ của cô là một ngôi sao vàng, có hình tròn ở giữa. Trong hình tròn là biểu tượng của Sao Hoả. Trâm cài ở nơ trước là một hình trái tim màu đỏ, được viền quanh bởi màu vàng. Hoa tai của cô là một ngôi sao năm cánh. Giày của cô khác hơn so với manga và anime. Nó có thêm một dây đeo ở mu bàn chân. Princess Mars Cô mặc váy đầm dài màu đỏ, ở giữa có mảng màu hồng và đeo băng đeo cổ màu đỏ. Cô có ký hiệu sao Hỏa trước trán. Chiêu thức và Sức mạnh Anime Quyền năng Rei là một Miko ở đền Hikawa, do đó cô có một số quyền năng mà những Senshi khác không có. Ví dụ: Cô có thể đọc lửa (nhìn vào lửa và xem được thứ mà cô muốn biết). Rei cũng có một số khả năng ngoại cảm. Cô thường mang theo các lá bùa và đọc các câu thần chú theo thứ tự Rin, Pyo, Tou, Sha, Kai, Jin, Retsu, Zai, Zen. Biến đổi - Mars Power, Make Up (Năng lượng Sao Hoả, biến thân!) - Cô sử dụng bút (gậy) biến thân để biến thành Sailor Mars. - Mars Star Power, Make Up (Năng lượng tinh tú Sao Hoả, biến thân!) - Cô sử dụng bút biến thân tinh tú để biến thành Sailor Mars (Thủy Thủ Sao Hỏa). - Mars Crystal Power, Make Up (Năng lượng pha lê Sao Hoả, biến thân!) - Cô sử dụng bút biến thân pha lê để biến thành Super Sailor Mars (Siêu Thủy Thủ Sao Hỏa). Chiêu thức tấn công - Akuryo Taisan (Linh hồn quỷ dữ hãy biến đi !) - Một trong những chiêu thức của Rei khi làm Miko. Cô sẽ ném một lá bùa và hét lên " Akuryo Taisan! ". Khi lá bùa nằm trên cơ thể kẻ thù (thường thì là trên trán), nó sẽ làm chúng bất động, hoặc như trong Sailor Moon R The Movie, kẻ thù sẽ được thanh tẩy khỏi cái ác. - Fire Soul (Linh hồn lửa thiêng) - Sailor Mars bắn một quả cầu lửa từ đầu ngón tay. - Fire Soul Bird (Linh hồn hoả điểu) - Một chiêu thức mạnh hơn chiêu Fire Soul, có hình dạng của một con chim, là sự kết hợp giữa lá bùa cùng với chiêu Fire Soul của Mars. Được sử dụng vài lần trong Season 2 và trong nhiều video game. - Burning Mandala (Vòng tròn rực cháy) - Chiêu thức mới của Mars xuất hiện trong Sailor Moon R. Trong đó, cô quay một vòng lửa và chiếu vào kẻ thù của mình. - Mars Flame Sniper (Sao Hỏa Lửa thiêng xạ kích ) - Sailor Mars bắn một mũi tên lửa vào kẻ thủ của mình. Nó xuất hiện lần đầu tiên trong phần Sailor Moon SuperS Manga, Sailor Moon Crystal and Eternal Biến đổi - Mars Power, Make Up (Năng lượng Sao Hoả, biến thân!) - Cô dùng bút (gậy) biến thân để biến thành Sailor Mars (Thủy Thủ Sao Hỏa). - Mars Star Power, Make Up (Năng lượng tinh tú Sao Hoả, biến thân!) - Cô dùng Star Power Stick để trở thành Sailor Mars (Thủy Thủ Sao Hỏa). - Mars Planet Power, Make Up! (Năng lượng hành tinh Sao Hỏa, biến thân!) - Cô sử dụng sức mạnh từ hành tinh của mình, đã được nâng cấp lên bởi Tân Nữ hoàng Serenity, giúp cô biến thành Sailor Mars (Thủy Thủ Sao Hỏa). - Mars Crystal Power, Make Up (Năng lượng pha lê Sao Hoả, biến thân!) - Cô sử dụng Pha lê Sao Hoả biến thành Super Sailor Mars (Thủy Thủ Sao Hỏa). Chiêu thức tấn công - Akuryo Taisan (Linh hồn quỷ dữ hãy biến đi !) - Sailor Mars tập trung sức mạnh lại một điểm được tạo ra bởi ngọn lửa. Cô cũng có thể ném một lá bùa và hét lên "Akuryo Taisan!" để làm bất động kẻ thù hoặc xua đuổi kẻ thù gây ảnh hưởng xấu tới người hoặc nơi nào đó. - Burning Mandala (Vòng xoáy. lửa thiêng!) - Sailor Mars triệu tập một quả cầu lửa để đốt cháy kẻ thù. - Mars Snake Fire ( Lửa thiêng mãng xà Sao hoả!) - Sailor Mars tạo ra một con rắn phun ra lửa để tấn công kẻ thù của mình. Chiêu thức này cũng xuất hiện trong một số Video Games. - Mars Flame Sniper (Sao Hỏa Lửa thiêng xạ kích) - Sailor Mars bắn một mũi tên lửa vào kẻ thù. Cô sử dụng được chiêu thức này sau khi dùng Pha lê Sao Hoả để biến thân. Live action Quyền năng Sailor Mars có thể biến Sailor Star Tambourines của Sailor Venus thành một cặp kiếm để chống lại Youma được tạo ra bởi Princess Sailor Moon trong Act cuối cùng. Những chiếc dao găm này cũng xuất hiện trong Special Act, nhưng được sử dụng bởi Sailor Venus. Biến đổi - Mars Power Make Up (Năng lượng Sao Hoả, biến thân) - Cụm từ biến hình được Rei trong PGSM sử dụng. Chiêu thức tấn công - Akuryo Taisan (Linh hồn quỷ dữ hãy biến đi)- Một trong những quyền năng của Rei khi là Miko. Cô ném một lá bùa vào kẻ thù trong khi hét lên " Akuryo Taisan! "(Linh hồn quỷ dữ hãy biến đi!) - Youma Taisan (Yêu quái biến đi) - Một chiêu thức tương tự như Fire Soul trong Anime. Nhưng trong phiên bản này, Sailor Mars tạo ra một quả cầu lửa ở giữa tay và ném về phía kẻ thù. - Burning Mandala (Vòng xoáy lửa thiêng - Chiêu thức mạnh nhất của Sailor Mars trong PGSM. - Unnamed Attack - Một chiêu thức không được nêu tên trên màn hình. Trong đó Sailor Mars dùng Sailor Star Tambourine để "gửi" một năng lượng ngôi sao màu đỏ tới kẻ thù của mình. Video Games Quyền năng Trong các Video Games, Sailor Mars thường sử dụng những quyền năng tiêu chuẩn của cô. Nhưng sau đây là các chiêu thức, quyền năng chỉ có trong Video Games. Chiêu thức tấn công - Burning Storm: Cơn bão rực cháy - Được sử dụng trong Sailor Moon dành cho Mega Drive. - Ofuda Hurricane: Cơn lốc bùa thiêng - Được sử dụng trong Sailor Moon dành cho Super Famicom. - Spinning Raven - Được sử dụng trong Sailor Moon dành cho 3DO. - Haja Enbu Kyaku - Được sử dụng trong Sailor Moon dành cho Mega Drive và Sailor Moon R dành cho Super Famicom. - Hajou Kougeki - Được sử dụng trong Sailor Moon dành cho Arcade. - Mars Snake Flare - Được sử dụng trong Sailor Moon S: Jougai Rantou? Shuyaku Soudatsusen và Sailor Moon SuperS: Zenin Sanka! Shuyaku Soudatsusen. - Fire Heel Drop - Được sử dụng trong Sailor Moon S: Jougai Rantou? Shuyaku Soudatsusen và Sailor Moon supers: Zenin Sanka! Shuyaku Soudatsusen. Thông tin bên lề Trong Anime, Sailor Mars là Senshi duy nhất không có chiêu thức chỉ sử dụng một lần. Miko thường được biết đến với kỹ năng bắn cung. Điều này được thể hiện trong chiêu thức: Mars Flame Sniper của Rei, trong đó miêu tả cô sẽ triệu tập một cây cung lửa và bắn một mũi tên lửa vào kẻ thù của mình. Khi dùng chiêu Mars Flame Sniper, Rei đã cầm cung bằng tay trái, có thể đây là một ngụ ý rằng Rei thuận tay trái. Món ăn ưa thích của Rei là fugu. Họ của cô có cách phát âm giống tiếng Nhật là một chữ Hán, có nghĩa là "Linh hồn" (霊). Tên đầy đủ của cô có nghĩa là "Linh Hồn Của Lửa". Rei là người duy nhất trong số các Senshi có tên được viết bằng chữ katakana. Đồng phục học sinh của Rei trông vô cùng phong cách và sang trọng trong số đồng phục của các Senshi. Nó thể hiện sự ưu tú của trường truyền giáo tư thục mà Rei theo học so với các trường bình thường của thành phố khác của Usagi và Minako. Các trường tư như vậy cũng rất đắt tiền, mặc dù tiền học của Rei có thể được chu cấp bởi cha cô. Phiên bản Live Action thiết kế bộ đồng phục của cô rất giống với những phiên bản Anime, Manga,.. nhưng váy của cô được kéo dài hơn. Số thành viên trong Starlight Fan Club của Rei là 2906. Cả hai người thân của Rei là ông nội và người anh họ của cô là Kengo Ibuki đều xuất hiện trong Anime, và đều bị biến thành quái vật của ngày. Trong Trailer Sailor Moon lồng tiếng Anh ban đầu của DiC, Rei được gọi là Dana.
, được biết nhiều hơn với cái tên là một nhân vật trong bộ truyện Sailor Moon được viết bởi Naoko Takeuchi. Bên cạnh Sailor Moon, Minako là lãnh đạo của nhóm Chiến binh Thủy thủ (Inner Senshi), cô chiến đấu để bảo vệ Hệ mặt trời. Minako là chiến binh thứ tư xuất hiện trong Sailor Moon mặc dù cô là người đầu tiên thức tỉnh sức mạnh của mình. Minako mang trong mình sức mạnh của ánh sáng, cô là Chiến binh của tình yêu và sắc đẹp (愛と美の戦士) hoặc Chiến binh của tình yêu (愛の戦士) dưới sự giám hộ của Hành tinh của sắc đẹp (美の星). Minako là Chiến binh Thủy thủ duy nhất có một Series dành riêng cho mình, đó là bộ truyện ngắn Codename: Sailor V (phần cũ của Sailor Moon). Trong bộ truyện này, Minako là nhân vật chính, lấy danh nghĩa là Sailor V (セーラーV Sērā V) - viết tắt của từ Venus, cô chiến đấu với một nhóm các nhân vật phản diện gọi là Cơ quan Bóng Tối, đứng đầu là Danburite. Ngoài ra, Minako còn có mặt trong ngoại truyện Trận chiến trường nữ sinh của Rei và Minako. Thân thế Minako Aino sinh ngày 22 tháng 10 thuộc chòm sao Thiên Bình, mang nhóm máu B, là hóa thân hiện tại của Sailor Venus và là hình dạng người thường của Sailor V. Cô xuất hiện lần đầu trong bộ truyện ngắn Codename: Sailor V. Minako là người đầu tiên được thức tỉnh bởi một chú mèo trắng tên là Artemis đến từ mặt trăng, sớm hơn một năm so với Sailor Moon. Minako gặp Artemis lần đầu năm 13 tuổi, trong giờ học thể dục cô nhìn thấy Artemis và ngã vào cậu sau khi cô làm hỏng một động tác xoay vòng trên cao. Artemis giải thích với Minako rằng sao Kim và Trái Đất là hành tinh sinh đôi vì chúng có kích thước và khối lượng gần giống nhau, và sao Kim là hành tinh mẹ nên cô phải bảo vệ Trái Đất khỏi kẻ xấu. Artemis cho cô thấy lâu đài Magellan và nói đó là lâu đài của cô. Trong vai trò làm Sailor V, cô đã chiến đấu với cả Cơ quan Bóng Tối lẫn cả những tên tội phạm thông thường, trở nên nổi tiếng trước khi các Thủy thủ khác được thức tỉnh. Bên cạnh Thủy thủ Sao Diêm Vương (Sailor Pluto), có thể nói rằng Sailor Venus không hoàn toàn là một con người, bởi cô là hiện thân của Nữ thần Tình yêu và sắc đẹp Venus. Minako được cho là có ngoại hình khá nhỏ bé, chỉ cao hơn Usagi và thường xuất hiện cùng cộng sự của mình là chú mèo Artemis, cô có mái tóc vàng óng và đeo thêm một chiếc nơ đỏ sau đầu. Trong series Codename: Sailor V, mối tình đầu của Minako đã khen cô đeo nơ đỏ rất đẹp nhưng về sau anh ta đã biến thành kẻ thù và cô đã phải tiêu diệt anh, Minako luôn đeo nơ đỏ kể từ đó. Trong manga và anime, đồng phục học sinh của Minako khác với các Thủy thủ khác trong nhóm vì cô học tại Shiba Koen thay vì Azabu Juuban. Về sau, Minako học chung với Usagi, Ami và Makoto tại trường cấp 3 Juuban. Manga và Anime 90s Minako được miêu tả là một cô gái năng động, dịu dàng, thân thiện và lãng mạn, tuy đôi lúc hơi trẻ con, đãng trí nhưng cũng rất nghiêm túc. Trong manga, phần nghiêm túc của Minako được thể hiện nhiều hơn khi cô là Sailor Venus (đây cũng là biểu hiện thường có đối với các Chiến binh Thủy thủ khác), nhưng cô vẫn hết lòng vì bạn bè và với nhiệm vụ của một Chiến binh. Ngoài ra, tính cách của Minako có thể thay đổi linh hoạt vào các thời điểm khác nhau, tao nhã, yêu kiều, nhạy bén hay sôi nổi. Giống như Usagi, Minako học cũng khá kém. Nhưng về thể thao, cô lại hơn hẳn Usagi, nhất là môn bóng chuyền. Cô rất thích môn thể dục và ghét môn Toán. Cô còn thường xuyên nhầm lẫn giữa các câu nói, tục ngữ với nhau trong anime. Đôi khi cô gọi mình là "Nữ thần tình yêu", một danh hiệu cô sử dụng khi giải quyết những rắc rối về tình yêu của người khác. Ngoài ra Minako còn có sở thích theo đuổi các thần tượng, khao khát trở thành idol và luôn thể hiện tình yêu với ca hát bằng cách tham gia các buổi audition. Mặc dù vui vẻ, sôi nổi là thế nhưng cũng có lúc Minako lo lắng, tự ti. Điển hình như Act 43 trong manga, lúc Minako đột nhiên không thể biến thân thành Chiến binh Thủy thủ trong một khoảng thời gian, cô đã nổi nóng với các bạn vì tự ti, ganh tị khi thấy họ nhắc tới nhóm Outer Senshi quá nhiều và cho rằng họ nghĩ cô là một trưởng nhóm không đáng tin cậy. Hay trong anime tập 109, cô lo lắng mình không có trái tim trong sáng bởi vì trong các bạn, chỉ còn duy nhất mình cô là chưa bị kẻ thù săn đuổi vì có trái tim trong sáng. Trong anime 90s, Minako có khả năng nói tiếng Anh hơn Ami, hoặc ít nhất là hơn Usagi, Makoto và Rei (mặc dù cô không thích môn tiếng Anh) và Usagi đã đòi cô phải dạy lại. Điều này đã được chứng minh rõ nhất trong tập 108, trong đó cô có thể nói chuyện bằng tiếng Anh một cách lưu loát với những người tham dự bữa tiệc. Điều này rất có khả năng vì cô đã từng dành một thời gian làm Sailor V ở Luân Đôn trong anime. Ngoài ra, trong Codename: Sailor V Minako còn từng đến Hy Lạp và Trung Quốc. Khi còn ở Luân Đôn, Minako đã gặp một nữ cảnh sát thuộc Interpol tên là Katarina, người đã dạy cô tiếng Anh và chăm sóc cô như em ruột, cùng với Alan - chàng trai cô yêu. Trong một nhiệm vụ nguy hiểm, Minako bị kẹt trong một vụ nổ ở một tòa nhà và Katarina tưởng cô đã chết. Cô trốn thoát được khỏi tòa nhà nhưng phát hiện ra Alan và Katarina đã sớm có tình cảm với nhau. Trái tim Minako tan vỡ và cô nhanh chóng quay về Nhật Bản. Khi lần đầu gặp các chiến binh thủy thủ còn lại, Minako cư xử hoàn toàn khác với tính cách thật của mình, có phần lạnh lùng và nghiêm túc. Trong bản manga, cô đã nói dối mình chính là công chúa Serenity để bảo vệ công chúa thật là Usagi, nhưng sau khi Usagi đã nhớ lại thân phận thực sự của mình, Minako trở lại làm lãnh đạo của các chiến binh thủy thủ bảo vệ công chúa. Live Action Trong Live Action, Minako là một ca sĩ thần tượng, có một căn bệnh dần dần "giết chết" cô. Cô dành phần còn lại của cuộc đời mình để làm một Thủy thủ và hoàn thành sứ mệnh của kiếp trước, vì một khi Minako chết, cô nói rằng cô sẽ được tái sinh trong một hình thức khác. Minako trong Live Action nghiêm túc hơn trong anime và manga. Đây không phải là điều gì đáng ngạc nhiên cho lắm, mặc dù cô phơi bày một hình ảnh vui vẻ, hạnh phúc trước mặt công chúng. Minako phải sống trong 2 cuộc sống khác nhau, một là làm Sailor V, hai là làm Sailor Venus. Vì có cuộc sống của một thần tượng nên Minako bị cô lập giữa tất cả mọi người. Cô dường như không có cha mẹ. Người duy nhất xuất hiện trong cuộc đời cô là Artemis và quản lý của cô. Kết quả là cô đã trưởng thành hơn so với những cô gái khác trong độ tuổi của mình. Khi lần đầu tiên thấy Usagi, cô đã khá là khó chịu (điều này khác hẳn với mối quan hệ của họ trong anime và manga). Tuy nhiên, khi tiếp xúc nhiều hơn nữa, Minako trở nên gần gũi, thân thiện và cởi mở hơn với Usagi (cô cũng thường bảo vệ Usagi khỏi Mio Kuroki trong các tập phim sau). Minako thường tiếp xúc với Rei Hino, kể từ khi Rei được đào tạo để trở thành người chỉ huy khi Minako vắng mặt. Minako có những tiêu chuẩn rất cao và cô liên tục thách thức Rei và đưa cho cô ấy những nhiệm vụ của mình. Mới đầu, Rei đã vô cùng khó chịu và đôi khi hơi bối rối bởi những hành động của Minako. Nhưng dần dần, họ đã trở nên tôn trọng và có một tình bạn tốt đẹp dành cho nhau. Minako hoàn toàn dành riêng vào sứ mệnh của cô và cô xác định rằng mình phải hoàn thành mục tiêu đã đề ra. Điều đó khiến cô phải thực hiện một số biện pháp nguy hiểm, chẳng hạn như cùng Zoisite xoá trí nhớ Usagi về Mamoru, và thường sử dụng bản thân mình làm mồi nhử cho kẻ địch. Rei và Artemis thường xuyên chỉ trích cô vì những cách làm này. Nhưng một khi Minako đã làm theo ý nghĩ của mình, cô sẽ không nghe theo bất kì ai. Căn bệnh của Minako khiến cô chỉ sống được một khoảng thời gian nhất định, trong khoảng thời gian đó, cô phải thực hiện xong mục tiêu của mình và ngăn chặn một quá khứ cứ lặp đi lặp lại chính nó, khiến cho áp lực cô mang trên vai càng thêm nặng. Trong những tập sau, Minako mất dần quyền năng và sức mạnh của mình vì tình trạng sức khoẻ của cô. Mặc dù vậy, đôi khi cô vẫn biểu lộ sự tinh nghịch, hài hước đối với Artemis, Usagi và Rei, một điều giống như trong manga và anime. Điều này, cùng với một chút nữ tính hơn được cô thể hiện trong Act Zero, khi lần đầu tiên cô gặp Artemis và trở thành Sailor V, cho thấy tính cách ban đầu của cô sẽ phù hợp hơn với những tạo hình khác, cô có gánh nặng gấp đôi vì một nhiệm vụ đặc biệt và căn bệnh gây chết người kia không được phép giáng xuống cô. Khi cả thế giới được phục hồi sau cái chết của Minako, cô đã được hồi sinh bởi Silver Crystal (Pha Lê Bạc). Trong Special Act, cô tiếp tục sự nghiệp là một thần tượng của mình, thậm chí gặt hái được nhiều thành công và giải thưởng quốc tế. Tuy vậy, Minako vẫn là bạn với các thủy thủ khác. Sailor Venus ít khi chiến đấu cùng với các Thủy thủ khác. Lúc đầu, điều này là vì cô giả làm Công Chúa và muốn giữ khoảng cách, nhưng sau khi danh tính của Công Chúa thực sự được tiết lộ, cô vẫn không thể gần gũi hơn với các Thủy thủ. Lý do về việc này không được giải thích cặn kẽ, đầy đủ. Nhưng một số gợi ý chỉ ra rằng có thể Venus không gần gũi với họ vì cô tập trung vào nhiệm vụ từ cuộc sống trong quá khứ hơn những người khác (vì nó chứa nhiều kỉ niệm đối với cô), hoặc vì cô không muốn trở thành bạn với những người khác vì họ sẽ buồn sau khi cô qua đời. Nhạc kịch Trong Musicals, tính cách của Minako không được tìm hiểu theo chiều sâu như các phiên bản khác. Tính cách của cô có chút gì đó giống phiên bản Anime: Loè loẹt trong một số thời điểm, một chút thích quấy nhiễu và một chút "biến thái". Minako luôn trung thành với sứ mệnh là một Chiến binh của mình, tuy nhiên, cô sẽ làm những gì cần thiết để bảo vệ bạn bè cô. Gia đình Minako được cho là có một người bố và người mẹ - xuất hiện trong Codename: Sailor V. Mẹ của Minako trông giống bà Ikuko Tsukino - mẹ Usagi. Nhưng tính cách của bà có phần khác biệt hơn, và bà luôn la mắng Minako. Điều này không phải là quá xấu, nhưng mẹ của Minako luôn không hài lòng với cuộc sống của một bà nội trợ, và thường phàn nàn về người chồng rằng ông là thảm hại và không kiếm đủ tiền. Cha Minako có phần điềm tĩnh và thường dựa vào vợ nhiều hơn. Trong Exam Battle thứ ba của Manga Sailor Moon, Minako đã liệt kê ra mẹ mình là một trong số những người cô không thích, và được minh hoạ bằng tiếng hét của cô. Gia đình của Minako không được đề cập đến trong bất kì phiên bản nào khác của Series. Còn trong phiên bản live action, cô được cho là sống một mình. Các mối quan hệ Minako là một cô gái đã trải qua khá nhiều mối tình trong cả Anime, Manga Sailor Moon và Codename: Sailor V, nhưng hầu hết lại có kết thúc khá bi thảm. Ví dụ, cả Higashi và Phantom Ace cuối cùng đều trở thành kẻ thù mà Minako phải tiêu diệt, hay Alan lại là người yêu của Katarina. Điều đó tạo ra một vết sẹo tình yêu trong lòng Minako. Phantom Ace/Danburite/Adonis thậm chí đã nguyền rủa rằng Minako sẽ không bao giờ có được tình yêu và cô sẽ chọn nhiệm vụ lên trước tình cảm. Trong Senshi/Shitennou được vẽ bởi Naoko Takeuchi, Minako được ghép cặp với Kunzite, có thể vì cả hai đều là chỉ huy của mỗi nhóm. Cặp đôi này rất phổ biến trong Fan Fiction, nó cũng xuất hiện trong một số vở nhạc kịch. Trong Sailor Moon - Gaiden Dark Kingdom Fukkatsu Hen, Minako đã vướng vào một mối tình cũ, khiến cô yêu Saitou Kun. Trong Eien Densetsu, một lần nữa cô lại "bám lấy" Saitou Kun cho đến khi anh ta tiết lộ mình là Kunzite. Mối quan hệ giữa Minako và Kunzite được xem xét lại trong Starlights - Ryuusei Densetsu, mặc dù cô có vẻ như chỉ quan tâm tới sự giàu có của anh như là một trong số những người của nhóm Jewel Metalias. Một cặp Fan Fiction cũng rất phổ biến khác là Minako và Kou Yaten của Three Lights. Mặc dù không có bằng chứng gì khác ngoài tình cảm của Minako đối với Yaten trong các tập của phần Stars trong Anime. Ngoài ra, Minako dường như còn có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với Hino Rei hơn các thành viên khác trong PGSM và hai người hay được ghép cặp trong Fan Fiction và Fan Art Biệt hiệu Sailor V Sailor V là hình dạng đầu tiên của Minako Aino trước khi được thức tỉnh, là viết tắt của Sailor Venus. Cô là người duy nhất trong số các Chiến binh Thủy thủ được thức tỉnh theo cách này. Sailor Moon manga Sailor V được nhắc tới nhiều lần trong Manga Sailor Moon nhưng cô không có một cảnh chiến đấu nào trong loạt Manga này. Cuối cùng, khi lộ diện với vai trò là Sailor Venus, Artemis đã nói rằng cô là Công chúa Mặt Trăng cho đến khi Usagi lấy lại được ký ức của mình. Nó như một sự bất ngờ không lường trước được đối với Queen Beryl. Hai trong số các ngoại truyện có xuất hiện Sailor V chiến đấu cùng Sailor Moon. Trong Chibiusa's Picture Diaries 1, cô đã giải cứu một fan hâm mộ chính mình, còn trong Chibiusa's Picture Diaries 3, cô chỉ đơn giản xuất hiện và chiến đấu với vai trò là Sailor V. Không có bất kỳ lời giải thích nào cho việc cô xuất hiện trong vai trò này. Anime 90s Trong Anime, Sailor V đã hoạt động ở Luân Đôn (Anh) trong một khoảng thời gian ngắn cho đến khi trở về Nhật và tham gia vào nhóm Thủy thủ. Ở Anh, cô đã kết bạn với một nữ cảnh sát quốc tế tên Katarina và phải lòng một chàng trai tên Alan (tập 42). Không rõ có phải những kẻ trong Dark Kingdom cũng "hoạt động" ở Anh hay không, nhưng sau khi Sailor V gia nhập nhóm Thủy thủ ở Nhật, cô không nói về việc Youma hay bất kì thứ gì khác đã tấn công nước Anh. Live action Trong Live Action, Sailor V hoạt động tại Tokyo, nhưng cô đã từ chối gia nhập nhóm Chiến binh Thủy thủ trong lần gặp đầu tiên. Cô có một vũ khi gọi là Crescent Moon Cutter. Trong vai trò là Sailor V, cô làm tất cả mọi thứ để thu hút sự chú ý của kẻ thù, làm cho chúng (và các Chiến binh) tin rằng cô chính là Công chúa Mặt Trăng. Sailor V và Artemis đã quyết định cô sẽ hoạt động dưới lốt "Công chúa Mặt Trăng" cho đến khi Công chúa thực sự thức tỉnh. Trong tập 12, cô đã chuyển đổi từ Sailor V sang Princess Sailor Venus, và kể từ đó, cô không bao giờ xuất hiện với thân phận là Sailor V trong Live Action, ngoại trừ Act Zero. Series Live Action có một số điểm không phù hợp về cách thức biến hình của Sailor V. Trong Act Zero, cô sử dụng Teletia S để biến thành Sailor V. Nhưng trong Act 11 lại hiện cảnh cô để bộ đồng phục trong một chiếc vali nhỏ. Trong Act 12, cô không cần dùng Teletia S, không cần hô cụm từ biến hình, không cần thay đồ mà biến thành Sailor V được luôn (thực sự là Minako chạy một đoạn rồi bộ đồ bình thường biến đi luôn, thay vào đó là bộ đồng phục Sailor V). Sailor Venus Sailor Venus là hình dạng thứ hai của Minako Aino sau khi được thức tỉnh. Khi tham gia vào nhóm Chiến binh Thủy thủ, ban đầu cô giả vờ như mình là Công Chúa cho đến khi Sailor Moon thức tỉnh, trở thành Công Chúa Serenity. Quyền năng của Sailor Venus được nâng cấp nhờ Neo Queen Serenity và cô đạt đến hình thức "Super" cùng với các Thủy thủ khác trong gần cuối Infinity Arc. Trong Dream Arc, cô là người cuối cùng lấy lại được sức mạnh của mình, cho đến khi cô bị Xenotime và Zeolite tấn công và được Artemis cứu, người đã cho cô Pha Lê Sao Kim, cho phép cô trực tiếp biến thành Super Sailor Venus và nâng cấp sợi dây xích của cô lên thành Roi Tình Yêu. Sau đó cô xuất hiện trong hình dạng Công Chúa, cùng với các Thủy thủ khác, để cấp cho Sailor Moon sức mạnh của lâu đài của họ, cho phép Sailor Moon biến thành Eternal Sailor Moon. Cô đã trải qua lần nâng cấp sức mạnh và trang phục cuối cùng trong Stars Arc, Pha Lê Thủy Thủ của cô đã bị lấy đi bởi Sailor Galaxia sau cuộc chiến chống lại Sailor Lead Crow. Sau đó, Sailor Galaxia đã ném những viên Pha Lê Thủy Thủ bị lấy đi của các Chiến binh vào Galaxy Cauldron, khiến chúng bị tan chảy. Nhưng Sailor Moon đã "khôi phục" lại tất cả những Thủy thủ - những người bạn của cô - đã rơi xuống Cauldron và cho phép họ trở lại cuộc sống trước đây. Trong tương lai, người ta thấy rằng Sailor Venus vô cùng trung thành với Neo Queen Serenity và King Endymion. Cô ấy bảo vệ Crystal Tokyo cùng với những Thủy thủ khác. Princess Venus Sailor Venus được biết đến với vai trò là Princess Venus khi còn ở Thiên Niên Kỷ Bạc, và cai trị hành tinh quê hương của mình tại lâu đài Magellan. Trong Manga Codename: Sailor V, Artemis nói rằng cô là hoá thân của thần Venus, và Danburite đã thú nhận rằng khi còn là Adonis, anh đã yêu thầm cô. Mặc dù cô ở Sao Kim, nhưng cô cùng với các Thủy thủ khác đã có mặt tại buổi lễ thề sẽ bảo vệ Công chúa Serenity và đối mặt với Nehellenia, sau đó, có vẻ như cô đã chuyển tới mặt trăng sinh sống để có thể bảo vệ Công chúa. Cô là người lãnh đạo của nhóm Chiến binh Thủy thủ, điều này được thể hiện rõ khi cô đã đưa công chúa Serenity từ Trái Đất về khi công chúa bí mật đi gặp Hoàng tử Endymion. Trong cuộc chiến giữa Mặt Trăng và Trái Đất, cô đã giết Nữ hoàng Beryl bằng Gươm Thần, nhưng cuối cùng cô lại bị giết chết, và được tái sinh thành Minako trong thời hiện tại. Những phụ kiện của Thủy thủ sao Kim Mặt nạ Thủy thủ V Được gọi đơn giản là Mặt nạ hoặc Kính đỏ, là mặt nạ của Minako khi cô còn là Thủy thủ V. Khi là Thủy thủ V, cô luôn đeo mặt nạ này và hầu như không tháo ra. Không giống như Mặt nạ của Thủy thủ Mặt Trăng, mặt nạ của cô không có khả năng nhìn thấy người gặp nguy hiểm và chỉ là để bảo vệ danh tính của cô. Cô cũng đeo mặt nạ này trong hình dạng Thủy thủ Sao Kim của mình, nhưng chỉ một vài lần, chủ yếu là để xác định rằng Thủy thủ V và Thủy thủ Sao Kim là cùng một người. Bút biến hình Ngay từ đầu trong Codename: Sailor V, Minako đã nhận được Bút biến hình từ Artemis. Cô dùng nó để hóa thành Thủy thủ V khi hô khẩu lệnh “Moon Power, Make up”. Sau này, để hóa thành Thủy Thủ Sao Kim, cô dùng một khẩu lệnh khác là: “Venus Power, Make Up!” Bút biến hình có khá nhiều công dụng và sức mạnh. Nó có thể giúp Minako liên lạc với Boss để nhận lời khuyên và hướng giải quyết các vấn đề (Người Boss này được suy đoán là Nữ hoàng Serenity, hoặc mèo Luna nhưng vẫn chưa được tiết lộ danh tính). Để khởi động tính năng liên lạc này, Minako phải kéo một cái ăng-ten. Theo một số ghi chú của tác giả Naoko, cây bút này còn có thể dùng như một máy ảnh. Ngoài ra nó còn có “sức mạnh ma thuật bằng văn bản”, giúp cho Minako dễ dàng giải quyết những bài thi một cách nhanh chóng và đạt điểm cao. Tuy nhiên, Artemis không thích điều này. Dù sau này đã hợp tác với các người bạn trong nhóm nhưng Minako vẫn dùng cây bút theo một cách riêng, khá khác biệt so với mọi người để hóa thân thành Thủy Thủ Sao Kim. Kể cả sau khi được nâng cấp thành Star Power, thì thỉnh thoảng chúng ta vẫn nhìn thấy Minako sử dụng cây bút ban đầu của mình. Chú thích thêm: - Trong Anime 90s, cây bút đặc biệt của Minako không được xuất hiện mà cô dùng loại giống với các chiến binh còn lại. - Trong các dạng bút phép thuật của series (Bút cải trang, bút biến thân…) thì cây bút của Minako được sử dụng nhiều nhất. - Nó cũng được kết nối với game Sailor V, bất cứ ai chơi game này thì Minako đều nhận được thông báo - Đây là cây bút duy nhất giúp một chiến binh có thể biến thành nhiều dạng, ở đây là Sailor V và Sailor Venus. Hộp phấn Thủy thủ V Hộp phấn Thủy thủ V có hình bán nguyệt, là một vật dụng cực kì linh hoạt và cần thiết của Minako trong thời gian còn là Thủy thủ V. Nó không chỉ là vật để V tấn công kẻ thù, mà còn có công năng giúp cô cải trang thành một người khác, giống như Bút ngụy trang của Usagi. Để sử dụng sức mạnh này, cô phải hô to “Năng lượng Mặt trăng, hãy biến ta thành... (Thân phận muốn ngụy trang: Bác sĩ, người mẫu... ”. Ngoài ra, bên trong hộp phấn này còn có một bộ phận phản chiếu danh tính thật sự của một người nào đó, cũng như khi Minako nhìn vào đó, cô sẽ thấy hình ảnh Thủy thủ V ở phía sau cô. Hộp phấn này cực kì linh hoạt, ngoài chức năng cải trang, nó còn được sử dụng như một chiếc boomerang (tương tự như chiếc Vương miện của Sailor Moon), có thể phóng ra một chùm những tia sáng mạnh mẽ để tiêu diệt kẻ thù, chữa lành việc bị tẩy não, phục hồi năng lương bị đánh cắp của người dân, giải lời nguyền, và còn nhiều công năng khác nữa. Những chiêu thức tấn công của V cùng hộp phấn này gồm có: Crescent Beam, Crescent Boomerang, Venus Power, Love Crescent Shower, Crescent Super Beam, và Crescent Slender Beam. Sau khi sử dụng, hộp phấn cũng cần được nạp năng lượng bằng cách đặt nó dưới ánh trăng. Nếu không làm thế, bề mặt sáng bóng của nó mờ dần và không thể hoạt động được. Tuy nhiên, để khắc phục điều này, Minako chỉ cần đem nạp lại năng lượng cho nó. Ghi chú khác: - Cũng giống với sợi xích của Sao Kim, hộp phấn này rất linh hoạt và có thể sử dụng bất cứ cách nào theo ý của Minako. Chính điều này phần nào phản ảnh được vị trí trưởng nhóm Inner Senshi vì cô cần thích ứng được với bất cứ hoàn cảnh nào. - Trong Codename: Sailor V, Minako đã sử dụng hộp phấn này để hóa trang thành các hình dạng như: một nữ chiến binh anh hùng (Chapter 2), một nữ cảnh sát (Chapter 3), một chàng trai thần tượng xinh đẹp (Chapter 4), một nữ đặc công (Chapter 5), một thần tượng vừa mới ra mắt (Chapter 5), một cô hầu gái xinh đẹp (Chapter 6), một người đẹp áo tắm Hawai (Chapter 7), Okappi (giáo viên của Minako, Chapter 8), một cô thư ký (Chapter 9), một thợ làm tóc và trang điểm (Chapter 10), một người lai tạo mèo hàng đầu (Chapter 11), một tướng quân (Chapter 12), một đại diện của ngành công nghiệp dược phẩm (Chapter 13), một ca sĩ (Chapter 14), một người mẫu có khuôn mặt gợi cảm (Chapter 15), và Ching Shih (Chapter 15). - Minako đã biến thân ở mỗi chương truyện trong Codename: Sailor V, trong bản in lại, cô đã không làm điều này ở Chapter 16 nhưng trước đó, thật ra Chapter 15 và 16 nhập chung. - Khi chuyển sang series Sailor Moon, Minako đã sử dụng hộp phấn này để biến thành một nam sinh của Học viện Mugen (Act.30), và một nữ sinh của Học viện T.A (Side story: Rei and Minako’s Girls’ School Battle). Hộp phấn cũng xuất hiện trong Act.43, tuy nhiên Minako đã không dùng đến nó. - Tại Bắc Mỹ, Bandai đã phát hành Cosmic Crescent Jewel Box có hình dạng giống hộp phấn. - Trong Live Action, Thủy thủ V đã sử dụng Crescent Moon Cutter, trông khá giống hộp phấn này tuy nhiên về chức năng thì không giống, và có vẻ ít linh hoạt hơn hộp phấn. - Trong Codename: Sailor V không thể thực hiện nhiều đòn tấn công mà không có hộp phấn. Khi trở thành Thủy thủ Sao Kim, sức mạnh thật sự của cô đã trở về nên cô không còn sử dụng chiếc hộp phấn này khi chiến đấu, tuy nhiên cô vẫn giữ nó - Cũng giống về những chuyện thần thoại về Venus, Minako có nhiều sự kết hợp với những chiếc gương nhờ hộp phấn này. Dây xích Tình yêu Dây xích của Thủy thủ Sao Kim có lẽ là món trang bị quan trọng nhất đối với cô, nó xuất hiện từ lần đầu tiên khi Minako trở thành Thủy thủ Sao Kim và được cô sử dụng trong hầu hết các đòn tấn công của mình. Chuỗi xích dường như được làm bằng vàng và có những viên ngọc đỏ được lồng trong mỗi mắt xích. Mắt xích có hình dáng thay đổi: hình tròn hoặc hình trái tim. Giống như chiếc gương – trang bị của Minako khi còn là Thủy thủ V, chuỗi xích này rất đa năng và được Minako sử dụng theo nhiều cách. Với dây xích tình yêu, cô có thể khai triển nhiều đòn tấn công bao gồm: Venus Love-Me Chain, Hissatsu Love-Me Moon Chain, Chain Explosive và Venus Wink Chain Sword. Dây xích cũng có thể được sử dụng để phòng thủ. Trong Arc 4, dây xích được nâng cấp lên hình thái cao hơn - The Love Whip (Roi Tình Yêu) để Minako có thể khai triển tuyệt chiêu Venus Love & Beauty Shock. Trong Anime 90s, dây xích của Minako không phải là một trang bị hữu hình, nó xuất hiện dưới dạng một chuỗi các mắt xích năng lượng hình trái tim. Trong Manga, sợi xích luôn được Venus đeo ở ngang hông. Còn ở Anime, nó chỉ xuất hiện khi cô khai triển đòn tấn công Venus Love-Me Chain. Và bởi vì sợi xích tình yêu trong Anime là một dạng năng lượng chứ không phải một dạng vật chất, nên nó không có độ dài tối đa, Minako có thể điều khiển độ dài ngắn của dây xích này. Ghi chú khác: - Trong thần thoại Hy Lạp, Nữ Thần Tình Yêu Aphrodite (người cũng được gọi là Thần Venus), nữ thần của tình yêu và sắc đẹp có đeo một sợi dây thần làm từ loại vàng đẹp nhất. Sợi dây này làm cho vẻ đẹp khó cưỡng của nữ thần Venus thêm tỏa sáng. Sợi dây xích vàng mà Thủy thủ Sao Kim đeo ngang hông có thể đã được mượn ý tưởng từ trong thần thoại. - Kết thúc Codename: Sailor V, khi Thủy thủ V biến thân thành Thủy thủ Sao Kim lần đầu tiên, sợi dây xích đã không xuất hiện cùng bộ trang phục thủy thủ của cô. Điều này có nghĩa là cô đã có nó bằng cách nào đó sau này. Sợi dây xích cũng xuất hiện trong những phân cảnh hồi tưởng về Thiên niên kỷ Bạc cho thấy nó đã luôn luôn là một trong những vũ khí của Thủy thủ Sao Kim. - Trong Manga, tùy vào mỗi đòn tấn công của Minako mà mắt xích biến đổi sang hình dạng tròn hoặc trái tim, khi dây xích được đeo quanh hông Minako, mắt xích luôn ở trạng thái hình tròn. Khi cô khai triển đòn tấn công Venus Love-Me Chain, mắt xích thường là hình trái tim, thỉnh thoảng cũng ở trạng thái hình tròn. Trong phiên bản Anime 90s, các mắt xích này luôn là hình trái tim. - Dây xích cũng xuất hiện trong phiên bản Live Action PGSM của Sailor Moon, giống như trong Manga, nhân vật Thủy Thủ Sao Kim luôn đeo sợi dây xích quanh hông. - Trong phiên bản Anime Sailor Moon Crystal, sợi dây xích được thiết kế là một vũ khí hữu hình, luôn được Thủy Thủ Sao Kim đeo ở quanh hông. Trang phục Sailor V Manga, Sailor Moon Crystal and Eternal Trang phục của Sailor V có một số khác biệt so với các thủy thủ khác. Thay vì đeo vương miện, cô mang một chiếc mặt nạ màu đỏ và có một hình mặt trăng lưỡi liềm xuất hiện trên trán cô. Vòng cổ của cô có màu trắng, gắn hình mặt trăng lưỡi liềm. Cổ áo cô màu xanh, có hai sọc đỏ. Miếng đệm vai của cô màu trắng, trông giống như những chiếc bảo vệ vai ở áo giáp. Ở giữa nơ trước là một trâm cài màu cam. Găng tay cô được viền màu cam vàng ở phần đầu. Nơ đính trên tóc cô có màu đỏ. Thay vì mặc đồng phục, cô mặc một chiếc áo hở bụng, có hai sọc đỏ tạo thành điểm nhấn trên chiếc áo ở hai bên. Dưới miếng đệm vai của cô là hai tay áo, có sọc màu đỏ, kết thúc tại cổ tay áo ở lưng chừng cánh tay. Váy của cô có màu xanh dương, viền đỏ. Giày của cô có một dây đai ở mắt cá chân, cùng màu với váy. Anime 90s Trang phục của Sailor V trong Anime 90s có một số khác biệt so với trong Manga. Cô không có ký hiệu mặt trăng lưỡi liềm trên trán, viền găng tay thay vì có màu cam vàng thì lại giống viền găng tay khi cô làm Sailor Venus, cô không có tay áo dưới miếng đệm vai. Sailor Venus Anime 90s Trong Anime 90s, màu chủ đạo của trang phục là màu cam (váy, cổ áo, viền găng tay, giày cao gót, bông tai), màu nhấn là màu xanh dương (nơ) và màu vàng (đá đính trên vương miện, nơ sau). Cổ áo có sọc trắng, giày của cô là một đôi giày cao gót nhọn màu cam với một dây đai cùng màu ở mắt cá chân. Sau khi được nâng lên cấp Super, bông tai của cô có hình dạng giống nhau, nhưng tối màu hơn. Cổ áo có một sọc trắng. Vòng cổ được đính thêm một ngôi sao vàng. Phía dưới miếng đệm vai là một miếng đệm mờ. Trâm cài áo chuyển từ hình tròn sang hình trái tim. Nơ sau được kéo dài ra và rộng hơn. Manga, Sailor Moon Crystal and Eternal Trong Manga, trang phục đầu tiên của Sailor Venus chủ yếu giống trong Anime, trừ việc cô có thêm một dây chuỗi ở eo. Trong một số Artbook minh hoạ, miếng đệm vai của cô có màu cam nhạt.Trâm cài của cô chuyển thành hình trái tim sau khi Sailor Moon được nâng lên thành Super Sailor Moon. Sau khi nâng lên cấp Super, trang phục của cô hoàn toàn giống với phiên bản Anime. Nhưng ngôi sao đính ở vòng cổ của cô còn đính thêm một viên đá màu cam ở chính giữa. Sau khi được nâng lên cấp Eternal (cấp cuối cùng trong Stars Arc), vòng cổ của cô có hình chữ V và trâm cài ở ngực có hình một ngôi sao màu cam. Miếng đệm vai của cô phồng lên, có màu vàng, đính hai mảnh vải màu da cam ở bên dưới. Găng tay của cô dài đến tận cánh tay cô. Trong Artbook, cô có dây đeo hình chữ V màu cam, đính ngôi sao ở tay, nhưng chúng không xuất hiện trong Manga. Thắt lưng gồm hai dải ruy băng, một cam và một vàng, mỏng và dài. Tại nơi giao nhau của hai dải ruy băng đính một ngôi sao năm cánh màu vàng. Nơ sau của cô có màu vàng. Váy của cô có hai lớp: Cam bên trên và xanh vàng bên dưới. Bốt của cô cao tới gần đầu gối, màu trắng, có viền là hình chữ V cam, đính một ngôi sao. Vương miện của cô đính một ngôi sao năm cánh màu cam, hoa tai của cô là một ngôi sao có cùng màu. Live action Trong live action, trang phục của Sailor Venus chủ yếu giống với phiên bản Manga. Một trong những sự khác biệt là ở trung tâm nơ cài tóc của cô có đính hình trái tim. Từ trái tim ấy xuôi xuống là những chuỗi hạt nhỏ, nhưng sau một vài tập, chúng không còn xuất hiện nữa, không có một lời giải thích nào cho việc này. Kiểu tóc của cô cũng hơi khác. Cô có để 2 búi nhỏ ở 2 bên đầu, tóc cô xoăn kiểu lượn sóng chứ không thẳng. Nơ sau của cô là màu cam chứ không phải màu vàng. Trong một số Poster, dây đai trên mắt cá chân của cô biến mất. Nhạc kịch Trong các vở nhạc kịch, trang phục trong Sailor Moon Musicals của Sailor Venus có 2 phiên bản chính: Trong phiên bản đầu tiên, nơ, viền găng tay và tay áo của cô có màu tím, trong khi váy, cổ áo và vòng cổ có màu cam. Các phiên bản sau, tay áo của cô được đổi thành màu cam và nơ trước, lớp váy dưới, viền găng tay có màu xanh. Chiếc trâm cài ở nơ trước là một hình trái tim màu vàng, có đính đá cùng màu. Cô cũng có một trái tim được đính ở vòng cổ. Hoa tai của cô là một hình trái tim màu vàng. Phiên bản thứ hai về cơ bản là giống với phiên bản "Super" của cô trong Manga và Anime. Lúc đầu, nơ trước và viền găng tay của cô có màu xanh. Cổ áo và vòng cổ có màu cam, nơ sau của cô có màu vàng. Váy của cô có hai lớp, lớp trên cùng là màu cam và dưới cùng là màu tím. Các phiên bản sau, viền găng tay của cô được đổi thành màu cam thay vì màu xanh. Lớp váy dưới của cô cũng được đổi sang màu xanh. Vòng cổ của cô đính một ngôi sao với một vòng tròn màu cam có biểu tượng Sao Kim ở giữa. Trâm cài ở cung trước của cô là một trái tim viền bao quanh bằng vàng. Hoa tai của cô có hình tròn và có màu vàng. Giày của cô hơi khác so với Anime và Manga. Dây đai được đặt ở mu bàn chân thay vì quanh mắt cá chân. Tuy nhiên, trong Sailor Moon SuperS - Yume Senshi - Ai - Eien ni..., dây đai của chiếc giày được đặt ở mắt cá chân. Princess Venus Bộ váy của cô màu vàng, có bèo dún chạy dọc thân áo. Trên tóc cô cài chiếc nơ vàng và một bông hồng, băng đeo cổ cô cột lại thành nơ phía sau và có ký hiệu Sao Kim trên trán. Chiêu thức và Sức mạnh Sailor V Sức mạnh - Moon Power, Make up! (Năng lượng Mặt Trăng, biến thân!) - Cô sử dụng bút/gậy biến hình đầu tiên để biến thành Sailor V. - Crescent Moon Power, Transform! (Năng lượng Mặt Trăng, hãy biến ta thành...) - Cô sử dụng Compact của mình để biến thành bất kì ai mà cô muốn. Các chiêu thức tấn công - Crescent Beam! (Tia sáng lưỡi liềm!) - Cô chiếu một chùm ánh sáng từ Compact của mình tới kẻ thù và tiêu diệt nó. - Crescent Boomerang! (Mặt Trăng Lưỡi liền Boomerang!) - Sailor V sử dụng chiêu thức này bằng cách ném Compact của cô đi. - Venus Power, Love Crescent Shower! (Sức mạnh Sao Kim, chùm tia lưỡi liềm tình yêu!) - Sailor V sử dụng Compact của mfinh để tạo ra một "cơn mưa" tia sáng, làm tan chảy đối thủ. - Crescent Super Beam! (Siêu tia sáng lưỡi liềm!) - Một phiên bản mạnh hơn chiêu Crescent Beam, và cô cũng sử dụng Compact của mình khi sử dụng chiêu thức này. - Crescent Slender Beam! (Tia sáng lưỡi liềm mảnh mai) - Một chiêu thức được sử dụng với Compact của cô, dùng để tiêu diệt kẻ thù. - Venus Sulfur Smoke! (Khói lưu huỳnh Sao Kim!) - Cô tạo một đám khói lưu huỳnh cay nồng để áp đảo tấn công. - Ultimate Attack: Diphenhydramine Dispersal! (Tấn công cuối cùng: Diphenhydramine phân tán!) - Sử dụng để tấn công Chuu - Chuu. - Venus Brand: Mosquito Incense Typhoon! (Nhãn hiệu Sao Kim: Cơn bão hương muỗi) - Sử dụng để tấn công Chuu - Chuu. - Venus Ten Billion Volt Rockin 'Rouge!- Cô sử dụng Venus Mike để tạo ra một sóng âm thanh, tiêu diệt kẻ thù của mình. - Venus Love Megaton Shower!- Cô tạo ra một ánh sáng mạnh mẽ để tiêu diệt kẻ thù. Các chiêu thức tấn công thiên về thể chất - Sailor V Kick! (Cú đá của Sailor V!) - Sailor V đá kẻ thù của mình. - Sailor V Chop! (Cú chặt của Sailor V!) - Sailor V sử dụng Karate, "chặt" kẻ thù của mình. - Rolling Screw Sailor V Punch! (Cú đấm xoay vòng rung lắc của Sailor V!) - Sailor V đấm kẻ thù của mình. - V-chan-Style Kneading Sailor V Chop! (V-chan theo phong cách đấm cú chặt của Sailor V!) - Một chiêu thức Karate khác. - Venus Iron Muscle Punch! (Cú đấm gân sắt Sao Kim!) - Cô đấm kẻ thù của mình. - V-chan's Sword! (Kiếm V-chan!) - Sailor V tấn công kẻ thù của mình bằng một thanh uchigatana. Sailor Venus Anime 90s Sức mạnh - Venus Power, Make Up! (Sức mạnh Sao Kim, biến thân!) - Cô sử dụng bút/gậy biến hình để biến thành Sailor Venus (Thủy Thủ Sao Kim). - Venus Star Power, Make Up! (Năng lượng tinh tú Sao Kim, biến thân!) - Cô sử dụng Star Power Stick để biến thành Sailor Venus (Thủy Thủ Sao Kim). - Venus Crystal Power, Make Up! (Năng lượng pha lê Sao Kim, biến thân!) - Cô sử dụng Crystal Change Rod để biến thành Super Sailor Venus (Siêu Thủy Thủ Sao Kim). Chiêu thức tấn công - Crescent Beam! (Tia sáng lưỡi liềm!) - Chiêu thức tấn công đầu tiên của Venus. Cô chiếu một chùm tia sáng tới kẻ thù. - Crescent Beam Shower! (Trận mưa tia sáng lưỡi liềm!) - Một chiêu thức mạnh hơn chiêu Crescent Beam. - Venus Love Me Chain! (Vòng xích tình yêu Sao Kim!) - Sailor Venus tung ra một sợi xích để đánh hoặc trói kẻ thù. - Sailor Kick! (Cú đá thủy thủ!) - Chiêu thức Sailor Venus dùng khi cải trang thành Sailor Moon. - Hissatsu Love - Me Moon Chain! (Cú tấn công đặc biệt: Dây xích tình yêu mặt trăng!) - Chiêu thức Sailor Venus dùng khi cải trang thành Sailor Moon. - Furious Random Crescent Beam Shots! (Tia sáng lưỡi liềm của sự tức giận!) - Một chiêu thức tấn công chỉ sử dụng một lần duy nhất, tương tự như Crescent Beam Shower. - Venus Love And Beauty Shock! (Sao Kim Tình yêu và sắc đẹp xung kích!) - Chiêu thức tấn công trong Season 4. Trong đó, Sailor Venus ném một trái tim màu vàng về phía kẻ thù. Manga, Sailor Moon Crystal and Eternal Sức mạnh - Venus Power, Make Up! (Năng lượng Sao Kim, biến thân!) - Cô sử dụng bút/gậy biến hình để biến thành Sailor Venus (Thủy Thủ Sao Kim). - Venus Star Power, Make Up! (Năng lượng tinh tú Sao Kim, biến thân!) - Cô sử dụng Star Power Stick để biến thành Sailor Venus (Thủy Thủ Sao Kim). - Venus Planet Power, Make Up! (Năng lượng hành tinh Sao Kim, biến thân!) - Cô sử dụng sức mạnh từ hành tinh của mình, đã được nâng cấp lên bởi Tân Nữ hoàng Serenity, giúp cô biến thành Sailor Venus (Thủy Thủ Sao Kim). - Venus Crystal Power, Make Up! (Năng lượng pha lê Sao Kim, biến thân!) - Cô sử dụng Pha Lê Sao Kim để biến thành Super Sailor Venus (Siêu Thủy Thủ Sao Kim). Chiêu thức tấn công - Crescent Boomerang! (Mặt trăng Lưỡi liềm Boomerang!) - Chiêu thức đầu tiên của Sailor Venus trong Manga. Trong đó, cô ném chiếc Compact của mình về phía kẻ thù. - Sailor V Kick! (Cú đá của Sailor V!) - Sailor Venus đá kẻ thù của mình. - Venus Love Me Chain! (Vòng xích tình yêu Sao Kim!) - Sailor Venus dùng sợi dây xích của mình để bắt hoặc trói kẻ thù. - Rolling Heart Vibration! (Xoáy ốc cộng hưởng trái tim!) - Chiêu thức chỉ được sử dụng bởi Sailor Venus trong manga, Live Action và nhiều Video Games. Trong đó, Sailor Venus tung ra Rolling Heart để làm tổn thương kẻ thù. - Venus Wink Chain Sword! (Kiếm xích Sao Kim!) - Chỉ sử dụng trong Manga và nhiều Video Games. Sailor Venus sẽ tung sợi xích của cô như một thanh kiếm để làm tổn thương kẻ thù. - Venus Love And Beauty Shock! (Sao Kim Tình yêu và sắc đẹp xung kích!) - Venus có được quyền năng này sau khi dùng Pha Lê Sao Kim biến hình. Cô sử dụng Roi Tình Yêu của cô để tấn công kẻ thù. - Venus Love And Galactica Shock! (Sao Kim Tình yêu và ngân hà xung kích!) - Chiêu thức này chỉ sử dụng một lần khi Sailor Venus đang bị Sailor Galaxia kiểm soát trong Stars Arc. - Akuryo Taisan! (Linh hồn quỷ dữ hãy biến đi!) - Chiêu thức này chỉ sử dụng một lần, trong "Exam Battle 3" để tiêu diệt Loci Genius đã tấn công Học viện Nữ Sinh T-A. Live action Sức mạnh - Venus Power, Make Up! (Sức mạnh Sao Kim, biến hình!) Chiêu thức tấn công - Venus Beam! (Tia sáng Sao Kim!) - Một chiêu thức được sử dụng bởi Sailor Venus. Nó giống như Crescent Beam trong Manga, Anime và Manga Sailor V. - Venus Love Me Chain! (Dây xích tình yêu Sao Kim!) - Sailor Venus tung roi ra để tấn công hoặc trói kẻ thù. Nó cũng được sử dụng để làm chệch hướng các cuộc tấn công. - Rolling Heart Vibration! (Trái tim rung động!) - Chiêu thức chỉ được sử dụng bởi Sailor Venus trong manga, Live Action và nhiều Video Games. Trong đó, Sailor Venus tung ra Rolling Heart để làm tổn thương kẻ thù. - Unnamed Attack - Sailor Venus sử dụng một chiêu thức mà không được nêu tên trên màn hình, trong đó, cô sử dụng Sailor Star Tambourine để "gửi" một năng lượng hình ngôi sao về phía kẻ thù của mình. Ngoài những cuộc tấn công sử dụng phép thuật như trên, Sailor Venus có một vũ khí gọi là Crescent Moon Cutter. Cô có thể sử dụng nó bằng hai cách: Dùng nó để cắt như một con dao hoặc phóng nó đi như một chiếc Boomerang. Video Games Trong các Video Games, Sailor Venus thường sử dụng những quyền năng tiêu chuẩn của cô. Nhưng sau đây là các chiêu thức, quyền năng chỉ có trong Video Games. - Venus Kick! - Được sử dụng trong Sailor Moon Arcade Game. - Chain Explosive! - Được sử dụng trong Sailor Moon S: Jougai Rantou? Shuyaku Soudatsusen và Sailor Moon SuperS: Zenin Sanka! Shuyaku Soudatsusen. Thông tin bên lề Naoko Takeuchi nói lý do mà Venus rất giống với Sailor Moon bởi vì cô phải thực hiện nghĩa vụ bảo vệ công chúa khỏi nguy hiểm. "Minako" có thể đọc chệch thành Venus (Biinasu). Sinh nhật của Minako là 22 tháng 10, tức là cô thuộc cung Thiên Bình. Hành tinh bảo trợ cho Thiên Bình là sao Kim. ​Cô là nhân vật duy nhất thức tỉnh dưới 2 dạng khác nhau: đầu tiên là Sailor V, sau đó là Sailor Venus. Minako là người duy nhất trong số các Senshi có họ không bắt đầu bằng chữ Kanji Nhật dùng để thể hiện trực tiếp thiên thể tương ứng đối với cô. Tuy nhiên, họ của cô lại có nghĩa là "Tình yêu" (爱), nó vẫn gián tiếp đại diện cho Sao Kim, giống như thần Venus (Vệ Nữ) là nữ thần tình yêu trong thần thoại Phương Tây. Cô là một trong số 2 Thủy thủ có tên được viết bằng chữ Hán. Một người khác nữa đó là Ami Mizuno. Họ của cô là một sự chơi chữ của cụm từ có nghĩa là "Tình yêu" (愛 の)(Aino), vì vậy tên cô nghe như là "Minako tình yêu" Bộ đồ học sinh cấp 2 của cô là bộ đồ cổ điển nhất trong số các Senshi. Phong cách trang phục như vậy phản ánh hệ thống trường học quân đội ở Nhật Bản trong quá khứ, vào khoảng thời Minh Trị (明治). Tuy nhiên, nguồn gốc thực sự của nó là ở Châu Âu, nơi mà cả nam sinh cũng có thể mặc chứ không chỉ dành riêng cho nữ sinh như ở Nhật. Số thành viên trong Three Lights Fan Club của cô là 278. Trong Manga và Series Live Action, Sailor Venus đeo một dây chuỗi ở eo. Nữ thần Aphrodite trong Thần Thoại Hy Lạp tương đương với thân Venus trong Thần Thoại La Mã, đeo một chiếc thắt lưng bằng vàng, có sức mạnh làm cho tất cả mọi người đều yêu người đeo nó.
, được biết nhiều hơn với cái tên là một nhân vật trong bộ truyện Sailor Moon được viết bởi Naoko Takeuchi. Makoto là thành viên thứ ba được tìm thấy bởi Sailor Moon. Makoto có sức mạnh của sấm sét và thực vật, cô là "chiến binh của sấm sét và lòng dũng cảm" (雷と勇気の戦士) và "chiến binh của sự bảo vệ" (保護の戦士), dưới sự bảo hộ của "hành tinh của sấm sét" (雷の星). Cô là người mạnh nhất về thể lực và cũng là người cao nhất nhóm Chiến Binh Vòng Trong. Ngoài series Sailor Moon, Makoto còn là nhân vật chính trong ngoại truyện đặc biệt The Melancholy of Mako-chan. Thân thế Makoto Kino sinh ngày 5 tháng 12, thuộc cung Nhân Mã, mang nhóm máu O. Makoto là hoá thân hiện tại của Sailor Jupiter, cô xuất hiện trong tất cả các Season của Series Sailor Moon. Makoto được cho là rất xinh đẹp, cô có mái tóc nâu, xoăn uốn lượn và thường buộc lên phía sau, chiều cao và sức mạnh thể chất vượt trội hơn so với các thành viên còn lại (khoảng 1m72) và luôn đeo một đôi bông tai hoa hồng rất đẹp. Cô còn là một trong những thành viên trong CLB Judo. Ngoài ra, trong anime 90s, từng có một lần Makoto nói rằng cô nên là người được đóng vai Bạch Tuyết trong vở kịch vì cô tự cho mình có "vòng một" ấn tượng nhất. Makoto xuất hiện lần đầu khi cứu Usagi khỏi một đám côn đồ (trong anime 90s) hoặc cứu Usagi tránh khỏi chiếc xe đang chạy tới khi Usagi bước qua đường mà không để ý đèn giao thông (trong manga và anime Crystal). Sau đó Usagi đã phát hiện ra Makoto là học sinh mới chuyển đến cùng trường Trung học Juuban với mình vì bị đuổi ở trường cũ do tham gia đánh nhau. Ngay cả sau khi chuyển đến trường mới cô vẫn phải mặc đồng phục cũ, vì tại thời điểm đó họ không có kích thước đồng phục phù hợp với chiều cao bất thường của cô. Các học sinh khác thường xa lánh Makoto vì cho rằng cô là một người bạo lực, cho tới khi cô gặp lại Usagi vào giờ ăn trưa khi cô phải ngồi ăn một mình. Makoto dần trở nên thân thiết với Usagi, người duy nhất không sợ mình ở trường, và sau đó gặp các chiến binh thủy thủ khác. Tính cách của cô gần như không thay đổi trong tất cả các phiên bản (live action, manga, anime, musicals) của Sailor Moon. Mặc dù bên ngoài cô có vẻ mạnh mẽ và kiên cường, nhưng Makoto rất nữ tính và thích làm những việc như nấu ăn, cắm hoa, làm vườn và thủ công mỹ nghệ. Trong phim, ước mơ của cô là chủ một tiệm bánh, một cửa hàng đồ ngọt, một cửa hàng hoa hoặc sự kết hợp giữa tất cả chúng lại với nhau. Trong Parallel Sailor Moon, cô đã đạt được ước mơ của mình, trở thành chủ của một cửa hàng bánh/hoa. Trong Special Act của Live Action, Makoto đang học cắm hoa để thực hiện giấc mơ của mình. Như tất cả các Thủy thủ khác, cô luôn trung thành với Sailor Moon, thậm chí có thể hy sinh tính mạng để bảo vệ công chúa của mình. Nhạc kịch Trong Sailor Moon Musicals, Makoto được đóng bởi Kanoko, Marie Sada, Takako Inayoshi, Emika Satou, Akari Tonegawa, Chiho Ooyama, Emi Kuriyama, Yuriko Hayashi, Ayano Sugimoto, Kaori Sakata, Karina Okada, Mai Watanabe và Yu Takahashi. Phiên bản Musicals của Makoto có tính cách tương tự như các phiên bản khác: Bên ngoài với vẻ mạnh mẽ nhưng bên trong là một trái tim dịu dàng và lòng trung thành vững chắc đối với Sailor Moon. Makoto thường nhắc tới việc sẽ đến Trung Quốc để học nấu nhưng món ăn Trung Hoa. Cô đã được Nephrite (đang cải trang) tán tỉnh trong Sailor Moon - Gaiden Dark Kingdom Fukkatsu Hen và Starlights - Ryuusei Densetsu. Gia đình Theo như trong manga, bố mẹ của Makoto đã qua đời, đó cũng là sự thật trong phiên bản live action. Trong manga, bố mẹ cô đã qua đời vì một tai nạn máy bay. Tuy nhiên, việc bố mẹ cô qua đời vì lý do gì thì trong phiên bản live action lại không nói rõ. Trong anime 90s thì chưa bao giờ nói rõ ràng là họ còn sống hay đã qua đời, nhưng không có bất kì thành viên nào trong gia đình của Makoto được nhắc tới. Trong tập 91, Makoto cho biết là cô đang sống một mình. Cũng tập tương tự nhưng trong bản lồng tiếng Anh, Makoto có nhắc tới mẹ cô (vẫn còn sống). Trong Parallel Sailor Moon, Makoto đã kết hôn với một người đàn ông (không có mặt trong truyện) và có một đứa con gái tên là Mako - cũng là một Senshi. Các mối quan hệ Makoto liên tục nhắc đến "bạn trai cũ" của cô. Cụm từ trong tiếng Nhật mà cô sử dụng là "shitsuren shita senpai" (失恋 し た 先輩). Trong đó "Shitsuren shita" nghĩa là trái tim tan vỡ hoặc tình yêu đơn phương. Trong khi "Senpai" dùng để chỉ học sinh/sinh viên lớn tuổi hơn mình (dành cho các trường học) và đồng nghiệp (trong công việc). Nói cách khác, Makoto đã yêu một chàng trai lớn tuổi hơn cô. Trong suốt bộ phim, cô liên tục nhắc tới "bạn trai cũ" của mình, cũng như một anh chàng lý tưởng dành cho một mối quan hệ lãng mạn. Trong live action, "bạn trai cũ" của Makoto chỉ xuất hiện một lần trong hồi tưởng của cô, sau đó thì anh ta không bao giờ được nhắc đến nữa. Trong Senshi / Shitennou, Makoto được cho là người yêu của Nephrite. Cặp đôi này cùng với ba cặp Senshi/Shitennou còn lại rất phổ biến trong Fan Art và Fan Fiction. Trong Live Action, Motoki và Makoto có tình cảm với nhau. Trong Special Act, Motoki đã ngỏ lời với Makoto và được cô chấp nhận. Biệt hiệu Sailor Jupiter Sailor Jupiter là hình dạng thứ hai của Makoto sau khi biến hình. Princess Jupiter Khi còn ở Thiên Niên Kỷ Bạc, cô là Công chúa Sao Mộc. Cô sống trong Lâu đài Io và bảo vệ Công chúa Serenity. Những phụ kiện của Thủy thủ sao Mộc Đôi bông tai hoa hồng Đôi bông tai hoa hồng (Makoto's rose earrings) là đồ vật được Makoto Kino đeo trong suốt toàn bộ series trong cả Manga và Anime khi làm người thường lẫn chiến binh thủy thủ. Đôi bông tai có hình dạng của bông hoa hồng. Trong Act.5 của Manga, sau khi Makoto cứu Usagi khỏi một chiếc xe ô tô, Usagi đã nói rằng đôi bông tai có mùi nước hoa thơm phức. Trong Tập 25 của Anime 90s, Makoto lần đầu tiên sử dụng chiếc bông tai tấn công Zoisite để ngăn cản hắn khi đang cố lấy cắp viên pha lê cầu vồng từ Crane Game Joe. Trong Tập 171 của Anime 90s, Usagi đã thoát ra khỏi cơn ác mộng của cô do Nehellenia tạo ra khi cô nhìn thấy bông tai của Makoto. Nhiều fan cho rằng, Makoto đeo đôi bông tai bằng cách kẹp chúng vào tai để có thể dễ dàng lấy ra, tuy nhiên trong Tập 25, Usagi nhắc đến chúng như một đôi bông tai xỏ lỗ. Đôi bông tai xuất hiện mở đầu trong đòn tấn công “Sparkling Wide Pressure” của Anime 90s và “Flower Hurricane” trong Sailor Moon Crystal. Vương miện Tiara ティアラ (Vương Miện) là một phần trong bộ trang phục thủy thủ. Tuy nhiên chỉ có Sailor Moon và Sailor Jupiter là sử dụng nó để tấn công chứ không chỉ để trang trí. Chiếc Vương miện của Sailor Jupiter có một chiếc ăn-ten nhỏ nằm phía trên viên ngọc. Trong các chiêu thức tấn công Supreme Thunder và Supreme Thunder Dragon, chiếc ăn-ten này được cô sử dụng như một cột thu lôi và dường như kể cả các đòn tấn công Sparkling Wide Pressure và Jupiter Oak Evolution. Nó được đặt tên là Thunder & Lightning Antenna (雷電アンテナ). Chú thích thêm: - Màu sắc của viên đá ở giữa mỗi chiếc Vương Miện là màu sắc đại diện cho mỗi chiến binh thủy thủ (ngoại trừ Sailor Moon). - Sailor Moon là thủy thủ duy nhất mà Vương Miện thay đổi nhiều lần. - Trong Manga, khi 9 chiến binh thủy thủ phát triển thành hình thức Eternal, những viên đá quý trong vương miện của họ đã trở thành ngôi sao, ngoại trừ Sailor Chibi Moon thì viên đá đã trở thành hình mặt trăng lưỡi liềm, và Eternal Sailor Moon thì không có vương miện mà chỉ có hình mặt trăng lưỡi liềm ở trên trán. Vòng nguyệt quế lá sồi Xuyên suốt Dream Arc, Vòng Nguyệt Quế Lá Sồi (Leaves Of Oak) là vũ khí được người bảo hộ sao Mộc trao cho Super Sailor Jupiter để cô có thể triển khai chiêu thức “Jupiter Oak Evolution (Lá Sồi Phi Kích)”. Cũng giống như các loại vũ khí mới của các Thủy thủ khác, Vòng Nguyệt Quế Lá Sồi cũng có ý chí riêng và có thể giao tiếp với Jupiter. Vũ khí này chỉ xuất hiện trong Manga. Còn trong Anime, Super Sailor Jupiter sử dụng chiếc ăng-ten trên vương miện của mình tạo ra năng lượng điện để thực hiện chiêu thức Jupiter Oak Evolution. Chiêu thức tấn công này được sử dụng lần đầu tiên ở Act 42 trong Manga, Jupiter đã dùng nó để tiêu diệt Hawk’s Eye. Khi thi triển chiêu thức, những chiếc lá sồi được nạp đầy năng lượng và tạo thành một cột xoắn xoay quanh cô trước khi được bắn về phía mục tiêu. Trong Anime, nó xuất hiện ở Episode 154, Jupiter dùng nó để chống lại Jara Jara Jou. Vòng hoa xuất hiện ở đầu của đòn tấn công là biểu tượng của vị thần Hy Lạp, Zeus, hay vị thần La Mã, Jupiter. Để thi triển chiêu thức, cô tự xoay vòng và bắn những chiếc lá sồi nạp đầy năng lượng về phía mục tiêu. Chú thích thêm: – Trong bản lồng tiếng Anh, Sailor Jupiter sẽ đôi khi nói “Jupiter Power” hoặc “Sailor Jupiter” trước khi thực hiện cuộc tấn công của mình. – Không giống như những chiêu thức trước đây của Jupiter đều có liên quan đến điện hay sấm chớp để phù hợp với hình tượng biểu trưng Thần Sấm của La Mã. Jupiter Oak Evolution dường như là một đòn tấn công hệ mộc. – Có nhiều tài liệu có kể về những mối gắn kết linh thiêng giữa cây sồi và Jupiter, đây cũng là một trong những hình tượng đại diện cho vị thần này. Như thế nó cũng rất phù hợp, bởi trong từ Sao Mộc, người Nhật viết nó có từ “木” (cây) – Ở Cộng hòa Roman, vòng hoa lá sồi còn được gọi với tên khác là vương miện công dân. Trang phục Anime Trong trang phục này, màu chủ đạo của cô là màu xanh lá (đá đính trên vương miện, cổ áo, váy, viền găng tay, đôi giày, trâm cài trước ngực, vòng cổ) và màu nhấn là màu hồng (nơ trước ngực, nơ sau và hoa tai). Hoa tai của cô (đã được đeo từ khi còn là người thường cho đến lúc làm chiến binh) có hình bông hoa, giày của cô dài đến mắt cá chân, cổ áo cô có hai sọc trắng. Sau khi được nâng lên cấp Super, vòng cổ của cô có đính thêm một ngôi sao, cổ áo có một sọc trắng, trâm cài trước ngực trở thành hình trái tim màu xanh lá. Dưới miếng đệm vai còn có một miếng đệm mờ nữa. Nơ sau được kéo dài ra và rộng hơn. Manga Trang phục của Sailor Jupiter phiên bản đầu tiên chủ yếu giống trong Anime, ngoại trừ cổ áo cô có ba sọc trắng. Tuy nhiên, trong phiên bản tái bản của Manga, cột thu lôi của cô luôn luôn xuất hiện ở vương miện và cô có đeo một dây đai ở eo. Trâm cài của cô thay đổi từ hình tròn sang hình trái tim sau khi Sailor Moon trở thành Super Sailor Moon. Sau khi nâng lên cấp Super, bộ trang phục của cô giống hệt với phiên bản Anime, chỉ trừ ở vòng cổ có đính thêm ngôi sao vàng. Ở trung tâm ngôi sao có đính một viên đá màu xanh lá. Sau khi được nâng lên cấp cuối cùng trong Stars Arc, vòng cổ của cô có hình chữ V và trâm cài ở ngực có hình một ngôi sao màu xanh lá. Miếng đệm vai của cô phồng lên, có màu xanh lá nhạt, đính hai mảnh vải màu xanh lá đậm hơn ở bên dưới. Găng tay của cô dài đến tận cánh tay cô. Trong Artbook, cô có dây đeo hình chữ V màu xanh lá, đính ngôi sao ở tay, nhưng chúng không xuất hiện trong Manga. Thắt lưng gồm hai dải ruy băng, một xanh lá đậm và một xanh lá nhạt, mỏng và dài. Tại nơi giao nhau của hai dải ruy băng đính một ngôi sao năm cánh màu vàng. Nơ sau của cô có màu xanh nhạt. Váy của cô có hai lớp: Xanh đậm bên trên và xanh nhạt bên dưới. Bốt của cô cao tới gần đầu gối, màu trắng, có viền là hình chữ V màu xanh, đính một ngôi sao. Vương miện của cô đính một ngôi sao năm cánh màu xanh lá cây, hoa tai của cô là một ngôi sao có cùng màu. Live action Về cơ bản thì bộ trang phục của Sailor Jupiter trong PGSM giống trong Manga. Điểm khác biệt duy nhất là cô luôn luôn đeo dây đai hoa hồng. Nhạc kịch Trang phục của Sailor Jupiter trong Musicals được chia ra làm 2 phiên bản. Trong phiên bản đầu tiên, nơ của Sailor Jupiter, viền găng tay và tay áo của cô có màu hồng. Trong khi váy, cổ áo và vòng cổ của cô có màu xanh lá cây. Chiếc trâm cài ở trên nơ của cô có hình một viên kim cương, màu vàng, đính đá màu xanh lá cây. Cô cũng có một viên kim cương như thế đính ở vòng cổ, và có hoa tai cũng có hình như vậy. Trong các phiên bản sau, trang phục của cô đã được thay đổi lại tay áo thành màu xanh lá. Hoa tai, trung tâm nơ trước được trang trí với hoa văn màu vàng. Tất cả các trang trí trên trang phục của cô, kể cả sọc áo đều là màu vàng. Bộ trang phục này không còn xuất hiện nữa sau Sailor Moon S - Henshin - Super Senshi e no Michi (Kaiteiban). Phiên bản thứ hai cơ bản là giống với phiên bản "Super" của Jupiter trong Anime và Manga. Lúc đầu, màu sắc cũng tương tự như trang phục trước đây của cô, mặc dù bây giờ cô có thêm hai lớp váy: Phần váy trên màu xanh lá cây, phần váy dưới màu hồng. Các phiên bản sau, trang phục cô đã được thay đổi như viền găng tay chuyển từ màu hồng sang màu xanh lá. Vòng cổ của cô được trang trí với một ngôi sao có một vòng tròn màu xanh lá cây, vẽ biểu tượng của Sailor Jupiter. Trâm cài nơ là hình một trái tim màu xanh, viền vàng. Hoa tai của cô có hình tròn, màu vàng, đính một viên ngọc xanh ở trung tâm. Princess Jupiter Cô mặc váy đầm dài màu xanh lá xẻ từ đầu gối. Trên tóc cũng như trên hông cô được trang trí bằng hoa hồng. Cô luôn đeo bông tai hoa hồng và băng cổ cùng dây chuyền xanh lá. Có ký hiệu Sao Mộc trên trán. Chiêu thức & Sức mạnh Anime 90sBiến đổi- Jupiter Power, Make Up! (Năng lượng Sao Mộc, biến thân!) - Cô sử dụng bút (gậy) biến hình để biến thành Sailor Jupiter (Thủy Thủ Sao Mộc). - Jupiter Star Power, Make Up! (Năng lượng tinh tú Sao Mộc, biến thân!)- Cô sử dụng Star Power Stick để biến thành Sailor Jupiter (Thủy Thủ Sao Mộc). - Jupiter Crystal Power, Make Up! (Năng lượng pha lê Sao Mộc, biến thân!) - Cô sử dụng Crystal Change Rod để biến thành Super Sailor Jupiter (Siêu Thủy Thủ Sao Mộc).Chiêu thức tấn công- Supreme Thunder! (Sấm sét tối cao!) - Chiêu thức tấn công đầu tiên của Sailor Jupiter. Vương miện của cô xuất hiện một cột thu lôi, tích tụ sấm sét, sau đó phóng ra. - Supreme Thunder Dragon! (Long sấm tối cao!) - Một phiên bản mạnh mẽ hơn chiêu Supreme Thunder, với hình dạng một con rồng. Nó chỉ được sử dụng một lần duy nhất trong Season 2. - Sparkling Wide Pressure! (Sấm sét áp suất cực đại!) - Chiêu thức mới của Sailor Jupiter trong Season 2. Trong chiêu này, Jupiter sẽ ném một chiếc đĩa làm bằng sét về phía kẻ thù. - Super Supreme Thunder! (Siêu sấm sét tối cao!) - Một phiên bản mạnh mẽ hơn chiêu Supreme Thunder. Chiêu thức này chỉ được sử dụng duy nhất một lần trong tập 147. - Jupiter Oak Evolution! (Sao Mộc Lá sồi phi kích!) - Chiêu thức tấn công mới của Sailor Jupiter trong phần SuperS. Cô sẽ "gửi" những quả bóng năng lượng về phía kẻ thù của mình. Không giống với các chiêu thức tấn công trước đây - có liên quan tới điện, sấm sét,.. để sao cho giống với Vị Thần Tối cao với sức mạnh của sấm sét trong Thần Thoại La Mã - Jupiter, chiêu thức này có cả sự kết hợp của cây (木). MangaBiến đổi- Jupiter Power, Make Up! (Năng lượng Sao Mộc, biến thân!) - Cô sử dụng bút (gậy) biến hình để biến thành Sailor Jupiter (Thủy Thủ Sao Mộc). - Jupiter Star Power, Make Up! (Năng lượng tinh tú Sao Mộc, biến thân!)- Cô sử dụng Star Power Stick để biến thành Sailor Jupiter (Thủy Thủ Sao Mộc). - Jupiter Planet Power, Make Up! (Năng lượng hành tinh Sao Mộc, biến thân!)- Cô sử dụng quyền năng của hành tinh đã được nâng cấp bởi Tân Nữ hoàng Serenity để biến thành Sailor Jupiter (Thủy Thủ Sao Mộc). - Jupiter Crystal Power, Make Up! (Năng lượng pha lê Sao Mộc, biến thân!) - Cô sử dụng pha lê Sao Mộc để biến thành Super Sailor Jupiter (Siêu Thủy Thủ Sao Mộc).Chiêu thức tấn công- Flower Hurricane! (Cuồng phong hoa!) - Cô tạo ra một cơn gió hoa để làm che mắt hoặc tấn công đối thủ của mình. - Jupiter Thunderbolt (Sấm sét Sao Mộc!) - Chiêu thức của Sailor Jupiter trong bản in lại của Manga, tương tự chiêu Supreme Thunder. - Supreme Thunder! (Sấm sét tối cao!) - Chiêu thức tấn công chính của Sailor Jupiter trong Arc đầu tiên của Manga. Vương miện của cô xuất hiện một cột thu lôi, tích tụ sấm sét, sau đó phóng ra. - Sparkling Wide Pressure! (Sấm sét áp suất cực đại!) - Trong chiêu này, Jupiter sẽ thu điện lại trong tay và "gửi" nó vào kẻ thù của mình. - Jupiter Coconut Cylone! (Bão tố Sao Mộc!) - Sailor Jupiter sử dụng chiêu thức này trong cả Manga và Video Games. Ở chiêu thức này, cô sẽ tạo ra một cơn lốc tập trung hút những trái dừa tích điện rồi ném về phía kẻ thù, có thể tiêu diệt hoặc tê liệt tạm thời kẻ thù! - Jupiter Oak Evolution! (Sao Mộc Lá sồi phi kích!) - Sailor Jupiter thực hiện chiêu thức này với lá sồi sau khi chuyển đổi với pha lê Sao Mộc. Cô tập trung sồi điện rồi tấn công kẻ thù! Live action Trong Live Action, cô có thể biến Sailor Star Tambourine của mình thành một ngọn giáo để chống lại Youma được tạo ra bởi Princess Sailor Moon trong Act cuối cùng. Trong Special Act, cô cũng có dùng nó, nhưng với mục đích là bảo vệ Sailor Moon.Biến đổi- Jupiter Power, Make Up! (Sức mạnh Sao Mộc, biến hình!) - Cụm từ biến hình chỉ được sử dụng bởi Sailor Jupiter trong PGSM.Chiêu thức tấn công' - Supreme Thunder! (Sấm sét tối cao!) - Chiêu thức tấn công đầu tiên của Sailor Jupiter trong PGSM. Nó cũng tương tự như Anime và Manga, chỉ khác là cô không sử dụng vương miện để tích tụ sấm sét. - Flower Hurricane! (Lốc xoáy hoa!) - Cô tạo ra một cơn gió hoa để tấn công đối thủ của mình. - Jupiter Thunderbolt (Quả cầu sấm sét Mộc Tinh!) - Chiêu thức mạnh nhất của Sailor Jupiter trong PGSM. Cô sử dụng Sailor Star Tambourine để "gửi" một tia sét tới kẻ thù của mình. - Unnamed Attack - Một chiêu thức của Sailor Jupiter, không được nêu tên trên màn hình. Trong đó Sailor Jupiter sử dụng Sailor Star Tambourine để "gửi" một năng lượng hình ngôi sao về phía mục tiêu của mình. - Unnamed Attack (2) - Một chiêu thức của Sailor Jupiter, không được nêu tên trên màn hình. Trong đó, Jupiter đánh xuống mặt đất, "gửi" một dòng năng lượng màu xanh tới kẻ thù của mình. Nó cũng tương tự như chiêu "World Shaking" của Sailor Uranus. Video Games Trong các Video Games, Sailor Jupiter thường sử dụng những quyền năng tiêu chuẩn của cô. Nhưng sau đây là các chiêu thức, quyền năng chỉ có trong Video Games. - Jupiter Kick! - Được sử dụng trong Sailor Moon Acarde Game. - Lighting Knuckle! - Sử dụng trong Sailor Moon cho Mega Drive. - Jupiter Double Axel! - Sử dụng trong Sailor Moon S cho 3DO, Sailor Moon R cho Super Famicom, Sailor Moon S: Jougai Rantou? Shuyaku Soudatsusen và Sailor Moon SuperS: Zenin Sanka! Shuyaku Soudatsusen. - Lighting Strike - Được sử dụng trong Sailor Moon S: Jougai Rantou? Shuyaku Soudatsusen và Sailor Moon SuperS: Zenin Sanka! Shuyaku Soudatsusen. Thông tin bên lề Nguồn thu nhập của Makoto từ đâu có đã trở thành một đề tài tranh luận của rất nhiều Fan hâm mộ. Mặc dù cô mới chỉ 14 - 16 tuổi trong Anime, nhưng nó không đề cập rõ ràng rằng làm thế nào cô có thể tự chu cấp cho mình, mặc dù có một giả thiết được các Fan hâm mộ đưa ra là Makoto sống với số tài sản được thừa kế bởi cha mẹ mình. Với chiếc váy dài trong khi học trung học cơ sở, cùng với phong cách đôi giày của mình, đó là biểu tượng của một nữ sinh đầu gấu vào thời điểm đó. Tuy nhiên, bộ trang phục này không được giống y nguyên trong Live Action. Có lẽ là vì thời gian làm giữa Live Action và bộ Manga / Anime khi ấy đã thay đổi rất nhiều và váy ngắn là một trong số những tiêu chuẩn của Kogyaru. Thêm nữa có lẽ nó cũng không phù hợp với một chương trình dành cho trẻ em. Trong Manga, Makoto nói rằng loài hoa yêu thích của cô là hoa Sazanka (Mặc dù Kodansha đã làm nó sai chính tả, trở thành "Sasanqua Camilla"). Trong PGSM, Makoto có nói rằng cô không thích khoai tây. Số thành viên của Makoto trong Starlights Fanclub là 1606. Họ của Makoto được phát âm giống như từ có nghĩa là "chân thành" (诚) và "sự thật" (真). Ban đầu, nó nghĩa là Mamoru. Nghĩa là "bảo vệ/để bảo vệ". Tên đầy đủ của cô là một sự chơi chữ của cụm từ có nghĩa là " Sự trung kiên của cây " (木 の 誠). Trong Trailer ban đầu của bản lồng tiếng Anh của DiC, cô được gọi là Maggie hoặc Sarah. Trong số các Inner Senshi, Makoto / Sailor Jupiter là người mạnh nhất về thể lực (Trong khi Usagi / Sailor Moon lại mạnh nhất về phép thuật). Tuy nhiên, trong anime 90s tập 96, Season 3, cô và Haruka / Sailor Uranus đã thách đấu nhau. Nó chỉ ra rằng thậm chí Haruka còn mạnh hơn cô. Tuy nhiên, cổ tay Haruka bị thương vì một cú đánh từ Makoto, vì thế cô ấy đã nói với Makoto rằng đây có lẽ là một trận đấu bất phân thắng bại. Sao Mộc - Hành tinh giám hộ của Sailor Jupiter - là hành tinh lớn nhất trong Hệ Mặt Trời. Đám mây che kín dày đặc này cũng gây chú ý bởi thời tiết hỗn loạn, như bão lớn, sấm sét, v...v..
Nguyễn Văn Tý (5 tháng 3 năm 1925 - 26 tháng 12 năm 2019) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam, ông có nhiều đóng góp sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như Dư âm đến những ca khúc nhạc đỏ như Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ... Tiểu sử và sự nghiệp Nguyễn Văn Tý sinh ngày 5 tháng 3 năm 1925 tại Vinh, Nghệ An, quê gốc ở Phú Cường, Sóc Sơn, Phúc Yên, nay thuộc Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình truyền thống âm nhạc, cha của ông là "trùm một phường bát âm của miền quê Vĩnh Phú thạo cả hát văn, hát chèo và hát ả đào", sau vào làm thợ máy nhà máy xe lửa Trường Thi ở Nghệ An. Thuở bé, Nguyễn Văn Tý học ở trường Quốc học Vinh và được một giáo viên người Pháp dạy cho những bài hát của Tino Rossi đang thịnh hành thời đó. Trong thời gian tham gia hoạt động hướng đạo, ông được một cha cố người Tây Ban Nha cho vào dàn nhạc nhà thờ hát thánh ca. Ở đó ông được học nhạc lý cơ bản và nhất là nâng cao trình độ hòa thanh, hát bè. Nguyễn Văn Tý còn được một thầy giáo nhạc sĩ người Hoa tên Mạnh Hinh dạy chơi đàn guitar Hawaii. Từ năm 1944, ông đi hát trong phòng trà ở Vinh kiếm sống. Năm 1945, Nguyễn Văn Tý tham gia phong trào Việt Minh, sáng lập và xây dựng đoàn kịch thơ, kịch nói của Thanh niên Cứu quốc Nghệ An. Năm 1946, ông kết hôn với bà Mai Thị Cúc. Bà qua đời khi con gái đầu lòng của 2 người mới 3 tháng tuổi. Theo lời của Nguyễn Văn Tý, ông bắt đầu sáng tác vào năm 1947 khi là Trưởng phòng Thông tin tuyên truyền huyện Thanh Chương, nhưng ông coi tác phẩm đầu tay của mình là bài Ai xây chiến lũy được viết 1949. Năm 1948, Nguyễn Văn Tý ở đoàn văn hóa tiền tuyến thuộc Quân huấn cục. Sau đó, từ năm 1950, ông nhận nhiệm vụ đi xây dựng Đoàn Văn công của Sư đoàn 304 và làm trưởng đoàn. Bản Dư âm nổi tiếng được ông sáng tác khoảng 1950 sau một lần về chơi nhà bạn ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, Dư âm viết về cô em gái của người bạn đó. Cũng vì bản nhạc này ông bị đơn vị đưa ra kiểm điểm vì đã sáng tác một bài hát quá ủy mị, không hợp với thời kỳ đó. Tuy nhiên, bài hát Dư âm sau này lại rất nổi tiếng và được hát nhiều tại Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra ông còn sáng tác bài Mùa hoa nở, Pha màu luống cày... Đến 1951, Nguyễn Văn Tý giải ngũ và chuyển về công tác ở Chi hội Văn nghệ Liên khu IV. Năm 1952, ông quen biết với bà Nguyễn Thị Bạch Lệ, em gái nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương và sau đó 2 người thành hôn. Thời gian này ông sáng tác những bài như Vượt trùng dương (1952), Tiếng hát Dôi-a (1953) và đặc biệt là ca khúc nổi tiếng Mẹ yêu con (1956). 3 năm sau, cha ông mất. Cuối năm 1957, Nguyễn Văn Tý cùng với Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao được chỉ định thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Sau đó, khi đang là ủy viên chấp hành khóa đầu tiên của hội thì báo Nhân Văn ra đời, xảy ra vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, theo lời khuyên của Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Tý đi tránh và nghiên cứu dân ca. Đầu 1961, ông được biệt phái về Hưng Yên. Thời gian này, Nguyễn Văn Tý đã viết một số ca khúc như Chim hót trên đồng đay (1963), Dòng nước quê hương (1963), Tiễn anh lên đường (1964), Múa hát mừng chiến công (1966)... Sau năm 1975, ông vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống và định cư tại căn nhà nhỏ ở 94/19 Trần Khắc Chân, phường Tân Định, Quận 1, TP HCM. Ông đã từ trần tại nhà riêng vào lúc 17h15 ngày 26 tháng 12 năm 2019 tại nhà riêng, hưởng thọ 94 tuổi. Vào những năm cuối đời, Nguyễn Văn Tý là một tín hữu Công giáo, ông có tên thánh là Phêrô. Sáng tác Nguyễn Văn Tý sáng tác được khá nhiều bài hát, những sáng tác của ông lại được đông đảo công chúng mến mộ như Dư âm, Mẹ yêu con, Dáng đứng Bến Tre, Bài ca năm tấn, Bài ca phụ nữ Việt Nam, Em đi làm tín dụng, Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Cô nuôi dạy trẻ... Dư âm có thể coi là ca khúc tiền chiến duy nhất của ông. Ca khúc tuy không được phổ biến ở miền Bắc trong những năm chiến tranh nhưng lại được biểu diễn nhiều ở miền Nam trước năm 1975. Về sau ca khúc được lưu hành rộng rãi, trở thành một trong những bản tình ca được nhiều công chúng yêu thích. Sau này ông có viết thêm bài "Dư âm 2" mang tên Một ánh sao trời (1988). Nguyễn Văn Tý là một trong những nhạc sĩ nhạc đỏ thành công với chất liệu dân ca. Những sáng tác của ông được chắt chiu và nghiền ngẫm qua những chuyến đi thực tế trong thời gian dài, nhiều sáng tác đã sử dụng khéo léo chất liệu dân ca của nhiều vùng miền (Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh, Dáng đứng Bến Tre, Mẹ yêu con...). Âm nhạc của ông giàu chất trữ tình được thể hiện qua lời ca trau chuốt cùng với giai điệu mượt mà và bản sắc dân tộc.Một đề tài quen thuộc trong nhiều sáng tác của ông là phụ nữ với những ca khúc như Bài ca phụ nữ Việt Nam, Mẹ yêu con, Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa... Nguyễn Văn Tý cũng là một nhạc sĩ có nhiều sáng tác "ngành ca": Em đi làm tín dụng, Anh đi tìm tôm trên biển cả, Chim hót trên đồng đay, Cô đi nuôi dạy trẻ, Bài ca năm tấn. Ngoài ra ông còn viết một số ca khúc thiếu nhi như Màu áo chú bộ đội, Em tập lái ô tô, Tôi là gà trống, Gà mái mơ, Út cưng... Ông còn viết nhạc cho phim hoạt hình, múa rối và một số vở chèo: Đảo nổi, Sông Hồng (1967), Nguyễn Viết Xuân (1968) Ông đã xuất bản các tác phẩm: Những dư âm còn lại, video, (VAFACO, 1993), Tuyển chọn ca khúc Nguyễn Văn Tý, Nhà xuất bản Âm nhạc, Hội nhạc sĩ Việt Nam 1995; Băng chân dung và tác phẩm của Đài truyền hình TP. Hồ Chí Minh. Giải thưởng Năm 2000, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho các tác phẩm: Mẹ yêu con, Vượt trùng dương, Bài ca năm tấn, Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Dáng đứng Bến Tre. Trong cuộc đời hoạt động của mình, ông còn giành được một số giải thưởng như: Giải nhì (không có giải nhất) của Hội văn nghệ Việt Nam cho bài Vượt trùng dương Giải nhất Cuộc thi vận động sáng tác về đề tài phụ nữ với bài Tiễn anh lên đường (1964) Giải nhất sáng tác về đề tài nông nghiệp với ca khúc Bài ca năm tấn (1967) Giải Ngân hà với bài Em đi làm tín dụng. Tác phẩm Ai xây chiến lũy (1949) Bà mẹ Hải Dương (1967) Bài ca năm tấn (1967) Bài ca phụ nữ Việt Nam (1970) Chim hót trên đồng đay (1963) Dáng đứng Bến Tre (1981) Dòng nước quê hương (1963) Dôi-a Việt Nam (1953) Dư âm (1950) Đồng ta rộng mở chân trời (1971) Em đi làm tín dụng (1971) Em hát Em tập lái ô tô Gà mái mơ (1973) Gương mặt Kiên Giang Huyền diệu (1970) Màu áo chú bộ đội (1968) Mẹ yêu con (1956) Một ánh sao trời (Dư âm 2) (1988) Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh (1974) Múa hát mừng chiến công (1966) Mùa hoa nở (1951) Mùa xuân cô đi nuôi dạy trẻ (1980) Người đi xây hồ Kẻ Gỗ (1976) Người giỏi chăn nuôi (1972) Pha màu luống cày (1951) Quảng Nam - Đà Nẵng đất nặng nghĩa tình Ru người trăm năm (1999) Rừng Tuyên Quang in bóng Tân Trào (1972) Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa (1973) Tiễn anh lên đường (1965) Tiếng hát Dôi-a (1953) Thành phố Hồ Chí Minh (1969) Trúng rồi các cụ ta ơi! (1967) Vượt trùng dương (1952) Yêu đàn chim nhỏ (1972)
Vùng đồi Valdai (tiếng Nga: Валдайская возвышенность hay Валдай, tiếng Latvia: Valdaja augstiene) là một khu vực có địa hình đồi núi thấp ở miền tây bắc của miền trung Nga chạy theo hướng bắc-nam, nằm ở khoảng giữa Sankt-Peterburg và Moskva, trải dài trên 600 km, qua các tỉnh Novgorod, Tver, Pskov và Smolensk. Khu vực vùng đồi núi thấp này là phần mở rộng về phía bắc của bình nguyên trung Nga. Các ngọn đồi được che phủ bởi các trầm tích kỷ băng hà trong dạng các băng tích giai đoạn cuối và các mảnh vụn khác. Vùng đồi Valdai có độ cao trung bình 150–250 m, đạt độ cao lớn nhất ở khu vực gần Vyshny Volochok với cao độ 343 m. Các con sông như Volga, Daugava (Tây Dvina), Lovat, Msta và một số sông khác bắt nguồn từ khu vực Valdai. Đây cũng là nơi có nhiều hồ, trong số đó có các hồ Volgo, Peno, Seliger, Brosno và hồ Valdai. Vùng đồi Valdai là điểm đến phổ biến của ngành du lịch, cụ thể là để câu cá. Các thị trấn như Ostashkov và Valday cũng rất đáng chú ý vì các di tích lịch sử của chúng.
Margaret Denise Quigley (sinh ngày 22 tháng 5 năm 1979) với nghệ danh Maggie Q là nữ diễn viên mang hai dòng máu Mỹ và Việt Nam. Cô nổi tiếng với vai Nikita trong loạt phim cùng tên của kênh The CW phát sóng từ 2010 đến 2013. Ngoài ra cô còn thủ vai chính trong các phim Nhiệm vụ bất khả thi III và Live Free or Die Hard. Năm 2014, cô tham gia vai Tori Wu trong phim điện ảnh Divergent chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Veronica Roth, vai mà cô đã đóng trong phần tiếp theo The Divergent Series: Allegiant. Tiểu sử Maggie sinh ra và lớn lên tại Honolulu, Hawaii. Cha cô mang 2 dòng máu Ireland và Ba Lan còn mẹ là bà Catherine Hồng, một phụ nữ Việt Nam di cư sang Mỹ sau 1975. Cha mẹ cô gặp nhau khi ông tham gia đóng quân trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Ngoài ra, Maggie còn có 4 anh chị em. Maggie theo học trường tiểu học Mililani Waena Elementary School và Wheeler Intermediate School. Tiếp đó là trường trung học Mililani High School, tại đây cô là thành viên của đội tuyển bơi lội và điền kinh xuyên quốc gia. Cô đã nhận giải "Best Body" vào năm cuối cấp và tốt nghiệp năm 1997. Maggie nhận được một học bổng thuộc lĩnh vực thể thao vào một trường đại học tư và dự định học ngành thú y. Nhưng gia đình không thể hỗ trợ tài chính cho cô nên Maggie rời Hawaii trong suốt mùa hè với hy vọng kiếm đủ tiền để có thể nhập học vào mùa thu. Sự nghiệp 1996–2005: Người mẫu và phim Hồng Kông Theo gợi ý của một người bạn, Maggie bắt đầu đến Tokyo làm người mẫu năm 17 tuổi, sau đó đến Đài Bắc nhưng không đạt được thành công. Cuối cùng cô cố gắng thử sức tại Hồng Kông. Cô chia sẻ rằng điều đó thật sự không dễ dàng: "Tôi từng có mỗi 20 đô la trong túi. Ý tôi là tôi đã thật sự từng ở trong hoàn cảnh giống như mẹ tôi khi bà rời Việt Nam... không biết tiếng... không có tiền." Tại Hồng Kông, cô may mắn được Jackie Chan chú ý khi nhìn thấy tiềm năng trở thành ngôi sao phim hành động ở cô. Nhờ có sự huấn luyện võ thuật chuyên sâu đã giúp cô hiểu tầm quan trọng của tinh thần chuyên nghiệp và luôn tập trung hết khả năng. Cô nói "Tôi chưa từng tập võ thuật một ngày nào trong đời khi bắt đầu công việc. Tôi thậm chí còn không thể chạm đến các ngón chân của mình". Năm 2005, Maggie Q đặt kỳ vọng vào bộ phim Mái nhà hoà thuận, bộ phim truyền hình hợp tác Đức-Singapore. Trong phim, cô đóng vai con gái…của nữ diễn viên Phạm Văn Phương. Vì bối cảnh phim xảy ra từ những năm 20 đến những năm 50 của thế kỷ trước ở Singapore nên Maggie Q phải tìm đọc những tài liệu liên quan, rồi xem phim tư liệu để thể hiện được phong thái cũng như cách sống của các thiếu nữ Singapore xa xưa. Thái độ làm việc nghiêm túc của Maggie Q rất được lòng nhà sản xuất và họ hứa sẽ tiếp tục mời cô đảm nhận vai chính "một mình một sân" trong bộ phim Thời gian còn lại, dự kiến khởi quay vào tháng 5. 2006–2013: Sự nghiệp Hollywood và Nikita Năm 2006, Maggie Q tạo nên sự đột phá tại Hollywood khi đảm nhiệm vai chính trong Mission: Impossible III (Nhiệm vụ bất khả thi 3) cùng với Tom Cruise. Cô đóng vai Trần, thành viên nữ duy nhất của đội IMF. Năm 2007, cô xuất hiện với vai Mai Linh trong bộ phim của Bruce Willis Live Free or Die Hard, bộ phim thứ tư trong loạt phim Die Hard, và vai Maggie trong Balls of Fury. 2014-hiện tại: Phim truyền hình Phim tham gia Phim điện ảnh Phim truyền hình Trò chơi điện tử Video Âm nhạc Nhà sản xuất
''Về ca sĩ Don Hồ xin xem bài Don Hồ. Donald Ho Tai Loy (chữ Trung Quốc: 何大來 Hồ Đại Lai), sinh ngày 13 tháng 8 năm 1930 - mất ngày 14 tháng 4 năm 2007) là nhạc sĩ và người làm trò mua vui Hawaii. Ho, có dòng máu Trung Quốc, Hawaii, Bồ Đào Nha, Hà Lan và Đức.
Han Myung-Sook (tiếng Hàn Quốc: 한명숙; tiếng Trung Quốc: 韓明淑; Hán-Việt: Hàn Minh Thục; sinh ngày 24 tháng 3 năm 1944) là Thủ tướng Hàn Quốc và nghị sĩ đảng cầm quyền Uri. Bà tốt nghiệp trường Đại học Ehwa với bằng văn học Pháp. Tiểu sử Năm 2001, bà là Bộ trưởng Bộ Bình đẳng giới và Gia đình và Bộ trưởng Bộ Môi trường từ năm 2003 đến 2004. Ngày 24 tháng 3 năm 2006, sau sự từ chức của thủ tướng Lee Hae-chan, Tổng thống Roh Moo-hyun đã bổ nhiệm bà vào chức vụ thủ tướng, Han Myung-Sook trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Hàn Quốc.
Nguyễn Văn Thương (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Văn Thương thuộc thế hệ đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam. Được truyền cảm hứng niềm âm nhạc từ nhỏ, ông sớm tiếp xúc với nền âm nhạc mới trước Cách mạng của Việt Nam. 13 tuổi, Nguyễn Văn Thương nhập học Trường Quốc Học Huế và được đào tạo âm nhạc bài bản từ cả nền âm nhạc phương Tây và âm nhạc cổ truyền phương Đông. Sớm có sự thành công từ những tác phẩm đầu tay, Nguyễn Văn Thương tiếp tục tham gia con đường nghệ thuật Cách mạng. Ông là tác giả của những ca khúc tiền chiến đáng chú ý như "Đêm đông", "Trên sông Hương" và cả những ca khúc cách mạng như "Bình Trị Thiên khói lửa". Nguyễn Văn Thương đã quản lý, dàn dựng và dẫn dắt các Đoàn Văn công nghệ thuật của Việt Nam được biểu diễn trong và ngoài Việt Nam. Ông cũng là một nhà giáo với công tác đào tạo, nâng cấp và quản lý các cơ sở âm nhạc, giúp cho những nơi này trở thành những trung tâm đào tạo âm nhạc uy tín. Xuyên suốt hành trình sự nghiệp sáng tác, quản lý và đào tạo, Nguyễn Văn Thương đóng góp một vai trò quan trọng đối với nền âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20. Với những đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam, Nguyễn Văn Thương được nhà nước Việt Nam phong tặng nhiều huân huy chương cùng các giải thưởng danh giá. Ông qua đời vào cuối năm 2002, hưởng thọ 83 tuổi. Thân thế Nguyễn Văn Thương sinh ngày 22 tháng 5 năm 1919 trong một gia đình công chức tại huyện Hương Thuỷ (nay là thị xã Hương Thuỷ), tỉnh Thừa Thiên Huế thuộc miền Trung Việt Nam. Cha ông là một công chức nhưng yêu thích âm nhạc. Mẹ ông là một người biết chơi đàn tranh và thuộc nhiều dân ca Trung Bộ cũng như Hò Huế. Từ nhỏ, cha mẹ đã truyền cảm hứng âm nhạc cho ông từ những tiếng đàn và điệu hát. Năm 9 tuổi, Nguyễn Văn Thương được cha mẹ cho học đàn nguyệt với một nghệ nhân. Đầu những năm 1930, âm nhạc phương Tây ngày càng du nhập sâu vào Việt Nam qua nhiều phương thức. Trong thời gian này, ông được bố mẹ mua cho cây đàn mandolin và tự học cách diễn tấu, cũng là nhạc cụ phương Tây đầu tiên mà Nguyễn Văn Thương được học. Năm 1932, Nguyễn Văn Thương được nhập học ở Trường Quốc học Huế. Tại đây, ông có dịp được tiếp xúc nhiều nhạc phương Tây khác như guitare, acordeon, piano, saxophone... Cũng từ đây, ông bắt đầu tiếp cận nền âm nhạc phương Tây đang dần thịnh hành ở khắp các thành phố lớn trên Việt Nam. Từ kiến thức âm nhạc cổ truyền mà mình học được, Nguyễn Văn Thương tự học lý thuyết âm nhạc theo những cuốn sách của nhà lý luận âm nhạc người Pháp Antoine Francois Marmóntel mà ông mua được. Thời kỳ này, Việt Nam đang phổ biến phong trào "Lời Ta điệu Tây". Cũng giống như nhiều nhạc sĩ yêu nước đương thời, Nguyễn Văn Thương đã không tán thành xu hướng bị xem là "ngoại lai" này. Những bài hát của các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước... đã giúp ông tự chọn con đường phát triển của âm nhạc Việt Nam mà bản thân sẽ đi theo. Đời tư Nguyễn Văn Thương kết hôn với nghệ sĩ ưu tú Đặng Thị Thanh Hảo. Ông có em gái là bà Nguyễn Thị Bạch Lệ, người vợ thứ hai của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Sự nghiệp Những năm đầu Năm 1936, sau khi tốt nghiệp trung học ở Trường Quốc học Huế, Nguyễn Văn Thương chuẩn bị ra Hà Nội để học thi tú tài. Trong buổi du ngoạn sông Hương trước khi rời Huế, ông đã sáng tác ca khúc đầu tay "Trên sông Hương". Hà Nội những thập niên 1930 là một điểm khởi đầu của tân nhạc Việt Nam, là nơi tập trung nhiều nhạc sĩ danh tiếng, giúp cho Nguyễn Văn Thương được tiếp xúc nhiều hơn với nền âm nhạc mới. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước đã đề nghị xuất bản ca khúc "Trên sông Hương" và tác phẩm này được in vào năm 1937 tại Hà Nội với chính Nguyễn Văn Thương là người vẽ bìa minh hoạ. Những năm đầu tiên ở Hà Nội, ông học thi Tú tài ở trường Thăng Long dưới sự dẫn dắt của Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám, Võ Nguyên Giáp. Trong dịp Tết Nguyên đán năm 1940, gia đình Nguyễn Văn Thương gặp khó khăn khiến ông không nhận được tiền để về quê ăn Tết. Đêm giao thừa, ông đi lang thang khắp phố phường Hà Nội trong giá rét mùa đông. Qua phố Khâm Thiên, ông bị ấn tượng và xúc động trước hình ảnh một ả đào ngồi hát đón khách trong đêm giao thừa. Chính từ đây, ca khúc "Đêm đông" đã được lên ý tưởng hình thành. Nguyễn Văn Thương đã trau chuốt, sửa chữa và cộng tác với Kim Minh trong phần ca từ để ca khúc trở thành một tác phẩm nổi tiếng. "Đêm đông" không những là điểm khởi đầu định danh cho Nguyễn Văn Thương mà cũng là tác phẩm giúp cho ca sĩ Bạch Yến có được sự chú ý ban đầu trong sự nghiệp khi bà mới 15 tuổi. Tham gia cách mạng và hoạt động nghệ thuật Từ năm 1938, Nguyễn Văn Thương vào Sài Gòn thi ngạch kiểm soát viên bưu điện từ đó ông làm việc tại Bưu điện trung tâm Sài Gòn. Tại đây, ông vẫn tiếp tục sáng tác âm nhạc và dạy đàn, đồng thời làm quen với các nhạc sĩ ở khu vực Nam Bộ như Lưu Hữu Phước. Năm 1942, ca khúc "Bướm hoa" ra đời. Ca khúc này ông cũng hợp tác với Kim Minh trong phần lời. Bài hát được xuất bản năm 1943 và được tái bản nhiều lần. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Văn Thương còn sáng tác nhiều ca khúc khác, tuy vậy 3 ca khúc đầu tay của ông là "Trên sông Hương", "Đêm đông" và "Bướm hoa" vẫn là những ca khúc có đóng góp đáng kể cho dòng ca khúc lãng mạn của phong trào Tân nhạc Việt Nam thời bấy giờ. Năm 1944, Nguyễn Văn Thương được chuyển về Huế. Trong những ngày đầu của Cách mạng tháng Tám, ông thoát ly tham gia chiến tranh vào cuối năm 1946 khi lên chiến khu cùng cơ quan. Năm 1948, ông được làm quyền Giám đốc Bưu điện Liên khu IV. Thời gian này, Pháp mở nhiều cuộc càn quét Việt Nam. Những cảnh tượng người chết đẫm máu đã khiến Nguyễn Văn Thương sáng tác "Bình Trị Thiên khói lửa" trong hai đêm thức trắng. Ca khúc được biểu diễn lần đầu tiên trong đêm gặp mặt ủng hộ người dân Bình Trị Thiên ở khu IV vào mùa thu năm 1948. Ca khúc đã đánh dấu bước ngoặt trong thế giới quan cũng như bút pháp sáng tác của Nguyễn Văn Thương. Từ đây, ông đã sáng tác các tác phẩm nói đến vấn đề lớn về dân tộc Việt Nam, của cách mạng cùng với việc vận dụng các chất liệu âm nhạc trong kho tàng âm nhạc dân gian Việt Nam. Cuối năm 1948, Nguyễn Văn Thương nghỉ việc ở Bưu điện và chuyên tâm vào công việc hoạt động nghệ thuật hơn. Ông phụ trách về mảng âm nhạc và làm Ủy viên Ban chấp hành Chi hội Văn nghệ liên khu IV. Ông cùng một số nhạc sĩ như Nguyễn Khoa Châu hay Lê Yên mở lớp dạy nhạc. Một số học sinh của những lớp nhạc đó về sau trở thành những nhạc sĩ có tiếng như Nguyễn Văn Tý, Văn Ký. Năm 1949, Nguyễn Văn Thương gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối năm 1950, ông bị thực dân Pháp bắt và tống giam trong một nhà lao Toà Khâm sứ ở Huế. Tuy vậy sau một thời gian do không tìm được bằng chứng buộc tội nên Pháp đã thả Nguyễn Văn Thương ra, từ đó nhạc sĩ thoát ly khỏi vùng tự do. Trong thời gian 9 năm của cuộc chiến tranh Đông Dương, rất nhiều ca khúc của ông đã bị thất lạc. Năm 1951, ông trở về làm Uỷ viên Thường vụ Chi hội Văn nghệ kiêm Trưởng đoàn văn công của Liên khu IV. Cuối năm 1953, ông đã cùng Đoàn Văn công lên đường tham gia chiến dịch Trung Lào và sau đó là chiến dịch Điện Biên Phủ. Cuối năm 1954, Nguyễn Văn Thương lại được điều động ra công tác tại Đoàn Văn công Trung ương Việt Bắc. Miền Bắc Việt Nam thắng trận trong Chiến tranh Đông Dương, ông cùng đoàn quân Việt Nam chiến thắng về tiếp quản lại Hà Nội. Cũng trong những ngày này, ông được giao nhiệm vụ quay trở lại Liên khu IV tìm người để xây dựng Đoàn Văn Công trung ương. Năm 1955, Nguyễn Văn Thương là người chỉ đạo nghệ thuật của Đoàn Văn công Việt Nam đầu tiên tham dự Festival Thanh niên quốc tế tại Warszawa. Cùng năm, ông được cử làm Trưởng đoàn Văn công Trung ương cho tới năm 1964. Trong suốt thời gian mười năm đó, ông đã dẫn nhiều đoàn nghệ thuật Việt Nam tham dự và biểu diễn ở nhiều quốc gia trên Thế giới. Những năm này, nhạc sĩ đã sáng tác nhiều tác phẩm nhạc múa cho các Đoàn Văn công như thơ múa "Chim gâu", kịch múa "Tấm Cám" cộng tác với nhạc sĩ Văn Chi. Bản kịch múa "Tấm Cám" đã nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. Ông cũng viết thêm nhạc cho một số điệu múa như "Múa ô", "Múa sạp", "Chàm Rông", "Thiếu nữ bên hồ". Bên cạnh nhạc múa, Nguyễn Văn Thương còn sáng tác nhiều ca khúc trong thời gian này. Đây cũng là thời điểm ông tham gia viết nhạc cho phim truyện và phim tài liệu như "Vợ chồng A Phủ", "Dòng sông âm vang", "Hai bà mẹ". Năm 1960, ông viết một số tác phẩm cho nhạc cụ truyền thống Việt Nam, tiêu biểu là bài "Nhớ về Nam" cho sáo trúc độc tấu với dàn nhạc dân tộc. Năm 1964, Nguyễn Văn Thương được cử đi thực tập tại Nhạc viện Bắc Kinh, Trung Quốc. Tuy vậy, cuộc Cách mạng Văn hóa nổ ra khiến ông phải bỏ dở việc học và trở về nước. Ông bắt đầu bước vào lĩnh vực sáng tác khí nhạc. Tác phẩm đầu tay được nhạc sĩ viết trong lĩnh vực này là "Quê hương Tây Nguyên" viết cho piano, sau đó là vũ khúc "Tây Nguyên vui chiến thắng" cho violin và piano vào năm 1965. Tác phẩm này đã từng được phát trên Đài phát thanh Tiếng nói Bắc Kinh. Bài hát "Tiếng hát muôn phương" (lời Xuân Oanh) sáng tác năm 1958 của ông nhận được Bằng khen tại Liên hoan Thanh niên và Sinh viên thế giới ở Viên, Áo. Năm 1968, Nguyễn Văn Thương được tiếp tục đi thực tập tại Nhạc viện Leipzig (từng là Cộng hoà Dân chủ Đức). Ông là nhạc sĩ tiền chiến thứ hai được tu nghiệp ở nước ngoài sau Đỗ Nhuận. Tại nơi đây, ông được tiếp xúc với nhiều nhạc sĩ, giáo sư âm nhạc của Đức với nhiều các tác phẩm âm nhạc đương đại trên toàn thế giới. Trong thời gian học tập tại Đức, Nguyễn Văn Thương đã viết bản giao hưởng "Đồng Khởi" vào năm 1971. Đến cuối năm 1971, bản giao hưởng được biển diễn lần đầu tiên tại Đức trong ngày kỷ niệm thành lập Nhạc viện Leipzig và ngày đoàn kết Cộng hoà Dân chủ Đức với Việt Nam. Trở về nước, làm công tác quản lý và đào tạo Tháng 4 năm 1972, Nguyễn Văn Thương trở về Việt Nam và được làm giám đốc Trường Âm nhạc Việt Nam (sau đó là Nhạc viện Hà Nội, nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Trong suốt 12 năm từ 1972 đến 1984, Nguyễn Văn Thương làm công tác quản lý và đào tạo tại ngôi trường này. Ông là một trong những người có công xây dựng trường từ một trường Trung cấp thành trường Đại học, trở thành một trung tâm đào tạo âm nhạc lớn của Việt Nam. Nhận thức được thời đại của nhạc nhẹ, ông đã nhanh chóng cử các ca sĩ và nhạc công sang học nhạc nhẹ ở các quốc gia Đông Âu. Ông cũng phát hiện ra nhiều tài năng nghệ thuật và đưa về Nhạc viện đào tạo trong đó có nhiều nghệ sĩ của Nhà hát Ca Múa Nhạc Việt Nam và sau này đều trở thành những nghệ sĩ có tên tuổi. Qua đó, ông có sự đóng góp tích cực trong công tác đào tạo âm nhạc cho Việt Nam.Nguyễn Văn Thương là người đưa hệ trung cấp khoa âm nhạc cổ truyền của Nhạc viện Hà Nội lên bậc đại học. Ông cũng là tác giả của một số quyển sách giáo khoa như "Tuyển tập piano" (hệ trung cấp), "Tuyển tập 16 bài hát dân ca và dân vũ Việt Nam" (soạn cho piano được nhà xuất bản Peters của Cộng hoà Dân chủ Đức ấn hành năm 1972). Nhạc sĩ cũng viết những tác phẩm sân khấu như "Mệnh lệnh", "Cải tô" và dịch cuốn "Beethoven" do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành. Mặc dù công tác quản lý và đào tạo đã chiếm đáng kể vốn thời gian nhưng Nguyễn Văn Thương vẫn dành thời gian và tâm huyết cho việc sáng tác. Ông đã viết một ca khúc trong thời gian này như "Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ", "Gửi Huế giải phóng", "Dâng người tiếng hát mùa xuân",... hợp xướng gồm có "Dân ta đánh giặc anh hùng" vào năm 1972. Ngoài ra, ông còn viết một số tác phẩm cho dàn nhạc dân tộc như "Ngày hội quê hương", tổ khúc "Quê hương" (hợp tác với nhạc sĩ Hoàng Dương), "Buôn làng vào hội" cho đàn tre lắc và bộ gõ tre nứa. Đối với khí nhạc phương Tây, ông viết 4 bản romance cho cello và piano cùng một số tác phẩm cho đàn khác như violin. Ông cũng viết nhạc phim cho những bộ phim "Thành phố lúc rạng đông", "Sao Tháng Tám", "Ngày ấy bên bờ sông Lam"... Từ năm 1979 đến 1983, ông làm giám đốc Nhà hát Ca Múa Nhạc Việt Nam. Năm 1982, ông được Nhà nước Việt Nam phong học hàm Giáo sư. Đến năm 1984, ông nghỉ công tác quản lý và chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh để làm cố vấn cho Sở Văn hoáthông tin thành phố. Cũng trong thời gian này, ông còn tham gia hội đồng khoa học tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1987, ông nghỉ hưu nhưng vẫn tiếp tục công việc sáng tác âm nhạc. Đánh giá cao công lao trong việc chỉ đạo nghệ thuật và dàn dựng chương trình cho các đoàn văn công biểu diễn trong và ngoài nước trong nhiều chục năm qua, Nguyễn Văn Thương được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân vào năm 1993. Những năm cuối và qua đời Trong những năm cuối đời, Nguyễn Văn Thương có những sáng tác đạt nhiều giải thưởng lớn dù tuổi cao và sức khoẻ kém. Những sáng tác trong thời gian này chủ yếu là sáng tác khí nhạc phương Tây như Romance số 2 "Bên dòng sông thương", Romance số 3 và 4. Các tác phẩm này đều viết cho cello. Năm 1997, ông còn viết "Vũ khúc ngày hội" cho 8 đàn cello. Ông cũng viết một số tác phẩm cho dàn nhạc giao hưởng như "Rhapsodie số 2" cho đàn t'rưng và dàn nhạc năm 1996, "Capriccio" cho dàn nhạc giao hưởng năm 1999. Ông qua đời vào ngày 5 tháng 12 năm 2002, hưởng thọ 83 tuổi. Thành tựu Với những đóng góp tích cực cho âm nhạc Việt Nam, Nguyễn Văn Thương đã được Nhà nước Việt Nam phong tặng nhiều huân, huy chương, nhiều danh hiệu và giải thưởng như: Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Nghệ sĩ Nhân dân. Ông cũng là một trong 9 nhạc sĩ được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - nghệ thuật đợt 2 năm 2000. Đánh giá và phong cách nghệ thuật Nguyễn Văn Thương là một nhạc sĩ sáng tác nhiều thể loại nhạc. Nhìn chung, các tác phẩm của ông được xem là "đậm bản sắc dân tộc" vì ngôn ngữ âm nhạc được khai thác từ chất liệu âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Ông đã vận dụng âm điệu, tiết tấu đặc trưng trong âm nhạc dân gian với thủ pháp sáng tác đa dạng để tạo nên những hình tượng âm nhạc. Nguyễn Văn Thương được xem là người tiên phong của nền tân nhạc Việt Nam ở Huế. Sáng tác cho thanh nhạc Nguyễn Văn Thương sáng tác cho thanh nhạc từ khi còn rất trẻ. Trước Cách mạng tháng Tám, các tác phẩm của ông chủ yếu gắn liền với trào lưu âm nhạc lãng mạn. Cũng giống nhiều nhạc sĩ đương thời, ông chịu ảnh hưởng nhiều từ trào lưu lãng mạn trong văn thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Khái Hưng, Đoàn Phú Tứ, Nhất Linh,... Ba ca khúc tiêu biểu ở giai đoạn này là "Trên sông Hương", "Đêm đông" và "Bướm hoa". Các ca khúc miêu tả quê hương do ông sáng tác thường sử dụng làn điệu dân ca để diễn tả tình cảm. Với một số tác phẩm thanh nhạc thành công đã giúp cho Nguyễn Văn Thương được công nhận là một trong những nhạc sĩ của Tân nhạc Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Từ một nhạc sĩ lãng mạn, Nguyễn Văn Thương đã biến chuyển thành một nhạc sĩ cách mạng để sáng tác những ca khúc có tính "căm thù, uất hận" trước tình cảnh quê hương bị xâm lược. Ca khúc "Bình Trị Thiên khói lửa" được sáng tác năm 1948, sau khi biểu diễn lần đầu tiên đã nhanh chóng gây được sự xúc động và "khơi dậy tinh thần yêu nước" của người dân Việt Nam. Sau cuộc chiến tranh Đông Dương, khi về làm Trưởng đoàn và chỉ đạo nghệ thuật Đoàn văn công Trung ương, Nguyễn Văn Thương sáng tác nhiều cho nhạc múa. Các ca khúc thời kỳ này chủ yếu là bài hát trong các bộ phim mà ông viết nhạc. Thời gian sau này, ông chỉ sáng tác khí nhạc là chính, tuy nhiên cũng có một số ca khúc tiêu biểu như "Thu Hà Nội", "Mùa thu tuyệt vời", "Yêu Huế" (sáng tác năm 1996 kỷ niệm 100 năm ngày thành lập trường Quốc học Huế). Ngoài ca khúc, ông cũng viết một số bản hợp xướng như "Tiến lên toàn thắng ắt về ta", là tiết mục cho Đoàn Văn công Giải phóng đi biểu diễn quốc tế hay hợp xướng "Dân ca". Sáng tác khí nhạc và thính phòng Với sáng tác khí nhạc và thính phòng, Nguyễn Văn Thương là tác giả của nhiều tác phẩm khí nhạc, giao hưởng, nhạc phim được giới chuyên môn trong và ngoài Việt Nam đánh giá cao. Tuy vậy khi so với thời điểm các tác phẩm thanh nhạc ra đời, các tác phẩm khí nhạc của Nguyễn Văn Thương ra đời muộn hơn rất nhiều. Năm 1960, "Nhớ về Nam" là tác phẩm khí nhạc đầu tay của ông, là tác phẩm viết cho sáo trúc độc tấu và dàn nhạc dân tộc. Tuy viết khí nhạc muộn nhưng ông đã có nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại, nhưng chủ yếu ở các thể loại thính phòng, giao hưởng và nhạc cụ dân tộc. Các tác phẩm này cũng có được sự thành công nhất định ở trong và ngoài Việt Nam. Sáng tác khí nhạc cũng được nhận định là một lĩnh vực quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Các tác phẩm thính phòng của Nguyễn Văn Thương có cấu trúc vừa và nhỏ, thường là các tiểu phẩm, vũ khúc, tổ khúc được viết ở hình thức 2, 3 đoạn đơn hay 3 đoạn phức. Một số tác phẩm khác ông thường viết ở hình thức rondo hay biến tấu. Khí nhạc phương Tây Tác phẩm đầu tiên ông viết cho piano là "Quê hương Tây Nguyên", cũng là tác phẩm viết cho piano thành công nhất của ông. Tác phẩm này là một tổ khúc gồm nhiều đoạn nhạc độc lập có sự tương phản về sắc thái, nhịp độ cũng như chất liệu âm nhạc. Nhạc phẩm viết cho violin và piano tiêu biểu của ông là "Tây Nguyên vui chiến thắng", được sáng tác khi ông tu nghiệp ở Trung Quốc. Đây là tác phẩm thính phòng tiêu biểu được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Ông sử dụng những đặc trưng của âm nhạc dân gian Tây Nguyên, qua đó miêu tả hình ảnh núi rừng và con người nơi đây một cách "chân thực". Đối với các tác phẩm viết cho cello và piano, tiêu biểu nhất là 4 tác phẩm mà ông gọi là "romance". Trong đó Romance số 1 "Trở về đất mẹ" được nhận định là bài đáng chú ý nhất, thường được nhận xét "cảm xúc sâu lắng". Nhạc cụ truyền thống Ở giao hưởng, ông sử dụng thông thạo những nhịp nhạc thuần Việt như , cùng với các nhạc cụ gõ như mõ, cồng. Kể từ "Nhớ về Nam" được sáng tác năm 1960, Nguyễn Văn Thương đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật và biểu cảm. "Nhớ về Nam" được nhận xét là khúc nhạc "trữ tình", "tha thiết". Vào thời điểm đó, một số nhạc cụ mới như đàn tre lắc và bộ gõ tre nứa được chế tạo, ông cũng tự tìm hiểu sáng tác "Buôn làng vào hội", được Nhà hát Ca Múa Nhạc Việt Nam biểu diễn như một tiết mục múa. Bản Rhapsodie số 2 cho đàn t'rưng và dàn nhạc giao hưởng cũng là một tác phẩm mang lại thành công nhất định cho nhạc sĩ. Di sản Trong sự nghiệp sáng tác, những tác phẩm của Nguyễn Văn Thương đã góp phần làm nên thành công của nhiều nghệ sĩ cũng như các đoàn văn công nghệ thuật tại Việt Nam. Ông có một vai trò đóng góp quan trọng vào nền khí nhạc Việt Nam khi sử dụng nhuần nhuyễn âm nhạc truyền thống dân tộc. Nguyễn Văn Thương để lại một di sản âm nhạc với nhiều bản khí nhạc cùng ca khúc, điều này khiến báo chí thường gọi ông là "cây đại thụ" của nền âm nhạc Việt Nam. Bản sáo "Nhớ về Nam" được nghệ sĩ ưu tú Đinh Thìn cùng dàn nhạc Đoàn Ca múa nhân dân Trung ương biểu diễn đạt hiệu quả nghệ thuật cao. Năm 1968, bản độc tấu sáo thứ hai "Ngày hội non sông" của Nguyễn Văn Thương đã được Nghệ sĩ nhân dân Đỗ Lộc biểu diễn thành công ở trong và ngoài Việt Nam, đoạt Huy chương Vàng Liên hoan Thanh niên sinh viên thế giới lần thứ X tại Berlin, Cộng hòa Dân chủ Đức năm 1973, được UNESCO và nhiều đài phát thanh của các quốc gia ghi âm. Bản nhạc "Trở về đất mẹ" độc tấu cho cello và piano cũng giúp nghệ sĩ nhân dân Bùi Gia Tường biểu diễn lần đầu tiên và được hoan nghênh nồng nhiệt. Nguyễn Văn Thương là một trong những nhạc sĩ viết khí nhạc nổi tiếng, cũng là người đầu tiên viết nhạc cho kịch múa ở Việt Nam. Với vai trò là một nhà giáo và là người quản lý công tác giáo dục, Nguyễn Văn Thương có đóng góp tích cực trong công tác đào tạo âm nhạc cho Việt Nam. Ông là người phát hiện ra nhiều tài năng nghệ thuật và đưa về Nhạc viện Hà Nội đào tạo trong đó có nhiều nghệ sĩ của Nhà hát Ca Múa Nhạc Việt Nam và sau này đều trở thành những nghệ sĩ có tên tuổi như: Quang Thọ, Thu Hiền, Lệ Quyên, Ái Vân,… Nghệ sĩ nhân dân Quang Thọ cho biết nếu không có Nguyễn Văn Thương, ông sẽ không có được sự nghiệp âm nhạc như hiện tại. Nguyễn Văn Thương cũng là một trong những người có công xây dựng nhạc viện Hà Nội từ một trường Trung cấp thành trường Đại học, trở thành một trung tâm đào tạo âm nhạc lớn của Việt Nam, đồng thời cũng là người nâng hệ trung cấp khoa âm nhạc truyền thống của Nhạc viện Hà Nội lên bậc đại học. Năm 1996, Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam đã tổ chức kỷ niệm 60 năm hoạt động âm nhạc của ông bằng một đêm nhạc lớn ở Cung thiếu nhi Hà Nội. Năm 2019, một chương trình nghệ thuật đặc biệt mang tên "Trở về đất mẹ" đã được tổ chức nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Tác phẩm Dưới đây là danh mục tác phẩm của Nguyễn Văn Thương dựa trên sách của Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Tú Hương. Ca khúc Bài hát "Trên sông Hương" "Đêm đông" "Bướm hoa" "Leo núi Bạch Mã" "Ngày xanh" "Trên đường khuya" "Tình trăng" "Khóc cơ hàn" "Bình Trị Thiên khói lửa" "Tiếng hát muôn phương" "Bài ca trên núi" "Bài ca Việt Lào" "Bài ca đã hẹn" "Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ" "Gửi Huế giải phóng" "Dâng người tiếng hát mùa xuân" "Hai dòng sông mong nhớ" "Thu Hà Nội" "Mùa thu tuyệt vời" "Yêu Huế" "Bài ca trong hang đá" Nhạc cho kịch múa "Múa ô" "Múa sạp" "Chàm Rông" "Thiếu nữ bên hồ" "Mùa hoa đào nở" Hợp xướng "Tiến lên toàn thắng ắt về ta" "Dân ta đánh giặc anh hùng" Khí nhạc và giao hưởng Nhạc cụ phương Tây "Quê hương Tây Nguyên" "Phi ngựa bắn cung" "Múa sạp" "Múa Mèo" "Đàn bướm mùa xuân" "Inh noọng ơi" "Tây Nguyên vui chiến thắng" "4 Romance cho Cello" Romance số 1 "Trở về đất mẹ" Romance số 2 "Bên dòng sông Thương" "Vũ khúc ngày hội" Nhạc cụ truyền thống "Nhớ về Nam" "Ngày hội non sông" "Ngày hội Tây Nguyên" "Quê hương" "Buôn làng vào hội" "Rhapsodie số 2 cho T'rưng" Giao hưởng "Đồng khởi" "Capriccio" Chú thích
Vua Gyanendra Bir Bikram Shah Dev của Nepal (tiếng Nepal: ज्ञानेन्द्र वीर बिक्रम शाहदेव; Jñānendra Vīra Vikrama Śāhadeva) sinh ngày 7 tháng 7 năm 1947, là nhà vua Nepal kể từ ngày 4 tháng 7 năm 2001, sau khi cháu ông, Dipendra Bir Bikram Shah, giết bố mẹ và tự sát. Phương châm của ông là: "Kiến thức là sức mạnh, công việc là sự tôn sùng." Ông đã trị vì Nepal từ ngày 4 tháng 6 năm 2001 đến ngày 28 tháng 5 năm 2008 khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ. Tháng 2 năm 2005, vua Gyanendra đã giành quyền kiểm soát chính phủ, giải tán quốc hội do dân bầu. Sau cuộc vận động dân chủ Nepal năm 2006, ông đã bị buộc phải trả lại quyền cho quốc hội vào tháng 5 năm 2006 và quyền lực của vua chỉ còn mang tính lễ nghi. Ông tại nhiệm tới ngày 28 tháng 5 năm 2008 thì bị lật đổ, nước Cộng hòa Nepal ra đời.
Sơn ca có thể là: Chim sơn ca Đảo Sơn Ca thuộc quần đảo Trường Sa. Băng nhạc Sơn Ca, chương trình nghệ thuật được thực hiện ở Sài Gòn, Việt Nam Cộng hòa trước 30 tháng 4 năm 1975. Ca sĩ Sơn Ca, một ca sĩ ở Sài Gòn trước 30 tháng 4 năm 1975.
Chi Voi ma mút hay chi Voi lông dài (danh pháp khoa học: Mammuthus) là một chi voi cổ đại đã bị tuyệt chủng. Tồn tại ở thế Pliocen, vào khoảng 4,8 triệu năm đến 4.500 năm trước. Có đặc điểm lông dài (xấp xỉ 50 cm), rậm (hơn so với voi hiện tại), ngà dài và cong (hoá thạch ở Siberia có ngà dài 3,5 m), răng voi ma mút rất dài, cong quặp vào trong, dài nhất tới 5 cm, chân sau ngắn nên trọng tâm toàn thân nghiêng về phía sau, vai nhô cao. Chân chỉ có 4 ngón (kém 1 ngón so với voi hiện nay), da dày. Voi ma mút có răng lớn, sắc cạnh, thích hợp cho nghiền nát cỏ. Vòi của voi ma mút có hai chỗ lồi giống như ngón tay, một ở phía trước và một ở phía sau, giúp chúng dễ dàng túm lấy cỏ. Da màu đen, nâu và nâu đỏ, lông vàng, cao từ 3 đến 3,3 m. Tiến hóa Các động vật có vòi (Proboscidea) sớm nhất đã biết, nhánh chứa các loài voi, đã tồn tại khoảng 55 triệu năm trước (Ma) trong khu vực ven biển Tethys. Các họ hàng gần nhất của Proboscidea là bò biển và đa man (đề thỏ). Họ Elephantidae được biết là đã tồn tại khoảng 6 Ma tại châu Phi, và bao gồm các loài voi còn sinh tồn cũng như voi ma mút. Trong số nhiều nhánh hiện nay đã tuyệt chủng thì voi răng mấu (Mammut) chỉ là họ hàng xa của voi ma mút và là một bộ phận của họ Mammutidae tách biệt đã tách ra khoảng 25 Ma trước khi voi ma mút tiến hóa. Biểu đồ sau chỉ ra vị trí của chi Mammuthus trong số các loài động vật có vòi, dựa theo các đặc trưng xương móng: Do nhiều di cốt của các loài voi ma mút được tìm thấy tại nhiều nơi, nên người ta có thể phục dựng lịch sử tiến hóa của chi voi này thông qua các nghiên cứu hình thái. Các loài voi ma mút có thể được nhận dạng từ một số các gờ men răng trên răng hàm của chúng; các loài nguyên thủy có ít gờ, và số lượng gờ dần dần tăng lên khi các loài mới tiến hóa và thay thế các loài cũ. Cùng lúc đó, các chỏm răng cũng trở nên dài hơn, và hộp sọ thì cao hơn khi xét kích thước từ đỉnh đầu xuống đáy và ngắn hơn khi xét kích thước từ gáy tới trán theo thời gian để tích lũy điều này. Các thành viên đầu tiên đã được biết đến của chi Mammuthus có lẽ là các loài châu Phi là M. subplanifrons sinh sống trong thế Pliocen và M. africanavus sinh sống trong thế Pleistocen. Loài thứ nhất được cho là tổ tiên của loài thứ hai. Voi ma mút tiến vào châu Âu khoảng 3 Ma với loài sớm nhất đã biết là M. rumanus, với phạm vi sinh sống trải rộng khấu châu Âu cho tới Trung Quốc. Người ta chỉ biết các răng hàm của chúng, với 8-10 gờ men răng. Một quần thể đã tiến hóa đạt tới 12-14 gờ men răng; chia tách khỏi và thay thế cho loài sớm hơn, trở thành M. meridionalis. Kế tiếp theo, nó bị thay thế bởi voi ma mút thảo nguyên (M. trogontherii) với 18-20 gờ men răng, là loài đã tiến hóa ở Đông Á khoảng 1 Ma. Các loài voi ma mút phát sinh từ M. trogontherii đã tiến hóa răng hàm với 26 gờ men răng vào khoảng 0,2 Ma tại Siberia, và trở thành voi ma mút lông xoăn (Mammuthus primigenius). Voi ma mút Columbia (Mammuthus columbi) cũng tiến hóa từ một quần thể M. trogontherii đã tiến vào Bắc Mỹ. Một nghiên cứu di truyền năm 2011 chỉ ra rằng hai mẫu vật được kiểm tra của voi ma mút Columbia được gộp trong phạm vi của phân nhánh chứa voi ma mút lông xoăn. Điều này gợi ý rằng hai quần thể đã lai ghép với nhau và sinh ra con có khả năng sinh sản. Nó cũng gợi ý rằng dạng voi ma mút Bắc Mỹ được biết đến như là "Mammuthus jeffersonii" có thể chỉ là con lai của 2 loài nói trên. Từ 3,0 Ma cho tới cuối thế Pleistocen, voi ma mút tại đại lục Á-Âu đã trải qua một sự biến đổi lớn, bao gồm sự co ngắn và nâng cao hộp sọ và hàm dưới, tăng chỉ số dài răng ở răng hàm, tăng số lượng gờ và sự mỏng dần của men răng. Do thay đổi mạnh mẽ này ở bề ngoài, người ta chia voi ma mút châu Âu thành các cụm có thể phân biệt được như sau: Tiền Pleistocen: Mammuthus meridionalis Trung Pleistocen: Mammuthus trogontherii Hậu Pleistocen: Mammuthus primigenius Có sự suy đoán về việc các biến đổi này đã xảy ra như thế nào ở 3 thời loài này. Các sai lệch về môi trường, thay đổi khí hậu và di cư cũng có vai trò trong quá trình tiến hóa của voi ma mút. Chẳng hạn, lấy ví dụ về M. primigenius, trong cuộc đời chúng, loài voi ma mút lông xoăn này có lẽ đã sinh sống trong các quần xã sinh vật đồng cỏ thưa. Môi trường thảo nguyên-lãnh nguyên lạnh ở Bắc bán cầu là lý tưởng để voi ma mút phát triển thịnh vượng do các nguồn thức ăn nó cung cấp. Với các đợt ấm lên trong thời kỳ băng hà thì khí hậu cũng sẽ thay đổi cảnh quan và những gì sẵn có cho voi ma mút bị thay đổi mạnh mẽ. Sự tuyệt chủng Cho đến gần đây, người ta cho rằng con voi ma mút cuối cùng biến mất ở châu Âu và nam Siberia khoảng 12.000 năm trước đây, tuy nhiên có những khám phá dẫn đến kết luận là chúng còn sống ở đó khoảng 10000 năm trước đây. Không lâu sau đó voi ma mút cũng biến mất khỏi Siberia. Một nhóm nhỏ còn sống ở đảo St. Paul cho đến khoảng năm 3.750 TCN, và những con ma mút nhỏ của vùng đảo Wrangel sống đến 1650 TCN. Những nghiên cứu mới đây về trầm tích tại Alaska cho thấy voi ma mút còn sống ở lục địa châu Mỹ cho đến 10.000 năm trước đây. Cho tới nay người ta vẫn chưa thể giải thích dứt khoát tại sao voi ma mút bị tuyệt chủng như thế. Có thể do thời tiết nóng lên khoảng 12.000 năm trước đây, rồi sau đó các tảng băng tan ra và thụt ra biển khiến cho mặt biển dâng lên, có thể đây là một yếu tố. Rừng rú bị thay thế bởi đồng cỏ trong lục địa. Môi trường sinh sống của voi ma mút cũng do dó mà bị thu hẹp lại. Tuy nhiên những thay đổi về thời tiết như thế đã xảy ra trước đây. Nhiều giai đoạn ấm rất tương tự như thế đã xảy ra trong kỷ băng hà xảy ra trong nhiều triệu năm đã không gây ra tuyệt chủng cho loài sinh vật, do đó chỉ một mình khí hậu không đóng vai trò quyết định ở đây. Sự xuất hiện của những thợ săn thiện nghệ ở lục địa Á-Âu và châu Mỹ vào khoảng thời gian sự tuyệt chủng xảy ra có thể đóng vai trò lớn lao khiến voi ma mút biến mất. Voi ma mút tuyệt chủng do khí hậu thay đổi hay bị con người săn bắt quá độ vẫn còn là một vấn đề tranh cãi. Một giả thuyết khác cho rằng voi ma mút có thể bị mắc phải một chứng viêm vi trùng. Một giả thích họp lý cho sự tuyệt chủng của voi ma mút là do khí hậu kết hợp với bị con người săn bắt. Homo erectus đã bắt đầu tiêu thụ thịt voi ma mút khoảng 1,8 triệu năm trước đây. Có dấu hiệu ở Ucraina cho thấy người người Neanderthal xây nhà dùng xương voi ma mút. Tuy nhiên Viện Khoa học Sinh học Mỹ khám phá ra rằng xương voi ma mút chết nằm lại trên mặt đất và sau đó bị các con voi ma mút khác giẫm lên cũng mang những dấu vết tương tự như là bị người ta làm thịt, do dó cũng có thể giả thuyết cho rằng loài người sát hại voi ma mút vì thịt cũng không hẳn đúng. Kích thước
Rối loạn mỡ máu (tiếng Anh: Dyslipidemia) là tên gọi một số bệnh do xáo trộn các chất mỡ trong máu: hoặc quá nhiều hoặc quá ít các chất lipoprotein. Bệnh thường biểu hiện qua độ tăng cholesterol, tăng loại lipoprotein "xấu" (LDL), tăng loại triglyceride hoặc thiếu loại lipoprotein "tốt" (HDL). Sơ lược về mỡ máu Cholesterol Cholesterol là một chất mềm, bóng như sáp, tìm thấy trong các loại mỡ trong máu. Mỗi ngày cơ thể con người (nhất là gan) chế tạo ra khoảng 1g cholesterol. Phần lớn, cholesterol được đem vào cơ thể qua thức ăn như lòng đỏ trứng, thịt, cá, đồ biển, sữa nguyên chất. Trái cây, rau cải, đậu, hạt không có cholesterol. Cholesterol là một phần quan trọng của cơ thể, được dùng trong cấu tạo của màng tế bào, của một số hormone và một số các công dụng khác trong cơ thể. Nhưng có quá nhiều cholesterol trong máu là một nguy cơ lớn, có khả năng gây bệnh về tim mạch, nhất là nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não. Vì là chất mỡ, không hòa tan trong nước được, cholesterol và các chất mỡ như triglycerides, phải kết hợp với những khối tạp dễ tan trong nước là lipoprotein để dễ di chuyển trong máu. Vì thế, khi xét nghiệm lượng mỡ trong máu, ngoài tổng số cholesterol, người ta còn phân tích cholesterol theo các loại lipoprotein trong máu. Lipoprotein Lipoprotein là tập hợp những khối tạp gồm mỡ và đạm trong máu dùng cho việc chuyên tải cholesterol và triglycerides. Chất mỡ phospholipid bọc bên ngoài có khả năng hòa nước, chất mỡ nằm bên trong lõi có kèm chất apoprotein. Các mô trong cơ thể có thể nhận ra chất apoprotein và tiếp nhận lipoprotein. Lipoprotein được chia làm nhiều loại tùy theo tỷ trọng (density). HDL-c (tỷ trọng cao) - khoảng một phần 3 tổng số cholesterol được mang trong HDL. Giới y học cho rằng HDL thường đem cholesterol ra khỏi động mạch trở về gan và sau đó bài tiết ra khỏi cơ thể. Một số khác còn cho rằng HDL "hốt" cholesterol ứ thừa trong các mảng xơ vữa và làm chậm sự phát triển của những mảng này. Vì thế, HDL thường có mệnh danh là loại "cholesterol có ích". HDL càng thấp thì cơ hội bị bệnh tim mạch càng cao, và ngược lại, HDL cao có thể làm giảm cơ hội bị bệnh tim mạch. IDL-c (tỷ trọng trung) LDL-c (tỷ trọng thấp) - ngược lại với HDL, LDL có mệnh danh là "cholesterol xấu". Khi có quá nhiều LDL, cholesterol bị đưa vào các màng của động mạch, dấn dần làm hẹp đường kính của mạch. Sau đó, kết hợp với các chất khác trong màng của thành động mạch tạo thành những mảng xơ vữa (tiếng Anh: atherosclerosis). Những mảng này có thể bị rạn nứt làm cho thành động mạch không được trơn tru. Khi chảy qua những chỗ "gồ ghề" này, dòng máu dễ bị hỗn loạn không đều, trì trệ và dễ đông lại thành cục máu đông (tiếng Anh: thrombus). Cục máu đông này có thể phát triển theo kiểu "phù sa bồi đắp", lớp lớp chồng lên nhau, có lúc dày đủ để làm nghẽn động mạch. Nếu trường hợp này xảy ra trong động mạch vành tim thì kết quả là nghẽn mạch tim, gây chứng nhồi máu cơ tim. Trong trường hợp cục máu đông bị sút ra khỏi thành động mạch, trôi theo dòng máu cho đến khi kẹt vào một mạch có đường kính nhỏ và hơn làm nghẽn mạch ấy. Nếu chẳng may đấy là mạch dẫn máu của não thì kết quả là chứng tai biến mạch máu não. VLDL-c (tỷ trọng cực thấp) Liên hệ bệnh tim mạch Tăng mức cholesterol, hay đúng hơn, tăng LDL-cholesterol (LDL-c) là nguyên nhân chính của chứng xơ vữa làm nghẽn mạch vành tim đem đến chứng đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, chết bất ngờ, và suy tim. Hiện nay, khoa học khẳng định hoàn toàn rằng giảm lượng LDL-c trong máu sẽ đem đến giảm cơ hội bệnh mạch vành tim. Ngoài ra, nếu số Triglycerides cao và HDL-c thấp sẽ làm tăng độ nguy hại của LDL-c, do đó hai chất này phải được lưu ý. Triglycerides Khi Triglycerides (TG) tăng sẽ có biểu hiện tăng Very-Low-Density-Lipoprotein-Cholesterol (VLDL-c). Do đó, hai chất này có thể được coi như đồng dạng. Khi TG tăng đến 4 mmol/L, cơ hội bệnh tim lên đến 25% (Nhưng khi tăng quá 4 mmol/L cơ hội cũng chỉ nằm ở 25%). Tăng TG có thể là do: bệnh mỡ máu di truyền (familial combined hyperlipoproteinaemia), chứng cao mỡ loại 3 (type 3 hyperlipoproteinemia - chứng này do tăng Intermediate-Density-Lipoprotein-Cholesterol (IDL-c), dạng mỡ trước khi chuyển hóa thành LDL-c) Một chứng bệnh hiếm là tăng chất thải của chylomicron cũng làm tăng cơ hội bệnh vành tim, nhưng không rõ tỉ lệ là bao nhiêu. HDL-c Khi HDL-c tụt thấp sẽ làm tăng cơ hội bệnh vành tim, nhưng ngược lại, không có cuộc nghiên cứu nào khẳng định được rằng điều trị gây tăng HDL-c sẽ làm bệnh khả quan hơn. Tuy nhiên, trong cuộc khảo cứu Apo A1 Milano cho thấy chuyền HDL-c apoproprotein vào máu đem đến thuyên giảm của xơ vữa trong động mạch. HDL-c là một yếu tố liên hệ tim mạch quan trọng nhất là khi bị giảm xuống dưới 1.0 mmol/L. Ở hai bệnh nhân có cùng lượng LDL-c và TG, bệnh nhân có HDL-c mức 0.5 mmol/L có cơ hội bệnh tim mạch gấp 3 lần bệnh nhân có HDL-c ở mức 1.2 mmol/L. Ngay cả khi LDL-c nằm ở mức tốt (<2.5 mmol/L), giảm HDL-c vẫn làm tăng cơ hội bệnh tim mạch. Lipoprotein(a) Lipoprotein(a) là một chất giống như LDL-c nhưng có chất apoprotein đặc biệt đính vào. Khoảng năm 1985, khoa học đã biết tăng lipoprotein(a) trên 300 mg/dL làm tăng 3 lần cơ hội bệnh tim mạch, độc lập với những yếu tố nguy cơ khác. Đây là một chứng bệnh di truyền, không thể điều trị bằng thay đổi cách ăn uống hay tập thể thao, và chưa có thuốc trị công nghiệm. Điều trị Để điều trị chứng rối loạn chuyển hóa lipid máu, cần phải điều hòa cholesterol trong máu. Điều này được thực hiện chủ yếu bởi sự thay đổi trong lối sống như thay đổi chế độ dinh dưỡng và tăng hoạt động thể chất. Tuy nhiên thay đổi lối sống vẫn không đủ để giảm cholesterol trong máu mà cần kết hợp thêm dược phẩm. Thuốc chống rối loạn chuyển hóa lipid máu thường có một hoặc nhiều các thành phần sau đây: Statin là enzyme tổng hợp ức chế cholesteron Fibrate Axit Nicotinic Anion Β-sitosterol GDL-5 Chúng ta phân biệt 3 nhóm tăng mỡ máu: Tăng cholesterol: chỉ có mức độ cholesterol được tăng lên, các mức lipid máu khác là bình thường. Đối với điều trị, hầu như tất cả các loại tác nhân hạ lipid máu được sử dụng. Lipid máu hỗn hợp: cả hai cholesterol và các triglyceride đều tăng, các liệu pháp thường được sử dụng là statin và/hoặc fibrate. Tăng triglyceride máu: chỉ có các chất béo trung tính bị tăng lên, các mức lipid máu khác bình thường. Các bác sĩ điều trị sử dụng chủ yếu là axit nicotinic và/hoặc fibrate. Chỉ tiêu Theo Quỹ Tim Học Quốc gia Úc (đơn vị mmol/L) Trên thực tế thì có ba dạng chính cần điều trị: Tăng tổng số cholesterol (đa số là do tăng LDL-c) Tăng nhiều loại mỡ (thường là tăng VLDL-c và LDL-c) HDL-c thấp (hiếm hơn) Thông thường, tổng sô Choletserol và TG nên được xét nghiệm dựa theo lượng LDL-c và HDL-c. Điều trị thường đi theo các bước: điều độ ăn uống ↔ sửa đổi lối sống → thuốc thực phẩm → dược phẩm Khi bắt đầu chữa phải có mục tiêu rõ ràng để biết công nghiệm điều trị như thế nào. Thí dụ, người không có bệnh thì sẽ mục tiêu khác với người đã có bệnh hay người có nhiều cơ hội bệnh. Xem bảng trên. "tương đương" - Một số người tuy chưa bị bệnh mạch vành tim nhưng có đủ các điều kiện nguy cơ như trong gia đình có người bị bệnh, đái tháo đường với biến chứng có albunim trong nước tiểu (microalbuminuria), cộng với hai trong ba yếu tố khác như béo phì, hút thuốc lá, tăng huyết áp. Những người này được liệt vào hạng "tương đương" coi như đã có bệnh tim mạch. Những người có bệnh động mạch ở nơi khác như tay, chân, não v.v... cũng coi như sẽ có bệnh mạch vành tim trong 5-10 năm sau. Mục tiêu điều trị bệnh mỡ máu Mục tiêu điều trị ở bệnh nhân tăng Triglycerid: - Nồng độ Triglycerid trong máu Từ:1,695 – 2,249 mmol/L. Mục tiêu điều trị chính vẫn là giảm LDL-C (theo chỉ số LDL-C trong máu) - Từ: 2,26 – 5,639 mmol/L Điều trị làm giảm LDL-C bằng Statin hoặc kết hợp thêm Nicotinic acid hoặc thêm Fenofibrat một cách thận trọng - Nồng độ trong máu ≥ 5,56 mmol/L Cần điều trị giảm nhanh để tránh viêm tụy cấp, sau khi Triglycerid < 5,65mnol/L thì mục tiêu điều trị chính lại là chỉ số LDL-C trong máu Trong đó khái niêm: + Bệnh tương đương: tức là bệnh có giá trị để phân nhóm bệnh nhân như mắc bệnh mạch vành, đó là: Bệnh động mạch ngoại biên, phình động mạch chủ bụng, bệnh động mạch cảnh. + Khái niệm nguy cơ: Đó là các yếu tố làm tác động đến rối loạn mỡ máu, đó là: Hút thuốc lá, tăng huyết áp (huyết áp > 140/90), nồng độ HDL thấp < 1,03 mmol/L, gia đình có người mắc bệnh động mạch vành Chế độ ăn uống Những điều cần lưu ý về chế độ dinh dưỡng : Để giảm cholesterol trong máu, chế độ ăn chỉ được cung cấp dưới 30% calo từ chất béo – Tránh ăn mỡ động vật (mỡ lợn, bơ, mỡ bò…) và kem sữa bò: Những thực phẩm này chứa nhiều chất béo no, những chất rất dễ làm tắc động mạch. Cách tốt nhất là chọn toàn thịt nạc, nếu ăn thịt gia cầm thì nên bỏ da. Nếu dùng các thức ăn từ sữa thì nên chọn loại đã tách kem (còn gọi là sữa gầy). Ngay cả sữa chua hay pho mát cũng nên chọn loại làm từ sữa gầy hoặc sữa có hàm lượng chất béo chỉ 1-2%. Nên Nên ăn những loại thực phẩm có chứa hàm lượng cholesterol thấp như rau xanh, các sản phẩm được làm từ đậu, thịt nạc thăn… Đặc biệt là nên ăn những loại rau xanh có chứa nhiều chất xơ. Chỉ có như vậy thì mới làm giảm được sự hấp thụ của đường ruột đối với cholesterol. Nên ăn nhạt vì thức ăn này có lợi cho sức khoẻ và bệnh tim. Kiêng thức ăn có nồng độ chất béo cao, nên ăn những thức ăn ít chất béo như cá, đậu phụ, đỗ tương. Nên ăn thực phẩm có nhiều tác dụng giảm mỡ trong máu như: Gừng, chế phẩm đậu sữa, nấm hương, mộc nhĩ, hành tây, ba ba, trà, dầu ngô. Nên uống thật nhiều nước trong ngày Nên dùng dầu thay cho mỡ động vật (dầu đậu nành, dầu hướng dương, dầu ô liu…) Ăn nhiều rau quả và trái cây tươi loại ít ngọt (khoảng 500g mỗi ngày), nên ăn trái cây nguyên cả xác hơn là ép lấy nước uống. Ăn nhiều tỏi Mỗi tuần nên có ít nhất là 3 ngày ăn cá và 1 ngày ăn đậu (đậu hũ, đậu ve, đậu xanh…) thay cho ăn thịt. Nếu ăn thịt, nên chọn các loại thịt nạc không lẫn mỡ, da và gân. Nếu ăn tôm, cua, ghẹ… nên bỏ phần gạch. Mỗi tuần chỉ nên dùng 2 quả trứng gà hoặc vịt. Nạp đủ axit folic: Nếu hàm lượng axit này trong máu quá thấp thì hàm lượng homocystein sẽ tăng, dẫn đến nguy cơ bị bệnh tim. Các nhà nghiên cứu khuyến cáo nên nạp mỗi ngày 400 microgram axit folic qua các thực phẩm như rau chân vịt, nước ép trái cam, bánh mì, lạc, đậu trắng và mầm lúa mì. Không nên Không nên ăn tối quá muộn với thức ăn nhiều đạm vì rất khó tiêu hoá và sẽ làm lượng cholesterol đọng trên thành động mạch dẫn đến xơ vữa động mạch. Thường xuyên dùng các món chiên xào. Ăn thường xuyên các thực phẩm có hàm lượng cholestrol cao (ví dụ: óc heo, mỡ, da gà, da vịt, da heo, lòng đỏ trứng, chân giò, bò gân, đồ lòng, xí quách…) Ăn quá nhiều đồ ngọt (ví dụ: chè, mứt, kẹo, bánh kem, kem, nước ngọt, nước tăng lực, nước trái cây đóng hộp, …) Ăn các thức ăn như bơ thực vật dạng thỏi và bánh, bánh nướng lò, sản phẩm dạng rán như khoai tây rán, mì ăn liền và nhiều thức ăn công nghiệp chế biến sẵn khác. Trong những thức ăn này có axit béo dạng trans, có thể làm tăng lượng cholesterol máu. Để tránh axit này, nếu muốn phết bơ lên bánh mì hãy chọn loại bơ thực vật mềm. Uống quá nhiều rượu, bia (tuy nhiên nếu điều độ mỗi ngày uống 1 ly nhỏ rượu vang đỏ sẽ tốt cho mạch máu) Hút thuốc lá. Yếu tố liên hệ Béo phì Hội chứng chuyển hóa X Đái tháo đường Xơ vữa động mạch Đột quỵ Nhồi máu cơ tim Tai biến mạch máu não
Lenin hay Lê-nin có thể là: Vladimir Ilyich Lenin - người sáng lập Liên bang Xô viết Chủ nghĩa Marx-Lenin - học thuyết về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản Công viên Lê-nin ở Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Honduras, tên chính thức Cộng hoà Honduras (, ; ), trước kia thường được gọi là Honduras Tây Ban Nha, là một quốc gia tại Trung Mỹ, giáp biên giới với Guatemala ở phía tây, El Salvador ở phía tây nam, Nicaragua ở phía đông nam, phía nam giáp với Thái Bình Dương và phía bắc là vịnh Honduras và biển Caribe, Belize (trước kia là Honduras Anh Quốc) nằm cách 75 kilômét (50 dặm), phía bên kia vịnh Honduras. Lịch sử Thành phố Copán có từ thời tiền Colombo nằm ở cực tây Honduras, tại khu Copán gần biên giới với Guatemala. Đây là một thành phố chính của người Maya đã phát triển rực rỡ thời cổ đại (150-900 CN). Thành phố có nhiều bia và văn bản khắc đẹp. Vương quốc Xukpi cổ, đã phát triển thịnh vượng từ thế kỷ thứ V Công nguyên tới đầu thế kỷ thứ IX, tiền thân của vương quốc này có niên đại từ ít nhất thế kỷ thứ II Công Nguyên. Nền văn minh Maya đã thay đổi vào thế kỷ thứ IX, họ ngừng viết các văn bản tại Copan, nhưng có bằng chứng cho thấy người dân vẫn còn sinh sống trong và xung quanh thành phố cho tới ít nhất năm 1200. Khi người Tây Ban Nha tới Honduras, thành phố từng một thời thịnh vượng Copán đã bị rừng già xâm chiếm. Trong chuyến đi thứ tư, cũng là chuyến đi cuối cùng đến Thế giới mới của mình, Christopher Columbus đã tới bờ biển Honduras năm 1502, và đổ bộ gần thị trấn Trujillo ngày nay, tại một nơi nào đó gần Phá Guaimoreto. Sau khi được người Tây Ban Nha khám phá, Honduras trở thành một phần của đế chế Tây Ban Nha rộng lớn tại Thế giới Mới bên trong Vương quốc Guatemala. Người Tây Ban Nha cai trị Honduras trong gần ba thế kỷ. Honduras tuyên bố độc lập khỏi Tây Ban Nha ngày 15 tháng 9 năm 1821 cùng với các tỉnh còn lại của Trung Mỹ. Năm 1822 Quốc gia Trung Mỹ được sáp nhập vào Đế chế Mexico mới được thành lập của Iturbide. Đế chế Iturbide bị lật đổ năm 1823 và Trung Mỹ tách khỏi nó, thành lập nên Liên bang các Tỉnh Thống nhất, liên bang này giải tán năm 1838. Các bang quả Liên bang trở thành các quốc gia độc lập. Sau vụ tấn công Trân Châu Cảng, Honduras gia nhập Đồng Minh ngày 8 tháng 12 năm 1941. Chưa tới một tháng sau, ngày đầu tiên năm 1942, Honduras, cùng với 25 chính phủ khác ký kết Tuyên bố của Liên minh Quốc gia Cái gọi là Chiến tranh Bóng đá năm 1969 nổ ra với El Salvador. Sau khi Oswaldo López Arellano, tổng thống trước kia của Honduras, cho rằng nền kinh tế yếu kém của nước này có nguyên nhân từ số lượng người nhập cư quá đông đảo từ El Salvador, giữa hai nước luôn có sự căng thẳng. Từ thời điểm đó, quan hệ giữa El Salvador và Honduras không được cải thiện. Nó xấu đi khi El Salvador gặp Honduras ở một trận đấu vòng ba World Cup. Căng thẳng gia tăng, và vào ngày 14 tháng 7 năm 1969, quân đội Salvador tung ra cuộc tấn công vào Honduras. Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ đã đàm phán một ngừng bắn bắt đầu có hiệu lực ngày 20 tháng 7, và quân đội Salvador rút quân vào đầu tháng 8. Cuộc chiến kéo dài chỉ khoảng 100 tiếng đồng hồ và dẫn tới cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước. Trong thập kỷ 1980, Hoa Kỳ đã thiết lập sự hiện diện quân sự tại Honduras với mục tiêu ủng hộ lực lượng chống Sandinista Contras chiến đấu chống chính phủ Nicaragua và hỗ trợ các cuộc tấn công quân sự của El Salvador chống lực lượng du kích FMLN. Dù không bị ảnh hưởng bởi những cuộc nội chiến đẫm máu đang tàn phá đất nước láng giềng, quân đội Hondura vẫn tiến hành các chiến dịch bí mật chống lại những người cánh tả. Bão Fifí đã gây ra thiệt hại to lớn khi tràn vào bờ biển phía bắc Honduras ngày 18 và 19 tháng 9 năm 1974. Nhiều năm sau, Bão Mitch đã tàn phá và làm suy yếu hệ thống kinh tế Honduras năm 1998. Chính trị Một cuộc bầu cử tổng thống và tổng tuyển cử được tổ chức ngày 27 tháng 11 năm 2005. Manuel Zelaya thuộc Đảng Tự do Honduras (Partido Liberal de Honduras: PLH) chiến thắng, Porfirio Pepe Lobo của Đảng Quốc gia Honduras (Partido Nacional de Honduras: PNH) đứng thứ hai. PNH không công nhận các kết quả bầu cử và Lobo Sosa chỉ chịu nhường bước vào ngày 7 tháng 12. Tới cuối tháng 12, chính phủ cuối cùng đã công bố kết quả tổng kiểm phiếu, trao cho Zelaya thắng lợi chính thức. Zelaya trở thành tổng thống mới của Honduras ngày 27 tháng 1 năm 2006. Honduras có năm đảng chính trị đăng ký chính thức: PNH, PLH, phe Dân chủ Xã hội (Partido Innovación Nacional y Social Demócrata: PINU-SD), Dân chủ Thiên chúa giáo (Partido Demócrata-Cristiano: DC), và Dân chủ Thống nhất (Partido Unificación Democrática: UD). PNH và PLH đã cầm quyền đất nước trong nhiều thập kỷ. Những năm vừa qua, Honduras đã có năm vị tổng thống thuộc phái Tự do: Roberto Suazo Córdova, José Azcona del Hoyo, Carlos Roberto Reina, Carlos Roberto Flores và Manuel Zelaya, và hai người theo phe Quốc gia: Rafael Leonardo Callejas Romero và Ricardo Maduro. Cuộc bầu cử đã gây ra nhiều tranh cãi, gồm cả vấn đề về việc Azcona sinh ra tại Honduras hay Tây Ban Nha, hay Maduro đúng ra phải khai báo nơi sinh tại Panama. Năm 1963 một cuộc đảo chính quân sự chống lại tổng thống bầu cử dân chủ Villegas Morales diễn ra và một hội đồng quân sự được thành lập để lãnh đạo đất nước mà không tổ chức một cuộc bầu cử nào cho tới tận năm 1981 với nhiều người lãnh đạo khác nhau. Cùng trong năm này Suazo Córdova (LPH) được bầu làm tổng thống Honduras chuyển từ chế độ cầm quyền quân sự sang bầu cử dân chủ. Năm 1986, Azcona del Hoyo được bầu thông qua "Phương án B," khi Azcona không có được đa số phiếu bầu. Tuy nhiên, năm ứng cử viên Tự do và bốn ứng cử viên Quốc gia đều cùng tham gia vào cuộc bầu tổng thống, và "Phương án B" đòi hỏi mọi phiếu bầu từ mọi ứng cử viên thuộc cùng một đảng đều phải được tính dồn chung. Azcona sau đó lên làm tổng thống. Năm 1990, Callejas thắng cử với khẩu hiệu "Llegó el momento del Cambio," (Thời gian cho sự Thay đổi đã đến), vốn bị chỉ trích nặng nề vì mang hơi hướng chiến dịch chính trị "ARENAs" của El Salvador. Callejas Romero nổi tiếng vì làm giàu bất hợp pháp. Callejas từng là đối tượng của nhiều vụ scandal và lời buộc tội trong hai thập kỷ sau. Năm 1998, dưới thời cầm quyền của Flores Facusse, Bão Mitch ập vào trong nước và mọi chỉ số phát triển kinh tế đã bị thụt lùi chỉ sau 5 ngày. Năm 2004 các cuộc bầu cử được tổ chức riêng biệt cho chức vụ thị trưởng, nghị viện và tổng thống. Con số ứng cử viên cho cuộc bầu cử tổng thống năm 2005 tăng cao hơn trước. Các đảng Quốc gia và Tự do đều là các đảng chính trị riêng biệt với đội ngũ ủng hộ và đảng viên riêng biệt, nhưng một số người đã chỉ ra rằng lợi ích và các chính sách của họ trong suốt 23 năm ngắt quãng của nền dân chủ rất giống nhau. Chúng thường được cho là chỉ phục vụ cho lợi ích riêng của đảng viên, đảng viên có được việc làm khi đảng của mình chiến thắng, và mất việc khi đảng thất cử. Cả hai phe đều được cho là theo đuôi tầng lớp lãnh đạo xã hội, những người sở hữu hầu như mọi tài sản quốc gia, và không phe nào thực thi các lý tưởng xã hội, thậm chí theo nhiều cách Honduras được điều hành như kiểu một quốc gia xã hội chủ nghĩa kiểu cũ, với việc kiểm soát giá cả và quốc hữu hóa ngành điện cũng như các dịch vụ viễn thông. Tuy nhiên, bộ máy của tổng thống Maduro đã "bỏ quốc hữu hoá" lĩnh vực viễn thông trong một động thái nhằm đầy nhanh sự phát triển của nó trong cộng đồng dân cư. Tới tháng 11 năm 2005, có khoảng 10 công ty viễn thông tư nhân hoạt động trên thị trường Honduras, trong đó có hai công ty điện thoại di động. Khu vực hành chính Tính theo diện tích tỉnh lớn nhất là Olancho và theo dân số là tỉnh Francisco Morazán, nơi có thành phố thủ đô của Tegucigalpa, và tỉnh nhỏ nhất tính theo cả diện tích lẫn dân số là Islas de la Bahía. Địa lý Honduras giáp với Biển Caribe ở phía bắc và Thái Bình Dương ở phía nam qua Vịnh Fonseca. Khí hậu thay đổi từ nhiệt đới ở những vùng đất thấp tới ôn hoà tại các vùng núi. Các vùng trung tâm và phía nam nóng và có độ ẩm thấp hơn so với bờ biển phía bắc. Lãnh thổ Honduras chủ yếu gồm đồi núi (~81%), nhưng cũng có những đồng bằng hẹp chạy dọc ven biển, một vùng rừng rậm đất thấp còn hoang sơ ở phía đông bắc La Mosquitia và vùng đất thấp rất đông người ở tại thung lũng San Pedro Sula ở phía tây bắc. Tại La Mosquitia có địa điểm di sản thế giới của UNESCO là Río Plátano Biosphere Reserve, với con Sông Coco là biên giới tự nhiên với Nicaragua. Xem Các con sông Honduras. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên gồm gỗ, vàng, bạc, đồng, chì, kẽm, sắt quặng, antimony, than, cá, tôm, và thủy điện. Kinh tế Honduras là một trong những nước nghèo nhất châu Mỹ, với mức GDP trên đầu người năm 2016 là 2,530 dollar Mỹ. Kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng chậm chạp nhưng sự phân phối tài sản đang ở mức phân cực lớn và mức lương bình quân rất thấp. Tăng trưởng kinh tế khoảng 5% mỗi năm, nhưng nhiều người vẫn đang sống dưới mức nghèo khổ. Theo ước tính có hơn 1.2 triệu người thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp 28% Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế xếp hạng Honduras là một trong Những nước nghèo nợ nhiều nhất đủ tư cách để được hưởng quy chế giảm nợ, và việc giảm nợ đã được thông qua năm 2005. Cả lĩnh vực điện (ENEE) và viễn thông (HONDUTEL) đều do các công ty độc quyền nhà nước đảm nhiệm, ENEE được chính phủ trợ cấp nhiều vì những vấn đề tài chính kinh niên của nó. Tuy nhiên, HONDUTEL không còn được độc quyền nữa, lĩnh vực viễn thông đã được mở cửa sau ngày 25 tháng 12 năm 2005; đây là một trong những yêu cầu trước khi áp dụng CAFTA. Giá cả xăng dầu được kiểm soát, một số mặt hàng cơ bản khác cũng được Nghị viện áp đặt chế độ kiểm soát giá trong những khoảng thời gian ngắn. Sau nhiều năm giảm giá so với đồng dollar Mỹ, đồng Lempira đã ổn định ở mức 19 Lempiras trên 1 dollar. Năm 2005 Honduras đã ký CAFTA (Thỏa thuận Thương mại Tự do với Hoa Kỳ). Tháng 12 năm 2005, cảng chính của Honduras là Puerto Cortes tham gia vào trong Sáng kiến An ninh Container của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2016, GDP của Honduras đạt 20.930 USD, đứng thứ 108 thế giới và đứng thứ 18 khu vực Mỹ Latin. Nhân khẩu Dân cư Honduras chủ yếu là hậu duệ người Mestizo và theo tín ngưỡng Cơ đốc giáo La Mã. Dọc bờ biển phía bắc cho tới tận gần đây vẫn là những cộng đồng nói tiếng Anh với một nền văn hóa tách biệt, bởi một số hòn đảo và khu vực dọc bờ biển Caribbea từng bị các nhóm cướp biển Anh chiếm đóng trong một số giai đoạn. Các nhóm Garífuna (người lai giữa người da đỏ châu Mỹ và người Châu Phi) sống trên các hòn đảo và dọc theo bờ biển phía bắc, nơi cũng có nhiều người Phi-da đỏ châu Mỹ sinh sống. Garífunas là một phần của bản sắc Honduras qua những phong cách biểu diễn sân khấu như Louvavagu. Người châu Á tại Honduras chủ yếu là người Trung Quốc và con cháu người Nhật Bản. Hàng trăm gia đình có nguồn gốc từ vùng Trung Đông, đặc biệt là Liban hay Palestine. Những người Ả rập-Honduras đó thỉnh thoảng được gọi là "turcos", vì họ đã tới Honduras bằng các giấy tờ của người Thổ Nhĩ Kỳ, bởi quê hương của họ từng nằm dưới sự kiểm soát của Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ. Những người "turcos", cùng với cộng đồng thiểu số Do Thái, vận dụng ảnh hưởng to lớn của mình trên kinh tế và chính trị Honduras thông qua những lợi ích công nghiệp và tài chính của họ. Nhiều người Hondurans có quan hệ với Tây Ban Nha, Hoa Kỳ (đặc biệt là New Orleans) và Quần đảo Cayman. Người Chortí (hậu duệ người Maya), Pech hay Paya, Tolupan hay Xicaque, Lenca, Sumo hay Tawahka, và Miskito vẫn tồn tại, và hầu như vẫn giữ ngôn ngữ của mình, trừ người Lenca. Đa số những người dân này đều sống rất nghèo khổ. Văn hoá Vị thánh bảo trợ cho Honduras là Virgin of Suyapa. Một người Honduras có thể được gọi là Catracho hay Catracha (nữ) trong tiếng Tây Ban Nha. Từ này xuất phát từ họ của một vị tướng Honduras gốc pháp Florencio Xatruch, người đã chỉ huy các lực lượng vũ trang bảo vệ lãnh thổ trước các cuộc xâm lược của tên cướp đất Bắc Mỹ William Walker năm 1857. Tên hiệu được cho là mang tính ca ngợi chứ không có ý xúc phạm. Một trong những nhà văn nổi tiếng nhất tại Honduras là Ramón Amaya Amador. Những nhà văn khác gồm Roberto Sosa, Eduardo Bähr, Amanda Castro, Javier Abril Espinoza, và Roberto Quesada. Óscar Andrés Rodríguez Maradiaga là một Hồng y từng là một ứng cử viên tiềm năng - "Papabile cho chức vụ Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Rôma trong Mật nghị Hồng y 2005. Không nổi tiếng như vị Hồng y, nhưng cũng đáng nhắc tới, là Salvador Moncada, một nhà khoa khọc nổi tiếng thế giới với tác quyền của hơn 12 phát minh thường được nhắc tới, trong đó có cả công trình về nitric oxit. Nghiên cứu về những loại thuốc liên quan đến tim của ông gồm cả việc phát triển Viagra. Moncada làm việc tại Đại học London và trợ cấp cho một tổ chức phi chính phủ ở Tegucigalpa. Ông lấy Công chúa Maria-Esmeralda Bỉ. Honduras This Week là một tờ báo tiếng Anh đã được xuất bản từ 17 năm qua Tegucigalpa. Trên các quần đảo Roatan, Utila và Guanaja Bay Islands Voice là nguồn tin tức thường xuyên hàng tháng từ năm 2003. Hai nhà báo nổi tiếng Honduras: Neida Sandoval và Satcha Pretto làm việc cho Univision tại Miami, Florida, Hoa Kỳ. Tôn giáo Mặc dù hầu hết người Honduras trên danh nghĩa là tín hữu Công giáo La Mã (trong đó được coi là tôn giáo chính của đất nước), theo một báo cáo, tín hữu trong Giáo hội Công giáo La Mã đang giảm trong khi thành viên trong nhà thờ Tin Lành ngày càng tăng. Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế, năm 2008, lưu ý rằng một cuộc thăm dò do tổ chức Gallup CID báo cáo rằng có 47% dân số tự nhận mình là Công giáo, 36% là Tin Lành, và 17% không đưa ra câu trả lời hoặc tự coi mình là "tôn giáo khác". Tuy nhiên, ở Honduras đang phát triển mạnh Anh giáo, Trưởng Lão, Phong trào Giám Lý, Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, Giáo hội Luther, Mặc Môn và Phong trào Ngũ Tuần. Các giáo phái Tin Lành đều có các chủng viện của mình, nhưng vẫn chỉ có "nhà thờ" được công nhận, cũng được phát triển mạnh về số lượng các trường học, bệnh viện, và các tổ chức mục vụ (bao gồm cả trường học, cơ sở y tế riêng của mình) có thể hoạt động. Hồng y Oscar Andres Rodriguez Maradiaga của Giáo hội Công giáo Honduras hiện nay, có ảnh hưởng rất lớn đến cả với chính phủ, các giáo phái Tin Lành khác, và trong giáo hội của mình. Phật giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, Bahá'í, Rastafari và giáo phái bản địa có tồn tại ở nước này. Lễ hội Người dân Honduras thường tổ chức lễ hội nhân các sự kiện lớn. Các sự kiện thu hút đông đảo quần chúng nhất gồm: Ngày lễ Độc lập của Honduras ngày 15 tháng 9, Giáng sinh ngày 24 tháng 12 và Năm mới ngày 31 tháng 12. Lễ mừng Ngày độc lập của Honduras bắt đầu từ sáng sớm với màn diễu hành của các đội kéo dài khoảng một giờ. Mỗi đội có một màu khác nhau hòa cùng với những người nhảy múa trên đường phố. Fiesta Catracha cũng được tổ chức trong ngày hôm ấy, khi sự kiện này diễn ra các loại thực phẩm đặc trưng như đậu, ngô nghiền, baleadas, ngọc giá với chicharron, và bánh ngô. Vào lễ Giáng sinh mọi người quây quần cùng người thân và bạn bè, ăn tối và trao nhau quà tặng. Năm mới mọi người cũng có một bữa ăn tối với gia đình. Bên cạnh những ngày nghỉ lễ, những ngày sinh cũng là dịp để ăn mừng. Những sự kiện lớn đó gồm cả "piñata" nổi tiếng với nhiều bánh kẹo và những điều ngạc nhiên cho trẻ em được mời tới. Môi trường Honduras là một phần của Mesoamerica, dải đất kéo dài từ Mexico đến Costa Rica. Vùng này được coi là một khu vực đa dạng sinh thái vì sở hữu nhiều loài động thực vật. Giống như các nước khác trong vùng, Honduras có những nguồn tài nguyên sinh vật phong phú. Đất nước rộng 112.092 km² (43.278 dặm vuông) này có hơn 6.000 loài cây có mạch, trong số đó 630 Phong lan; khoảng 250 giống bò sát và lưỡng cư cũng như hơn 700 loài chim, và 110 loài thú có vú, một nửa trong số chúng là dơi. Phía đông bắc vùng La Mosquitia là Khu dữ trữ sinh quyển Río Plátano, một khu rừng nhiệt đới đất thấp là nơi sinh sống của rất nhiều loài sinh vật. Thỉnh thoảng được gọi là "Lá phổi cuối cùng của Trung Mỹ", khu dự trữ này đã được liệt vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO năm 1982. Bên cạnh những cánh rừng mưa tươi tốt, những khu rừng mây (có thể lên tới độ cao gần ba nghìn mét trên mực nước biển), đước, savannas và các dãy núi với những cây thông và cây sồi, Honduras cũng là nơi có một hệ sinh thái vô giá khác: Mesoamerican Barrier Reef System. Tại Bay Islands không hiếm gặp loài cá heo mũi to, cá đuối, cá vẹt, những tập đoàn tảo bẹ xanh và thậm chí cả những chú cá mập trắng khổng lồ. Những bãi cát trắng, những cây dừa cao vút và không khí vui vẻ miền caribbean là nơi nghỉ ngơi lý tưởng cho những thành phố Trung Mỹ đông đúc. Dân gian Honduras là đất nước giàu di sản dân gian, Lluvia de Peces (Mưa cá) của họ là độc nhất trên thế giới. Huyền thoại về el cadejo cũng rất nổi tiếng. Bóng đá Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Honduras. Một số thông tin về các đội tuyển, giải thi đấu và cầu thủ có trong những bài viết dưới đây. Liên đoàn bóng đá Federación Nacional Autónoma de Fútbol de Honduras Các đội tuyển Đội tuyển bóng đá quốc gia Honduras Olimpia Motagua Marathón Real España Hispano Platense Universidad NAH Victoria Vida Atletico Olanchano Các giải đấu Liga Nacional de Honduras Liga de Ascenso Honduras Liga Mayor de Futbol de Honduras Supercopa Honduras Torneo de Copa Honduras Các cầu thủ Amado Guevara Iván Guerrero David Suazo Milton Reyes Edgar Álvarez Víctor Coello Ramón Núñez Carlos Pavón Alex Pineda Chacón Francisco Ramirez Danilo Turcios Julio César de León Joseph Hartman Sân vận động Estadio Tiburcio Carias Andino Estadio Francisco Morazan Estadio Olímpico Metropolitano Estadio Exelsior Estadio Fausto Flores Lagos Estadio Hispano Estadio Nilmo Edwards Các chủ đề khác Viễn thông tại Honduras Bầu cử tại Honduras Quan hệ nước ngoài của Honduras Cờ Honduras Garífunas Âm nhạc Garifuna Honduran lempira Chủ nghĩa tự do tại Honduras Danh sách các chủ đề liên quan tới Honduras Danh sách các trường đại học tại Honduras Danh sách các trường học tại Honduras Danh sách các đảng chính trị Honduras Mara Salvatrucha Quân đội Honduras Âm nhạc Honduras Dự án Honduras Vận tải Honduras Vận tải đường sắt Honduras Asociación de Scouts de Honduras Chuyện bên lề Honduras rất kiêu hãnh về chiếc đồng hồ đầu tiên hoạt động tại châu Mỹ; được người Moors chế tạo từ thế kỷ XII và chuyển cho Thánh đường Comayagua năm 1636. Ẩm thực Honduras sử dụng nhiều dừa, cho cả bữa chính và đồ ngọt, thậm chí cả trong súp. Nước này từng trải qua một cuộc nổi dậy cộng sản, tương tự như El Salvador, đã tự chuyển đổi thành một đảng chính trị. Ngày nay đảng cộng sản không hoạt động nữa. Honduras được coi là đất nước nhiều bạo lực nhất vùng Trung Mỹ, với 154 vụ giết người trên 100.000 dân, so với nước có tỷ lệ tội phạm cao khác là Hoa Kỳ cũng chỉ có 4.8 vụ giết người trên 100.000 dân. (http://www.usaid.gov/locations/latin_america_caribbean/democracy/gangs_assessment.pdf ) Cả nước Honduras chỉ có một chiếc hồ, Lago de Yojoa. Đọc thêm Adventures in Nature: Honduras James D. Gollin Don't Be Afraid, Gringo: A Honduran Woman Speaks From The Heart: The Story of Elvia Alvarado Medea Benjamin Honduras: The Making of a Banana Republic Alison Acker Honduras: State for Sale Richard Lapper, James Painter Inside Honduras Kent Norsworthy and Tom Berry La Mosquitia: A Guide to the Savannas, Rain Forest and Turtle Hunters Derek Parent Moon Handbooks: Honduras Christopher Humphrey Reinterpreting the Banana Republic: Region and State in Honduras, 1870-1972 Dario A. Euraque Seven Names for the Bellbird: Conservation Geography in Honduras Mark Bonta Ulysses Travel Guide: Honduras Eric Hamovitch The United States in Honduras, 1980-1981: An Ambassador's Memoir Jack R. Binns The War of the Dispossessed: Honduras and El Salvador, 1969 Thomas P. Anderson
Jamaica (là một quốc đảo, có chiều dài và chiều rộng với diện tích 11.100 km². Quốc gia này nằm ở Biển Caribbean, cự ly khoảng về phía nam Cuba, và về phía tây Hispaniola, đảo có các quốc gia Haiti và Cộng hòa Dominica. Những người dân bản địa nói tiếng Taíno gọi đảo này là Xaymaca, có nghĩa là "Vùng đất của Gỗ và Nước", hay "Vùng đất của các Con suối". Đã từng là một khu vực thuộc Tây Ban Nha với tên gọi , khu vực này sau này thuộc thuộc địa Anh Jamaica. Với 2,9 triệu dân (2018), đây là quốc gia nói tiếng Anh đông dân thứ 3 ở châu Mỹ, sau Hoa Kỳ và Canada. Quốc gia này là một Vương quốc Khối thịnh vượng chung với Quốc vương Charles III là nguyên thủ quốc gia. Kingston là thành phố lớn nhất, thủ đô của Jamaica. Lịch sử Jamaica xuất phát từ tên gọi Xaymaca mà người Taíno đặt tên cho đảo này. Năm 1494, Cristoforo Colombo phát hiện ra đảo, sau đó nó trở thành thuộc địa của người Tây Ban Nha, những người bản xứ bị bắt làm nô lệ hoặc bị tàn sát. Năm 1655, người Anh cũng chia quyền sở hữu đảo này, cùng người Tây Ban Nha đưa nô lệ sang khai hoang lập đồn điền mía. Trong thế kỷ XVII, đảo này là căn cứ của những bọn cướp biển, làm phương hại đến quyền lợi của người Tây Ban Nha. Giữa thế kỷ XIX, những cuộc bạo loạn đã đe dọa chính sách thuộc địa của Anh dẫn đến việc trì hoãn không có chính quyền đại diện trong suốt hai thập kỉ. Năm 1944, chính quyền tự trị ra đời, Jamaica tuyên bố độc lập năm 1962 và là nước thành viên trong Khối Liên hiệp Anh. Đời sống chính trị trong nước do hai đảng đối lập luân phiên lên cầm quyền: đảng Lao động và đảng Dân tộc Nhân dân. Chính trị Vì là nước nằm trong Khối Liên hiệp Anh nên Jamaica theo thể chế quân chủ nghị viện. Đứng đầu nhà nước là Quốc vương Anh. Đứng đầu chính phủ là Thủ tướng. Quốc vương Charles III là người đứng đầu Nhà nước Jamaica thông qua một viên Toàn quyền làm đại diện. Thủ tướng do Toàn quyền bổ nhiệm, là lãnh tụ đảng chiếm đa số ghế ở Hạ nghị viện. Nghị viện chỉ định Nội các. Nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Cơ quan lập pháp là quốc hội lưỡng viện: Thượng nghị viện gồm 21 thành viên do Toàn quyền bổ nhiệm theo sự tiến cử của Thủ tướng và lãnh tụ của đảng đối lập (13 thành viên của đảng cầm quyền, 8 thành viên của phe đối lập). Hạ nghị viện gồm 60 thành viên, được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm. Các đảng phái chính: Đảng Dân tộc nhân dân (PNP), Đảng Lao động Jamaica (JLP); Phong trào dân chủ dân tộc (NDM). Địa lý Jamaica nằm ở Trung Mỹ, thuộc quần đảo Đại Antilles, cách Cuba 150 km về phía Nam và cách Haiti 180 km về phía Tây. Vùng lãnh thổ phía Đông chủ yếu là núi, phía Tây là vùng cao nguyên đá vôi. Văn hóa Điểm nổi bật của đất nước mang nặng phong cách châu Mỹ này là âm nhạc. Dòng nhạc dân ca điển hình của người Jamaica trộn với phong cách nhạc của Cuba tạo nên một dòng nhạc R&B khá đặc trưng, người làm nên đỉnh cao của loại nhạc này là ca sĩ lừng danh Bob Marley. Anh đã đem tiếng hát của mình đấu tranh chống lại sự phân biệt chủng tộc và những bất công với người da màu. Jamaica cũng là một đất nước với nền văn hoá pha trộn của người Ấn Độ, người Tây Ban Nha, châu Phi, Trung Đông, người Trung Quốc và cả người Anh. Thổ ngữ được chuộng hơn tuy tiếng Anh mới là ngôn ngữ chính thức của đất nước này. Kingston là trung tâm văn hoá và thương mại của Jamaica. Ở khu trưng bày nghệ thuật, bảo tàng của Bob Marley là nơi thu hút du khách nhiều nhất. Tôn giáo Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất ở Jamaica. Theo điều tra dân số năm 2001, tỷ lệ dân theo các tôn giáo như sau Tin lành 62.5%, Công giáo Rôma 4%, Anh giáo 2%, còn lại là các tôn giáo khác. Như Rastafarianism một tôn giáo bản địa Phi châu có 24.020 môn đồ, theo điều tra năm 2001 . Đạo Bahá'í, chiếm khoảng 8000 môn đồ, Phật giáo, và Ấn giáo có 50,000 tín đồ. Có một số dân nhỏ người Do Thái, khoảng 200 người, tự coi họ là Tự do-Bảo thủ. Những người Do Thái đầu tiên ở Jamaica có gốc tích từ đầu thế kỷ XV. Các nhóm Hồi giáo ở Jamaica có 5.000 tín đồ. Kinh tế Jamaica có tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là bôxít, và có một khí hậu lý tưởng thuận lợi cho nông nghiệp và du lịch. Việc phát hiện ra bôxít trong những năm 1940 và nền kinh tế của Jamaica chuyển từ khai thác đường và chuối sang thành lập các ngành công nghiệp bô xít-nhôm vào thời gian sau đó. Vào những năm 1970, Jamaica đã nổi lên như là một nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu các khoáng chất cũng như được tăng đầu tư nước ngoài. Jamaica phải đối mặt với một số vấn đề nghiêm trọng nhưng nó có tiềm năng cho sự phát triển và hiện đại hóa. Nền kinh tế Jamaica bị bốn năm liên tiếp của nó tăng trưởng âm (0,4%) vào năm 1999. Tất cả các ngành trừ các ngành bôxít/nhôm, năng lượng và du lịch đều giảm mạnh trong năm 1998 và 1999. Năm 2000, Jamaica đã có kinh nghiệm của mình năm đầu tiên của nó có sự phát triển tích cực kể từ năm 1995. Tăng trưởng kinh tế danh nghĩa tiếp tục ngược dòng trong những khoảng với sự tăng trưởng của Hoa Kỳ kể từ đó. Đây là kết quả của việc tiếp tục các chính sách của chính phủ chặt chẽ kinh tế vĩ mô, đã đạt được phần lớn thành công. Lạm phát đã giảm từ 25% năm 1995 còn lạm phát một con số trong năm 2000, đạt được một mức thấp trong nhiều thập kỷ là 4,3% trong năm 2004. Thông qua chương trình can thiệp định kỳ trên thị trường, các ngân hàng trung ương cũng đã ngăn ngừa bất cứ sự đột ngột giảm nào trong tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, đồng đô la Jamaica đã bị trượt giá, bất chấp sự can thiệp, dẫn đến một tỷ giá bình quân của 73,4 J đổi 1 USD và 107,64 J đổi 1 € (Tháng 5 năm 2008). Ngoài ra, lạm phát đã có xu hướng tăng lên kể từ năm 2004 và dự kiến một lần nữa đạt được mức tăng gấp đôi con số 12-13% thông qua năm 2008 do một sự kết hợp của thời tiết bất lợi hại cây trồng và tăng nhập khẩu nông nghiệp và giá năng lượng cao. Điểm yếu trong lĩnh vực tài chính là đầu cơ và các cấp dưới của việc xói mòn lòng tin đầu tư trong lĩnh vực sản xuất. Chính phủ tiếp tục nỗ lực để tăng giới hạn các khoản nợ mới tại địa phương và thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng các nghĩa vụ nợ của mình bằng đồng đô la Mỹ, thu dọn để duy trì thanh khoản tỷ giá hối đoái và để giúp quỹ thâm hụt ngân sách hiện hành. Các chính sách kinh tế của chính phủ Jamaica khuyến khích đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực mà kiếm được hay tiết kiệm được ngoại tệ, tạo việc làm và sử dụng nguyên vật liệu địa phương. Chính phủ cung cấp một loạt các ưu đãi cho nhà đầu tư, bao gồm cả các cơ sở chuyển tiền để hỗ trợ họ trong việc hồi hương lại tiền của các nước xuất xứ; thời kỳ miễn thuế mà hoãn thuế cho khoảng thời gian của năm; và miễn thuế truy cập cho máy móc và nguyên liệu nhập khẩu cho các doanh nghiệp được chấp thuận. Khu thương mại tự do có kích thích đầu tư vào hàng may mặc, lắp ráp, sản xuất nhẹ, và nhập dữ liệu của các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, trong 5 năm qua, ngành công nghiệp dệt may đã bị giảm thu nhập xuất khẩu, tiếp tục đóng cửa nhà máy, và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Điều này có thể được quy trách nhiệm cho cuộc cạnh tranh dữ dội, sự vắng mặt của hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) tính thay đổi, thuốc nhiễm độc trì hoãn giao hàng, và chi phí cao, hoạt động, bao gồm cả chi phí an ninh. Chính phủ Jamaica hy vọng để khuyến khích hoạt động kinh tế thông qua sự kết hợp của tư nhân hoá, chuyển dịch cơ cấu ngành tài chính, giảm lãi suất, và bằng cách thúc đẩy du lịch và các hoạt động sản xuất liên quan. Tính đến năm 2016, GDP của Jamaica đạt 13.779 USD, đứng thứ 121 thế giới và đứng thứ 2 khu vực Caribe (sau Trinidad và Tobago). Hình ảnh
Nicaragua (phiên âm Tiếng Việt: Ni-ca-ra-goa), tên chính thức là Cộng hòa Nicaragua (tiếng Tây Ban Nha: República de Nicaragua, IPA ) là một quốc gia tại Trung Mỹ. Đây là nước lớn nhất ở Trung Mỹ, nhưng cũng có mật độ dân cư thấp nhất với số nhân khẩu chỉ tương đương các nước láng giềng nhỏ hơn. Nước này giáp với Honduras ở phía bắc, Costa Rica ở phía nam. Bờ biển phía tây trên bờ Thái Bình Dương, còn phía đông là Biển Caribe. Tên nước xuất phát từ chữ Nicarao, tên của bộ lạc sử dụng ngôn ngữ Nahuatl từng sống trên bờ biển Lago de Nicaragua trước khi Cuộc chinh phục châu Mỹ của Tây Ban Nha diễn ra, và từ tiếng Tây Ban Nha Agua, nghĩa là nước, vì sự hiện diện của hai hồ lớn Lago de Nicaragua và Lago de Managua trong vùng. Thời chinh phục của Tây Ban Nha, Nicaragua là tên của một dải đất hẹp giữa Hồ Nicaragua và Thái Bình Dương. Thủ lĩnh Nicarao là người đứng đầu vùng đất này khi những kẻ chinh phục đầu tiên đặt chân tới. Thuật ngữ sau này đã được công nhận, và mở rộng, để chỉ nhóm người sống tại vùng đó: người Nicaraos hay Niquiranos. Bộ tộc Nicarao đã di cư tới vùng này theo lời khuyên của các vị chức sắc tôn giáo từ các vùng phía bắc sau khi Teotihuacán sụp đổ. Theo truyền thống, họ đi về phía nam cho tới khi gặp một cái hồ với hai ngọn núi lửa nổi trên mặt nước, và họ đã dừng lại khi tới Ometepe, hòn đảo núi lửa nước ngọt lớn nhất thế giới. Lịch sử Năm 1524, conquistador Francisco Hernández de Córdoba đã thành lập những khu định cư thường trực Tây Ban Nha đầu tiên, gồm hai thị trấn chính của Nicaragua: Granada tại Hồ Nicaragua và León phía đông Hồ Managua. Được coi như một thuộc địa của Tây Ban Nha bên trong vương quốc Guatemala trong thập niên 1520, Nicaragua đã trở thành một phần của Đế chế Mexico và sau này giành lại độc lập như một phần của Các tỉnh Trung Mỹ Thống nhất năm 1821 và sau đó như một nhà nước cộng hòa độc lập với quyền của riêng mình năm 1838. Mosquito Coast dựa trên Bluefields tại Đại Tây Dương được Đế quốc Anh tuyên bố là khu vực bảo hộ từ năm 1655 tới 1850; vùng này được giao lại cho Honduras năm 1859 và tiếp tục chuyển cho Nicaragua năm 1860, dù nó vẫn tiếp tục có quy chế tự trị cho tới năm 1894. Giai đoạn chính trị đầu tiên sau khi giành độc lập của Nicaragua có đặc điểm ở sự đối đầu giữa tầng lớp lãnh đạo tự do tại León và tầng lớp lãnh đạo bảo thủ tại Granada. Sự đối đầu này đã dẫn tới cuộc nội chiến. Ban đầu được những người tự do mời tham gia cùng họ vào cuộc đấu tranh chống phe bảo thủ (1855), một nhà thám hiểm Mỹ tên là William Walker hầu như chưa kịp chiến đấu đã thu được thắng lợi cho phe tự do. Vì thế ông ta thấy rằng việc chiếm lấy cả đất nước cũng không khó khắn. Walker tự phong mình làm tổng thống năm 1856 với ý định thành lập một nhà nước nô lệ khác cho Hoa Kỳ. Sợ kế hoạch của ông ta sẽ còn mở rộng thêm, nhiều nước Trung Mỹ khác đã phối hợp lật đổ Walker khỏi Nicaragua năm 1857, mỉa mai thay với sự ủng hộ của nhà công nghiệp Hoa Kỳ Cornelius Vanderbilt, người trước đó đã trợ cấp cho hành động cướp nước Nicaragua của Walker. Walker bị hành quyết tại nước Honduras láng giềng ngày 12 tháng 9 năm 1860. Tiếp sau đó là giai đoạn cầm quyền ba thập kỷ của phe bảo thủ. Lợi dụng sự chia rẽ trong phe bảo thủ, José Santos Zelaya đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy đưa ông tới quyền lực năm 1893. Zelaya đã chấm dứt cuộc tranh cãi từ lâu với Anh Quốc về Atlantic Coast năm 1894, và tái nhập Mosquito Coast vào Nicaragua. Nicaragua đã cung cấp hỗ trợ trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và là nước đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Hiến chương Liên hiệp quốc. Nicaragua từng nhiều lần bị can thiệp từ bên ngoài và những giai đoạn độc tài quân sự kéo dài, thời kỳ dài nhất là thời gian cầm quyền của gia đình Somoza, trong hầu như cả thế kỷ XX. Gia đình Somoza lên nắm quyền lực một phần nhờ hiệp ước năm 1927 do Mỹ đề xướng muốn thúc đẩy việc thành lập đội quân Phòng vệ Quốc gia thay thế cho các quân đội cá nhân nhỏ trước đó. Vị tướng duy nhất của Nicaragua từ chối ký hiệp ước này (el tratado del Espino Negro) là Augusto César Sandino ông đã bỏ lên vùng núi phía bắc Las Segovias, và chiến đấu chống lại các lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong năm năm. Cuối cùng lực lượng lính thủy đánh bộ đạt được một thỏa thuận với phe du kích Sandinista. Lính thủy đánh bộ rút đi và Juan Bautista Sacasa nắm quyền kiểm soát toàn bộ đất nước. Một lực lượng Phòng vệ Quốc gia được thành lập và Anastasio Somoza Garcia, một người từng học tập tại Hoa Kỳ, trở thành người đứng đầu lực lượng mới này. Từ vị trí của mình trong lực lượng Phòng vệ Quốc gia, Somoza cuối cùng đã thâu tóm được toàn bộ đất nước. Sợ sự chống đối quân sự có thể xảy ra từ Sandino, Somoza mời ông tới gặp tại Managua, nơi ông bị lực lượng Phòng vệ Quốc gia ám sát ngày 21 tháng 2 năm 1934. Somoza kiểm soát toàn bộ đất nước và tiêu hủy mọi đội quân vũ trang nào có khả năng chống lại mình. Tới lượt Somoza bị Rigoberto Lopez Perez, một nhà thơ Nicaragua, ám sát năm 1956. Luis Somoza Debayle, con trai lớn của nhà độc tài, chính thức lãnh đạo Nicaragua sau cái chết của cha mình. Luis chỉ nắm quyền được vài năm khi ông chết vì một cơn đau tim. Ông được cho là một người ôn hoà. Tiếp sau đó là vị tổng thống bù nhìn Rene Shick. Anastasio Somoza Debayle, người chỉ huy lực lượng Phòng vệ Quốc gia, nắm quyền kiểm soát đất nước. Ông chính thức lên nhậm chức tổng thống sau Shick. Năm 1961, một sinh viên trẻ, Carlos Fonseca, ngưỡng mộ Sandino, thành lập nên Mặt trận Giải phóng dân tộc Sandinista (FSLN). FSLN trong suốt thập kỷ 1960 chỉ là một đảng nhỏ, nhưng sự căm ghét của Somoza với FSLN và sự đối xử thẳng tay với bất kỳ ai bị ông cho là một người yêu mến Sandinista khiến nhiều người dân thường Nicaragua có cảm giác rằng những người Sandinista mạnh hơn thực tế. Một số nhà sử học Nicaragua cho rằng trận động đất tàn phá Managua năm 1972 chính là "chiếc đinh cuối cùng đóng vào quan tài" cho Somoza. Khoảng 90% thành phố bị phá huỷ, và sự tham nhũng vô liêm sỉ của Somoza, việc tổ chức cứu tế kém cỏi (khiến ngôi sao của đội bóng chày Pittsburgh Pirates Roberto Clemente phải đích thân bay tới Managua ngày 31 tháng 12 năm 1972 - một chuyến bay chấm dứt với cái chết bi thảm của ông) và việc từ chối tái xây dựng Managua khiến Sandinista bỗng trở nên một biểu tượng với những người tuổi trẻ Nicaragua, những người đã không còn gì để mất. Somoza cho rằng các công ty độc quyền trong lĩnh vực công nghiệp là điều cần có để tái thiết quốc gia, nhưng không cho phép các thành viên khác trong tầng lớp thượng lưu chia sẻ lợi nhuận từ hoạt động tăng trưởng kinh tế. Điều này khiến hình ảnh của Somoza càng xấu đi trong mắt giới kinh tế và họ không còn ủng hộ ông ta nữa. Năm 1976 một loại bông nhân tạo, một trong những trụ cột của kinh tế Nicaragua, được phát triển. Việc này khiến giá bông giảm sút, và nền kinh tế Nicaragua rơi vào khủng hoảng. Các vấn đề kinh tế càng khiến phe Sandinista có được tình cảm từ phía nhân dân trong cuộc đấu tranh chống Somoza và nhiều người Nicaragua ở các tầng lớp phía trên cho rằng họ là cứu cánh duy nhất đưa đất nước thoát khỏi chế độ bạo tàn Somoza. Vụ ám sát Pedro Joaquin Chamorro, tổng biên tập tờ báo quan trọng nhất Nicaragua và là người công khai đối đầu Somoza vào tháng 1 năm 1978, được cho là tia lửa dẫn tới sự bùng phát tình cảm chống Somoza trong nhân dân. Khi ấy thủ phạm được cho là thành viên của lực lượng Phòng vệ quốc gia. Những người Sandinistas, được sự ủng hộ của đa số dân chúng, Nhà thờ Cơ đốc giáo, và các chính phủ khu vực cũng như quốc tế lên nắm quyền vào tháng 7 năm 1979. Somoza rời bỏ đất nước và những kẻ trung thành trong lực lượng Phòng vệ quốc gia của mình, chết ở Paraguay vì bị ám sát tháng 9 năm 1980 bởi những thành viên của Đảng Công nhân Cách mạng Argentina. Những chương trình lớn và quan trọng của Sandinistas gồm cuộc Thập tự chinh Xóa mù chữ Quốc gia (tháng 3-tháng 8 năm 1980) và một cuộc cải cách ruộng đất lớn đưa đất đai vào tay những người nông dân vô sản. Tổng thống Mỹ Jimmy Carter, người từng cắt viện trợ cho Somoza năm trước, ban đầu lựa chọn viện trợ cho chính phủ mới, nhưng tới cuối nhiệm kỳ viện trợ ngày càng giàm và cuối cùng bị Tổng thống Reagan vì có bằng chứng cho thấy Sandinista ủng hộ những người nổi loạn FMLN tại El Salvador. Trước khi Hoa Kỳ ngừng viện trợ, Bayardo Arce, một chính trị gia FSLN, đã cho rằng "Nicaragua là nước duy nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội của riêng mình bằng đồng đôla của chủ nghĩa đế quốc." Sau một giai đoạn thắng lợi ngắn, những người Sandinista phải đối mặt với một cuộc nội chiến với Contra, một lực lượng kiểu khủng bố xuất hiện trong thời cầm quyền của tổng thống Ronald Reagan. Contra được Mỹ huấn luyện và cung cấp tài chính để chiến đấu với Sandinista, gây ra sự chỉ trích ngày càng tăng bên trong Hoa Kỳ, kể cả tại Nghị viện. Khi Nghị viện cắt bỏ khoản viện trợ cho Contra, Đại tá phụ tá của Reagan là Oliver North đã dựng lên một kế hoạch cung cấp viện trợ cho Contra thông qua việc bí mật bán vũ khí cho Iran, một thất bại dẫn tới cái gọi là Vụ Iran-Contra. Daniel Ortega đã giành chiến thắng áp đảo trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1984, nhưng những năm chiến tranh đã làm suy yếu nền kinh tế Nicaragua và khiến nhiều gia đình rơi vào tình trạng khó khăn. Cuộc bầu cử được các tổ chức phi chính phủ phương tây được phép vào Nicaragua giám sát cho là minh bạch, dù một số người vẫn cho rằng Ortega đã đàn áp các đảng đối lập. Nicaragua đã giành thắng lợi lịch sử trong vụ kiện chống lại Hoa Kỳ tại Tòa án Luật pháp Quốc tế năm 1986 (xem Nicaragua và Hoa Kỳ), và Hoa Kỳ buộc phải trả Nicaragua 12 tỷ đôla vì vi phạm chủ quyền của Nicaragua qua việc tiến hành tấn công họ. Hoa Kỳ từ chối chấp nhận Tòa án và cho rằng họ không có thẩm quyền đối với những việc quan hệ của quốc gia có chủ quyền. Chính phủ Hoa Kỳ từ chối trả khoản tiền, thậm chí cả khi nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc về vấn đề này đã được thông qua. Thập kỷ 1990 và Thời kỳ Hậu Sandinista Cuộc bầu cử đa đảng được tổ chức năm 1990 với phần thua thuộc về phe Sandinista trước liên minh các đảng chống Sandinista (thuộc cả cánh tả và cánh hữu) do Violeta Chamorro, vợ góa của Pedro Joaquín Chamorro, lãnh đạo. Sự thất cử đã làm phe Sandinista ngạc nhiên bởi những cuộc thăm dò ý kiến trước bầu cử cho thấy một thắng lợi chắc chắn của Sandinista và những cuộc bận động tranh cử trước bầu cử của họ đã thu hút những đám đông hàng trăm ngàn người. Kết quả không ngờ đó đã trở thành chủ đề của nhiều bài phân tích và bình luận, và được các nhà bình luận như Noam Chomsky và S. Brian Willson quy cho có nguyên nhân từ những lời đe dọa của phe Contra tiếp tục chiến tranh nếu người Sandinista còn nắm giữ quyền lực, những người dân Nicaragua nói chung đã quá mệt mỏi vì chiến tranh và một phần khác là những khoản viện trợ to lớn của Hoa Kỳ cho phe đối lập. Mặt khác, P. J. O'Rourke đã viết trong cuốn "Return of the Death of Communism" về "những lợi thế không hợp lệ khi sử dụng các nguồn tài nguyên quốc gia cho các mục đích đảng phái, về cách làm thế nào Sandinista kiểm soát hẹ thống chuyển tiếp ngăn chặn những người ủng hộ Liên đoàn đối lập thống nhất Nicaragua (UNO) tham gia các cuộc tuần hành tranh cử, làm cách nào Sandinista buộc các binh sĩ trong quân đội bỏ phiếu cho Ortega và bằng cách nào bộ máy quan liêu Sandinista ngăn chặn khoản tiền viện trợ 3,3 triệu đôla của Hoa Kỳ cho chiến dịch tranh cử không thể tới tay UNO trong khi Daniel Ortega chi tiêu hàng triệu đôla do những người dân ở nước ngoài quyên tặng và hàng triệu triệu từ ngân khố Nicaragua..." Những cuộc phỏng vấn người dân Nicaragua sau khi họ đã bầu cử cho thấy đại đa số cử tri đã bỏ phiếu cho Charmorro vì lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ chống chính phủ Ortega. Những cuộc phỏng vấn này cũng thuyết phục Daniel Ortega rằng các kết quả bầu cử là hợp pháp và góp phần vào quyết định chấp nhận kết quả bầu cử của nhân dân rút lui khỏi quyền lực của ông ta thay vì không chấp nhận nó. Chamorro nhận được một nền kinh tế đã hoàn toàn suy sụp. Thu nhập trên đầu người của người dân Nicaragua đã giảm tới 80% trong thập niên 1980, vì các chi phí tài chính và xã hội cho cuộc chiến với Contra của chính phủ Sandinista. Điều gây ngạc nhiên cho người Mỹ và lực lượng Contra, Chamorro không giải tán Quân đội Sandinista, dù tên của nó đã được đổi thành Quân đội Nicaragua. Đóng góp chủ yếu của Chamorro cho Nicaragua là việc giải giáp các nhóm vũ trang tại các vùng phía bắc và miền trung đất nước. Điều này giúp tăng sự ổn định vốn thiếu ở nước này trong hơn một thập kỷ. Trong cuộc bầu cử tiếp sau năm 1996, Daniel Ortega và những người Sandinista thuộc FSLN một lần nữa bị đánh bại, lần này là bởi Arnoldo Alemán thuộc Đảng Tự do Lập hiến (PLC). Tổng thống Alemán đã có sự đồng thuận chiến lược với Ortega và FSLN, và chính trị Nicaragua hầu như được thành lập trên một hệ thống lưỡng đảng, với PLC và FSLN cùng hợp tác phân chia quyền lợi chính phủ cũng như các địa vị để ngăn cản các đảng nhỏ. Trong cuộc bầu cử năm 2001, PLC một lần nữa đánh bại FSLN, và Enrique Bolaños thắng cử Tổng thống. Tuy nhiên, Tổng thống Bolaños sau đó đã chia tay PLC và cáo buộc cựu Tổng thống Alemán tham nhũng, với những tội danh có thể bị tuyên án tới 20 năm tù như biển thủ, rửa tiền và tham nhũng. Đảng Sandinista và các thành viên Tự do trung thành với Alemán phản ứng bằng cách tước đoạt quyền lực của Tổng thống Bolaños cùng các bộ trưởng và đe dọa buộc tội phản quốc. Cuộc "đảo chính diễn biến chậm" này đã bị ngăn chặn một phần nhờ sức ép từ phía Hoa Kỳ, với lời hứa hẹn những thay đổi hiến pháp bị trì hoãn cho tới cuộc bầu cử theo dự kiến năm 2006. Tháng 10 năm 1996, Đảng Liên minh tự do, bảo thủ lên cầm quyền sau khi thắng cử, Tổng thống Arnoldo Aleman bị cáo buộc tham nhũng và làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng của đất nước. Tổng thống thuộc Đảng Tự do hợp hiến Enrique Bolanos Geyer (từ tháng 1 năm 2002) không giải quyết được tình trạng khủng hoảng. Bầu cử ngày 5 tháng 11 năm 2006, lãnh tụ Mặt trận Giải phóng dân tộc Sandino (FSLN) Daniel Ortega Saavedra giành thắng lợi và trở lại cầm quyền sau 16 năm. Chính trị Chính trị Nicaragua theo cơ cấu một nhà nước cộng hòa tổng thống đại diện dân chủ, theo đó Tổng thống Nicaragua vừa là lãnh đạo nhà nước vừa là lãnh đạo chính phủ, và một hệ thống đa đảng phái. Quyền hành pháp do chính phủ đảm nhiệm. Quyền lập pháp vừa do chính phủ vừa do Quốc hội đảm nhiệm. Tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp. Tổng thống hiện nay của Nicaragua là Enrique Bolaños Geyer . Những cuộc bầu cử lập pháp và tổng thống diễn ra ngày 5 tháng 11 năm 2006. Cuộc bầu cử này đã mở đường cho Daniel Ortega lên nắm quyền lần thứ ba. Ông đã thắng 39% số phiếu bầu, đủ để chiến thắng. Đối ngoại Nicaragua dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Giải phóng dân tộc Sandino chủ trương tăng cường đoàn kết, liên kết Mỹ Latinh, đẩy mạnh quan hệ hợp tác chặt chẽ với Cuba, Venezuela và các nước dân tộc, độc lập ở khu vực; đã chính thức gia nhập "Lựa chọn Boliva cho châu Mỹ" (ALBA) (ngày 15 tháng 1 năm 2007). Là thành viên của Liên Hợp Quốc, WTO, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), Nhóm 77 (G-77), Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Phong trào không liên kết.... Địa lý Chiếm diện tích 129.494 km² - tương đương diện tích Hy Lạp hay bang New York và rộng gấp 1,5 lần Bồ Đào Nha. Gần 8% lãnh thổ là các vườn quốc gia hay các khu dự trữ sinh quyển. Nước này giáp Costa Rica ở phía nam, Honduras ở phía bắc và Biển Caribe ở phía đông. Nicaragua là một nước cộng hoà nhất thể. Vì các mục đích hành chính đất nước được chia thành 15 khu vực hành chính (departamentos) và hai vùng tự trị dựa theo mô hình Tây Ban Nha. Hai vùng tự trị là Región Autónoma del Atlántico Norte và Región Autónoma del Atlántico Sur, thường được gọi tắt là RAAN và RAAS theo thứ tự. Cho tới khi hai vùng này được trao quy chế tự trị năm 1985 đây từng là một khu vực hành chính duy nhất với tên gọi Zelaya. Nicaragua có ba vùng địa lý khác biệt: Những vùng đất thấp Thái bình dương, Vùng núi Trung Bắc và Những vùng đất thấp Đại Tây Dương. Những vùng đất thấp dọc Thái Bình Dương Nằm ở phía tây đất nước, những vùng đất thấp này là một đồng bằng màu mỡ, rộng và nóng. Nổi bật trên đồng bằng là nhiều miệng núi lửa thuộc dãy Maribios, gồm cả Mombacho ngay bên ngoài Granada, và Momotombo gần León. Vùng đất thấp chạy từ Vịnh Fonseca tới biên giới phía Thái Bình Dương của Nicaragua với Costa Rica phía nam Hồ Nicaragua. Đây là vùng đông dân cư nhất. Khoảng 27% dân số quốc gia sống trong và xung quanh Managua, thành phố thủ đô, trên bờ phía nam Hồ Managua. Ngoài những bãi biển và các khu nghỉ dưỡng, những vùng đất thấp dọc Thái Bình Dương còn là nơi chứa đứng nhiều di sản thời thuộc địa Tây Ban Nha của Nicaragua. Các thành phố như Granada và León đều có nhiều công trình kiến trúc và vật dụng thuộc địa. Vùng trung tâm Đây là một vùng đất cao nằm cách xa bờ biển Thái Bình Dương, với thời tiết lạnh hơn các vùng đất thấp Thái Bình Dương. Khoảng một phần tư ngành nông nghiệp Nicaragua thuộc vùng này, cây cà phê được trồng tại những khu vực đất dốc cao. Sồi, thông, rêu (moss), dương xỉ và lan rất phong phú tại những khu rừng mây trong vùng. Các loài chim sống trong những khu rừng vùng trung này gồm Chim đuôi seo, sẻ cánh vàng, chim ruồi, chim giẻ cùi và chim tu can. Những vùng đất thấp dọc Đại Tây Dương Vùng rừng nhiệt đới rộng lớn này có ít dân cư sinh sống, với nhiều con sông lớn chảy xuyên qua. Río Coco tạo thành biên giới với Honduras. Bờ biển Caribe quanh co hơn nhiều so với bờ biển Thái Bình Dương tương đối thẳng phía bên kia. Các đầm phá và châu thổ bố trí không đều tạo ra kiểu địa hình này. Bờ biển nhiệt đới phía đông Nicaragua rất khác biệt so với những vùng còn lại của đất nước. Khí hậu chủ yếu là nhiệt đới, nhiệt độ cao, độ ẩm cao. Quanh khu vực thành phố Bluefields, tiếng Anh được sử dụng rộng rãi với tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ chính thức trong cộng đồng dân cư rất giống với nhiều cộng đồng tiêu biểu tại các cảng biển Caribe hơn mọi nơi khác tại Nicaragua. Rất nhiều loài chim sinh sống ở khu vực này gồm đại bàng, gà gô, chim tu can, vẹt đuôi dài và macaw. Các loài động vật gồm nhiều loài khỉ, thú ăn kiến, hươu đuôi trắng và heo vòi.
Azerbaijan (phiên âm tiếng Việt: A-déc-bai-gian hoặc A-déc-bai-dan, tiếng Azerbaijan: Azərbaycan), tên gọi chính thức là Cộng hòa Azerbaijan, là quốc gia nằm tại khu vực Tây Á và thuộc vùng Kavkaz của lục địa Á-Âu, Azerbaijan giáp với biển Caspi ở phía đông, Liên bang Nga ở phía bắc, Gruzia ở phía tây bắc, Armenia ở phía tây và Iran ở phía Nam. Ngoài ra, trong cơ cấu lãnh thổ của Azerbaijan còn có Cộng hoà Tự trị Nakhchivan và khu vực tranh chấp Nagorno-Karabakh. Nakhchivan – giáp biên giới với Armenia ở phía bắc và phía đông, Iran ở phía nam và phía tây cùng Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây bắc – là một vùng lãnh thổ bị tách rời khỏi nước này còn vùng đất Nagorno-Karabakh ở phía tây nam thì mặc dù bị Armenia chiếm đóng vào năm 1991 nhưng họ đã giành lại được quyền kiểm soát sau hàng loạt những chiến thắng mang tính quyết định trong Chiến tranh Nagorno-Karabakh năm 2020. Người Azerbaijan (hay còn gọi đơn giản là Azeris) là nhóm sắc tộc chiếm đại đa số, khoảng 85% theo truyền thống trung thành với dòng Hồi giáo Shi'a, số còn lại là tín đồ dòng Hồi giáo Sunni, các nhóm tôn giáo còn lại bao gồm Giáo hội Chính thống giáo Nga (1.3%), Tông đồ Armenia (1.3%) và những tôn giáo thiểu số khác (5%). Azerbaijan là một nền dân chủ hoàn chỉnh với các quyền tự do đầy đủ. Azerbaijan là một quốc gia thế tục, thành viên của Hội đồng châu Âu, Ngân hàng Phát triển châu Á, Khối thịnh vượng chung các Quốc gia Độc lập từ năm 1991, đối tác trong Chính sách Láng giềng châu Âu của Liên minh châu Âu (EU) từ năm 2006, Đối tác vì Hoà bình và Đối tác Cá nhân Kế hoạch Hành động của NATO từ những năm 1994, 2004 và là một đồng minh có quan hệ ngoại giao cùng mối liên hệ chủng tộc đặc biệt với Thổ Nhĩ Kỳ. Quốc gia này sở hữu nền kinh tế thị trường, các ngành kinh tế chủ lực bao gồm: công nghiệp chế tạo, chế biến - xuất khẩu dầu mỏ, hóa chất, dệt may, khai mỏ và đồng thời duy trì được chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức cao (thống kê năm 2019). Từ nguyên Địa danh Azerbaijan được cho là bắt nguồn từ Atropates, tên của vị Satrap (tổng trấn) Media dưới thời đế chế Achaemenid, người đã cai trị một vùng tại Iran Azarbaijan hiện đại được gọi là Atropatene. Cái tên Atropate có lẽ bắt nguồn từ tiếng Ba Tư cũ, có ý nghĩa là "được bảo hộ bởi lửa [thiêng]." Cái tên này cũng được đề cập trong Frawardin Yasht Avesta: âterepâtahe ashaonô fravashîm ýazamaide dịch nghĩa là: Chúng ta thờ cúng Fravashi của Atare-pata linh thiêng. Lịch sử Những người dân định cư sớm nhất được biết tại Azerbaijan ngày nay là người Albania Kavkaz, một tộc người nói ngôn ngữ Kavkaz có lẽ đã tới vùng này trước những sắc tộc cuối cùng sẽ chinh phục vùng Kavkaz. Theo lịch sử Azerbaijan từng là nơi sinh sống của nhiều bộ tộc, gồm Ba Tư, Armenia, Hy Lạp, La Mã, Ả Rập, Turk, Mông Cổ và Nga. Ngôn ngữ Turkic xuất hiện ở vùng Azerbaijan như kết quả của cuộc di cư vĩ đại của người Turk tới Tiểu Á ở thế kỷ XI. Vương quốc đầu tiên xuất hiện trên lãnh thổ ngày nay là Cộng hoà Azerbaijan là Mannae ở thế kỷ thứ IX trước Công Nguyên, tồn tại đến tận năm 616 trước Công Nguyên khi nó trở thành một phần của Đế chế Median, sau này sẽ trở thành một phần của Đế chế Ba Tư năm 549 trước Công Nguyên. Lãnh thổ phó vương Albania Kavkaz được thành lập ở thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên và gồm xấp xỉ những lãnh thổ ngày nay là quốc gia Azerbaijan cùng những phần phía nam Dagestan. Đạo Hồi nhanh chóng phát triển trong vùng Azerbaijan sau những cuộc chinh phục của người Ả Rập trong thế kỷ thứ bảy và thứ tám. Sau khi quyền lực của Khalifate Ả Rập suy tàn, nhiều quốc gia bán độc lập được thành lập, vương quốc Shirvanshah là một trong số đó. Ở thế kỷ XI, lực lượng chinh phục Seljuk Turks trở thành lực lượng hùng mạnh tại Kavkaz và dẫn tới việc thành lập một Azerbaijanis tạm thời theo ngôn ngữ. Ở thế kỷ XIII và XIV, đất nước này phải chịu những cuộc xâm lược Mông Cổ-Tatar. Sau triều đại Safavid, Azerbaijan trải qua một giai đoạn phân chia phong kiến ngắn ở giữa thế kỷ XVIII tới đầu thế kỷ XIX, và gồm các vương quốc độc lập dưới quyền các khan. Sau hai cuộc chiến giữa Đế chế Iran Qajar, cũng như Ganja, Guba, Baku và các vương quốc Khan độc lập khác cùng Đế chế Nga, vùng Kavkaz bị người Nga chiếm đóng theo Hiệp ước Gulistan năm 1813, và Hiệp ước Turkmenchay năm 1828, và nhiều hiệp ước khác trước đó giữa các Sa hoàng Nga và các Khan trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIX. Năm 1873, dầu mỏ được tìm thấy tại thành phố Baku, thủ đô tương lai của Azerbaijan. Tới đầu thế kỷ XX hầu như một nửa lượng dầu cung cấp trên thế giới bắt nguồn từ Azerbaijan. Sau sự sụp đổ của Đế chế Nga trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Azerbaijan cùng Armenia và Georgia trở thành một phần của Cộng hòa Dân chủ Liên bang Zakavkaz có thời gian tồn tại ngắn ngủi. Khi nước Cộng hòa giải tán tháng 5 năm 1918, Azerbaijan tuyên bố độc lập với cái tên Cộng hòa Dân chủ Azerbaijan. Cộng hòa Dân chủ Azerbaijan là chế độc Cộng hòa Hồi giáo nghị viện đầu tiên trên thế giới và chỉ tồn tại trong 2 năm, từ 1918 tới 1920, khi các lực lượng Hồng Quân Xô viết xâm chiếm Azerbaijan. Tháng 3 năm 1922, Azerbaijan, cùng Armenia và Gruzia, trở thành một phần của Transcaucasian SFSR bên trong Liên bang Xô viết mới được thành lập. Năm 1936, TSFSR bị giải tán và Azerbaijan trở thành một nước Cộng hòa thuộc Liên bang Xô viết với cái tên Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Phát xít Đức xâm lược Liên bang Xô viết. Mục tiêu chủ yếu trong Chiến dịch Edelweiss của Adolf Hitler là chiếm thủ đô Baku giàu dầu mỏ của Azerbaijan. Vì nỗ lực chiến tranh, những người thợ dầu khí Xô viết bị buộc làm việc không nghỉ còn các công dân khác đi đào hầm hào cùng các vật cản chống tăng nhằm ngăn cản nguy cơ một cuộc tấn công của quân thù. Tuy nhiên, chiến dịch Edelweiss đã không thành công. Quân đội Đức ban đầu bị kìm chân tại những dãy núi vùng Kavkaz, sau đó bị đánh bại hoàn toàn trong Trận Stalingrad. Năm 1990, người Azerbaijan tập hợp lực lượng phản đối quyền quản lý Xô viết và thúc đẩy giành độc lập. Những cuộc biểu tình đã bị người Xô viết can thiệp đàn áp dã man trong cái mà hiện họ gọi là Tháng 1 Đen. Năm 1991, Azerbaijan tái lập quyền độc lập sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết. Những năm đầu độc lập bị bao phủ bóng đen bởi một cuộc chiến tranh với Armenia và những người Armenia ly khai về vùng Nagorno-Karabakh. Dù đã có một thỏa thuận ngừng bắn từ năm 1994, Azerbaijan vẫn chưa giải quyết được cuộc xung đột này với Armenia. Từ khi cuộc chiến chấm dứt, Azerbaijan đã mất quyền kiểm soát 14% lãnh thổ gồm cả Nagorno-Karabakh. Vì cuộc xung đột này, cả hai nước đều phải đối đầu với những vấn đề người tị nạn và tình trạng chuyển dịch chỗ ở trong nước cũng như các khó khăn kinh tế. Cựu lãnh đạo Xô viết người Azerbaijan Heydar Aliyev đã tìm cách khai thác nguồn tài nguyên dầu mỏ phong phú tại Baku. Dù Aliyev đã cố gắng giảm tối đa số lượng người thất nghiệp trong nước, nguồn thu từ dầu mỏ vẫn chủ yếu rơi vào tay tầng lớp trên. Aliyev dần tỏ ra độc tài và đã rạo ra sự sùng bái cá nhân chính ông. Những đối thủ chính trị bị giam giữ và tự do ngôn luận bị hạn chế. Tình hình chính trị Azerbaijan vẫn trong tình trạng căng thẳng, ngay cả sau khi Aliyev, khi gần chết, đã lựa chọn con trai là Ilham trở thành ứng cử viên tổng thống duy nhất của Đảng ông. Các lực lượng đối lập bất mãn với kiểu kế tục triều đình này và đang kêu gọi thành lập một chính phủ dân chủ hơn. Chính trị Các biểu tượng Nhà nước của Cộng hòa Azerbaijan, theo Điều 23 của Hiến pháp, gồm: cờ, quốc huy và quốc ca. Azerbaijan là một nền Cộng hòa tổng thống. Lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo chính phủ tách rời khỏi cơ cấu lập pháp của đất nước. Người dân bầu tổng thống với nhiệm kỳ năm năm. Tổng thống chỉ định tất cả quan chức nội các. Một Quốc hội với năm mươi thành viên chịu trách nhiệm làm luật. Azerbaijan áp dụng quyền phổ thông đầu phiếu cho mọi công dân từ 18 tuổi trở lên. Sau cuộc bầu cử tổng thống ngày 15 tháng 10 năm 2003, một thông báo chính thức của Ủy ban Bầu cử Trung ương (CEC) cho thấy İsa Qambar — lãnh đạo khối đối lập lớn nhất, Bizim Azərbaycan ("Azerbaijan của chúng ta") — được 14% số phiếu bầu đứng thứ hai. Thứ ba với 3.6% là Lala Shevket, lãnh đạo Phong trào Thống nhất Quốc gia, người phụ nữ đầu tiên ra ứng cử trong một cuộc bầu cử tổng thống tại Azerbaijan. Tuy nhiên, Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), Hội đồng châu Âu, Human Rights Watch và các tổ chức quốc tế khác, cũng như các tổ chức chính trị độc lập trong nước và các Tổ chức Phi Chính phủ đã lên tiếng lo ngại về sự gian lận quan sát thấy trong cuộc bầu cử và quá trình kiểm phiếu nhiều thiếu sót. Nhiều tổ chức độc lập trong nước và quốc tế từng quan sát và giám sát trực tiếp hay gián tiếp cuộc bầu cử đã tuyên bố Isa Gambar là người chiến thắng trong cuộc bầu cử ngày 15 tháng 10. Một quan điểm khác được nhiều tổ chức quốc tế tán thành cho rằng thực tế một cuộc bầu cử vòng hai đáng lẽ đã phải diễn ra giữa hai ứng cử viên đối lập chính là Isa Gambar và Lala Shevket. Trích dẫn ... chính phủ đã can thiệp sâu vào quá trình tranh cử tạo thuận lợi cho Thủ tướng Ilham Aliev, con trai của Tổng thống đương nhiệm Heidar Aliev. Chính phủ đã sắp xếp Hội đồng Bầu cử Trung ương và các Hội đồng bầu cử địa phương bằng người ủng hộ mình, và ngăn cấp các tổ chức phi chính phủ giám sát cuộc bầu cử. Khi cuộc bầu cử tới gần, các quan chức chính phủ đã công khai đứng về phía Ilham Aliev, liên tục ngăn cản các cuộc tuần hành của phe đối lập và cố gắng ngăn cản sự tham gia của công chúng vào các sự kiện do phe đối lập tổ chức. Trong một số trường hợp, các quan chức địa phương đã đóng cửa tất cả đường sá dẫn tới thị trấn trong những cuộc tuần hành của phe đối lập, hay kéo dài thời gian làm việc và học tập, thậm chí tuyên bố bắt đi làm việc vào Chủ nhật để ngăn cản người dân tham gia vào các cuộc tuần hành.|Human Rights WatchOSCE’s final report , (PDF) Azerbaijan đã tổ chức bầu cử quốc hội ngày Chủ nhật mùng 6 tháng 11 năm 2005. Azerbaijan đã được bầu trở thành một trong những thành viên mới nhất của Hội đồng Nhân quyền (HRC) mới được thành lập bởi Đại hội đồng ngày 9 tháng 5 năm 2006. Nhiệm kỳ sẽ bắt đầu từ ngày 19 tháng 6 năm 2006. Quân đội Các lực lượng vũ trang quốc gia được trang bị hiện đại của Azerbaijan được hình thành theo nghị định của Tổng thống vào tháng 10 năm 1991. Các Lực lượng Vũ trang Azerbaijan gồm bốn nhánh quân sự: lục quân, không quân, hải quân, lực lượng phòng không và bốn tiểu nhánh vệ binh quốc gia, vệ binh nội vụ, biên phòng và bảo vệ bờ biển. Khu vực hành chính Azerbaijan được chia thành 59 quận rayons (rayonlar, số ít rayon), 11 thành phố (şəhərlər, số ít şəhər), và 1 Cộng hòa tự trị (muxtar respublika), Nakhchivan. Chính Nakhchivan cũng được chia thành bảy rayons và một thành phố. Thành phố Baku là thủ đô Azerbaijan. Địa lý Azerbaijan có chín trong mười một vùng khí hậu. Đây là quốc gia khô cằn, khô và khí hậu cận nhiệt đới với mùa hè nóng và mùa đông ôn hoà. Nhiệt độ thay đổi theo mùa và theo vùng. Ở vùng đất thấp phía tây nam, nhiệt độ trung bình là vào mùa đông và vào mùa hè — dù nhiệt độ tối đa thông thường ban ngày có thể tới . Ở những rặng núi phía bác và phía tây nhiệt độ trung bình vào mùa hè và vào mùa đông. Lượng mưa hàng năm trên hầu hết đất nước thay đổi trong khoảng từ tới và nói chung ở mức thấp nhất phía đông bắc. Tuy nhiên, ở vùng viễn đông nam khí hậu ẩm hơn và lượng mưa hàng năm có thể cao tới . Trên hầu hết đất nước, những giai đoạn ẩm nhất là vào mùa xuân và mùa thu, mùa hè khô nhất. Kinh tế Kinh tế Azerbaijan chủ yếu dựa vào công nghiệp. Các ngành công nghiệp gồm chế tạo máy, dầu mỏ và các ngành khai mỏ khác, lọc dầu, các sản phẩm dệt may và chế biến hóa chất. Nông nghiệp chiếm một phần ba nền kinh tế Azerbaijan. Đa số các nông trang nhà nước đã được tưới tiêu. Tại các vùng đất thấp, nông dân chủ yếu canh tác các loại cây bông, cây ăn quả, lúa gạo, chè, thuốc lá, và nhiều loại rau. Tằm được nuôi để sản xuất tơ tự nhiên cho ngành may mặc. Những người chăn thả gia súc Azerbaijan nuôi gia súc, cừu và dê gần các rặng núi. Hải sản, gồm trứng cá muối và cá khai thác từ Biển Caspia. Azerbaijan có nền kinh tế rất năng động, chủ yếu nhờ dầu khí, và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) nước này tăng vọt 34.5% để đạt tới 20.6 tỷ dollar năm 2006, biến nước này thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới trong hai năm liên tục. GDP trên đầu người tăng 33% đạt $5,739. Tăng trưởng GDP năm 2007 được dự đoán trong khoảng 18% tới 22%. Tính đến năm 2016, GDP của Azerbaijan đạt 35.686 USD, đứng thứ 96 thế giới và đứng thứ 32 châu Âu. Nhân khẩu Azerbaijan có dân số 9.2 triệu người, 91.6% trong số đó là người Azerbaijan (cũng được gọi là Azeris; con số cuộc điều tra dân số năm 2009). Sắc tộc đứng thứ hai là người Nga, hiện họ chiếm khoảng 1.8% dân số, đa số người Nga đã di cư khỏi nước này từ khi độc lập. Nhiều người Dagestan sống quanh biên giới với Dagestan. Các sắc tộc chính là Lezgis, Avar và Tsakhur. Các nhóm nhỏ hơn gồm Budukh, Udi, Kryts và Khinalug hay Ketsh quanh làng Xinalıq. Tại Azerbaijan cũng có nhiều nhóm sắc tộc nhỏ hơn khác như Georgians, Kurds, Talysh, Tatars và Ukraina. Một số người cho rằng số lượng người Talysh lớn hơn con số chính thức, bởi nhiều người trong số họ bị coi là người Azerbaijan. Người Do Thái miền núi (Mountain Jews) sống quanh thị trấn Quba ở miền bắc, cũng có mặt tại Dagestan. Nhiều người Do Thái đã di cư về Israel trong những năm gần đây, dù khuynh hướng này đã giảm bớt và thậm chí đảo ngược. Số lượng người Armenia khá lớn ở nước này đã di cư về Armenia và các nước khác với sự bùng nổ của cuộc xung đột Armenian-Azeri về vùng Nagorno-Karabakh. Trong giai đoạn này, Azerbaijan cũng tiếp nhận số lượng lớn người Azerbaijan bỏ chạy khỏi Armenia và Nagorno-Karabakh cũng như các tỉnh bị chiếm đóng Armenia. Rõ ràng tất cả người Armenia tại Azerbaijan hiện sống trong vùng ly khai Nagorno-Karabakh. Tôn giáo 93.4% người Azerbaijan là tín đồ Hồi giáo và đa số họ thuộc dòng Twelver Shia. Số người này chiếm hơn 85% tín đồ Hồi giáo. Các tôn giáo hay đức tin khác được nhiều người theo là Hồi giáo Sunni, Nhà thờ Tông đồ Armenia (tại Nagorno-Karabakh), Nhà thờ Chính thống Nga, và nhiều nhánh Thiên chúa giáo cũng như Hồi giáo khác. Người Do Thái miền núi tại Quba, cũng như hàng ngàn người Do Thái Ashkenazim tại Baku, theo Do Thái giáo. Theo truyền thống, các làng quanh Baku và vùng Lenkoran được coi là cứ địa của dòng Shi'ism, và tại một số vùng phía bắc nơi sinh sống của người Dagestan Sunni, phái Salafi được nhiều người theo. Phong tục dân gian Hồi giáo rất phổ biến, nhưng chưa có một phong trào Sufi được tổ chức. Văn hoá Ngôn ngữ chính thức của Azerbaijan là tiếng Azerbaijan, một thành viên trong phân nhánh Oghuz của ngữ hệ Turk, và được khoảng 95% dân số sử dụng, cũng như khoảng một phần tư dân số Iran. Những ngôn ngữ có quan hệ gần nhất với tiếng Azerbaijan là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmen, và Gagauz. Vì chính sách ngôn ngữ của Liên bang Xô viết, tiếng Nga cũng được sử dụng nhiều như một ngôn ngữ thứ hai đối với dân cư thành thị. Azerbaijan đã nộp hồ sơ xin đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2016, với Baku sẽ là thành phố tổ chức, nhưng cuối cùng thất bại trước Rio de Janeiro của Brasil. Thể thao
Síp ( ; , tiếng Anh: Cyprus), tên gọi chính thức là Cộng hòa Síp (tiếng Anh: Republic of Cyprus), là một đảo quốc có chủ quyền nằm tại phần phía đông của biển Địa Trung Hải, đây là đảo có diện tích và dân số lớn thứ 3 trong biển này. Síp nằm về phía nam của Thổ Nhĩ Kỳ, phía tây của Syria và Liban. Theo các bằng chứng khảo cổ học thì con người đã có những hoạt động đầu tiên trên đảo từ khoảng thiên niên kỷ thứ 10 TCN và nơi đây có một số di tích giếng nước thuộc vào hàng cổ nhất trên thế giới. Người Hy Lạp Mycenae bắt đầu đến định cư tại đảo vào thiên niên kỷ 2 TCN. Do có vị trí chiến lược, trong khoảng thời gian sau đó, hòn đảo bị nhiều thế lực lớn chiếm đóng, như các Đế quốc của người Assyria, Ai Cập và Ba Tư, đến năm 333 TCN, hòn đảo nằm dưới quyền Alexandros Đại đế. Các thế lực kế tiếp cai trị hòn đảo là Ai Cập Ptolemaios, La Mã và Đông La Mã, các khalifah của người Ả Rập, vương triều Lusignan gốc Pháp và Cộng hòa Venezia, sau đó là 3 thế kỷ Đế quốc Ottoman cai trị từ năm 1571 đến 1878 (về mặt pháp lý thì đến năm 1914). Síp nằm dưới quyền quản lý của Đế quốc Anh vào năm 1878 và chính thức bị Anh Quốc thôn tính vào năm 1914. Sau giai đoạn đấu tranh giành độc lập bằng hình thức dân tộc chủ nghĩa bạo lực trong thập niên 1950, Síp chính thức được trao trả độc lập vào năm 1960. Năm 1963, bạo lực giữa hai cộng đồng người Síp gốc Hy Lạp và gốc Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu nổ ra, rồi sau đó kết thúc khi đại diện của cộng đồng gốc Thổ Nhĩ Kỳ có được vị trí trong chính phủ. Ngày 15 tháng 7 năm 1974, các phần tử dân tộc chủ nghĩa gốc Hy Lạp tiến hành đảo chính trong nỗ lực nhằm hợp nhất hòn đảo vào Hy Lạp. Động thái này dẫn tới việc Thổ Nhĩ Kỳ đưa quân đội xâm chiếm Síp vào ngày 20 tháng 7 cùng năm, họ chiếm được một phần lãnh thổ nay là Bắc Síp. Ước tính có trên 150.000 người Síp gốc Hy Lạp và 50.000 người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ phải di chuyển chỗ ở. Một nhà nước ly khai của người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập vào năm 1983, động thái bị cộng đồng quốc tế lên án, chỉ trích và chỉ có duy nhất Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia công nhận nhà nước mới này, tranh chấp vẫn tiếp tục diễn ra cho đến tận ngày nay. Chính phủ Cộng hoà Síp có quyền pháp lý trên toàn bộ hòn đảo, ngoại trừ các khu vực Akrotiri và Dhekelia vẫn thuộc Anh Quốc theo các hiệp định về cựu thuộc địa độc lập. Tuy nhiên, Cộng hoà Síp trên thực tế bị phân chia thành hai khu vực chính, bao gồm: Khu vực nằm dưới quyền quản lý của chính phủ Cộng hoà nằm về phía nam và phía tây - chiếm 60% diện tích đảo, còn ở phía bắc hòn đảo do Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ Bắc Síp quản lý chiếm 36% diện tích còn lại. Gần 4% diện tích đảo thuộc vùng đệm Liên Hợp Quốc. Cộng đồng quốc tế nhìn nhận phần đất phía bắc của hòn đảo là lãnh thổ hợp pháp của Cộng hoà Síp bị các lực lượng quân sự Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng trái phép. Síp là một địa điểm du lịch lớn, nổi tiếng tại Địa Trung Hải. Síp sở hữu một nền kinh tế tiên tiến với thu nhập cao đồng thời có chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức rất cao. Cộng hoà Síp là một thành viên của Khối Thịnh vượng chung Anh từ năm 1961 và là một thành viên tham gia sáng lập của Phong trào không liên kết tuy nhiên, nước này đã rời khỏi phong trào khi gia nhập Liên minh châu Âu (EU) vào năm 2004. Năm 2008, Cộng hoà Síp tiếp tục gia nhập vào Khu vực đồng Euro. Từ nguyên Cái tên "Síp" trong tiếng Việt có lẽ có nguồn gốc từ tên quốc gia này trong tiếng Pháp là "Chypre". Còn trong tiếng Anh, từ Cyprus có từ nguyên hơi khó xác định. Một lời giải thích có thể là từ tiếng Hy Lạp chỉ cây bách Địa Trung Hải (Cupressus sempervirens), κυπάρισσος (kypárissos), hay thậm chí cái tên Hy Lạp của cây lá móng (Lawsonia alba), κύπρος (kýpros). Một lời giải thích khác cho rằng nó xuất phát từ từ Eteocypriot cho đồng. Ví dụ, Georges Dossin, cho rằng nó có nguồn gốc từ tiếng Sumer cho đồng đỏ (zubar) hay đồng thiếc (kubar), bởi trữ lượng đồng lớn được tìm thấy trên hòn đảo. Thông qua thương mại xuyên biển hòn đảo này được đặt tên theo từ tiếng La tinh cổ cho loại kim loại này thông qua câu aes Cyprium, "kim loại của Síp", sau này viết gọn thành Cuprum. Síp cũng được gọi là "hoàn đảo của Aphrodite hay tình yêu", bởi trong thần thoại Hy Lạp, vị nữ thần Aphrodite, của sắc đẹp và tình yêu được sinh ra tại Síp. Các biểu lộ của Assyrian Cổ cho "hòn đảo nhiều nắng xa xôi" là kypeř-až ṇ-itiṣ, đã nhiều lần được chuyển nghĩa sang tiếng Hy Lạp là kyperus nytis, hay kyprezu-nytys có nghĩa (trong thổ ngữ Cretan Cổ) "hòn đảo nhiều nắng phía nam". Sau đó nó liên quan tới việc người Cretan đặt tên cho nó như vậy, và kết quả là "hòn đảo nhiều nắng phía nam", "Kipriuznyt". Một khả năng khác là người Phoenician đã gọi nó là "Kỹiprii Uűzta" (Đảo Cam), cái tên xuất hiện trong thời La Mã và họ nghĩ nó được đặt theo tên một trong những vị hoàng đế của họ, và gọi nó là "Ciprea Augusta". Cùng với thời gian, Augusta bị bỏ đi và chỉ còn lại Ciprea. Địa lý Đảo quốc thuộc Tây Á, nằm ở vùng phía Địa Trung Hải, cách bờ biển Nam Thổ Nhĩ Kỳ khoảng 80 km. Vị trí bao quát và thuận lợi trên các đường dẫn đến kênh đào Suez đã nâng cao tầm quan trọng về chiến lược của đảo quốc này. Hai dãy núi Kyrenias trải dài ở bờ biển phía Bắc và dãy Troodhos phía Tây Nam chiếm phần lớn đất đai trên đảo, bị phân cách bởi đồng bằng trũng trải dài ở giữa. Lịch sử Síp Thời cổ đại Tương truyền, Síp là nơi sinh của Aphrodite, Adonis và là nơi ở của Vua Cinyras, Teucer và Pygmalion. Địa điểm có hoạt động của con người sớm nhất được xác định là Aetokremnos, nằm ở bờ biển phía nam, cho thấy những người săn bắn hái lượm đã có mặt trên hòn đảo từ khoảng năm 10.000 trước Công Nguyên, với những cộng đồng làng định cư từ khoảng năm 8200 trước Công Nguyên. Sự xuất hiện của những người đầu tiên trùng khớp với cuộc tuyệt chủng của những chú hà mã lùn và voi lùn, các xương sọ của chúng là khởi nguồn cho truyền thuyết Cyclops. Các giếng nước được phát hiện bởi các nhà khảo cổ học ở phía tây Síp được cho là thuộc số những giếng cổ nhất Trái Đất, có niên đại từ 9,000 tới 10.500 năm. Chúng được cho là bằng chứng về sự phức tạp của các cộng đồng định cư đầu tiên. Những di tích của một chú mèo tám tháng tuổi được tìm thấy được chôn cất với người chủ của nó tại một địa điểm Đồ đá mới riêng biệt tại Síp. Ngôi mộ được ước tính có 9.500 năm tuổi, trước cả nền văn minh Ai Cập cổ đại và đẩy lùi thời điểm diễn ra sự thuần hoá thú nuôi của loài người lên sớm rất nhiều. Có nhiều đợt con người và người định cư tới đây cũng như những người mới nhập cư tới hòn đảo trong thời kỳ Đồ đá mới, dù những trận động đất đã phá huỷ các cơ sở hạ tầng từ khoảng năm 3800 trước Công nguyên. Nhiều làn sóng người nhập cư tiếp nối, gồm cả một số bộ tộc từ tiểu Á giúp tăng cường nghề thủ công chế tác kim loại trên hòn đảo, dù những đồ tạo tác được phát hiện từ thời này rất hiếm khi có chất lượng cao. Thời kỳ đồ Đồng được báo trước với sự xuất hiện của những người Tiểu Á đến hòn đảo này từ khoảng năm 2400 trước Công Nguyên. Người Hy Lạp Mycenae lần đầu tiên tới Síp khoảng năm 1600 trước Công Nguyên, với những khu định cư thuộc thời kỳ này nằm rải rác trên khắp hòn đảo. Một làn sóng người định cư Hy Lạp khác được cho là đã diễn ra trong giai đoạn 1100-1050 trước Công Nguyên, và đặc điểm Hy Lạp nổi bật trên đảo cũng bắt đầu từ giai đoạn này. Nhiều thuộc địa Phoenicia đã được tìm thấy từ thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên, như Kart-Hadasht có nghĩa 'Thị trấn Mới', gần Larnaca và Salamis hiện nay. Síp bị Assyria chinh phục năm 709 trước Công Nguyên, trước một giai đoạn ngắn dưới sự cai trị của Ai Cập và cuối cùng là Ba Tư năm 545 trước Công Nguyên. Người Síp, dưới sự lãnh đạo của Onesilos, gia nhập cùng với những người anh em Hy Lạp tại các thành bang Ionia trong cuộc Nổi dậy Ionia không thành công năm 499 trước Công Nguyên chống lại Đế quốc Ba Tư Achaemenes. Hòn đảo bị đưa lại dưới quyền cai trị liên tục của Hy Lạp bởi Alexandros Đại Đế và nhà Ptolemaios của Ai Cập sau cái chết của ông. Sự Hy Lạp hoá toàn bộ diễn ra trong thời kỳ Ptolemaios, chỉ chấm dứt khi Síp bị Cộng hoà La Mã sáp nhập năm 58 trước Công Nguyên. Síp là một trong những điểm dừng đầu tiên trong chuyến hành trình truyền giáo của Sứ đồ Phaolô. Trung Cổ Năm 395, Síp trở thành một phần của Đế chế Byzantine, đế chế này mất quyền kiểm soát hòn đảo vào tay người Ả Rập năm 649 trước khi tái chiếm năm 966. Trong Cuộc Thập tự chinh thứ Ba, năm 1191, Richard I của Anh đã chiếm hòn đảo từ Isaac Komnenos. Ông dùng nó như một căn cứ hậu cần chính khá an toàn khỏi Saracens. Một năm sau Guy của Lusignan mua lại hòn đảo từ Templars để bù cho những thiệt hại của vương quốc của ông. Cộng hoà Venice nắm quyền kiểm soát đảo năm 1489 sau sự thoái vị của Nữ vương Catarina Corner. Bà là vợ goá của James II người là Lusignan Vua Síp cuối cùng. Sử dụng nó như một cổng thương mại quan trọng, người Venice nhanh chóng củng cố Nicosia; thành phố thủ đô hiện tại của Síp, với những Bức tường Venice nổi tiếng. Trong suốt thời cai trị của Venice, Đế chế Osman thường tiến hành những cuộc cướp phá Síp. Năm 1539 quân Osman phá huỷ Limassol và vì lo ngại điều xấu nhất có thể xảy ra, người Venice cũng củng cố Famagusta và Kyrenia. Thời cai trị của Ottoman và Anh Năm 1570, một cuộc tấn công quy mô lớn dưới sự chỉ huy của Piyale Pasha với 60.000 quân đã đưa hòn đảo này về dưới sự thống trị của Đế quốc Thổ Ottoman, dù có sự kháng cự kiên quyết của những người dân Nicosia và Famagusta. 20.000 người Nicosia bị giết hại, và mỗi nhà thờ, mỗi công trình công cộng và cung điện đều bị cướp phá. Người Thổ áp đặt hệ thống millet và cho phép các cơ quan tôn giáo được quản lý các cộng đồng phi Hồi giáo của mình, nhưng cùng lúc ấy đầu tư cho Nhà thờ Chính thống phía Đông như một lực lượng môi giới giữa người Síp Thiên chúa giáo và các cơ quan được trao không chỉ quyền tôn giáo mà cả kinh tế và chính trị.Thuế khoá nặng nề đã dẫn tới những cuộc nổi loạn, với xấp xỉ hai mươi tám cuộc khởi nghĩa đẫm máu diễn ra trong giai đoạn 1572 và 1668, buộc các Sultan phải can thiệp. Cuộc tổng điều tra dân số lớn của Đế quốc Ottoman năm 1831, chỉ tính số đàn ông, cho biết có 14.983 tín đồ Hồi giáo và 29.190 tín đồ Thiên chúa giáo. Tới năm 1872, dân số của hòn đảo đã tăng lên 144.000 gồm 44.000 người Hồi giáo và 100.000 tín đồ Thiên chúa giáo. Bộ máy hành chính, nhưng không có chủ quyền, của hòn đảo bị nhượng lại cho Đế quốc Anh năm 1878 với hậu quả của cuộc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877–1878). Hòn đảo tiếp tục là một căn cứ quân sự quan trọng của người Anh trên những con đường thuộc địa của họ. Tới năm 1906, khi cảng Famagusta được hoàn thành, Síp là một địa điểm hải quân quan trọng giám sát kênh đào Suez, con đường chính chiến lược dẫn tới Ấn Độ khi ấy là thuộc địa quan trọng nhất của Anh. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và sự liên minh của Thổ Nhĩ Kỳ với khối Liên minh Trung tâm, Anh Quốc sáp nhập hòn đảo. Năm 1923, theo Hiệp ước Lausanne, nước Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ mới thành lập từ bỏ bất kỳ yêu sách nào với Síp vào năm 1925 hòn đảo được tuyên bố là một Thuộc địa Hoàng gia Anh. Nhiều người Síp Hy Lạp chiến đấu trong Quân đội Anh trong cả hai cuộc Thế Chiến, với hy vọng rằng cuối cùng Síp sẽ được thống nhất với Hy Lạp. Tháng 1 năm 1950 Nhà thờ Chính thống phương Đông tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý, bị cộng đồng người Síp Thổ Nhĩ Kỳ tẩy chay, theo đó 90% người bỏ phiếu ủng hộ "enosis", có nghĩa là một liên minh với Hy Lạp; tất nhiên cũng có những người Síp Hy Lạp không đồng ý với enosis. Quyền tự trị giới hạn theo một hiến pháp được cơ quan hành chính Anh đưa ra nhưng cuối cùng bị bác bỏ. Năm 1955 tổ chức EOKA được thành lập, tìm kiếm độc lập và liên minh với Hy Lạp thông qua đấu tranh vũ trang. Cùng lúc ấy Tổ chức Kháng chiến Thổ Nhĩ Kỳ (TMT), kêu gọi Taksim, hay sự ly khai, được thành lập bởi những người Síp Thổ Nhĩ Kỳ như một tổ chức đối trọng. Sự hỗn loạn trên hòn đảo bị người Anh dùng vũ lực đàn áp. Độc lập Ngày 16 tháng 8 năm 1960, Síp giành được độc lập sau một thoả thuận tại Zürich và Luân Đôn giữa Anh Quốc, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Người Anh giữ lại hai Vùng Căn cứ quân sự có chủ quyền tại Akrotiri và Dhekelia trong khi các cơ sở chính phủ các văn phòng công cộng được trao theo tỷ lệ thành phần sắc tộc khiến cộng đồng thiểu số Thổ Nhĩ Kỳ có quyền phủ quyết thường trực, 30% trong nghị viện và bộ máy hành chính, và trao cho ba quốc gia bảo lãnh các quyền đảm bảo thực hiện. Năm 1963 bạo lực giữa các cộng đồng bùng phát, một phần được sự bảo trợ của cả hai "nước mẹ" với việc người Síp Thổ Nhĩ Kỳ bị buộc vào sống trong các vùng đất nội địa và lãnh đạo người Síp Hy Lạp Tổng giám mục Makarios III kêu gọi một sự đơn phương thay đổi hiến pháp coi đó là cách thức để giảm căng thẳng và giúp người Hy Lạp có quyền kiểm soát toàn bộ hòn đảo. Liên hiệp quốc tham gia giải quyết vấn đề và các lực lượng Liên hiệp quốc tại Síp (UNICYP) đã được triển khai tại các điểm nhạy cảm. Phân chia Chính phủ quân sự Hy Lạp nắm quyền ở Hy Lạp đầu thập niên 1970 trở nên bất bình với chính sách của Makarios tại Síp và sự thiếu vắng một quá trình hướng tới "Enosis" ('Liên minh' trong tiếng Hy Lạp) với Hy Lạp. Một phần vì lý do này, và một phần bởi sự bối rối với sự chống đối trong nước, hội đồng quân sự đã tổ chức một cuộc đảo chính bại Síp ngày 15 tháng 7 năm 1974. Nikos Sampson được hội đồng quân sự Hy Lạp đưa lên làm tổng thống Síp. Dù là một người theo chủ nghĩa quốc gia, ông đã không tuyên bố liên minh với Hy Lạp và tuyên bố rằng Síp sẽ tiếp tục giữ độc lập và không liên kết. Nhưng chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ không thấy dễ chịu với tình hình thực tế, vì thế họ đã phản ứng và tìm kiếm sự can thiệp của Anh, vốn chưa bao giờ là cụ thể. Bảy ngày sau, ngày 20 tháng 7 năm 1974,Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Síp tuyên bố một quyền, theo các thoả thuận Zurich và Luân Đôn, để can thiệp và tái lập trật tự hiến pháp. Không quân Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu ném bom các vị trí tại Síp, hàng trăm lính dù đổ bộ xuống khu vực giữa Nicosia và Kyrenia, nơi người Síp Thổ Nhĩ Kỳ được trang bị tốt từ lâu đã có mặt, trong khi ngoài bờ biển Kyrenia 30 tàu Thổ Nhĩ Kỳ được bảo vệ bởi các tàu khu trục cho đổ bộ 6,000 lính và một lực lượng xe tăng, xe tải và các phương tiện bọc thép. Ba ngày sau, khi một thoả thuận ngừng bắn đã được đồng thuận, Thổ Nhĩ Kỳ đã cho đổ bộ 30.000 lính trên hòn đảo và chiếm Kyrenia, hành lang nối Kyrenia với Nicosia và quận Síp Thổ Nhĩ Kỳ của Nicosia. Hội đồng quân sự tại Athens và sau đó là Sampson Síp mất quyền lực. Tại Nicosia, Glafkos Clerides nắm quyền tổng thống và trật tự hiến pháp được tái lập; bề ngoài là loại bỏ nguyên nhân người Thổ Nhĩ Kỳ đặt ra cho cuộc xâm lược, dù người Thổ dù đã có nhiều thắng lợi ban đầu như vậy khi đó đã cam kết áp dụng chính sách từ lâu của họ là chia rẽ hòn đảo và sáp nhập miền bắc Síp. Người Thổ sử dụng một giai đoạn với các cuộc đàm phán vờ vĩnh - trong đó Thổ Nhĩ Kỳ được Mỹ ủng hộ về ngoại giao, tình báo - để tăng cường khu vực Kyrenia và chuẩn bị cho giai đoạn thứ hai của cuộc xâm lược, bắt đầu ngày 14 tháng 8 và dẫn tới việc chiếm đóng Morphou, Karpasia, Ammochostos và Mesaoria. Sự can thiệp quân sự của Thổ Nhĩ Kỳ được Hoa Kỳ bí mật ủng hộ và NATO. Người Hy Lạp thông báo sự thành lập của một nhóm bán quân sự EOKA mới nhằm chống lại những kẻ xâm lược nhưng điều này đã cho thấy sự phản tác dụng, khiến việc trục xuất người Hy Lạp khỏi các vùng do Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng càng diễn ra nhanh hơn. Với số lượng thua kém hoàn toàn, các lực lượng Hy Lạp không thể chống lại sự tiến quân của Thổ Nhĩ Kỳ. Vùng Ayia Napa chỉ thoát khỏi sự chiếm đóng nhờ nó nằm sau khu vực Căn cứ có Chủ quyền Anh, nơi người Thổ vì cần thận đã không xâm chiếm. Một quan điểm khác cho rằng cuộc đảo chính đơn giản chỉ có mục đích hạ bệ Tổng giám mục Makarios và chính phủ của ông vì thế các kế hoạch của Henry Kissinger về Síp có thể được thực hiện. Ioannides [lãnh đạo hội đồng quân sự Hy Lạp] đã nói rằng... ông không chắc liệu mình chỉ đơn giản có thể rút quân Hy Lạp khỏi Síp... hay dứt khoát lật đổ Makarios và để Hy Lạp thoả thuận trực tiếp với Thổ Nhĩ Kỳ về tương lai của Síp. (The trial of Henry Kissinger By Christopher Hitchens, 2002, p.82.) Áp lực quốc tế dẫn tới một cuộc ngừng bắn và ở thời điểm đó 37% đất đai đã thuộc trong vùng chiếm đóng Thổ Nhĩ Kỳ, 170.000 người Síp Hy Lạp bị đuổi khỏi nhà cửa ở miền bắc và 50.000 người Síp Thổ Nhĩ Kỳ phải ra đi theo hướng ngược lại. Năm 1983 người Síp Thổ Nhĩ Kỳ đơn phương tuyên bố độc lập, và chỉ được mỗi Thổ Nhĩ Kỳ công nhận. Tới thời điểm hiện tại, có 1,534 người Síp Hy Lạp và 502 người Síp Thổ Nhĩ Kỳ mất tích vì cuộc xung đột. Các sự kiện trong mùa hè năm 1974 là trọng tâm chính trị trên hòn đảo, cũng như quan hệ Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ. Khoảng 150.000 người định cư từ Thổ Nhĩ Kỳ được cho là đang sống trên miền bắc vi phạm vào Hiệp ước Genève và nhiều nghị quyết của Liên hiệp quốc . Sau cuộc xâm lược và chiếm đóng lãnh thổ miền bắc của Thổ Nhĩ Kỳ, Cộng hoà Síp thông báo toàn bộ cảng vào ở miền bắc bị đóng cửa, bởi thực tế chúngkhông nằm trong quyền quản lý của họ. Lịch sử gần đây Bởi sự phân chia của nền Cộng hoà diễn ra trên thực tế, chứ không phải về mặt pháp lý, miền bắc và miền nam đã đi theo những con đường khác nhau. Cộng hoà Síp là một chế độ dân chủ lập hiến đã đạt tới mức độ giàu có cao, với nền kinh tế bùng nổ và cơ sở hạ tầng tốt. Nó là một thành viên của Liên hiệp quốc, Liên minh châu Âu và nhiều tổ chức quốc tế khác và được các tổ chức này công nhận như chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn bộ hòn đảo. Vùng không thuộc quyền quản lý của Cộng hoà Síp, Bắc Síp, phụ thuộc vào sự giúp đỡ từ Thổ Nhĩ Kỳ. Nỗ lực lớn cuối cùng nhằm giải quyết cuộc tranh cãi Síp là Kế hoạch Annan. Nó được người Síp Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ nhưng nó bị phản đối bởi người Síp gốc Hy Lạp. Tháng 7 năm 2006, hòn đảo trở thành một thiên đường an toàn cho những người Liban tị nạn vì cuộc xung đột giữa Israel và Hezbollah. Tháng 3 năm 2008, một bức tường từng đứng hàng thập kỷ như biên giới giữa vùng do người Síp Hy Lạp quản lý và vùng đệm của Liên hiệp quốc đã bị phá bỏ. Bức tường từng cắt ngang qua Phố Ledra tại trung tâm Nicosia và được coi như một biểu tượng mạnh mẽ của sự phân chia hòn đảo kéo dài 32 năm. Ngày 3 tháng 4 năm 2008, Phố Ledra được mở cửa với sự hiện diện của các quan chức Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Chính phủ Síp là một nền cộng hoà Tổng thống. Lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo chính phủ là Tổng thống, tổng thống được bầu qua một quá trình phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ năm năm. Quyền hành pháp do chính phủ đảm nhiệm và quyền lập pháp thuộc Nghị viện trong khi nhánh Tư pháp độc lập với cả nhánh lập pháp và hành pháp. Hiến pháp năm 1960 quy định một hệ thống chính phủ tổng thống với các nhánh hành pháp, lập pháp và tư pháp riêng biệt, cũng như một hệ thống kiểm tra và cân bằng phức tạp, gồm một tỷ lệ chia sẻ quyền lực đã được tính trước để bảo vệ các quyền lợi của người Síp Thổ Nhĩ Kỳ. Nhánh hành pháp, do một Tổng thống Síp Hy Lạp và một Phó tổng thống Síp Thổ Nhĩ Kỳ đứng đầu. Hai người này được các cộng đồng của mình bầu lên với nhiệm kỳ năm năm và mỗi người đều có quyền phủ quyết với một số kiểu quyết định hành pháp và lập pháp. Quyền lập pháp thuộc Nghị viện, với các đại biểu cũng được bầu lên trên căn bản đầu phiếu. Từ năm 1964, sau những cuộc xung đột giữa hai cộng đồng, các ghế của người Síp Thổ Nhĩ Kỳ trong nghị viện bị bỏ trống. Người Síp Thổ Nhĩ Kỳ từ chối thành lập bộ nội vụ trước cuộc xâm lược Síp trong nỗ lực nhằm phân chia Cộng hoà Síp về pháp lý. Điều này là rõ ràng trong báo cáo của Tổng thư ký Liên hiệp quốc ở thời điểm ấy. Các lãnh đạo người Síp Thổ Nhĩ Kỳ đã gia nhập vào một lập trường cứng rắn chống lại mọi biện pháp có thể khiến các thành viên của hai cộng đồng sống và làm việc cùng nhau, hay có thể đặt người Síp Thổ Nhĩ Kỳ vào các tình huống theo đó họ sẽ phải chấp nhận quyền lực của các cơ quan chính phủ. Quả thực, bởi giới lãnh đạo người Síp Thổ Nhĩ Kỳ cam kết coi sự chia rẽ về địa lý và tự nhiên giữa các cộng đồng như một mục tiêu chính trị, dường như các hành động được người Síp Thổ Nhĩ Kỳ khuyến khích khó có thể được coi là sự thể hiện các dấu hiệu của một chính sách mới. Kết quả dường như là một chính sách tự chia rẽ một cách thận trọng của người Síp Thổ Nhĩ KỳNăm 1974 Síp bị phân chia trên thực tế thành Síp do người Hy Lạp kiểm soát ở hai phần ba hòn đảo ở phía nam và một phần ba diện tích do Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát ở phía bắc. Người Síp Thổ Nhĩ Kỳ cuối cùng đã tuyên bố độc lập năm 1983 trở thành Cộng hoà Bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng chỉ được mỗi Thổ Nhĩ Kỳ công nhận. Năm 1985, Cộng hoà Bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ đưa ra một hiến pháp và tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên. Liên hiệp quốc công nhận chủ quyền của Cộng hoà Síp với toàn bộ hòn đảo Síp. Nghị viện hiện có 59 thành viên được bầu với nhiệm kỳ năm năm, 56 thành viên theo đại diện tỷ lệ và ba thành viên quan sát viên đại diện cho các cộng đồng người Maronite, Latin và Armenia. 24 ghế được chia cho cộng đồng Thổ Nhĩ Kỳ nhưng vẫn bị để trống từ năm 1964. Môi trường chính trị chủ yếu là cuộc tranh giành giữa Đảng Tiến bộ của Tầng lớp Lao động (AKEL) Cộng sản và Đảng Tự do dân chủ bảo thủ vàphái trung dung Đảng Dân chủ, Dân chủ Xã hội Phong trào Dân chủ Xã hội (EDEK) và EURO.KO trung dung. Ngày 17 tháng 2 năm 2008 Dimitris Christofias thuộc Đảng Tiến bộ của Tầng lớp Lao động được bầu làm Tổng thống Síp và đây là thắng lợi bầu cử đầu tiên không phải thuộc một liên minh lớn. Điều này khiến Síp trở thành một trong ba quốc gia duy nhất trên thế giới đã từng có một chính phủ Cộng sản được bầu cử dân chủ, hai nước kia là Moldova và Nepal, và là quốc gia thành viên Liên minh châu Âu duy nhất đã từng nằm dưới sự lãnh đạo của phái Cộng sản. Christofias tiếp nhận chính phủ từ Tassos Papadopoulos thuộc Đảng Dân chủ ông đã nắm chức vụ này từ tháng 2 năm 2003. Tuy nhiên, do những hậu quả nặng nề mà Christofias gây ra trong cuộc khủng hoảng kinh tế tại Síp 2012-13, ông đã không ra tranh cử lần 2 và nhiệm kỳ sau (2013), Nicos Anastasiades thuộc Đảng Dân chủ đã lên nắm quyền và được tái cử và nắm giữ chức Tổng thống cho đến nay. Quận Cộng hoà Síp được chia thành sáu quận: Nicosia, Famagusta, Kyrenia, Larnaca, Limassol và Paphos. Lãnh thổ phụ thuộc ở bên ngoài và vùng đất thuộc nước ngoài Síp có bốn vùng đất phụ thuộc ở bên ngoài, và toàn bộ lãnh thổ thuộc Khu vực Căn cứ có Chủ quyền Anh Dhekelia. Hai vùng đầu tiên là các làng Ormidhia và Xylotymvou. Vùng thứ ba là Trạm điện Dhekelia, bị ngăn cách bởi một con đường của Anh làm hai phần. Phần phía bắc là một vùng phụ thuộc ở bên ngoài, giống như hai làng trên, trong khi vùng phía nam nằm cạnh biển và vì thế không phải là một vùng đất phụ thuộc ở bên ngoài, dù nó không có lãnh hải riêng. Vùng đệm Liên hiệp quốc chạy ngược hướng Dhekelia và quay trở lại từ cạnh phía đông của nó bên ngoài Ayios Nikolaos, nối với phần còn lại của Dhekelia bằng một hành lang đất, và theo hướng này vùng đệm quay về góc phía đông nam của hòn đảo, vùng Paralimni, là vùng phụ thuộc ở bên ngoài trên thực tế chứ không phải theo pháp lý. Pyrgos là một vùng đất phụ thuộc nước ngoài trên thực tế của vùng do chính phủ kiểm soát trên hòn đảo. Đây là thị trấn Hy Lạp Síp nằm trên Vịnh Morphou do Chính phủ Bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát. Nhân quyền Sự lưu ý thường xuyên trên sự phân chia hòn đảo thỉnh thoảng đội lốt những vấn đề nhân quyền. Mại dâm lan tràn trên cả vùng do Hy Lạp và vùng do Thổ Nhĩ Kỳ kiểm soát, và vùng phía nam do Hy Lạp kiểm soát đã bị chỉ trích vì vai trò của nó trong ngành thương mại sex như một trong những con đường buôn người từ Đông Âu. Chế độ ở phía bắc thỉnh thoảng bị chỉ trích về vấn đề tự do ngôn luận liên quan tới việc đối xử nghiêm khắc với các tổng biên tập báo. Luật pháp về bạo lực gia đình tại nước Cộng hoà vẫn hầu như không được áp dụng, và nó vẫn chưa được thông qua thành luận ở phía Bắc. Các báo cáo về sự đối xử không thích đáng với nhân viên nội địa, chủ yếu là những công nhân nhập cơ từ các nước đang phát triển, thỉnh thoảng được thông báo trên báo chí Síp Hy Lạp, và là chủ đề của nhiều chiến dịch của các tổ chức từ thiện chống phát xít KISA. Quân đội Vệ binh Quốc gia Síp là lực lượng quân sự chính của Cộng hoà Síp ở phía Nam. Đây là lực lượng quân đội hỗn hợp gồm toàn bộ người Hy Lạp, với các nhánh bộ binh, không quân và hải quân. Các lực lượng trên bộ của Vệ binh Quốc gia Síp gồm các đơn vị sau: Sư đoàn Bộ binh số 1 (Ιη Μεραρχία ΠΖ) Sư đoàn Bộ binh số 2 (ΙΙα Μεραρχία ΠΖ) Lữ đoàn Bộ binh số 4 (ΙVη Ταξιαρχία ΠΖ) Lữ đoàn Thiết giáp số 20 (ΧΧη ΤΘ Ταξιαρχία) Lữ đoàn Hỗ trợ số 3 (ΙΙΙη Ταξιαρχία ΥΠ) Lữ đoàn Hỗ trợ số 8 (VIIIη Ταξιαρχία ΥΠ) Lực lượng không quân gồm Phi đội Trực thăng Tấn công số 449 (449 ΜΑΕ) - với những chiếc SA-342L và Bell 206 và Phi đội Trực thăng Tấn công số 450 (450 ME/P) - với những chiếc Mi-35P, BN-2B và PC-9. Các sĩ quan cao cấp hiện tại gồm Tư lệnh Tối cao, Vệ binh Quốc gia Síp: Trung tướng Konstantinos Bisbikas, Phó tư lệnh, Vệ binh Quốc gia Síp: Trung tướng Savvas Argyrou và Tham mưu trưởng, Vệ binh Quốc gia Síp: Thiếu tướng Gregory Stamoulis. Kinh tế Síp thực hiện nền kinh tế thị trường tự do dựa chủ yếu vào các ngành dịch vụ đặc biệt là du lịch. Trước đây nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, thu hút 1/3 lực lượng lao động, nông sản xuất khẩu chiếm 1/3 giá trị xuất khẩu của Síp, nhưng những năm gần đây du lịch và dịch vụ dần dần chiếm vị trí quan trọng hơn, đóng góp đến 78% GDP và thu hút hơn 70% lực lượng lao động của Síp. Nền công nghiệp Síp nhỏ bé, chủ yếu là công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng như dệt, giày dép, may mặc xuất khẩu, chế biến nông lâm sản...Năm 2007, Síp đã thu hút nhiều vốn đầu tư chiếm hơn 20,8% GDPlàm tăng thêm nguồn ngân sách đến 9,996 tỷ USD. Năm 2016, Tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Síp là 19.931 tỷ USD tính theo qui đổi, với tỷ lệ tăng trưởng GDP thực 3,6%, thu nhập tính theo đầu người là 35,750 USD (2016). Tỷ lệ lạm phát là 5,1% (2008); tỷ lệ thất nghiệp là 3.8% (2008), nợ nước ngoài 26,12 tỷ USD (31/12/2007). Síp có quan hệ kinh tế – thương mại chủ yếu với các nước EU, Đông Bắc Á (Hàn Quốc, Nhật Bản). Kinh tế Síp khá thịnh vượng và đã được đa dạng hoá trong những năm gần đây. Theo các ước tính mới nhất của IMF, GDP trên đầu người của nước này (đã được điều chỉnh theo sức mua) ở mức $28.381, ở trên mức trung bình của Liên minh châu Âu. Síp đã được lựa chọn là một cơ sở cho nhiều doanh nghiệp nước ngoài bởi cơ sở hạ tầng phát triển cao. Chính sách kinh tế của Chính phủ Síp chú trọng tới việc đạt các tiêu chí cho việc gia nhập Liên minh châu Âu. Chấp nhận đồng euro làm tiền tệ quốc gia như yêu cầu với mọi quốc gia mới gia nhập Liên minh châu Âu, và chính phủ Síp đã chấp nhận đồng tiền tệ mới ngày 1 tháng 1 năm 2008. Dầu mỏ gần đây đã được phát hiện trên thềm lục địa giữa Síp và Ai Cập, và những cuộc đàm phán đang được tiến hành giữa Liban và Ai Cập để đạt tới một thoả thuận khai thác các nguồn tài nguyên đó. Thềm lục địa chia tách Liban và Síp được cho là có trưc lượng dầu thô và khí tự nhiên lớn. Tuy nhiên, Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ không cho phép việc khai thác dầu khí trong vùng. Kinh tế khu vực do Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng (thực tế là Quận Mersin) chủ yếu gồm các lĩnh vực dịch vụ, gồm lĩnh vực công, thương mại, du lịch và giáo dục với các khu vực nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhỏ. Kính tế hoạt động trên cơ sở thị trường tự do, dù nó tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự cô lập chính trị của người Síp Thổ Nhĩ Kỳ, sự thiếu hụt đầu tư tư nhân và chính phủ, chi phí vận chuyển cao, và thiếu hụt nguồn lao động có tay nghề. Dù có những trở ngại như vậy, nền kinh tế đã hoạt động tốt trong giai đoạn 2003 và 2004, với các tỷ lệ phát triển cao 9.6% và 11.4%. Thu nhập trung bình trong khu vực đạt $15.984 năm 2008. Sự tăng trưởng được hỗ trợ một phần bởi sự ổn định vững chắc của đồng lira mới Thổ Nhĩ Kỳ và bởi sự tăng trưởng mạnh trong lĩnh vực giáo dục và xây dựng. Hòn đảo đã chứng kiến một cuộc bùng nổ du lịch trong nhiều năm và cùng với đó là sự thịnh vượng của thị trường cho thuê của Síp. Ngoài ra sự tăng trưởng tư bản trong mức độ thịnh vượng được tạo ra do nhu cầu của các nhà đầu tư tới đây và những người dân ngày càng giàu lên trên hòn đảo. Nhân khẩu Theo cuộc điều tra dân số đầu tiên sau khi tuyên bố độc lập, được tiến hành tháng 12 năm 1960 và ở trên phạm vi toàn bộ hòn đảo, Síp có tổng dân số 573.566 người, với người Síp gốc Hy Lạp chiếm 77% dân số và người Síp Thổ Nhĩ Kỳ chiếm 18% (người sắc tộc khác chiếm 5% còn lại). Theo cuộc điều tra dân số gần nhất tiến hành trên toàn bộ hòn đảo (tháng 4 năm 1973), dân số Síp là 631.778 với ước tính người Síp Thổ Nhĩ Kỳ chiếm 19% tổng số (khoảng 120.000). Các cuộc điều tra dân số sau này tiến hành trong giai đoạn 1976-2001 sau sự phân chia trên thực tế của hòn đảo với chỉ số người sống trong vùng thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ Cộng hoà Síp, số người Síp Thổ Nhĩ Kỳ sống ở miền Bắc Síp theo ước tính của Sở Thống kê Cộng hoà Síp theo các tỷ lệ tăng trưởng dân số và dữ liệu nhập cư. Trong cuộc điều tra dân số cuối cùng năm 2001 do Cộng hoà Síp tiến hành, dân số tại vùng chính phủ kiểm soát là 703.529 người. Số người Síp Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Bắc Síp được Sở Thống kê Cộng hoà Síp đưa ra là 87.600 người, hay 11% tổng dân số được công bố. Những ước tính gần nhất của Sở Thống kê Síp cho rằng dân số hòn đảo này ở thời điểm cuối năm 2006 là 867.600 người, với 89.8% (778.700) ở vùng do chính phủ kiểm soát và 10.2% (88.900) người Síp Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Bắc Síp. Tuy nhiên, ước tính của Cộng hoà Síp về số người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ không phản ánh tổng số dân của miền Bắc Síp. Ngoài ra, Sở Thống kê Cộng hoà Síp cũng ước tính rằng 150.000-160.000 người nhập cư Thổ Nhĩ Kỳ (được gọi là "người định cư trái phép" trong Bản tóm tắt thống kê năm 2007 của Cộng hoà Síp, Ghi chú tại tr. 72) đang sống ở miền Bắc Síp, đưa số dân trên thực tế của miền Bắc Síp lên khoảng 250.000 người. Ước tính do Cộng hoà Síp đưa ra khớp với các kết quả cuộc điều tra dân số năm 2006 do 'chính phủ' Bắc Síp tiến hành, theo đó tổng dân số Cộng hoà Bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ là 265.100 người. Vì thế tổng dân số Síp hơi lớn hơn 1 triệu người, gồm 778.700 người ở vùng lãnh thổ do chính phủ Cộng hoà Síp kiểm soát và 265.100 người tại vùng lãnh thổ do chính phủ Cộng hoà Bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ quản lý. Síp đã chứng kiến một làn sóng lớn người lao động nhập cư từ các quốc gia như Thái Lan, Philippines, và Sri Lanka, cũng như số lượng lớn người cư trú thường xuyên thuộc các quốc tịch Nga, Anh và các quốc gia Liên minh châu Âu khác. Các cộng đồng người Nga và Ukraina khá lớn (chủ yếu là người Hy Lạp Hắc Hải, nhập cư sau sự sụp đổ của Khối Đông Âu), Bulgaria, România, và các quốc gia Đông Âu. Tới cuối năm 2007, khoảng 124.000 người nhập cư định cư tại Síp, ba nhóm người nhập cư lớn nhất là 37.000 người Hy Lạp, 27.000 người Anh, và 10.000 người Nga. Hòn đảo cũng là nơi sinh sống của một cộng đồng thiểu số người Maronite 6.000 người, một cộng đồng người Armenia khoảng 2.000 người, và những người tị nạn chủ yếu đến từ Serbia, Palestine, và Liban. Cũng có một cộng đồng thiểu số người Kurd tại Síp. Bên ngoài Síp có một cộng đồng khá lớn và thịnh vượng người Síp gốc Do thái tại các quốc gia khác. Hoa Kỳ, Anh Quốc, Hy Lạp và Australia là những nước tiếp đón đa số người di cư rời bỏ hòn đảo sau khi nó bị phân chia trên thực tế năm 1974. Đặc biệt tại Anh Quốc ước tính có 150.000 người Síp. Tôn giáo Đa số người Síp gốc Hy Lạp là thành viên của Giáo hội Chính thống Hy Lạp, trong khi hầu hết người Síp Thổ Nhĩ Kỳ là tín đồ Hồi giáo. Theo Eurobarometer 2005, Síp là một trong những quốc gia có số dân theo tôn giáo đông nhất tại Liên minh châu Âu, cùng với Malta, Romania, Hy Lạp và Ba Lan. Thậm chí Tổng thống đầu tiên của Síp, Makarios III, còn là một tổng giám mục. Đây cũng là một trong năm nước duy nhất của Liên minh châu Âu có tôn giáo chính thức của nhà nước, (Giáo hội Chính thống Síp, bốn quốc gia kia là Malta, Hy Lạp, Đan Mạch và Anh Quốc Anh giáo. Ngoài các cộng đồng Chính thống giáo và Hồi giáo, còn có các cộng đồng Bahá'í, Do Thái, Tin lành (gồm cả Pentecostal), Công giáo Rôma, Giáo hội nghi thức Maronite (Nghi thức Kitô giáo phía Đông) và Tông truyền Armenia nhỏ tại Síp. Giáo dục Síp có hệ thống giáo dục tiểu học và trung học phát triển cao với cả hệ thống giáo dụng công và tư nhân. Chất lượng cao của nền giáo dục có được nhờ trình độ trên mức trung bình của các giáo viên những cũng bởi thực tế gần 7% GDP được chi cho giáo dục khiến Síp là một trong ba nước chi tiêu nhiều nhất cho giáo dục trong EU cùng Đan Mạch và Thuỵ Điển. Các trường công nói chung được xem có cùng chất lượng như các cơ sở giáo dục tư nhân. Tuy nhiên, giá trị của bằng cấp trung học nhà nước bị hạn chế bởi thực tế các bằng cấp có được chỉ chiếm khoảng 25% điểm số cuối cùng của mỗi môn, 75% còn lại do giáo viên quyết định trong học kỳ, theo một cách ít công khai nhất. Các trường đại học Síp (giống như các trường đại học Hy Lạp) hầu như bỏ qua toàn bộ giá trị bằng cấp trung học trong việc tiếp nhận. Tuy một bằng trung học chỉ là bắt buộc khi vào trường đại học, việc tiếp nhận được quyết định hầu như chỉ trên cơ sở điểm số tại các cuộc thi đầu vào trường đại học mà mọi ứng cử viên đều bị bắt buộc phải tham gia. Đa số người Síp theo học trung học tại Hy Lạp, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ, các trường đại học châu Âu và Bắc Mỹ. Cần lưu ý rằng hiện tại Síp có tỷ lệ phần trăm công dân ở tuổi lao động có trình độ trung học cao ở EU với 30% trước cả Phần Lan 29.5%. Ngoài ra 47% dân số trong độ tuổi 25–34 có bằng cấp ba, cao nhất tại EU. Sinh viên Síp rất chịu khó di chuyển, với 78.7% đang học tại một trường đại học bên ngoài Síp. Các trường cao đẳng tư và các trường đại học được nhà nước hỗ trợ đã được phát triển. Đại học Síp: thành lập năm 1989 Đại học Kỹ thuật Síp: bắt đầu năm 2007 Đại học châu Âu - Síp: thành lập năm 1961 với tên gọi Trường cao đẳng Síp và đổi tên năm 2007 Đại học Nicosia: thành lập năm 1981 trước kia gọi là Intercollege; nó đổi thành tên hiện tại năm 2007. Tổng cộng có 5,000 sinh viên tại các cơ sở ở Nicosia, Limassol và Larnaca Đại học Frederick Viện hàn lâm nghệ thuật Síp: thành lập năm 1995. Cao đẳng nghệ thuật Síp: thành lập năm 1969. Con số sinh viên từ nước ngoài cũng gia tăng. Văn hoá Nghệ thuật Lịch sử nghệ thuật Síp có thể được truy nguồn gốc từ 10.000 năm trước, sau sự phát hiện một loạt hình ảnh khắc thời Chalcolithic tại các làng ở Khoirokoitia và Lempa, , và hòn đảo này cũng là quê hương của nhiều tranh thần tượng nghệ thuật cao từ thời Trung Cổ. Âm nhạc Âm nhạc dân gian truyền thống Síp có nhiều điểm chung với âm nhạc dân gian Hy Lạp, gồm các điệu nhảy như sousta, syrtos, zeibekikos, tatsia, và kartsilamas. Các nhạc cụ gắn liền với âm nhạc dân gian Síp là violin ["fkiolin"], đàn luýt ["laouto"], accordion, và sáo Síp "pithkiavlin". Cũng có một hình thức thơ âm nhạc được gọi là "chattista", thường được trình diễn tại các lễ hội và sự kiện truyền thống. Các nhà soạn nhạc gắn liền với âm nhạc truyền thống Síp gồm Evagoras Karageorgis, Marios Tokas, Solon Michaelides, Savvas Salides. Nhạc Pop tại Síp nói chung bị ảnh hưởng bởi nhạc pop "Laïka" Hy Lạp, với nhiều nghệ sĩ như Anna Vissi và Evridiki nổi tiếng rộng rãi. Nhạc rock Síp và nhạc rock "Éntekhno" thường gắn liền với các nghệ sĩ như Michalis Hatzigiannis và Alkinoos Ioannidis. Metal cũng có nhiều khán giả tại Síp, được thể hiện bởi các ban nhạc như Armageddon, Winter's Verge, RUST and Blynd Rev. 16:16. Văn học Các tác phẩm văn học thời cổ gồm Cypria, một loại thơ sử thi có lẽ được sáng tác ở cuối thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên và gắn với tên tuổi Stasinus. Ẩm thực Phó mát Halloumi hay Hellim có nguồn gốc ở Síp và lần đầu tiên được sản xuất thời Trung Cổ Byzantine, sau đó trở nên nổi tiếng ở toàn bộ Trung Đông. Halloumi thường được ăn với các miếng mỏng, tươi hay nước, như một món khai vị. Hải sản và các món cá của Síp gồm mực ống, bạc tuộc, cá đối đỏ, và cá vược biển. Dưa chuột và cà chua được sử dụng nhiều làm salad. Các món rau thông thường gồm khoai tây với dầu olive và mùi tây, súp lơ ngâm rượu và củ cải đường, măng tây và kolokassi. Các đồ đặc sản khác của hòn đảo là thịt ướp trong rau mùi khô, các loại hạt và rượu, và cuối cùng là các loại thực phẩm khô và hun khói, như lountza (thăn lợn hun khói), thịt cừu nướng than, souvlaki (thịt lợn và thịt gà nướng than), và sheftalia / seftali (thịt băm gói trong màng treo ruột). Pourgouri (bulgur, lúa mì xay) là món ăn carbohydrate truyền thống cùng bánh mì. Các loại rau củ tươi là sản phẩm thường thấy trong ẩm thực Síp. Các loại rau thường được sử dụng là bí xanh, hạt tiêu xanh, okra, đậu xanh, artichoke, cà rốt, khoai tây, dưa chuột, lá rau diếp và lá nho, và bột đậu, đậu hà lan, black-eyed bean, đậu xanh và đậu lăng. Các loại trái cây và quả thường gặp nhất là lê, táo, nho, cam, quýt, xuân đào, sơn trà, mâm xôi, anh đào, dâu tây, vả, dưa hấu, dưa, lê tàu, chanh, hồ trăn, quả hạnh, hạt dẻ, óc chó, hazelnut. Thể thao Các cơ quan quản lý thể thao tại Síp gồm Hiệp hội Ô tô Síp, Liên đoàn Bóng bàn Síp, Liên đoàn Bóng rổ Síp, Liên đoàn Cricket Síp, Liên đoàn Bóng đá Síp, Liên đoàn Rugby Síp và Liên đoàn Bóng chuyền Síp. Marcos Baghdatis là một trong những vận động viên tennis thành công nhất của Síp trên đấu trường quốc tế. Ông là người có mặt trong trận chung kết Australian Open năm 2006, và đã vào tới vòng bán kết Wimbledon cùng năm ấy. Tương tự Kyriakos Ioannou là một vận động viên nhảy cao người Síp sinh tại Limassol và đã đạt thành tích 2.35 m tại IAAF World Championships in Athletics lần thứ 11 được tổ chức tại Osaka, Nhật Bản, năm 2007 đoạt huy chương đồng. Bóng đá là môn thể thao được ưa chuộng nhất. Các đội bóng nổi tiếng gồm AEL Limassol, APOLLON FC, Anorthosis Famagusta FC, AC Omonia, Apollon Ladies, Nea Salamina Famagusta, AEK Larnaca và APOEL Nicosia FC. Các sân vận động hay các địa điểm thi đấu thể thao tại Síp gồm Sân vận động GSP (lớn nhất tại Síp), Sân vận động Makario, Sân vận động Neo GSZ, Sân vận động Antonis Papadopoulos, Sân vận động Ammochostos và Sân vận động Tsirion. Cyprus Rally cũng là sự kiện xuất hiện trên lịch thi đấu của World Rally Championship. Truyền thông Các tờ báo gồm Phileleftheros, Politis (Síp), Simerini, Cyprus Mail, Cyprus Observer, Famagusta Gazette, Cyprus Today, Cyprus Weekly, Financial Mirror, Haravgi, Makhi và Kathimerini (trong một ấn bản đặc biệt Síp). Các kênh TV gồm ANT1 Cyprus, Alfa TV, CNC Plus TV, Cyprus Broadcasting Corporation, Lumiere TV, Middle East Television, Mega Channel Cyprus và Sigma TV. Tiền đúc Tại Síp, đồng euro được giới thiệu năm 2008. Ba thiết kế khác nhau đã được lựa chọn cho các đồng xu của Síp. Để kỷ niệm sự kiện này, một đồng tiền xu €5 cho mục đích sưu tập đã được phát hành. Đông xu này là một di sản của đồng tiền xu kỷ niệm vàng và bạc quốc gia cũ từng được lưu hành. Không giống những lần phát hành bình thường, các đồng xu này không được sử dụng hợp pháp tại eurozone; vì nó không thể sử dụng ở bất kỳ quốc gia nào khác ngoài Síp. Hạ tầng Vận tải Công ty Đường sắt Chính phủ Síp đã ngừng hoạt động ngày 31 tháng 12 năm 1951, các phương thức vận tải khác là đường bộ, đường sắt và đường không. Trong số đường bộ tại vùng Síp Hy Lạp năm 1998, được trải nhựa, và không trải nhựa. Ở thời điểm năm 1996 vùng Síp Thổ Nhĩ Kỳ có tỷ lệ đường trải nhựa và không trải nhựa tương tự, với xấp xỉ đường trải nhựa và chưa trải nhựa. Síp là một trong bốn quốc gia Liên minh châu Âu duy nhất theo đó các phương tiện lưu thông theo phía bên trái đường, một tàn tích của sự thuộc địa hoá Anh, các quốc gia kia là Ireland, Malta và Anh Quốc.Đường cao tốc A1 Nicosia tới Limassol A2 nối A1 gần Pera Chorio với A3 ở Larnaca A3 Larnaca tới Agia Napa A5 nối A1 gần Kofinou với A3 ở Larnaca A6 Pafos tới Limassol A9 Nicosia tới Astromeritis Năm 1999, Síp có sáu sân bay trực thăng và hai sân bay quốc tế: Sân bay Quốc tế Larnaca và Sân bay Quốc tế Paphos. Sân bay Quốc tế Nicosia đã bị đóng cửa từ năm 1974 và dù sân bay Ercan vẫn hoạt động nó chỉ đón những chuyến bay từ Thổ Nhĩ Kỳ. Từ năm 2006 Sân bay Quốc tế Ercan đã được đề cập tới trong những cuộc đàm phán giữa Anh, Hoa Kỳ và EU cho những đường bay thẳng, với việc mở cửa trừng phát của EU, tuy nhiên những chuyến bay thẳng quốc tế trực tiếp vẫn chưa thể diễn ra. Vận tải công cộng tại Síp bị hạn chế bởi các dịch vụ bus tư nhân (ngoại trừ Nicosia), taxi, và dịch vụ taxi 'chia sẻ' (ở địa phương được gọi là taxi dịch vụ). Sở hữu xe tư nhân trên đầu người đứng thứ 5 thế giới. Năm 2006 những kế hoạch lớn đã được thông báo nhằm cải thiện và mở rộng dịch vụ xe bus và tái cấu trúc vận tải công cộng trên khắp Síp, với sự hỗ trợ tài chính của Ngân hàng Phát triển Liên minh châu Âu. Các cảng chính của hòn đảo là Cảng Limassol và cảng Larnaca, với hoạt động vận chuyển hàng hoá, hành khách, và tàu du lịch. Chăm sóc y tế Các bệnh viện đô thị gồm: Nicosia New General Hospital Nicosia Old General Hospital Makario Hospital (Nicosia) Limassol New General Hospital Limassol Old General Hospital Larnaca New General Hospital Larnaca Old General Hospital Paphos General Hospital Famagusta New General Hospital Deryneia Viễn thông Cyta, công ty viễn thông thuộc sở hữu nhà nước, điều hành hầu hết các kết nối viễn thông và Internet trên hòn đảo. Tuy nhiên, cùng với sự tự do hoá gần đây trong lĩnh vực này, một vài công ty viễn thông tư nhân đã xuất hiện gồm MTN, Cablenet, TelePassport, OTEnet Telecom và PrimeTel. Thành viên tổ chức quốc tế Đảo quốc Síp là thành viên của: Australia Group, Khối thịnh vượng chung, Hội đồng châu Âu, CFSP, EBRD, Ngân hàng Đầu tư châu Âu, EU, FAO, IAEA, IBRD, ICAO, Phòng Thương mại Quốc tế, Tòa án Hình sự Quốc tế, Liên minh Thương mại Quốc tế, Hiệp hội Phát triển Quốc tế, IFAD, Hội đồng Tài chính Quốc tế, IHO, Tổ chức Lao động Quốc tế, IMF, Tổ chức Thời tiết Quốc tế, Interpol, IOC, Tổ chức Nhập cư Quốc tế, Liên minh Nghị viện, ITU, MIGA, Phong trào Không liên kết, NSG, OPCW, OSCE, PCA, UN, UNCTAD, UNESCO, UNHCR, UNIDO, UPU, WCL, WCO, WFTU, WHO, WIPO, WMO, WToO, WTO. Xếp hạng quốc tế Xem thêm Cộng hoà Bắc Síp Thổ Nhĩ Kỳ Danh sách xếp hạng quốc tế Vùng đệm Liên Hợp Quốc ở Síp Đọc thêm Tham khảo Official Cyprus Government Web Site Embassy of Greece, USA – Cyprus: Geographical and Historical Background Liên kết ngoài Chính phủ Cyprus High Commission Trade Centre - London Cypriot Diaspora Project Republic of Cyprus - English Language Constitution of the Republic of Cyprus Press and Information Office Annan Plan at annanplan.com Chief of State and Cabinet Members Cyprus Elections to European Parliament Thông tin chung Cyprus from UCB Libraries GovPubs'' Cyprus information from the United States Department of State includes Background Notes, Country Study and major reports The UN in Cyprus Xuất bản chính thức The British government's Foreign Affairs Committee report on Cyprus. Letter by the President of the Republic, Mr Tassos Papadopoulos, to the U.N. Secretary-General, Mr Kofi Annan, dated 7 June, which circulated as an official document of the U.N. Security Council Legal Issues arising from certain population transfers and displacements on the territory of the Republic of Cyprus in the period since 20 tháng 7 năm 1974 Address to Cypriots by President Papadopoulos (FULL TEXT) The Republic of Cyprus Press and Information Office, Aspects of the Cyprus Problem Non-affiliated news website focusing mainly on the effect of globalisation and foreign interests on the Cyprus problem European Court of Human Rights Case of Cyprus v. Turkey (Application no. 25781/94) Cộng hòa Thịnh vượng chung Đông Địa Trung Hải Đảo quốc tế Đảo của châu Á Đảo của châu Âu Quốc gia thành viên Ủy hội châu Âu Quốc gia thành viên Liên minh châu Âu Quốc gia thành viên Liên minh Địa Trung Hải Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc Quốc gia Cận Đông Quốc gia Đông Nam Âu
Bosna và Hercegovina (tiếng Bosna, tiếng Croatia, tiếng Serbia chữ Latinh: Bosna i Hercegovina, viết tắt BiH; tiếng Serbia chữ Kirin: Босна и Херцеговина, viết tắt БиХ; , phiên âm: "Bốt-xi-nha và Héc-sê-gô-vi-na") là một quốc gia tại Đông Nam Âu, trên bán đảo Balkan. Nước này giáp biên giới với Croatia ở phía bắc, tây và nam, Serbia ở phía đông, và Montenegro ở phía nam, Bosna và Hercegovina là một quốc gia hầu như nằm kín trong lục địa, ngoại trừ 26 km bờ biển Adriatic, tại trên thị trấn Neum. Vùng nội địa là núi non ở trung tâm và phía nam, đồi ở phía tây bắc và bằng phẳng ở phía đông bắc. Bosna là vùng địa lý lớn nhất của nhà nước hiện đại với khí hậu lục địa ôn hoà, với mùa hè nóng và mùa đông lạnh, có tuyết. Hercegovina nhỏ hơn ở mũi cực nam đất nước, với khí hậu và địa hình Địa Trung Hải. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Bosna và Hercegovina rất phong phú. Nước này là quê hương của ba sắc tộc "hợp thành": người Bosna, nhóm dân số đông nhất, với người Serb đứng thứ hai và người Croat đứng thứ ba. Nếu không tính đến sắc tộc, một công dân Bosna và Hercegovina thường được gọi là một người Bosna. Tại Bosna và Hercegovina, sự phân biệt giữa một người Bosna và một người Hercegovina chỉ được duy trì như sự phân biệt theo vùng, chứ không phải theo sắc tộc. Về chính trị đây là nhà nước phi tập trung và gồm hai thực thể hành chính, Liên bang Bosna và Hercegovina và Republika Srpska, với Quận Brčko như một thực thể thực tế thứ ba. Trước kia là một trong sáu đơn vị liên bang tạo nên Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Nam Tư, Bosna và Hercegovina đã giành được độc lập trong cuộc chiến tranh Nam Tư hồi thập niên 1990. Bosna và Hercegovina có thể được xem như một nhà nước Liên bang Dân chủ Cộng hoà đang chuyển tiếp nền kinh tế sang hệ thống định hướng thị trường, và là một ứng cử viên tiềm năng để trở thành thành viên trong Liên minh châu Âu và NATO. Ngoài ra, Bosna và Hercegovina đã là một thành viên của Hội đồng châu Âu từ ngày 24 tháng 4 năm 2002 và là một thành viên sáng lập của Liên minh Địa Trung Hải khi liên minh này được thành lập vào ngày 13 tháng 7 năm 2008. Lịch sử Thời kỳ Tiền Slav (đến năm 958) Bosna đã có người ở ít nhất từ thời đồ đá mới. Đầu thời đồ đồng, dân cư dồ đá mới bị thay thế bởi sắc tộc hiếu chiến hơn có thể có nguồn gốc Ấn-Âu, người Illyria. Những người Celtic nhập cư ở thế kỷ thứ IV và thế kỷ thứ III trước Công Nguyên đã thay thế người Illyrian trên những mảnh đất của họ, đặc biệt là người Ardiaei và Autariatae, nhưng một số người Celtic và Illyrian đã hòa trộn lẫn nhau, như Latobici, Scordisci, và có thể người Japodes. Bằng chứng lịch sử xác đáng về thời kỳ này khá hiếm, nhưng có lẽ vùng này đã được ở bởi một số bộ tộc khác nhau và nói những thứ tiếng khác nhau. Sự xung đột giữa người Illyrian và La Mã bắt đầu năm 229 TCN, nhưng La Mã chỉ hoàn thành việc sáp nhập vùng này vào năm 9 Công Nguyên. Trong thời Roma, những người định cư nói tiếng La tinh từ khắp Đế chế Roma đã sống cùng với người Illyrian và các chiến binh Roma được khuyến khích ở lại trong vùng. Vùng đất ban đầu là một phần của Illyria cho tới sự chiếm đóng Roma. Sau sự chia rẽ của Đế chế Roma giai đoạn 337 và 395, Dalmatia và Pannonia trở thành những phần của Đế chế Tây Roma. Một số người cho rằng vùng này đã bị những người Ostrogoth chinh phục năm 455. Sau đó nó thay đổi chủ giữa những người Alan và người Huns. Tới thế kỷ thứ VI, Hoàng đế Justinian đã chinh phục vùng này cho Đế chế Byzantine. Người Slav, một bộ tộc từ Đông Âu (hiện là lãnh thổ Ukraina), đã bị chinh phục bởi người Avar ở thế kỷ thứ VI. Bosna thời Trung Cổ (958–1463) Hiểu biết hiện nay về tình hình chính trị ở tây Balkan giai đoạn sơ kỳ Trung Cổ không nhiều và mâu thuẫn. Ngay khi tới nơi, người Slavơ đã mang cùng với họ một cấu trúc xã hội bộ tộc, và nó có thể đã tan rã nhường chỗ cho chế độ phong kiến khi người Frankish tới vùng này hồi cuối thế kỷ 9. Cũng vào khoảng thời gian này người Nam Slavơ đã bị Kitô giáo hóa. Bosna và Hercegovina, vì vị trí địa lý và đất đai, có thể là một trong những vùng cuối cùng trải qua quá trình này, được cho là khởi đầu từ các vùng đô thị dọc theo bờ biển Dalmatia. Các đô thị của Serbia và Croatia chia nhau quyền kiểm soát Bosna và Hercegovina ở thế kỷ 9 và thế kỷ 10, nhưng tới Trung kỳ Trung Cổ tình thế chính trị đã khiến vùng này bị rơi vào tranh chấp giữa Vương quốc Hungary và Đế chế Byzantine. Sau một sự thay đổi quyền lực nữa giữa hai thực thể này hồi đầu thế kỷ 12, Bosna rơi ra ngoài vòng kiểm soát của cả hai và nổi lên thành một nhà nước độc lập dưới sự cai trị của các ban địa phương. Vương triều đáng chú ý đầu tiên của Bosna, Ban Kulin, đã có hoà bình và ổn định trong gần ba thập kỷ và tăng cường phát triển kinh tế quốc gia thông qua các hiệp ước với Dubrovnik và Venice. Sự cầm quyền của ông cũng đánh dấu sự khởi đầu một cuộc tranh cãi với Nhà thờ Bosna, một giáo phái Thiên chúa bản xá bị cả các nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã và Chính thống giáo Serbia coi là dị giáo. Đối đầu với những nỗ lực của người Hungary nhằm sử dụng chính trị nhà thờ trước vấn đề này như một cách thức để tuyên bố chủ quyền với Bosna, Kulin đã tổ chức một hội đồng các lãnh đạo nhà thờ địa phương để bác bỏ sự dị giáo và đi theo Cơ đốc giáo năm 1203. Dù vậy, những tham vọng của Hungary vẫn không thay đổi trong một thời gian dài sau khi Kulin chết năm 1204, chỉ ngừng lại sau cuộc xâm lược bất thành năm 1254. Lịch sử Bosna từ đó cho tới đầu thế kỷ XIV được ghi dấu bởi sự cạnh tranh quyền lực giữa các gia đình Šubić và Kotromanić. Cuộc xung đột này kết thúc năm 1322, khi Stjepan II Kotromanić trở thành ban. Tới khi ông chết năm 1353, ông đã thành công trong việc sáp nhập các lãnh tổ phía bắc và phía tây, cùng như Zahumlje và nhiều phần của Dalmatia. Ông được kế tục bởi người cháu họ Tvrtko, người, sau một cuộc đấu tranh dài với giới quý tộc và những bất hoà giữa các gia đình, đã giành được toàn bộ quyền kiểm soát đất nước năm 1367. Tvrtko tự phong mình làm vua ngày 26 tháng 10 năm 1377 với danh hiệu Stefan Tvrtko I Vua của Rascia, Bosna, Dalmatia, Croatia, Bờ biển. Các nhà sử học cho rằng ông đã làm lễ lên ngôi trong một Nhà thờ Chính thống Serbia là Tu viện Mileševa. Một khả năng khác, do P. Anđelić đưa ra và dựa trên bằng chứng khảo cổ học, rằng ông đã lên ngôi tại Mile gần Visoko trong nhà thờ được xây dựng trong thời cai trị của Stephen II Kotromanić, nơi ông được chôn cất cùng người chú/bác Stjepan II. Tuy nhiên, sau khi ông qua đời năm 1391, Bosna rơi vào một giai đoạn suy tàn kéo dài. Đế chế Ottoman đã khởi động cuộc chinh phục châu Âu của họ và đặt ra mối đe doạ với vùng Balkan trong suốt nửa sau thế kỷ 15. Cuối cùng, sau nhiều thập kỷ bất ổn kinh tế và chính trị, Bosna chính thức sụp đổ năm 1463. Hercegovina tiếp theo năm 1482, với một "Vương quốc Bosna" do Hungary đỡ lưng đầu hàng năm 1527. Thời kỳ Ottoman (1463–1878) Cuộc chinh phục Bosna của Ottoman đã đánh dấu một thời kỳ mới trong lịch sử đất nước và đưa lại những thay đổi lớn trong bối cảnh chính trị và văn hoá trong vùng. Dù vương quốc đã bị đập tan và giới quý tộc cao cấp của nó đã bị hành quyết, những người Ottoman quả thực đã cho phép duy trì thực thể Bosna bằng cách sáp nhập nó trở thành một tỉnh hợp thành của Đế chế Ottoman với tên gọi lịch sử và tính toàn vẹn — một trường hợp duy nhất trong số các quốc gia bị nô dịch ở vùng Balkan. Bên trong sandžak (và cuối cùng là vilayet) này của Bosna, những người Ottoman đã thực hiện một số thay đổi quan trọng về cơ quan hành chính chính trị xã hội; gồm một hệ thống sở hữu đất đai mới, tái cơ cấu các đơn vị hành chính, và hệ thống phân biệt xã hội phức tạp theo tầng lớp và tôn giáo. Bốn thế kỷ cai trị của Ottoman đã để lại dấu ấn mạnh trong thành phần dân số Bosna, nó đã thay đổi nhiều lần sau những cuộc chinh phục của đế quốc, những cuộc chiến tranh thường xuyên với các cường quốc châu Âu, những đợt di cư, những lần bệnh dịch. Một cộng đồng Hồi giáo bản xứ nói tiếng Slavơ đã xuất hiện và cuối cùng trở thành nhóm tôn giáo-sắc tộc lớn nhất (chủ yếu như một kết quả của sự dần gia tăng số lượng người cải đạo theo Hồi giáo), trong khi một số lượng đáng kể người Do thái Sephardi tới đây sau khi họ bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha hồi cuối thế kỷ. Các cộng đồng Thiên chúa giáo Bosna cũng trải qua những thay đổi lớn. Các tín đồ Franciscan Bosna (và tổng thể tín đồ Cơ đốc giáo nói chung) được bảo vệ bởi nghị định chính thức của đế chế. Cộng đồng Chính thống tại Bosna, ban đầu bị hạn chế tại Hercegovina và Podrinje, đã phát triển trong cả nước ở giai đoạn này và có sự thịnh vượng khá cao cho tới thế kỷ 19. Tuy nhiên, Nhà thờ ly giáo Bosna đã hoàn toàn biến mất. Khi Đế chế Ottoman thịnh vượng và mở rộng vào Trung Âu, Bosna thoát khỏi sức ép trở thành tỉnh biên giới và có một giai đoạn bình ổn và thịnh vượng khá dài. Một số thành phố, như Sarajevo và Mostar, được thành lập và phát triển trở thành các trung tâm thương mại và văn hoá lớn của vùng. Bên trong những thành phố đó, nhiều Sultan và các thống đốc cung cấp tài chính cho việc xây dựng nhiều công trình quan trọng của kiến trúc Bosna (như Stari Most và Nhà thờ Hồi giáo Gazi Husrev-beg). Hơn nữa, số lượng người Bosna có ảnh hưởng quan trọng trong văn hoá và chính trị trong thời gian này khá lớn. Các binh sĩ Bosna chiếm một thành phần lớn trong mọi cấp bậc chỉ huy quân sự của Ottoman trong Trận Mohács và chiến trường Krbava, hai thắng lợi quyết định về quân sự, trong khi nhiều người Bosna khác thăng tiến qua các cấp bậc quân sự Ottoman để nắm giữ những vị trí quyền lực cao nhất nhất trong Đế chế, gồm các đô đốc, tướng lĩnh, và đại tư tế. Nhiều người Bosna cũng để lại dấu ấn vĩnh cửu trong văn hoá Ottoman, trở thành các nhân vật thần bí, các học giả, và những nhà thơ nổi tiếng bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Ả Rập, và các ngôn ngữ Ba Tư. Tuy nhiên, tới cuối thế kỷ 17 sự rủi ro quân sự của Đế chế đã gây ảnh hưởng tới đất nước, và sự chấm dứt của cuộc Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ với hiệp ước Karlowitz năm 1699 một lần nữa khiến Bosna trở thành tỉnh cực tây của Đế chế. Một trăm năm sau đó là khoảng thời gian của những thất bại quân sự khác, nhiều cuộc nổi dậy bên trong Bosna, và nhiều vụ bùng phát bệnh dịch. Những nỗ lực của Porte nhằm hiện đại hoá nhà nước Ottoman gặp phải sự chống đối mạnh mẽ tại Bosna, nơi giới quý tộc địa phương khiến hầu hết các biện pháp cải cách không thể được thực hiện đầy đủ. Điều này, cộng với sự rút lui chính trị trước các nhà nước Thiên chúa giáo mới xuất hiện ở phía đông, dẫn tới một cuộc nổi dậy nổi tiếng (dù không thành công) của Husein Gradaščević năm 1831. Những cuộc khởi nghĩa liên quan bị dập tắt năm 1850, nhưng tình hình tiếp tục xấu đi. Những cuộc nổi dậy nông dân sau này cuối cùng dẫn đến cuộc nổi loạn Herzegovina, một cuộc khởi nghĩa nông dân trên diện rộng năm 1875. Nó nhanh chóng lan ra và liên quan tới nhiều nhà nước vùng Balkan cũng như các Cường quốc, cuối cùng buộc Đế chế Ottoman phải nhường quyền hành chính của Bosna cho Áo–Hung qua hiệp ước Berlin năm 1878. Cai trị Áo-Hung (1878–1918) Việc liên kết với Áo-Hung nhanh chóng dẫn đến một thoả thuận với người Bosna mặc dù những cẳng thẳng vẫn còn lại ở một số vùng thuộc đất nước (đặc biệt là Hercegovina) và một cuộc di cư quy mô lớn của đa số là người Slavơ bất đồng diễn ra. Tuy nhiên, một nhà nước với sự ổn định khá tốt đã nhanh chóng xuất hiện và các chính quyền Áo-Hung đã có thể tiến hành một số cải cách hành chính và xã hội để biến Bosna và Hercegovina trở thành một "thuộc địa kiểu mẫu". Với mục tiêu thiết lập một tỉnh như một mô hình chính trị ổn định sẽ giúp xua tan đi chủ nghĩa quốc gia Nam Slavơ đang xuất hiện, sự cai trị Habsburg giúp rất nhiều vào sự hệ thống hoá luật lệ, để đưa ra các cơ chế chính trị mới, và nói chung cung cấp cơ sở cho sự hiện đại hoá. Đế chế Áo-Hung đã xây dựng ba các nhà thờ Cơ đốc giáo tại Sarajevo và ba nhà thờ này nằm trong 20 nhà thờ Cơ đốc giáo duy nhất trong nhà nước Bosna. Dù có thành công về mặt kinh tế, chính sách Áo-Hung - tập trung trên việc ủng hộ ý tưởng một quốc gia đa nguyên và đa giáo Bosna (được phần lớn người Hồi giáo ưa thích) - đã không thành công khi giải quyết những làn sóng chủ nghĩa quốc gia đang nổi lên. Ý tưởng quốc gia Croat và Serbia đã lan tới các cộng đồng Cơ đốc giáo và Chính thống ở Bosna và Hercegovina từ nước Croatia và Serbia láng giềng hồi giữa thế kỷ 19, và quá mạnh mẽ để cho phép sẹ chấp nhận một ý tưởng song song của quốc gia Bosna. Tới nửa sau những năm 1910, chủ nghĩa quốc gia là một phần không thể tách rời của chính trị Bosna, với các đảng chính trị quốc gia đại diện cho ba nhóm bầu cử lớn. Ý tưởng về một nhà nước Nam Slavơ thống nhất (typically expected to be spear-headed by independent Serbia) đã trở nên một tư tưởng chính trị phổ biến trong vùng thời gian đó, gồm cả Bosna và Hercegovina. Quyết định chính thức sáp nhập Bosna và Hercegovina của chính phủ Áo-Hung năm 1908 (xem Khủng hoảng Bosna) càng tạo ra cảm giác khẩn trương trong những người theo chủ nghĩa quốc gia. Nga phản đối sự sáp nhập này. Cuối cùng Nga công nhận chủ quyền của Áo-Hung với Bosna để đối lấy lời hứa của Áo-Hung rằng họ sẽ công nhân quyền của Nga với Eo Dardanelles tại Đế chế Ottoman. Không giống như Nga, Áo-Hung không giữ lời hứa và không làm gì để hỗ trợ việc công nhận chủ quyền Nga với eo biển. Căng thẳng chính trị gây ra bởi sự kiện này lên tới đỉnh điểm ngày 28 tháng 6 năm 1914, khi thanh niên người Serb theo chủ nghĩa quốc gia Gavrilo Princip ám sát người kế vị ngôi báu Áo-Hung, Thế tử Franz Ferdinand, tại Sarajevo; một sự kiện dẫn tới Thế chiến I. Dù một số người Bosna đã hy sinh khi phục vụ trong quân đội của nhiều nước tham gia chiến tranh, Bosna và Hercegovina vẫn tìm cách tránh được cuộc chiến với thiệt hại khá nhỏ. Nam Tư đầu tiên (1918–1941) Sau cuộc chiến tranh, Bosna và Hercegovina gia nhập Vương quốc của người Serb, người Croat và người Slovene (nhanh chóng được đổi tên thành Nam Tư) Nam Slavơ. Đời sống chính trị tại Serbia ở thời gian này được ghi dấu bởi hai khuynh hướng chính: bất ổn kinh tế và xã hội về tái phân phối tài sản, và việc thành lập nhiều đảng chính trị thường thay đổi giữa các liên minh và các phe phái với các đảng ở các vùng khác thuộc Nam Tư. Tư tưởng xung đột thống trị của nhà nước Nam Tư, giữa chủ nghĩa khu vực Croatia và sự tập trung hoá Serbia, là tiếp cận một cách khác biệt bởi các nhóm sắc tộc đa số của Bosna và phụ thuộc vào không khí chính trị chung. Thậm chí có hơn 3 triệu người Bosna ở Nam Tư, vượt quá số người Slovene và Montenegro cộng lại, tinh thần quốc gia Bosna bị ngăn cấm bởi Vương quốc mới. Dù sự chia rẽ ban đầu của đất nước trở thành 33 oblast đã xoá bỏ sự hiện diện của các thực thể địa lý truyền thống khỏi bản đồ, các nỗ lực của những chính trị gia Serbia như Mehmed Spaho đã đảm bảo rằng 6 oblast được chia cắt khỏi Bosna và Hercegovina tương ứng với 6 sanjaks từ thời Ottoman, và vì thế, thích ứng với biên giới truyền thống quốc gia như một tổng thể. Tuy nhiên, vệc thành lập Vương quốc Nam Tư năm 1929, đã dẫn tới việc vẽ lại các vùng hành chính vào trong các nhóm có mục đích tránh mọi đường ranh giới lịch sử và sắc tộc, bỏ đi bất kỳ dấu vết nào của một thực thể Bosna. Căng thẳng Serbia-Croatia về cấu trúc nhà nước Nam Tư vẫn tiếp tục, với ý tưởng về một sự phân chia Bosna tách biệt ít được hay không được chú ý. Thoả thuận Cvetković-Maček tạo lập nên nhóm Croatia năm 1939 khuyến khích cái là một sự chia rẽ Bosna giữa Croatia và Serbia. Tuy nhiên, bên ngoài các hoàn cảnh chính trị buộc các chính trị gia Nam Tư phải thay đổi sự quan tâm tới sự đe doạ ngày càng lớn của Phát xít Đức của Adolf Hitler. Sau một giai đoạn với những nỗ lực xoa dịu, việc ký kết Hiệp ước Ba Bên, và một cuộc đảo chính, Nam Tư cuối cùng bị Đức xâm lược ngày 6 tháng 4 năm 1941. Thế chiến thứ hai (1941–45) Khi vương quốc Nam Tư đã bị các lực lượng Phát xít chinh phục trong Thế Chiến II, toàn bộ Bosna bị nhượng lại cho Nhà nước Croatia Độc lập. Các lãnh đạo người Croat cùng với người Hồi giáo địa phương tiến hành một chiến dịch tiêu diệt người Serb, người Do Thái, Digan, đảng viên cộng sản và một số lượng lớn lực lượng du kích của Tito bằng cách lập ra một số trại giết người. Khoảng 80,000 đã bị giết hại tại trại Jasenovac gồm 7,000 trẻ em. Nhiều người Serb trong vùng cầm vũ khí và gia nhập Chetniks; một phong trào kháng chiến quốc gia và bảo hoàng tiến hành chiến tranh du kích chống lại cả Ustashe phát xít và du kích cộng sản. Dù ban đầu chiến đấu chống Phát xít, giới lãnh đạo Chetnik được nhà vua lưu vong ra lệnh chiến đấu chống du kích. Chetniks ban đầu nhận được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và Anh Quốc. Đa số thành viên Chetniks là người Serb và người Montenegro, dù đội quân cũng bao gồm một số người Slovene và người Hồi giáo. Bắt đầu từ năm 1941, những người cộng sản Nam Tư dưới sự lãnh đạo của Josip Broz Tito người Croatia đã tổ chức nhóm kháng chiến đa sắc tộc đầu tiên, Du kích, họ chiến đấu chống lại cả Phe trục và các lực lượng Chetnik. Ngày 25 tháng 11 năm 1943 Hội đồng Chống Phát xít của Quốc gia Nam Tư Tự do với Tito là người lãnh đạo tổ chức một hội nghị tại Jajce theo đó Bosna và Hercegovina được tái lập như một nước cộng hoà bên trong liên bang Nam Tư trong các biên giới Habsburg của nó. Thắng lợi quân sự cuối cùng đã khiến Đồng Minh ủng hộ Du kích, nhưng Josip Broz Tito từ chối đề nghị giúp đỡ của họ và thay vào đó dựa vào chính các lực lượng của mình. Tất cả các cuộc tấn công quân sự lớn của phong trào chống phát xít của Nam Tư chống lại Phát xít và những người địa phương ủng hộ chúng được tiến hành tại Bosna-Hercegovina và người dân ở đây cũng là lực lượng chiến đấu chính. Cuối cùng sự chấm dứt chiến tranh cũng dẫn đến sự thành lập nhà nước Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Nam Tư, với hiến pháp năm 1946 chính thức biến Bosna và Hercegovina trở thành một trong sáu nhà nước cộng hoà hợp thành của quốc gia mới. Nam Tư xã hội chủ nghĩa (1945–1992) Vì vị trí địa lý ở trung tâm bên trong liên bang Nam Tư, Bosna thời hậu chiến được lựa chọn một cách chiến lược như một cơ sở cho sự phát triển ngành công nghiệp quốc phòng. Điều này góp phần vào sự tập trung lớn về vũ khí và trang bị tại Bosna; một yếu tố quan trọng trong cuộc chiến diễn ra sau sự tan rã của Nam Tư thập kỷ 1990. Tuy nhiên, sự tồn tại của Bosna bên trong Nam Tư, phần lớn, là hoà bình và thịnh vượng. Dù được coi là một nơi tù túng chính trị của liên bang trong hầu hết thập niên 50 và 60, thập kỷ 70 chứng kiến sự thăng tiến mạnh của tầng lớp tinh hoa chính trị Bosna mạnh một phần nhờ vị thế lãnh đạo của Tito trong Phong trào không liên kết và những người Bosna làm việc trong các cơ quan ngoại giao của Nam Tư. Tuy làm việc bên trong hệ thống cộng sản, các chính trị gia như Džemal Bijedić, Branko Mikulić và Hamdija Pozderac đã củng cố và bảo vệ chủ quyền của Bosna và Hercegovina Những nỗ lực của họ đã được minh chứng tầm quan trọng trong giai đoạn hỗn loạn sau cái chết của Tito năm 1980, và hiện được một số người coi là những bước đầu tiên hướng tới sự độc lập của Bosna. Tuy nhiên, nước cộng hoà đã thoát khỏi không khí chủ nghĩa quốc gia ngày càng gia tăng một cách ít bị ảnh hưởng nhất. Với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và sự tan rã của Nam Tư, học thuyết cộng sản cũ về sự khoan dung bắt đầu mất dần hiệu lực, tạo ra một cơ hội cho những yếu tố quốc gia trong xã hội mở rộng ảnh hưởng của họ. Chiến tranh Bosna và Hercegovina (1992–95) Cuộc bầu cử nghị viện năm 1990 đã dẫn tới một quốc hội bị thống trị bởi ba đảng dựa trên sắc tộc, đã thành lập liên minh lỏng lẻo với nhau để loại bỏ những người cộng sản khỏi quyền lực. Tuyên bố độc lập sau đó của Croatia và Slovenia và cuộc chiến tranh nối tiếp đặt Bosna và Hercegovina cùng ba sắc tộc hợp thành của nó trước tình thế khó khăn. Một sự chia rẽ mạnh ngay lập tức nảy sinh về vấn đề tiếp tục ở lại trong liên bang Nam Tư (mà đại đa số người Serb mong muốn) hay tìm kiếm độc lập (được đại đa số người Bosna và người Croat ủng hộ). Các thành viên nghị viện người Serb, chủ yếu trong Đảng Dân chủ Serbia, đã rời bỏ nghị viện trung ương tại Sarajevo, và thành lập Quốc hội Người Serb của Bosna và Hercegovina ngày 24 tháng 10 năm 1991, đánh dấu sự chấm dứt của liên minh ba sắc tộc cầm quyền sau cuộc bầu cử năm 1990. Quốc hội này thành lập Cộng hoà Serbia của Bosna và Hercegovina ngày 9 tháng 1 năm 1992, trở thành Republika Srpska tháng 8 năm 1992. Ngày 18 tháng 11 năm 1991, chi nhánh đảng tại Bosna và Hercegovina của đảng cầm quyền tại Cộng hoà Croatia, Liên minh Dân chủ Croatia (HDZ), tuyên bố sự tồn tại của Cộng đồng Croatia của Herzeg-Bosna, như một "tổng thể chính trị, văn hoá, kinh tế và lãnh thổ," trên lãnh thổ Bosna và Hercegovina, với Hội đồng Quốc phòng Croatia (HVO) là thành phần quân sự của nó. Chính phủ Bosna không công nhận nó. Toà án Hiến pháp của Bosna và Hercegovina tuyên bố Herzeg-Bosna là bất hợp pháp ngày 14 tháng 9 năm 1992 và một lần nữa ngày 20 tháng 1 năm 1994. Một tuyên bố về chủ quyền của Bosna và Hercegovina vào tháng 10 năm 1991 được tiếp nối bởi một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập khỏi Nam Tư vào tháng 2 và tháng 3 năm 1992 bị đại đa số người Serb tẩy chay. Kết quả của cuộc trưng cầu dân ý là 63.7% và 92.7% ủng hộ độc lập. Bosna và Hercegovina tuyên bố độc lập một thời gian ngắn sau đó. Sau một giai đoạn căng thẳng leo thang và những vụ xung đột quân sự lẻ tẻ, chiến tranh công khai bắt đầu tại Sarajevo ngày 6 tháng 4. Những cuộc đàm phán bí mật giữa Franjo Tuđman và Slobodan Milošević về sự phân chia Bosna và Hercegovina giữa Serbia và Croatia đã được tổ chức ngay từ tháng 3 năm 1991 được gọi là thoả thuận Karađorđevo. Sau tuyên bố độc lập của Cộng hoà Bosna và Hercegovina, người Serb đã tấn công nhiều vùng khác nhau của đất nước. Bộ máy hành chính nhà nước của Bosna và Hercegovina đã hoàn toàn ngừng hoạt động khi mất đi quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ. Người Serb muốn toàn bộ đất đai nơi người Serb chiếm đa số, vùng phía đông và tây Bosna. Người Croat cùng lãnh đạo của họ Franjo Tuđman cũng có mục tiêu chiếm nhiều phần của Bosna và Hercegovina thành của Croatia. Các chính sách của Cộng hoà Croatia và lãnh đạo của họ Franjo Tuđman về Bosna và Hercegovina không bao giờ rõ ràng và luôn gồm mục tiêu tối thượng của Franjo Tuđman mở rộng các biên giới của Croatia. Người Hồi giáo Bosna, nhóm sắc tộc duy nhất trung thành với chính phủ Bosna, là một mục tiêu dễ dàng, bởi các lực lượng của chính phủ Bosna được trang bị kém và không hề được chuẩn bị cho cuộc chiến. Sự công nhận quốc tế với Bosna và Hercegovina đã làm gia tăng sức ép ngoại giao với Quân đội Nhân dân Nam Tư (JNA) rút quân khỏi lãnh thổ của nước cộng hoà và họ đã chính thức thực hiện điều này. Tuy nhiên, trên thực tế, các thành viên người Serb Bosna của JNA đơn giản chỉ đổi phù hiệu, hình thành nên Quân đội Republika Srpska, và tiếp tục chiến đấu. Được trang bị và vũ trang từ các kho quân dụng của JNA tại Bosna, được ủng hộ bởi những người tình nguyện và nhiều lực lượng bán vũ trang từ Serbia, và nhận được sự hỗ trợ lớn về trợ giúp nhân đạo, hậu cầu và tài chính từ Cộng hoà Liên bang Nam Tư, những cuộc tấn công của Republika Srpska năm 1992 đã giúp đặt hầu hết đất nước dưới quyền kiểm soát của họ. Ban đầu, các lực lượng Serb tấn công dân cư không phải người Serb ở Đông Bosna. Khi các thị trấn và làng mạc đã ở trong tay họ, các lực lượng Serb, quân đội, cảnh sát, bán vũ trang, và thỉnh thoảng, cả những người dân làng là người Serb - đều có hành động giống nhau: các ngôi nhà và căn hộ của người Bosna bị cướp bóc hay đốt phá một cách có hệ thống, thường dân Bosna bị bao vây hay bắt giữ, và thỉnh thoảng bị đánh hay bị giết trong quá trình này. 2.2 triệu người tị nạn đã phải dời bỏ nhà cửa sau khi chiến tranh chấm dứt (cả ba sắc tộc). Đàn ông và phụ nữ bị cách ly, nhiều người đàn ông bị giam giữ trong các trại. Phụ nữ bị giữ ở nhiều trung tâm giam giữ nơi họ phải sống trong các điều kiện mất vệ sinh, bị đối xử tàn nhẫn theo nhiều cách, gồm cả việc bị cưỡng hiếp nhiều lần. Các binh lính hay cảnh sát người Serb có thể tới các trung tâm giam giữ đó, lựa chọn một hay nhiều người phụ nữ, lôi họ ra và hiếp dâm. Tháng 6 năm 1992 sự tập trung chú ý chuyển sang Novi Travnik và Gornji Vakuf nơi những nỗ lực giành thêm lãnh thổ của Hội đồng Quốc phòng Croat (HVO) gặp sự kháng cự. Ngày 18 tháng 6 năm 1992 Lực lượng phòng vệ Lãnh thổ Bosna tại Novi Travnik nhận được một tối hậu thư từ HVO gồm những yêu cầu xoá bỏ các định chế đang tồn tại của Bosna và Hercegovina, thành lập chính quyền của Cộng đồng Croatia của Herzeg-Bosna và tuyên bố trung thành với nó, hạ tầm của Lực lượng Phòng vệ Lãnh thổ phụ thuộc vào HVO và trục xuất những người tị nạn Hồi giáo, tất cả phải diễn ra trong 24 giờ. Cuộc tấn công được tung ra ngày 19 tháng 6. Trường tiểu học và bưu điện bị tấn công và phá hoại. Gornji Vakuf ban đầu bị tấn công bởi người Croat ngày 20 tháng 6 năm 1992, nhưng cuộc tấn công thất bại. Thoả thuận Graz đã gây ra sự chia rẽ lớn bên trong cộng đồng Croat và tăng cường sức mạnh cho nhóm ly khai, dẫn tới sự xung đột với người Bosna. Một trong những lãnh đạo Croat đầu tiên ủng hộ liên minh, Blaž Kraljević (lãnh đạo của nhóm vũ trang HOS) bị giết hại bởi các binh sĩ HVO trong tháng 8 năm 1992, làm suy yếu mạnh nhóm ôn hoà đang hy vọng giữ liên minh Bosna Croat tiếp tục. Tình hình trở nên nghiêm trọng hơn vào tháng 10 năm 1992 khi các lực lượng Croat tấn công dân cư Bosna tại Prozor. Theo bản cáo trạng Jadranko Prlić, các lực lượng HVO đã quét sạch hầu hết người Hồi giáo khỏi thị trấn Prozor và nhiều làng mạc xung quanh. Cùng lúc ấy, người Croat từ các thị trấn Konjic và Bugojno bị buộc phải rời bọ nhà cửa, trong khi nhiều ngoời bị giết hại hay bị giữ trong các trại tập trung. Liên minh giữa người Croat và người Hồi giáo tan vỡ và hầu hết người Croat bị buộc phải rời bỏ các thành phố có đa số người Hồi giáo (Sarajevo, Zenica). Tới năm 1993, khi một cuộc xung đột vũ trang diễn ra giữa chính phủ chủ yếu của người Bosna tại Sarajevo và Cộng hoà Croatia của Herzeg-Bosna, khoảng 70% đất nước nằm dưới quyền kiểm soát của Republika Srpska. Thanh lọc sắc tộc và vi phạm nhân quyền chống lại người không phải người Serb phát triển trong những khu vực này. Các đội DNA đã được sử dụng để thu thập bằng chứng về những hành động tàn bạo của các lực lượng Serbia trong những chiến dịch đó. Một ví dụ đáng chú ý nhất là cuộc thảm sát Srebrenica, bị Toà án Hình sự Quốc tế cho Nam Tư cũ coi là diệt chủng. Ước tính 200,000 Bosna đã bị giết hại bởi chính quyền Serbia. Tháng 3 năm 1994, việc ký kết Hiệp định Washington giữa các lãnh đạo của chính phủ cộng hoà và Herzeg-Bosna đã dẫn tới việc thành lập một Liên bang Bosna và Hercegovina chung giữa người Croat và người Bosna, gồm cả lãnh thổ của Cộng hoà Croatia của Herzeg-Bosna và lãnh thổ do Quân đội Cộng hoà Bosna và Hercegovina nắm giữ. Liên bang nhanh chóng chinh phục Tỉnh tự trị Tây Bosna nhỏ bé. Một chiến dịch ném bom của NATO bắt đầu vào tháng 8 năm 1995, chống lại Quân đội Republika Srpska, sau cuộc thảm sát Srebrenica. Tháng 12 năm 1995, việc ký kết Thoả thuận Dayton tại Dayton, Ohio bởi các tổng thống của Bosna và Hercegovina (Alija Izetbegović), Croatia (Franjo Tuđman), và Serbia (Slobodan Milošević) đã dẫn tới sự ngừng chiến, tạm thời thành lập cơ sở căn bản cho nhà nước hiện tại. Số lượng nạn nhân được xác định hiện là 97,207, và những ước tính của những cuộc nghiên cứu gần đây cho rằng tổng số chưa tới 110,000 người bị giết hại (thường dân và quân đội), và 1.8 triệu người phải rời bỏ nhà cửa. Vấn đề này đang được Uỷ ban Quốc tế về Người Mất tích xem xét. Theo nhiều phán quyết của ICTY cuộc xung đột liên quan tới Bosna và Cộng hoà Liên bang Nam Tư (sau này là Serbia và Montenegro) as well as Croatia. Chính phủ Bosna đã buộc tội Serbia đồng loã trong vụ diệt chủng tại Bosna trong cuộc chiến tại Toà án Công lý Quốc tế (ICJ). Toà án Công lý Quốc tế (ICJ) xét xử ngày 26 tháng 2 năm 2007 xác nhận tình trạng cuộc chiến ở tầm mức quốc tế, dù loại bỏ trách nhiệm trực tiếp của Serbia cho hành động diệt chủng của các lực lượng Serb thuộc Republika Srpska. Tuy nhiên ICJ kết luận rằng Serbia đã không ngăn chăn được việc diệt chủng do các lực lượng Serb tiến hành và không trừng phạt được những kẻ đã tiến hành cuộc diệt chủng, đặc biệt là tướng Ratko Mladić, và đưa chúng ra trước công lý. Các thẩm phán phán quyết rằng tiêu chí về diệt chủng với ý nghĩa đặc biệt (dolus specialis) để tiêu diệt người Hồi giáo Bosna là đầy đủ chỉ tại Srebrenica hay Đông Bosna năm 1995. Toà kết luận rằng các tội ác diễn ra trong cuộc chiến năm 1992–1995, có thể là các tội ác chống nhân loại theo luật quốc tế, nhưng các hành động đó không, tự thân, tạo nên cuộc diệt chủng. Toà còn quyết định thêm rằng, sau khi Montenegro tuyên bố độc lập tháng 5 năm 2006, Serbia là bên bị duy nhất của vụ án, nhưng "bất kỳ trách nhiệm cho các sự kiện quá khứ trước đó sẽ liên quan tới Nhà nước Serbia và Montenegro". Địa lý Bosna nằm ở phía tây Balkan, giáp biên giới với Croatia (932 km) ở phía bắc và tây nam, Serbia (302 km) ở phía đông, và Montenegro (225 km) ở phía đông nam. Đất nước này hầu hết là đồi núi, gồm trung Dinaric Alps. Các vùng đông bắc giáp với châu thổ Pannonian, trong khi phía nam giáp với Adriatic. Nước này chỉ có 20 kilômét (12 mi) đường bờ biển, quanh thị trấn Neum tại Tổng Hercegovina-Neretva. Dù thành phố bị bao quanh bởi các bán đảo Croatia, theo luật của Liên hiệp quốc, Bosna có quyền đi ra đại dương. Neum có nhiều khách sạn và là một địa điểm du lịch quan trọng. Cái tên nước này bắt nguồn từ hai vùng Bosna và Hercegovina, và có biên giới rất mơ hỗ giữa chúng. Bosna chiếm các vùng phía bắc với diện tích khoảng bốn phần năm toàn bộ lãnh thổ, trong khi Hercegovina chiếm phần còn lại ở phía nam đất nước. Các thành phố lớn là thủ đô Sarajevo, Banja Luka ở vùng tây bắc được gọi là Bosanska Krajina, Bijeljina và Tuzla ở phía đông bắc, Zenica và Doboj ở vùng trung tâm Bosna và Mostar, thủ phủ của Hercegovina. Phần phía nam Bosna có khí hậu Địa Trung Hải rất thuận lợi cho nông nghiệp. Trung Bosna là vùng nhiều đồi núi nhất của Bosna với những dãy núi Vlašić, Čvrsnica, và Prenj. Đông Bosna cũng có nhiều núi non với Trebević, Jahorina, Igman, Bjelašnica và Treskavica. Olympics mùa đông năm 1984 được tổ chức tại đây. Đông Bosna có nhiều rừng dọc theo sông Drina, và tới 50% tổng diện tích Bosna và Hercegovina là rừng. Hầu hết các khu rừng nằm ở các phần Trung, Đông và Tây của Bosna. Bắc Bosna có vùng đất nông nghiệp màu mỡ dọc sông Sava và vùng này được canh tác rộng. Đất canh tác là một phần của Đồng bằng Parapannonian kéo dài vào trong nước láng giềng Croatia và Serbia. Sông Sava và Posavina châu thổ sông là nơi có các thành phố Brčko, Bosanski Šamac, Bosanski Brod và Bosanska Gradiška. Phần tây bắc của Bosna được gọi là Bosanska Krajina và có các thành phố Banja Luka, Prijedor, Sanski Most, Cazin, Velika Kladuša và Bihać. Vườn quốc gia Kozara nằm ở trong vùng rừng này. Có bảy con sông lớn tại Bosna và Hercegovina Sava là sông lớn nhất nước, nhưng nó chỉ hình thành biên giới tự nhiên phía bắc với Croatia. Nó thoát nước từ 76% lãnh thổ quốc gia vào sông Danube và Biển Đen. Una, Sana và Vrbas là các hữu phụ lưu của sông Sava. Chúng nằm ở vùng tây bắc của Bosanska Krajina. Sông Bosna là nguồn gốc tên gọi quốc gia, và là con sông dài nhất hoàn toàn ở bên trong nước này. Nó kéo dài suốt trung Bosna, từ nguồn gần Sarajevo tới Sava ở phía bắc. Drina chảy xuyên phần phía đông của Bosna, và hầu hết các phần của nó là biên giới tự nhiên với Serbia. Neretva là con sông lớn của Hercegovina và là con sông lớn duy nhất chảy về phía nam, đổ vào Biển Adriatic. Về địa lý thực vật, Bosna và Hercegovina thuộc Giới Boreal và thuộc sở hữu chung giữa tỉnh Illyrian của Vùng Circumboreal và tỉnh Adriatic của Vùng Địa Trung Hải. Theo WWF, lãnh thổ Bosna và Hercegovina có thể chia nhỏ tiếp thành ba vùng sinh thái: các khu rừng hỗn hợp Pannonian, các khu rừng hỗn hợp Núi Dinaric và các khu rừng sớm rụng Illyrian. Chính phủ và chính trị Bosna và Hercegovina có nhiều cấp độ cơ cấu chính trị dưới cơ cấu chính phủ liên bang. Cấp độ quan trọng nhất trong số đó là sự phân chia quốc gia thành hai thực thể: Cộng hòa Srpska và Liên bang Bosna và Hercegovina. Liên bang Bosna và Hercegovina chiếm hơn 51% tổng diện tích Bosna và Hercegovina, trong khi cộng hòa Srpska chiếm khoảng 49%. Các thực thể, phần lớn dựa trên lãnh thổ được nắm giữ bởi hai bên mâu thuẫn ở thời điểm trước, đã được chính thức thành lập theo thoả thuận hoà bình Dayton năm 1995 vì những thay đổi to lớn trong cơ cấu sắc tộc tại Bosna và Hercegovina. Từ năm 1996 quyền lực của các thực thể so với chính phủ liên bang đã suy giảm mạnh. Tuy thế, các thực thể vẫn có nhiều quyền lực của riêng mình. Quận Brcko ở phía bắc đất nước được thành lập năm 2000 với đất đai lấy từ cả hai thực thể. Nó chính thức thuộc về cả hai, nhưng không nằm dưới sự quản lý của bên nào, và hoạt động dưới một hệ thống chính phủ địa phương phi tập trung. Quận Brčko đã được ca ngợi vì duy trì được một dân số đa sắc tộc ở mức độ thịnh vượng cao trên mức trung bình của quốc gia. Cấp độ phân chia chính trị thứ ba của Bosna và Hercegovina là các tổng. Chúng chỉ riêng có tại thực thể Liên bang Bosna và Hercegovina, với tổng số mười tổng. Tất cả các tổng đều có chính phủ riêng của mình, và nằm dưới pháp luật liên bang như một tổng thể. Một số tổng có dân chúng đa sắc tộc và có những điều luật đặc biệt được áp dụng để đảm bảo sự bình đẳng của mọi sắc tộc. Cấp độ phân chia chính trị thứ tư của Bosna và Hercegovina là các đô thị. Liên bang Bosna và Hercegovina được chia thành 74 khu đô thị và cộng hòa Srpska thành 63. Các khu đô thị có chính quyền địa phương riêng của mình, và nói chung dựa trên thành phố hay địa điểm quan trọng nhất của lãnh địa của mình. Như vậy, nhiều khu đô thị có truyền thống và lịch sử lâu dài với các biên giới hiện tại của họ. Tuy nhiên, một số khác chỉ mới được thành lập sau cuộc chiến tranh gần đây sau khi những khu đô thị cũ bị chia cắt bởi Đường Biên giới Liên Thực thể. Mỗi tổng tại Liên bang Bosna và Hercegovina gồm nhiều khu đô thị, và chúng lại được chia thành các cộng đồng địa phương. Bên cạnh các thực thể, tổng, khu đô thị, Bosna và Hercegovina cũng có bốn thành phố "chính thức". Chúng là: Banja Luka, Mostar, Sarajevo, và Đông Sarajevo. Lãnh địa và chính quyền của các thành phố Banja Luka và Mostar tương ứng với các khu đô thị cùng tên, trong khi các thành phố Sarajevo và Đông Sarajevo chính thức gồm nhiều khu đô thị. Các thành phố có chính quyền của riêng mình và có quyền lực nằm trong mức giữa quyền lực của các khu đô thị và các tổng (hay thực thể, trong trường hợp cộng hòa Srpska). Như một kết quả của Hiệp định Dayton, sự hoà bình dân sự được giám sát bởi Cao uỷ về Bosna và Hercegovina được lựa chọn bởi Hội đồng Thực thi Hoà bình. Cao uỷ có nhiều quyền lực chính phủ và lập pháp, gồm bãi chức các quan chức lên giữ chức qua bầu cử và không qua bầu cử. Gần đây hơn, nhiều thể chế trung tâm đã được thành lập (như bộ quốc phòng, bộ an ninh, toà án nhà nước, sở thuế gián thu,..) trong quá trình chuyển tiếp một phần quyền tài phán từ các thực thể cho nhà nước. Đại diện chính phủ Bosna và Hercegovina đại diện bởi giới tinh hoa của ba nhóm chính trong nước, mỗi nhóm đều được đảm bảo một phần quyền lực. Chức Tổng thống Bosna và Hercegovina được luân phiên giữa ba thành viên (người Bosna, người Serb, người Croat), mỗi người giữ chức trong nhiệm kỳ tám tháng trong nhiệm kỳ bốn năm của họ. Ba thành viên của chức vụ Tổng thống được dân chúng bầu trực tiếp (Liên bang bầu cho người Bosna/Croat, cộng hòa Srpska cho người Serb). Chức Hội đồng bộ trưởng được Tổng thống chỉ định và được Hạ viện thông qua. Ông hay bà ta sau đó chịu trách nhiệm chỉ định một Bộ trưởng ngoại giao, Bộ trưởng ngoại thương, và những chức vụ khác theo nhu cầu. Nghị viện là cơ quan lập pháp tại Bosna và Hercegovina. Nó gồm hai viện: Viện Nhân dân và Viện Đại biểu. Viện Nhân dân gồm 15 đại biểu, hai phần ba đại biểu từ Liên bang (5 người Croat và 5 người Bosna) và một phần ba từ cộng hòa Srpska (5 người Serb). Viện Đại biểu gồm 42 thành viên, hai phần ba được bầu từ Liên bang và một phần ba từ cộng hòa Srpska. Toà án Hiến pháp Bosna và Hercegovina là cơ quan trọng tài tối cao về các vấn đề pháp lý. Nó gồm chín thành viên: bốn thành viên được lựa chọn bởi Viện Đại biểu của Liên bang, hai bởi Quốc hội cộng hòa Srpska, và ba bởi Chủ tịch Toà án Nhân quyền châu Âu sau khi tư vấn Tổng thống. Tuy nhiên, quyền lực chính trị cao nhất nước là Đại diện cấp Cao tại Bosna và Hercegovina, lãnh đạo quan chức hành pháp cho sự hiện diện nhân quyền quốc tế tại quốc gia. Từ năm 1995, Đại diện cao Cấp đã có thể bỏ qua nghị viện được bầu, và từ năm 1997 đã có thể loại bỏ các quan chức được bầu. Các biện pháp được Đại diện cao Cấp lựa chọn đã bị chỉ trích là phi dân chủ. Sự giám sát quốc tế sẽ chấm dứt khi đất nước này ổn định về chính trị và dân chủ và có khả năng tự duy trì. Ngoại giao Tham gia Liên minh châu Âu là một trong những mục tiêu chính trị chính của Bosna và Hercegovina, họ đã khởi động quá trình ổn định và liên kết vào năm 2007. Những nước tham gia vào quá trình này đã có cơ hội được trở thành thành viên của EU và một khi họ đáp ứng đủ các điều kiện để trở thành thành viên của Liên minh châu Âu. Vì thế, Bosna và Hercegovina là một ứng cử viên có tiềm năng trở thành thành viên EU. Việc thực hiện Hiệp định Dayton năm 1995 đã tập trung vào các nỗ lực của những người tạo lập chính sách tại Bosna và Hercegovina, cũng như cộng đồng quốc tế, về ổn định vùng tại các quốc gia kế tục của Nam Tư cũ. Mối quan hệ của quốc gia này đối với các nước láng giềng như Croatia, Serbia và Montenegro đã đi vào ổn định từ khi Thoả thuận Dayton được ký kết vào năm 1995. Nhân khẩu Bosna là nơi cư trú của ba "dân tộc hợp thành": người Bosna, người Serb và người Croat. Căng thẳng giữa ba nhóm sắc tộc này vẫn còn lớn và thường gây ra những sự bất đồng chính trị. Một cuộc nghiên cứu các nhóm đơn bội nhiếm sắc thể Y được xuất bản vào năm 2005 cho thấy ba nhóm chính của Bosna-Hercegovina, dù có một số khác biệt về số lượng, có cùng một phần lớn của cùng kiểu nhóm gene riêng biệt của vùng Balkan". Theo cuộc điều tra dân số năm 1991, Bosna và Hercegovina có dân số 4.377.033 người. Theo sắc tộc, 1.902.956 (43%) là người Bosna, 1.366.104 (31%) người Serb, và 760.852 (17%) người Croat, với 242.682 (6%) người Nam Tư. 2% dân số còn lại - số lượng 104.439 người – gồm nhiều sắc tộc khác. Theo dữ liệu năm 2000 từ CIA World Factbook, các nhóm sắc tộc lớn nhất Bosna là người Bosna (48%), người Serb (37%) và người Croat (14%). Có một sự tương quan lớn giữa bản sắc sắc tộc và tôn giáo tại Bosna và Hercegovina: Hồi giáo chiếm 45% dân số, Chính thống giáo Serbia 36%, Cơ đốc giáo La Mã 15%, và các nhóm khác, gồm Do Thái và Tin lành, 4%. Những cuộc di cư lớn trong thời các cuộc chiến tranh Nam Tư vào thập niên 1990 đã gây ra sự thay đổi nhân khẩu lớn trong nước. Từ năm 1991, không một cuộc điều tra dân số nào được tiến hành, và những sự bất đồng chính trị đã khiến việc tổ chức một cuộc điều tra không thể diễn ra. Tuy vậy, một cuộc điều tra dân số đã được lập kế hoạch cho năm 2011. Bởi các cuộc điều tra dân số chỉ mang tính thống kê, bao hàm, và là một cách để phân tích nhân khẩu, hầu như mọi dữ liệu thời hậu chiến chỉ đơn giản là một ước tính. Tuy nhiên, hầu hết các nguồn, ước tính dân số khoảng bốn triệu người, giảm 350.000 từ năm 1991. Kinh tế Bosna đối mặt với vấn đề kép xây dựng lại đất nước đã bị tàn phá bởi chiến tranh và thực hiện nhữn cải cách thị trường cho nền kinh tế tập trung hế hoạch hoá trước đây của họ. Một di sản của thời trước là ngành công nghiệp quân sự với quá nhiều nhân công; dưới thời lãnh đạo cũ Josip Broz Tito, các ngành công nghiệp quân sự được khuyến khích bên trong nhà nước cộng hoà, dẫn tới sự phát triển một phần lớn các nhà máy quốc phòng Nam Tư tại đây nhưng lại ít những nhà máy thương mại. Trong hầu hết lịch sử Bosna, nông nghiệp dựa trên các trang trại nhỏ và kém hiệu quả của tư nhân; thực phẩm thường được nhập khẩu. Cuộc chiến hồi những năm 1990 đã gây ra một sự thay đổi lớn trong nền kinh tế Bosna. GDP giảm 75% và việc phá huỷ cơ sở hạ tầng cũng tàn phá nền kinh tế. Tuy hầu hết năng lực sản xuất đã được khôi phục, kinh tế Bosna vẫn đối mặt với những khó khăn to lớn. Những con số GDP và thu nhập trên đầu người đã tăng 10% từ năm 2003 tới năm 2004; điều này và khoản nợ quốc gia đang giảm xuống của Bosna là những khuynh hướng tích cực, nhưng tỷ lệ thất nghiệp cao và thâm hụt thương mại lớn vẫn là một vấn đề đáng lo ngại. Đồng tiền tệ quốc gia là Mark chuyển đổi (KM) gắn với đồng Euro, được kiểm soát bởi một uỷ ban tiền tệ. Lạm phát hàng năm đang ở mức thấp nhất so với các quốc gia trong vùng với 1.9% năm 2004. Nợ nước ngoài là $3.1 tỷ (ước tính 2005) - số nợ nhỏ nhất của một nước cộng hoà thuộc Nam Tư cũ. GDP thực tăng trưởng với tỷ lệ 5% cho năm 2004 theo Ngân hàng trung ương Bosna của BiH và Văn phòng Thống kê của Bosna và Hercegovina. Bosna và Hercegovina có một trong những mức xếp hạng bình đẳng thu nhập cao nhất thế giới, hạng 8 trong số 193 quốc gia. Tính đến năm 2016, GDP của Bosna và Hercegovina đạt 16.532 USD, đứng thứ 115 thế giới và đứng thứ 37 châu Âu. Theo dữ liệu của Eurostat, GDP theo sức mua tương đương trên đầu người của Bosna và Hercegovina đứng ở mức 30% trung bình của EU vào năm 2008. Số liệu chung của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (1999-2008): 1999: €166 triệu 2000: €159 triệu 2001: €133 triệu 2002: €282 triệu 2003: €338 triệu 2004: €534 triệu 2005: €421 triệu 2006: €556 triệu 2007: €1.628 tỷ 2008: €1.083 tỷ Từ năm 1994 đến năm 2008, €5.3 tỷ đã được đầu tư vào nước này. Các quốc gia đầu tư lớn nhất (1994 - 2007): Áo (€1,294 triệu) Serbia (€773 triệu) Croatia (€434 triệu) Slovenia (€427 triệu) Thuỵ Sĩ (€337 triệu) Đức (€270 triệu) Ý (€94.29 triệu) Hà Lan (€63.52 triệu) Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (€56.70 triệu) Thổ Nhĩ Kỳ (€54.81 triệu) Tất cả các quốc gia khác (€892.54 triệu) Đầu tư nước ngoài theo lĩnh vực năm (1994-2007): 37.7% Chế tạo 21% Ngân hàng 4.9% Dịch vụ 9.6% Thương mại 0.30% Vận tải 1% Du lịch Viễn thông Thị trường viễn thông Bosna đã được tự do hoá hoàn toàn vào năm 2006. Có ba nhà cung cấp dịch vụ điện thoại trên đất liền, dù mỗi công ty chủ yếu hoạt động ở một vùng riêng biệt. Tỷ lệ truy cập Internet đang tăng, với các dịch vụ Internet băng rộng gồm Internet cable và ADSL ngày càng phổ thông. Các dịch vụ điện thoại di động được cung cấp bởi ba nhà cung cấp. Các dịch vụ dữ liệu di động cũng có mặt, gồm EDGE và 3G tốc độ cao. Du lịch Theo một ước tính của Tổ chức Du lịch Quốc tế, Bosna và Hercegovina sẽ có tỷ lệ tăng trưởng du lịch cao nhất thế giới trong giai đoạn giữa năm 1995 và năm 2020. Lonely Planet, khi xếp hạng các thành phố tốt nhất thế giới, đã xếp hạng Sarajevo, thủ phủ và là nơi tổ chức Thế vận hội Mùa đông năm 1984, thứ 43, trước Dubrovnik thứ 59, Ljubljana thứ 84, Bled thứ 90, Belgrade thứ 113, và Zagreb thứ 135. Du lịch tại Sarajevo chủ yếu chú trọng trên các mặt lịch sử, tôn giáo và văn hoá. Bosna cũng trở thành một địa điểm trượt tuyết và du lịch sinh thái ngày càng được ưa chuộng. Bosna và Hercegovina là một trong những vùng cuối cùng chưa được khám phá tại southern Alps, với nhiều địa điểm tự nhiên và hoang dã chưa bị khai thác thu hút những người yêu thiên nhiên. Trung Dinaric Alps là nơi được những người ưa du lịch khám phá yêu thích, gồm cả khí hậu Địa Trung Hải và Alpine. Môn chèo bè vượt thác là thứ giống với một môn thể thao quốc gia, với ba con sông gồm hẻm sông sâu nhất ở châu Âu, sông Tara. Hấp dẫn du lịch Một số điểm thu hút du lịch tại Bosna và Hercegovina: Sarajevo, "Thành phố Olympic", một Thành phố khoa học, vũ trụ. Banja Luka, "Thành phố Xanh", thành phố nghệ thuật, thành phố thể thao, thành phố ba quốc gia và văn hoá, thành phố thủ phủ của Srpska. Bihać và sông Una với các thác nước của Sông Una, bên trong Vườn Quốc gia Una. Doboj và các pháo đài thời thế kỷ 13. Jajce. Sông Neretva và các khe sông Rakitnica tại Thượng Neretva. Sông Trebižat và các thác nước Kravice và Kočuša. Buna và con suối Vrelo Bune với thị trấn lịch sử Blagaj. Khe sông Hạ Tara. Rừng nguyên sinh Perućica, một trong hai khu rừng nguyên sinh cuối cùng ở châu Âu, và khe sông Sutjeska, cả hai nằm trong Vườn Quốc gia Sutjeska. Ngôi làng lịch sử Počitelj. Mostar, địa điểm của Stari Most. Lăng mộ Međugorje, địa điểm nơi Marian xuất hiện nổi tiếng; Núi Bjelašnica và Jahorina, các địa điểm diễn ra Thế vận hội Mùa đông năm 1984. Thị trấn Neum, nơi duy nhất của cả nước giáp với đại dương. Stolac, ngoại ô Begovina và khu mộ Radimlja Višegrad, địa điểm của cầu Mehmed Paša Sokolović. Visoko, địa điểm của các kim tự tháp Bosna. Tešanj, một trong những thành phố cổ nhất tại Bosna với thị trấn cổ của nó. Tuzla, thành phố Muối, thành phố của Tình yêu. Giáo dục Giáo dục phổ thông kéo dài chín năm. Giáo dục cấp hai được cung cấp bởi các trường cấp hai và trường kỹ thuật và kéo dài bốn năm. Mọi hình thức giáo dục cấp hai gồm một khóa dạy nghề. Học sinh tốt nghiệp từ các trường cấp hai có Matura có thể đăng ký vào bất kỳ khoa hay trường nào nếu trải qua một cuộc thi đầu vào do trường đó tổ chức. Các sinh viên tốt nghiệp khoa kỹ thuật đường nhận bằng chứng chỉ. Văn hoá Kiến trúc Kiến trúc Bosna và Hercegovina phần lớn bị ảnh hưởng bởi bốn giai đoạn thay đổi chính trị và xã hội lớn tạo ra sự khác biệt văn hoá và kiến trúc của dân cư. Mỗi giai đoạn để lại ảnh hưởng và góp phần vào sự đa dạng văn hoá và ngôn ngữ kiến trúc trong vùng. Văn học Bosna và Hercegovina có nền văn học phong phú, với các nhà thơ như Antun Branko Šimić, Aleksa Šantić, Jovan Dučić và Mak Dizdar và các tác gia như Ivo Andrić, Meša Selimović, Branko Ćopić, Miljenko Jergović, Isak Samokovlija, Abdulah Sidran, Petar Kočić và Nedžad Ibrišimović. Nhà hát quốc gia được thành lập vào năm 1919 tại Sarajevo và giám đốc đầu tiên của nó là nhà viết kịch nổi tiếng Branislav Nušić. Các tờ tạp chí như Novi Plamen, Most và Sarajevske biljeznice là một trong những tờ báo nổi tiếng nhất viết về các chủ đề văn hoá và văn học. Nghệ thuật Nghệ thuật Bosna và Hercegovina luôn phát triển và đa dạng từ các hầm mộ đá thời trung cổ được gọi là Stećci tới những bức hoạ tại triều đình Kotromanić. Tuy nhiên, chỉ khi Áo-Hung xuất hiện hội họa nước này mới thực sự phục hưng và phát triển. Những nghệ sĩ đầu tiên được đào tạo tại các viện hàn lâm châu Âu bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 20. Trong số đó có Gabrijel Jurkić, Petar Tiješić, Karlo Mijić, Špiro Bocarić, Petar Šain, Đoko Mazalić, Roman Petrović và Lazar Drljača. Sau này, các nghệ sĩ như Ismet Mujezinović, Vojo Dimitrijević, Ivo Šeremet, và Mica Todorović cùng những người khác bắt đầu nổi lên. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nghệ sĩ như Virgilije Nevjestić, Bekir Misirlić, Ljubo Lah, Meha Sefić, Franjo Likar, Mersad Berber, Ibrahim Ljubović, Dževad Hozo, Affan Ramić, Safet Zec, Ismar Mujezinović và Mehmed Zaimović trở nên nổi tiếng. Ars Aevi, một bảo tàng nghệ thuật đương đại với các tác phẩm của các nghệ sĩ nổi tiếng thế giới, đã được thành lập ở Sarajevo. Âm nhạc Các bài hát truyền thống Bosnan và Herzogovinian song là ganga, rera, và từ thời Ottoman bài phổ biến nhất là sevdalinka. Nhạc pop và nhạc rock cũng có truyền thống tại đây, với những nghệ sĩ nổi tiếng nhất là Goran Bregović, Davorin Popović, Kemal Monteno, Zdravko Čolić, Edo Maajka, Dino Merlin và Tomo Miličević. Tương tự, sẽ không đầy đủ nếu không đề cập tới một số nhà soạn nhạc tài danh như Đorđe Novković, Esad Arnautalić, Kornelije Kovač, và nhiều ban nhạc pop và ban nhạc rock, ví dụ như Bijelo Dugme, Indexi, Plavi Orkestar, Zabranjeno Pušenje, là một trong những người nổi bật nhất tại Nam Tư cũ. Bosna là quê hương của nhà soạn nhạc Dušan Šestić, người viết bản quốc ca hiện nay của Bosna và Hercegovina và là cha của ca sĩ Marija Šestić, nhà soạn nhạc Sasa Losic và nghệ sĩ piano Sasha Toperich. Là một trong số ít quốc gia phát sóng 2008 Eurovision Dance Contest, mọi người cho rằng Bosna và Hercegovina sẽ là một trong số nước tham gia vào cuộc thi đầu tiên được tổ chức bên ngoài nước Anh năm 2010. Điện ảnh Các nhà làm phim nổi tiếng người Serbia gồm Mirza Idrizović, Aleksandar Jevđević, Ivica Matić, Danis Tanović (nổi tiếng về bộ phim giành Academy Award và giành giải Golden Globe No Man's Land), Ademir Kenović, Benjamin Filipović, Jasmin Dizdar, Pjer Žalica, Jasmila Žbanić, Dino Mustafić, Srđan Vuletić và nhiều người khác. Thể thao Sự kiện thể thao quốc tế quan trọng nhất trong lịch sử Bosna và Hercegovina là việc đăng cai tổ chức Thế vận hội Mùa đông 1984, diễn ra tại Sarajevo từ ngày 7 đến 19 tháng 2 năm 1984. Bosna và Hercegovina cũng có nhiều vận động viên điền kinh. Nhiều người trong số họ nổi tiếng trong các đội tuyển quốc gia Nam Tư trước khi Bosna và Hercegovina giành độc lập. Một số vận động viên Olympics đáng chú ý là: Roma, 1960: Tomislav Knez và Velimir Sombolac (bóng đá). Tokyo, 1964: Mirsad Fazlagić (bóng đá). Munich, 1972: Abaz Arslanagić, Milorad Karalić, Nebojša Popović, Đorđe Lavrinić, Dobrivoje Seleć (bóng ném). Moskva, 1980: Mirza Delibašić và Ratko Radovanović (bóng rổ). Los Angeles, 1984: Zdravko Rađenović, Zlatan Arnautović (bóng ném) và Anto Josipović (đấm bốc). Câu lạc bộ bóng ném Borac đã giành bảy chức vô địch quốc gia Nam Tư, cũng như Cúp vô địch châu Âu năm 1976 và Cúp Liên đoàn Bóng ném Quốc tế năm 1991. Câu lạc bộ bóng rổ Bosna của Sarajevo là đội vô địch châu Âu năm 1979. Đội tuyển bóng rổ quốc gia Nam Tư, giành huy chương trong mọi giải đấu từ năm 1963 đến năm 1990, gồm những vận động viên người Bosna như Dražen Dalipagić và Mirza Delibašić. Bosna và Hercegovina thường được tham gia European Championship in Basketball. Câu lạc bộ bóng rổ nữ Jedinstvo, tại Tuzla, đã giành chức Vô địch châu Âu năm 1989 tại Florence. Câu lạc bộ karate Tuzla-Sinalco của Tuzla giành nhiều chức vô địch Nam Tư nhất, cũng như bốn lần đoạt chức vô địch châu Âu và một lần vô địch Thế giới. Đội tuyển cờ vua Bosna đã bảy lần giành chức vô địch Nam Tư, ngoài ra họ bốn lành giành chức vô địch châu Âu: 1994 tại Lyon, 1999 tại Bugojno, 2000 tại Neum, và 2001 tại Kalitea. Câu lạc bộ cờ Borki Predojević (từ Teslić) đã hai lần giành chức vô địch châu Âu: Litohoreu (Hy Lạp) năm 1999, và Kalitei (Hy Lạp) năm 2001. Vận động viên đấm bốc hạng trung Marjan Beneš đã giành nhiều chức vô địch quốc gia, vô địch Nam Tư và vô địch châu Âu. Năm 1978 ông giành danh hiệu thế giới trước vận động viên Elish Obeda người Bahamas. Một vận động viên đấm bốc hạng trung khác Anton Josipović đã giành huy chương vàng Olympics tại Los Angeles, 1984. Ông cũng giành chức vô địch Nam Tư năm 1982, Vô địch vùng Balkan năm 1983, và Cúp Beograd năm 1985. Bóng đá là môn thể thao được ưa chuộng nhất bại Bosna và Herzergovina. Nó xuất hiện từ năm 1903, nhưng nó chỉ trở nên nổi tiếng sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở mức độ quốc gia, Sarajevo (1967 và 1984), Željezničar (1972) là hai đội bóng đã từng giành chức vô địch Nam Tư. Đội tuyển bóng đá quốc gia Nam Tư cũ có một số cầu thủ là người Bosna, như Josip Katalinski, Dušan Bajević, Miroslav Blažević, Ivica Osim, Safet Sušić, và Mirsad Fazlagić. Trong bóng đá, đội tuyển bóng đá quốc gia Bosna và Hercegovina thời độc lập chưa từng giành vé tham gia Giải vô địch châu Âu nhưng từng một lần tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới vào năm 2014. Bóng đá Bosna từng sản sinh ra những cầu thủ tài năng như thủ môn Asmir Begovic hay tiền đạo đội trưởng Edin Dzeko. Dzeko hiện đang là tay săn bàn số một lịch sử đội tuyển quốc gia với 50 bàn thắng. Các đội tuyển quốc gia Bosna đã cạnh tranh để có được vận động viên xuất sắc nhất năm. Nhiều cầu thủ sinh tại Bosna và Hercegovina lựa chọn chơi cho các quốc gia khác theo xác định sắc tộc của họ bởi được đề xuất mức lương cao hơn từ các đội khác. Ví dụ, Mario Stanić và Mile Mitić đều sinh tại Bosna, nhưng chơi cho Croatia và Serbia. Những cầu thủ quốc tế nổi tiếng khác của Bosna và Hercegovina từng có lựa chọn tương tự là Zoran Savić, Vladimir Radmanović, Zoran Planinić, Aleksandar Nikolić, Savo Milošević, Darijo Srna, Vedran Ćorluka. Bosna và Hercegovina là nhà vô địch thế giới môn bóng chuyền tại Paralympics mùa hè năm 2004. Nhiều người trong số thành viên đội tuyển đã mất chân trong Chiến tranh Bosna. Ẩm thực Ẩm thực Bosna sử dụng nhiều gia vị, nhưng thường với số lượng vừa phải. Nhiều món nhẹ, bởi chúng được nấu với rất nhiều nước, các loại nước chấm hoàn toàn tự nhiên, với số lượng ít hơn các loại nước rau quả trong món. Các nguyên liệu thông thường gồm cà chua, khoai tây, hành, tỏi, hạt tiêu, dưa chuột, cà rốt, bắp cải, nấm, rau bina, zucchini, đậu khô, đậu tươi, mận, sữa, cháo đặc và kem được gọi là pavlaka. Ẩm thực Bosnan cân bằng giữa các ảnh hưởng phương Tây và phương Đông. Hậu quả của gần 500 năm cai trị của Ottoman, thực phẩm Bosna liên quan chặt chẽ tới ẩm thực Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, và các nền ẩm thực của Đế chế Ottoman và Địa Trung Hải. Tuy nhiên, vì những năm cai trị của Áo, có nhiều ảnh hưởng từ Trung Âu. Các món thịt thông thường gồm chủ yếu là thịt bò và thịt cừu. Một số món đặc sản địa phương là ćevapi, burek, dolma, sarma, pilaf, goulash, ajvar và toàn bộ các loại đồ ăn ngọt phương Đông. Các loại rượu ngon nhất địa phương có từ Hercegovina nơi có khí hậu thích hợp cho việc trồng nho. loza Herzegovina (tương tự như grappa Ý nhưng ít ngọt hơn) rất phổ biến. Mận (sljiva/rakija) hay táo (jabukovaca (jabuka = táo)) được sản xuất tại Bosna. Các nhà máy rượu Herzegovinia sản xuất rất nhiều rượu mạnh và cung cấp cho toàn bộ các nhà máy rượu của Nam Tư cũ (rượu mạnh là cơ sở của hầu hết các loại đồ uống có cồn). Hình ảnh
Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ đó và có hiệu lực pháp lý trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Lịch sử Trong giai đoạn nhà nước phong kiến, luật dân sự Việt Nam không được tách ra thành một bộ luật riêng mà được tìm thấy trong các điều khoản của các bộ luật phong kiến như Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức), Nguyễn triều hình luật (Hoàng Việt luật lệ). Đến khi người Pháp chiếm đóng Việt Nam thì các bộ luật dân sự được áp dụng riêng rẽ ở ba kỳ lần lượt xuất hiện. Ví dụ ở Nam Kỳ thì bộ luật dân sự Nam Kỳ giản yếu ra đời năm 1883, bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm 1931 và tại Trung Kỳ là bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật) ra đời năm 1936. Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, do hoàn cảnh chiến tranh với người Pháp nên chính phủ của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn áp dụng các bộ luật dân sự này. Ngày 22 tháng 5 năm 1950, chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 97/SL để "sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật" nhằm sửa đổi một số điều trong các bộ dân luật cũ này. Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959 tòa án tối cao ra chỉ thị số 772/TATC để "đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ của phong kiến đế quốc". Từ thời điểm đó trở đi, tại miền bắc Việt Nam thiếu hẳn bộ luật dân sự thực thụ. Một số mảng của luật dân sự được tách ra thành các bộ luật khác như Luật hôn nhân và gia đình hay các văn bản pháp quy dưới luật như thông tư, chỉ thị, nghị định, pháp lệnh. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực dân sự như thừa kế, quyền sở hữu trí tuệ v.v. không được điều chỉnh trực tiếp. Các quy định về nghĩa vụ dân sự được quy định chủ yếu là các vấn đề về nhà ở, vàng bạc, kim khí quý và đá quý v.v. và nói chung mang nặng tính chất hành chính. Có thể liệt kê một số văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân sự như: Luật hôn nhân gia đình (1986), Luật Quốc tịch (1988), Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (1988), Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh về thừa kế (1990), Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991)... Tuy các pháp lệnh có nhiều nhưng đôi khi chồng chéo và mâu thuẫn với nhau nên đã gây ra nhiều khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ luật Dân sự (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1996). Sau 10 năm thi hành, Bộ luật Dân sự đã có nhiều hạn chế, bất cập như: một số quy định không phù hợp với sự chuyển đổi nhanh của nền kinh tế thị trường, không rõ ràng hay không đầy đủ hoặc còn mang tính hành chính. Nhiều bộ luật mới ra đời có các nội dung liên quan đến Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 nhưng bộ luật này lại không điều chỉnh, sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn giữa chúng cũng như chưa có sự tương thích với các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế. Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự sửa đổi. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2006. Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự sửa đổi lần 2. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2015 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2017. So với quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Dân sự 2015 có một số điểm mới đáng chú ý như: Chính thức cho phép chuyển đổi giới tính Bộ luật Dân sự 2015 quy định, cá nhân chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật; có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi. Quy định cụ thể về lãi suất khi cho vay tiền Bộ luật này cũng cho phép các bên được thỏa thuận lãi suất vay tài sản trong dân sự, nhưng tối đa không quá 20%/năm của khoản tiền vay. Bộ luật Dân sự 2005 quy định tính theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất nêu trên. Quy định cụ thể về thời hiệu chia di sản thừa kế Bộ luật quy định thời hiệu chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản; 10 năm với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Quy định cụ thể về thời hiệu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết về quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, thay vì 02 năm như quy định hiện hành.
Bulgaria (), tên chính thức là Cộng hòa Bulgaria () và còn có tên phiên âm dựa theo tiếng Pháp là Bun-ga-ri là một quốc gia nằm tại khu vực đông nam châu Âu. Bulgaria giáp với România về phía bắc, giáp với Serbia và Bắc Macedonia về phía tây, giáp với Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ về phía nam và cuối cùng giáp với Biển Đen về phía đông. Dãy núi Balkan chạy từ đông sang tây phía bắc Bulgaria. Người Bulgaria gọi dãy núi này là "Núi Già" (Stara Planina). Sông Donau tạo thành phần lớn biên giới phía bắc Bulgaria. Giữa Sofia ở phía tây và Biển Đen là một vùng đồng bằng thấp gọi là thung lũng hoa hồng, trong 3 thế kỷ đã trồng ở khu vực này. Hoa hồng Kazanluk được ưa chuộng và được xuất khẩu do mùi hương riêng biệt của nó, dùng để sản xuất nước hoa. Về phía đông là bờ biển Hắc Hải với những mỏm đá phía bắc và các bãi cát phía nam thu hút du khách khắp thế giới. Vị trí của Bulgaria ở giao lộ quan trọng của hai châu lục khiến đây là nơi tranh giành quyền lực trong nhiều thế kỷ. Là một vương quốc độc lập trong nhiều thế kỷ, Bulgaria đã là một cường quốc lớn trong thời gian dài thời Trung cổ. Bulgaria là một nước có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời tại châu Âu. Đế quốc Bulgaria thứ nhất hùng mạnh đã từng mở rộng lãnh thổ ra khắp vùng Balkan và có những ảnh hưởng văn hóa của họ ra khắp các cộng đồng người Slav tại khu vực này. Vài thế kỉ sau đó, với sự sụp đổ của Đế quốc Bulgaria thứ hai, đất nước này bị Đế quốc Ottoman đô hộ trong gần 5 thế kỉ sau đó. Năm 1878, Bulgaria trở thành một nước quân chủ lập hiến tự trị nằm trong Đế quốc Ottoman. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), một chính phủ được Liên Xô ủng hộ đã được lập ở Bulgaria. Bulgaria đã thực hiện chương trình công nghiệp hóa trong thời kỳ những người cộng sản cầm quyền. Chính quyền Bulgaria đã cải cách dân chủ năm 1989. Năm 1990, Bulgaria đã tổ chức tổng tuyển cử nhiều đảng phái và đã đổi tên từ Cộng hòa Nhân dân Bulgaria thành Cộng hòa Bulgaria ngày nay. Tiến trình chuyển đổi dân chủ và thể chế kinh tế của Bulgaria không dễ dàng do việc mất thị trường truyền thống Liên Xô. Điều này dẫn tới tình trạng đình đốn kinh tế, lạm phát và thất nghiệp gia tăng. Nhiều người Bulgaria đã rời bỏ đất nước. Quá trình cải cách vẫn tiếp tục và năm 2000, Bulgaria đã bắt đầu đàm phán xin gia nhập EU. Nước này là thành viên của NATO từ năm 2004 và thành viên Liên minh châu Âu từ năm 2007. Dân số Bulgaria là 7,7 triệu người với thủ đô là Sofia. Tên gọi Danh xưng Bulgaria bắt nguồn từ Bulgar - một bộ lạc gốc Turk, là những người đầu tiên đã thành lập quốc gia này. Không thể hiểu rõ về nguồn gốc và rất khó để tìm những di liệu còn sót lại trước thế kỷ 4, nhưng có thể chúng bắt nguồn từ từ bulģha trong ngôn ngữ Turk nguyên thủy, nghĩa là "khuấy đảo", "hòa trộn". Và nó mang hàm nghĩa của từ bulgak ("nổi dậy", "rối loạn"). Ý nghĩa của nó còn mở rộng nữa: "nổi loạn", "kích động" và do đó, mang hàm nghĩa "kẻ gây nhiễu". Các nhóm dân tộc ở Nội Á có tên giống nhau về mặt âm vị học thường được mô tả theo các thuật ngữ tương tự: trong thế kỷ thứ 4, người Yết - một trong những bộ tộc tạo nên nhóm Vu Hồ (năm dân tộc man rợ của Trung Quốc thời cổ đại) được miêu tả là cả một "chủng tộc hỗn hợp" và "những kẻ gây rối". Lịch sử Tiền sử và cổ đại Các nền văn hóa tiền sử trên những vùng đất Bulgaria gồm văn hóa Hamangia và văn hóa Vinča thuộc thời kỳ đồ đá mới (6.000 tới 3.000 năm trước), văn hóa Varna eneolithic (5.000 năm trước Công Nguyên; xem thêm Nghĩa địa Varna), và văn hóa Ezero thời kỳ đồ đồng. Niên đại học Karanovo là một thước đo thời tiền sử cho toàn bộ cả vùng Balkan rộng lớn. Người Thracia, một trong ba tổ tiên chính của người Bulgaria hiện đại, đã để lại các dấu vết vẫn còn lại ở vùng Balkan dù đã trải qua nhiều thiên niên kỷ. Người Thracia sống trong những bộ tộc riêng rẽ cho tới khi Vua Teres thống nhất hầu hết các bộ lạc vào khoảng năm 500 trước Công Nguyên bên trong Vương quốc Odrysian, sau này phát triển lên tới đỉnh điểm dưới thời Vua Sitalces (cầm quyền 431-424 trước Công Nguyên) và Vua Cotys I (383–359 trước Công Nguyên). Sau đó Đế quốc Macedonia đã sáp nhập vương quốc Odrysia và Thracia trở thành một thành phần không thể chuyển nhượng trong các chuyến viễn chinh của cả Philip II và Alexander III (Đại đế). Năm 188 trước Công Nguyên người La Mã xâm lược Thrace, và chiến tranh tiếp tục tới năm 45 khi cuối cùng La Mã chinh phục cả vùng. Các nền văn hóa Thracia và La Mã đã hòa nhập ở một số mức độ, dù những truyền thống nền tảng của Thracia vẫn không thay đổi. Vì thế tới thế kỷ thứ IV người Thracia có một bản sắc bản xứ hỗn hợp, như người Công giáo Rôma và vẫn duy trì được một số tín ngưỡng ngoại giáo cổ xưa của họ. Người Slavơ xuất hiện từ quê hương của họ ở đầu thế kỷ thứ VI và tràn ra hầu hết Đông Trung Âu, Đông Âu và Balkans, trong quá trình này họ phân chia thành ba nhóm chính; Tây Slavơ, Đông Slavơ và Nam Slavơ. Một thành phần người Nam Slav ở phía đông đã bị người Thracia đồng hóa trước khi tầng lớp quý tộc Bulgaria tự sáp nhập mình vào Đế quốc Bulgaria đầu tiên. Đế quốc Bulgaria đầu tiên Năm 632 người Bulgar, có nguồn gốc từ Trung Á, đã hình thành, dưới sự lãnh đạo của Khan Kubrat, một nhà nước độc lập bắt đầu được gọi là Đại Bulgaria. Lãnh thổ của nó mở rộng tới hạ lưu sông Danube ở phía tây, Biển Đen và Biển Azov ở phía nam, Sông Kuban ở phía đông, và Sông Donets ở phía bắc. Áp lực từ Khazars đã dẫn tới sự chinh phục Đại Bulgaria ở nửa sau thế kỷ thứ VII. Người kế vị Kubrat, Khan Asparuh, đã cùng một số bộ tộc Bulgar đi về phía hạ lưu những con sông Danube, Dniester và Dniepr (được gọi là Ongal), và chinh phục Moesia và Tiểu Scythia (Dobrudzha) từ Đế quốc Byzantine, mở rộng hãn quốc mới của mình xa thêm nữa về phía Bán đảo Balkan. Một hiệp ước hòa bình với Byzantine năm 681 và việc thành lập thủ đô Bulgar tại Pliska phía nam Danube đánh dấu sự khởi đầu của Đế quốc Bulgaria đầu tiên. Cùng thời điểm đó, một trong những người anh em của Asparuh, Kuber, đã hòa giải với nhóm Bulgar tại Macedonia. Trong cuộc bao vây Constantinople năm 717–718 vị Khan cai trị Bulgaria Tervel đã thực hiện hiệp ước của mình với những người Byzantine bằng cách gửi binh lính tới giúp dân chúng thành phố thủ đô đế chế này. Theo nhà viết sử Byzantine Theophanes, trong trận đánh quyết định người Bulgaria đã giết 22.000 quân Ả Rập, nhờ vậy loại bỏ được mối đe dọa về một cuộc tấn công tổng lực của Ả Rập vào Đông và Trung Âu. Ảnh hưởng và sự mở rộng lãnh thổ của Bulgaria gia tăng thêm nữa trong thời cầm quyền của Khan Krum, người vào năm 811 đã có một thắng lợi quyết định trước quân đội Byzantine dưới sự chỉ huy của Nicephorus I trong Trận Pliska. Thế kỷ thứ VIII và thứ IX là thời gian số người Slavơ đông đảo dần đồng hoá những người Bulgar nói tiếng Turkic (hay Proto-Bulgarians). Năm 864, Bulgaria ở thời vua Boris I Người rửa tội chấp nhận Chính Thống giáo Đông phương. Bulgaria trở thành một cường quốc châu Âu lớn ở thế kỷ thứ IX và thứ 10, trong khi vẫn đấu tranh với Đế quốc Byzantine để giành quyền kiểm soát Balkans. Việc này diễn ra dưới sự cai trị (852–889) của Boris I. Trong thời trị vì của ông, ký tự Cyrill đã phát triển tại Preslav và Ohrid, được sửa đổi từ ký tự Glagolitic do các giáo sĩ Saints Cyril và Methodius phát minh. Ký tự Cyrill trở thành căn bản cho sự phát triển thêm nữa của văn hoá. Những thế kỷ sau này, bảng chữ cái này, cùng với ngôn ngữ Bulgaria cổ, đã trở thành ngôn ngữ viết trí thức (lingua franca) cho Đông Âu, được gọi là chữ Slavơ Nhà thờ. Thời kỳ đỉnh cao mở rộng lãnh thổ của Đế quốc Bulgaria -bao phủ hầu hết Balkan— diễn ra dưới thời Hoàng đế Simeon I Vĩ đại, Sa hoàng (Hoàng đế) đầu tiên của Bulgaria, cầm quyền từ năm 893 tới năm 927. Trận Anchialos (917), một trong những trận đánh đẫm máu nhất thời Trung Cổ. đã đánh dấu một trong những thắng lợi quyết định nhất của Bulgaria trước Đế quốc Byzantine. Tuy nhiên, thành tựu lớn nhất của Simeon là việc phát triển Bulgaria trở thành một nền văn hoá Kitô giáo Slavơ duy nhất và giàu mạnh, trở thành một hình mẫu cho các dân tộc Slavơ khác ở châu Âu và cũng đảm bảo sự tiếp tục tồn tại của nhà nước Bulgaria dù có những lực lượng đe doạ chia rẽ nó thành nhiều mảnh trong suốt lịch sử dài và đầy các cuộc chiến tranh. Giữa thế kỷ thứ X Bulgaria rơi vào giai đoạn suy tàn, bị kiệt quệ bởi các cuộc chiến tranh với Croatia, những cuộc nổi dậy thường xuyên của người Serbia được Byzantine hậu thuẫn, và những cuộc xâm lược của người Magyar và Pecheneg. Vì những nguyên nhân này, Bulgaria sụp đổ trước cuộc tấn công trực diện của Rus' năm 969–971. Sau đó người Byzantine bắt đầu những chiến dịch chinh phục Bulgaria. Năm 971, họ chiếm thủ đô Preslav và bắt Hoàng đế Boris II. Cuộc kháng cự tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Sa hoàng Samuil ở các vùng đất phía tây Bulgaria trong vòng gần nửa thế kỷ. Nước này đã tìm cách hồi phục và đánh đuổi người Byzantine trong nhiều trận đánh lớn, giành được quyền kiểm soát hầu hết Balkan vào năm 991 xâm lược nhà nước Serbia. Nhưng người Byzantine dưới sự lãnh đạo của Basil II ("Kẻ giết người Bulgar") đã tiêu diệt nhà nước Bulgaria năm 1018 sau thắng lợi tại Kleidion. Sau khi đã đánh bại người Bulgaria, Basil II đã làm mù mắt tới 15.000 tù nhân của trận đánh, trước khi thả họ. Bulgaria Byzantine Không có bằng chứng còn lại về bất kỳ một cuộc kháng cự hay nổi dậy lớn nào của người dân hay giới quý tộc Bulgaria trong thập kỷ đầu tiên sau sự thành lập quyền cai trị của Byzantine. Với sự tồn tại của các đối thủ không thể dung hoà với Byzantium như Krakra, Nikulitsa, Dragash và những người khác, sự im ắng này dường như rất khó giải thích. Một số nhà sử học đã giải thích đó là kết quả của một sự nhân nhượng mà Basil II đã trao cho giới quý tộc Bulgaria để giành được lòng trung thành của họ. Ở ngôi vị cao nhất, Basil II đảm bảo tính không thể chia cắt của Bulgaria trong các biên giới địa lý cũ của nó và không chính thức xoá bỏ quyền cai trị địa phương của giới quý tộc Bulgaria, những người đã trở thành một phần của tầng lớp quý tộc Byzantine như là các quan chấp chính hay chỉ huy quân sự. Thứ hai, các tuyên bố đặc biệt (nghị định hoàng gia) của Basil II công nhận tính độc lập của Địa phận Tổng giám mục Bulgaria Ohrid và đặt ra các biên giới của nó, đảm bảo sự tiếp nối của các giáo khu đã tồn tại dưới thời Samuel, tài sản và các quyền ưu tiên của họ. Người dân Bulgaria đã đứng lên chống lại sự cai trị của Byzantine nhiều lần trong thế kỷ XI và một lần nữa ở đầu thế kỷ XII. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất diễn ra dưới sự lãnh đạo của Peter II Delyan (tuyên bố là Hoàng đế tại Belgrade năm 1040 - 1041) và Contantine Bodin (tức Peter III, 1072). Từ giữa thế kỷ XI tới những năm 1150, cả người Norman và người Hungary đều tìm cách xâm lược Bulgaria Byzantine, nhưng không thành công. Giới quý tộc Bulgaria cai trị các tỉnh dưới danh nghĩa Hoàng đế Byzantine cho tới khi Ivan Asen I và Peter IV của Bulgaria bắt đầu một cuộc nổi dậy năm 1185 dẫn tới việc thành lập Đế quốc Bulgaria thứ hai. Đế quốc Bulgaria thứ hai Từ năm 1185, Đế quốc Bulgaria thứ hai tái lập Bulgaria trở thành một cường quốc quan trọng ở Balkan trong hơn hai thế kỷ. Triều đình Asen lập ra thủ đô tại Veliko Tarnovo. Kaloyan, triều đại Asen thứ ba, mở rộng quyền cai trị tới Belgrade, Nish và Skopie (Uskub); ông thừa nhận quyền lực tinh thần tuyệt đối của Giáo hoàng, và nhận được vương miện hoàng gia từ một phái đoàn của Giáo hoàng. Trong trận Adrianople năm 1205, Kaloyan đánh bại các lực lượng của Đế quốc Latinh và vì thế hạn chế được quyền lực của nó ngay từ những năm đầu thành lập. Ivan Asen II (1218–1241) mở rộng sự thống trị tới Albania, Epirus, Macedonia và Thrace. Trong thời cầm quyền của ông, nhà nước đã có sự phát triển văn hoá, với những thành tựu nghệ thuật quan trọng của trường phái nghệ thuật Tarnovo. Triều đại Asen chấm dứt năm 1257, và vì những cuộc xâm lược của Tatar (bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII), các cuộc xung đột bên trong và những cuộc tấn công thường xuyên của người Byzantine và Hungary, sức mạnh quốc gia dần suy giảm. Hoàng đế Theodore Svetoslav (cầm quyền 1300–1322) tái lập sức mạnh của Bulgaria từ năm 1300 trở về sau, nhưng chỉ mang tính tạm thời. Sự bất ổn chính trị tiếp tục gia tăng, và Bulgaria dần mất lãnh thổ. Điều này dẫn tới một cuộc khởi nghĩa nông dân do người chăn lợn, Ivaylo lãnh đạo, cuối cùng ông đã đánh bại được các lực lượng của Hoàng đế và lên ngôi vua. Tới cuối thế kỷ XIV, những sự chia rẽ phe phái giữa các lãnh chúa phong kiến Bulgaria (boyars) đã làm suy yếu đáng kể tính thống nhất của Đế quốc Bulgaria thứ hai. Nó tan rã thành ba nhà nước sa hoàng nhỏ và nhiều công quốc bán độc lập đánh lẫn nhau, và cả với người Byzantine, Hungary, Serb, Venetia, và Genoese. Trong những trận đánh này, người Bulgaria thường liên kết với người Thổ Ottoman. Tình hình tranh cãi và chiến đấu gây thiệt cho cả hai bên tương tự cũng diễn ra ở Byzantine và Seriba. Trong giai đoạn 1365–1370, người Ottoman chinh phục hầu hết các thị trấn và pháo đài của Bulgaria ở phía nam dãy Balkan. Ottoman cai trị Năm 1393, người Ottoman chiếm Tarnovo, thủ đô của Đế quốc Bulgaria thứ hai, sau một cuộc bao vây kéo dài 3 tháng. Năm 1396, Sa hoàng Vidin mất ngôi sau khi bị quân thập tự chinh Công giáo đánh bại tại Trận Nicopolis. Với sự kiện này, người Ottoman cuối cùng đã chinh phục và chiếm đóng Bulgaria. Một đội quân thập tự chinh Ba Lan–Hungary dưới sự chỉ huy của Władysław III của Ba Lan được lập ra để giải phóng Balkan năm 1444, nhưng người Thổ đã đánh bại họ trong trận Varna. Ottoman đã tàn sát người Bulgaria, và họ đã mất hầu hết các di vật văn hoá của mình. Chính quyền Thổ phá huỷ hầu hết các pháo đài trung cổ của Bulgaria để ngăn chặn những cuộc nổi dậy. Các thị trấn và khu vực lớn nơi quyền lực của Ottoman chiếm ưu thế có dân cư rất thưa thớt cho tới tận thế kỷ XIX. Giới quý tộc Bulgaria bị tiêu diệt và tầng lớp nông dân trở thành nông nô cho những lãnh chúa Thổ Nhĩ Kỳ. Người Bulgaria phải trả thuế cao hơn rất nhiều so với dân cư Hồi giáo, và hoàn toàn không có sự bình đẳng về pháp lý với họ. Một sự đối phó từ phía người Bulgaria là việc tăng cường hajduk ('ngoài vòng pháp luật') truyền thống. Những người Bulgaria đã cải theo Hồi giáo, người Pomaks, vẫn giữ lại ngôn ngữ, y phục và một số phong tục thích hợp với Đạo Hồi.. Các nguồn gốc của người Pomaks là chủ đề của một cuộc tranh luận. Trong hai thập niên cuối cùng của thế kỷ XVIII và những thập niên đầu tiên của thế kỷ XIX Bán đào Bankan tan rã vào tình trạng vô chính phủ. Người Bulgaria gọi giai đoạn này là kurdjaliistvo: các băng nhóm người Thổ có vũ trang được gọi là kurdjalii cướp bóc trong vùng. Tại nhiều khu vực, hàng nghìn nông dân bỏ chạy khỏi vùng nông thôn hoặc tới các thị trấn hoặc (thường xuyên hơn) tới các khu vực đồi núi và rừng rú; một số người thậm chí còn vượt qua Danube tới Moldova, Wallachia hay miền nam nước Nga. Trong suốt năm thế kỷ cai trị của Ottoman, người Bulgaria đã tổ chức nhiều nỗ lực để tái lập nhà nước của riêng mình. Sự thức tỉnh dân tộc của Bulgaria đã trở thành một trong những yếu tố chính trong cuộc đấu tranh giải phóng. Thế kỷ XIX chứng kiến sự thành lập Hội đồng Trung ương Cách mạng Bulgaria và Tổ chức Cách mạng Nội địa dưới sự lãnh đạo của các nhân vật giải phóng cách mạng như Vasil Levski, Hristo Botev, Lyuben Karavelov và những người khác. Năm 1876 cuộc khởi nghĩa tháng 4 nổ ra: một trong những cuộc nổi dậy chống Đế quốc Ottoman lớn nhất và được tổ chức tốt nhất của người Bulgaria. Dù bị chính quyền Ottoman đàn áp, người Thổ đã tàn sát khoảng 15.000 người Bulgaria — cuộc nổi dậy (cùng với cuộc nổi dậy tại Bosnia năm 1875) khiến các Cường quốc phải can thiệp trong Hội nghị Constantinople năm 1876, phân định các biên giới của sắc tộc Bulgaria như ở cuối thế kỷ XIX, và tạo lập các thoả thuận pháp lý và chính trị cho việc thành lập hai tỉnh Bulgaria tự trị. Chính phủ Ottoman bác bỏ các quyết định của các Cường quốc. Điều này cho phép Nga tìm kiếm một giải pháp bằng vũ lực mà không có nguy cơ đối đầu quân sự với các Cường quốc khác trong cuộc Chiến tranh Crimea từ năm 1854 tới năm 1856. Công quốc và Vương quốc Trong cuộc Chiến tranh Nga-Thổ, 1877-1878, quân đội Nga cùng với một Binh đoàn România và quân tình nguyện Bulgaria đã đánh bại quân Thổ Ottoman. Hiệp ước San Stefano (3 tháng 3 năm 1878), tạo lập một công quốc Bulgaria tự trị. Nhưng các Cường quốc phương Tây nhanh chóng phản đối hiệp ước, lo ngại rằng một quốc gia Slavơ rộng lớn ở Balkan có thể phục vụ cho các lợi ích của Nga. Điều này dẫn tới Hiệp ước Berlin (1878), về một công quốc Bulgaria tự trị, gồm cả Moesia và vùng Sofia. Alexander, Vương công Battenberg, trở thành Vương công đầu tiên của Bulgaria. Hầu hết Thrace trở thành một phần của vùng tự trị Đông Rumelia, theo đó phần còn lại của Thrace và toàn bộ Macedonia quay trở về dưới chủ quyền của người Thổ Ottoman. Sau cuộc chiến tranh Serbia-Bulgaria và sự thống nhất với Đông Rumelia năm 1885, công quốc Bulgaria tuyên bố mình là một vương quốc hoàn toàn độc lập ngày 5 tháng 10 (22 tháng 9 theo Lịch cũ), 1908, dưới quyền cai trị của Ferdinand I của Bulgaria. Ferdinand, thuộc gia đình công tước Saxe-Coburg-Gotha, trở thành Vương công Bulgaria sau khi Alexander von Battenberg thoái vị năm 1886 sau một cuộc đảo chính do các sĩ quan ủng hộ Nga âm mưu. (Dù nỗ lực phản đảo chính của Stefan Stambolov thành công, Hoàng tử Alexander quyết định không giữ chức vị cai trị Bulgaria mà không có sự đồng thuận của Hoàng đế Aleksandr III của Nga.) Cuộc đấu tranh giải phóng người dân Bulgaria tại Adrianople Vilayet và tại Macedonia tiếp tục trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, lên tới đỉnh cao là cuộc Khởi nghĩa Ilinden-Preobrazhenie do Tổ chức Cách mạng Trong nước Macedonia tổ chức năm 1903. Trong những năm sau khi hoàn toàn độc lập Bulgaria ngày càng trở nên quân sự hoá: Dillon năm 1920 gọi Bulgaria là "Nước Phổ của Balkan" Năm 1912 và 1913, Bulgaria tham gia vào các cuộc chiến tranh Balkan, đầu tiên tham chiến cùng phe với Hy Lạp, Serbia và Montenegro chống lại Đế quốc Ottoman. Cuộc chiến tranh Balkan lần thứ nhất (1912–1913) là một thắng lợi quân sự của Bulgaria, nhưng một cuộc xung đột về việc phân chia Macedonia diễn ra giữa các đồng minh giành chiến thắng. Cuộc chiến tranh Balkan lần thứ hai (1913) đẩy Bulgaria chống lại Hy Lạp và Serbia, cùng với Romania và Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi bị đánh bại trong cuộc chiến này, Bulgaria mất nhiều vùng lãnh thổ đã có được trong cuộc chiến lần thứ nhất, cũng như Miền nam Dobrudzha và nhiều phần của vùng Macedonia. Trong Thế chiến I, Bulgaria tham chiến với tư cách đồng minh của Liên minh Trung tâm. Mặc dù bước vào cuộc chiến với 1.200.000 quân hùng mạnh (chiếm hơn 1/4 dân số đất nước) và giành thắng lợi quyết định tại Doiran và Dobrich, Bulgaria đầu hàng vào năm 1918. Quân đội Bulgaria phải chịu 300.000 thương vong, gồm 100.000 người chết. Thất bại năm 1918 khiến nước này thêm một lần mất thêm lãnh thổ (Western Outlands cho Serbia, Tây Thrace cho Hy Lạp và vùng Nam Dobrudzha mới tái chinh phục được cho România). Các cuộc chiến tranh Balkan và Thế chiến I dẫn tới một làn sóng tị nạn của hơn 250.000 người Bulgaria từ Macedonia, Đông và Tây Thrace và Nam Dobrudzha. Trong những năm 1930 nước này gặp phải tình trạng bất ổn chính trị, dẫn tới sự thành lập chính quyền quân sự, cuối cùng biến thành một chế độ độc tài của Vua Boris III (cầm quyền 1918–1943). Sau khi giành lại được quyền kiểm soát Nam Dobrudzha năm 1940, Bulgaria liên minh với Phe Trục, dù họ không tham gia vào Chiến dịch Barbarossa (1941) và không bao giờ tuyên chiến với Liên bang Xô viết. Trong Thế chiến II Phát xít Đức đã cho phép Bulgaria chiếm nhiều vùng của Hy Lạp và của Nam Tư, dù quyền quản lý dân cư và lãnh thổ vẫn nằm trong tay người Đức. Bulgaria là một trong ba quốc gia duy nhất (cùng với Phần Lan và Đan Mạch) cứu được toàn bộ dân cư Do Thái (khoảng 50.000 người) khỏi các trại tập trung Phát xít qua những cách đưa ra lý lẽ và trì hoãn trước các yêu cầu của Đức. Tuy nhiên, Phát xít đã trục xuất hầu như toàn bộ dân Do Thái ở Nam Tư và các lãnh thổ Hy Lạp do Bulgaria chiếm đóng tới Trại tập trung Treblinka ở Ba Lan bị chiếm đóng. Thời kỳ xã hội chủ nghĩa Mùa hè năm 1943, Boris III bất ngờ qua đời, và nước này rơi vào tình trạng hỗn loạn chính trị khi cuộc chiến đổi chiều với Phát xít Đức và phong trào Cộng sản giành được nhiều quyền lực. Đầu tháng 9 năm 1944, Liên Xô tuyên chiến với Bulgaria vì nước này là đồng minh của Đức, và sớm đánh bại nước này. Điều này cho phép Đảng Công nhân Bulgaria lên nắm quyền lực và thành lập một nhà nước cộng sản chủ nghĩa. Chế độ mới đưa Bulgaria quay sang chống lại Phát xít. Mặt trận Tổ quốc, một liên minh chính trị do những người Cộng sản chiếm đa số, lên nắm chính phủ năm 1944 và Đảng Cộng sản tăng số thành viên từ 15.000 lên 250.000 người trong sáu tháng sau đó. Họ thiết lập nhà nước mới với cuộc cách mạng ngày 9 tháng 9 năm đó. Tuy nhiên, Bulgaria mãi tới năm 1946 mới trở thành một nhà nước cộng hoà nhân dân. Nước này thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô, cùng với Georgi Dimitrov (Thủ tướng từ năm 1946 tới năm 1949) là nhà lãnh đạo có ảnh hưởng nhất của Bulgaria. Nước này thành lập nền kinh tế kế hoạch kiểu Liên Xô, dù một số chính sách theo hướng thị trường đã xuất hiện ở dạng thực nghiệm dưới thời Todor Zhivkov (Thư ký thứ nhất, 1954 tới năm 1989). Tới giữa những năm 1950 tiêu chuẩn sống tăng lên đáng kể, vào năm 1957 các nông trang viên tập thể lần được hưởng hệ thống hưu bổng và an sinh xã hội nông nghiệp đầu tiên của Đông Âu. Todor Zhivkov là người nắm quyền thực tế ở nước này từ năm 1956 tới năm 1989, vì thế trở thành một trong những lãnh đạo cầm quyền lâu nhất ở Khối Đông Âu. Zhivkov biến Bulgaria trở thành một trong những đồng minh đáng tin cậy nhất của Liên Xô, và gia tăng tầm quan trọng của nó trong Comecon. Con gái ông Lyudmila Zhivkova trở thành nhân vật rất nổi bật trong nước khi khuyến khích di sản, văn hoá và nghệ thuật quốc gia trên bình diện quốc tế. Mặt khác, một chiến dịch đồng hoá bắt buộc hồi cuối những năm 1980 với sắc tộc Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến khoảng 300.000 người Thổ Bulgaria di cư tới Thổ Nhĩ Kỳ. Nước Cộng hoà Nhân dân chấm dứt tồn tại năm 1989 như nhiều nhà nước XHCN khác tại Đông Âu, cũng như chính Liên bang Xô viết, bắt đầu tan rã. Phe đối lập buộc Zhivkov và cánh tay phải của ông Milko Balev phải từ chức ngày 10 tháng 11 năm 1989. Cộng hoà Bulgaria Tháng 2 năm 1990, Đảng Cộng sản tự nguyện dừng thi hành nhà nước độc đảng, vào tháng 6 năm 1990 cuộc bầu cử đa đảng diễn ra, với chiến thắng thuộc phái ôn hoà của Đảng Cộng sản (đã đổi tên thành Đảng Xã hội Bulgaria — BSP). Tháng 7 năm 1991, nước này thông qua một hiến pháp mới quy định về một Tổng thống khá ít quyền lực và một Thủ tướng có trách nhiệm về lập pháp. Thập niên 1990 là giai đoạn nước này có tỷ lệ thất nghiệp cao, lạm phát cao và không ổn định cũng như sự bất bình của dân chúng. Từ năm 1989, Bulgaria đã tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng và tư nhân hoá nền kinh tế của mình, nhưng những khó khăn kinh tế và một làn sóng tham nhũng khiến hơn 800.000 người Bulgaria, hầu hết là các nhà chuyên môn có trình độ, di cư trong một cuộc "chảy máu chất xám". Gói cải cách được đưa ra năm 1997 đã khôi phục sự tăng trưởng kinh tế, nhưng dẫn tới sự gia tăng bất bình đẳng xã hội. Bulgaria trở thành một thành viên của NATO năm 2004 và của Liên minh châu Âu năm 2007, và US Library of Congress Federal Research Division đã thông báo trong năm 2006 rằng nước này nói chung có các thành tích tự do ngôn luận và nhân quyền tốt. Năm 2007 A.T. Kearney/Tạp chí Foreign Policy xuất bản Chỉ số Toàn cầu hoá xếp Bulgaria đứng hàng 36 (giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Iceland) trong số 122 quốc gia. Địa lý Về địa lý và khí hậu, Bulgaria có đặc trưng đáng chú ý ở sự đa dạng với các phong cảnh từ các đỉnh núi tuyết phủ tại Alpine ở Rila, Pirin và dãy núi Balkan cho tới bờ Biển Đen ôn hoà và nắng ấm; từ kiểu đặc trưng lục địa Đồng bằng Danub (Moesia cổ) ở phía bắc tới khí hậu ảnh hưởng Địa Trung Hải tại các thung lũng thuộc Macedonia và tại các vùng đất thấp phía cực nam Thrace. Về tổng thể Bulgaria có khí hậu ôn hoà, với mùa đông lạnh và mùa hè nóng. Hiệu ứng ngăn chặn của dãy núi Balkan có một số ảnh hưởng trên khí hậu ở khắp nước: bắc Bulgaria có nhiệt độ thấp hơn và có lượng mưa cao hơn các vùng đất thấp phía nam. Bulgaria gồm các phần của các vùng từng được biết tới ở thời cổ đại là Moesia, Thrace, và Macedonia. Vùng núi non phía tây nam đất nước có hai dãy núi thuộc Alpine — Rila và Pirin — và ở xa hơn về phía đông là Núi Rhodope thấp hơn nhưng dày đặc hơn. Rặng Rila có những đỉnh cao nhất trên Bán đảo Balkan, Musala, ở độ cao 2925m; dãy dài của dãy núi Balkan chạy hướng đông tây qua trung tâm đất nước, phía bắc của Thung lũng Hoa hồng nổi tiếng. Vùng đồi và đồng bằng nằm ở phía đông nam, dọc theo bờ Biển Đen, và dọc theo con sông chính của Bulgaria, sông Danube, ở phía bắc. Strandzha là núi cao nhất ở phía đông nam. Vùng đông bắc Dobrudzha ít có đồi núi. Bán đảo Balkan có tên từ dãy núi Balkan hay Stara planina chạy qua trung tâm Bulgaria và mở rộng tới vùng phía đông Serbia. Bulgaria có trữ lượng quặng mangan lớn ở phía đông bắc và uranium ở phía tây nam, cũng như một trữ lượng lớn than và các loại quặng đồng, chì, kẽm và vàng. Các loại quặng khác có trữ lượng nhỏ hơn gồm sắt, bạc, chromite, nickel, bismuth và các loại khác. Bulgaria có nhiều khoáng sản phi kim loại như đá muối, thạch cao, kaolin và marble. Nước này có mạng lưới sông dày đặc với khoảng 540 con sông, đa số chúng -ngoại trừ con sông Danube nổi tiếng— ngắn và có mực nước thấp. Đa số các con sông chảy qua các vùng núi non. Con sông lớn nhất nằm hoàn toàn bên trong lãnh thổ Bulgaria, sông Iskar, có chiều dài 368 km. Các con sông lớn khác gồm sông Struma và sông Maritsa ở phía nam. Các dãy núi Rila và Pirin có khoảng 260 hồ băng; nước này cũng có nhiều hồ nằm trên bò Biển Đen và hơn 2.200 hồ đập. Có nhiều suối nước khoáng, chủ yếu nằm ở phía tây nam và trung tâm đất nước dọc theo các đứt gãy giữa các dãy núi. Lượng mưa ở Bulgaria trong khoảng 630mm mỗi năm. Tại các vùng đất thấp lượng mưa trong khoảng từ 500mm và 800mm, và tại các vùng núi trong khoảng từ 1000mm và 1400mm mỗi năm. Các vùng khô hơn gồm Dobrudja và dải bờ biển phía bắc, trong khi các vùng cao hơn thuộc Rila, Pirin, Núi Rhodope, Stara Planina, Núi Osogovska và Vitosha có lượng mưa trung bình lớn hơn. Đa dạng sinh học và vấn đề về môi trường Sự tương tác về khí hậu, thủy văn, địa chất và địa hình là điều kiện để các loài thực vật và động vật tại quốc gia này phát triển phong phú và đa dạng. Bulgaria là một trong những khu vực đa dạng sinh học nhất châu Âu, Với 3 vườn quốc gia, 11 công viên tự nhiên, 16 khu dự trữ sinh quyển và 565 khu bảo tồn. Hơn 35% diện tích đất được bao phủ bởi rừng, nơi tập trung một số cây cổ nhất trên thế giới, chẳng hạn như thông Baikushev và sồi Granit. Hệ thực vật bao gồm hơn 3.800 loài thực vật có mạch, trong đó có 170 loài đặc hữu và 150 loài có nguy cơ tuyệt chủng. Một danh sách kiểm tra các loại nấm của Bulgaria đã báo cáo rằng có hơn 1.500 loài trong nước. Các loài động vật đặc trưng: cú, Alectoris graeca, Tichodroma muraria, hươu đỏ, gà lôi và Chó rừng. Năm 1998, chính phủ Bungari đã phê duyệt Chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia, một chương trình toàn diện tìm kiếm bảo tồn hệ sinh thái địa phương, bảo vệ các loài đang bị đe dọa và bảo tồn nguồn gen. Bulgaria có một số khu vực Natura 2000 lớn nhất ở châu Âu, chiếm 33,8% lãnh thổ của nó. Nước này cũng đã thông qua Nghị định thư Kyoto và đạt được mục tiêu cắt giảm thải carbon dioxide 30% từ năm 1990 đến năm 2009. Tuy nhiên, ô nhiễm từ các nhà máy từ công trình luyện kim và nạn phá rừng nghiêm trọng tiếp tục gây ra những vấn đề lớn đối với sức khỏe và phúc lợi của người dân. Các khu vực đô thị bị ảnh hưởng bởi giao thông ô tô và các nhà máy điện chạy bằng than. Một trong số đó, trạm Maritsa Iztok-2, với việc sử dụng than non, gây ra thiệt hại cao nhất đến sức khỏe và môi trường trong toàn Liên minh châu Âu. Việc sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp và hệ thống thoát nước thải công nghiệp cổ xưa gây ô nhiễm đất và việc sử dụng hóa chất và chất tẩy rửa gây ô nhiễm nước. Hơn 75% bề mặt trên các sông đã đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng tốt. Cải thiện chất lượng nước bắt đầu vào năm 1998 và duy trì xu hướng cải thiện vừa phải. Theo Chỉ số hoạt động môi trường năm 2012 của Đại học Yale, Bulgaria là một "thành viên thi hành khiêm tốn" trong việc bảo vệ môi trường. Chính trị Từ năm 1991 Bulgaria đã là một quốc gia dân chủ, đơn nhất cộng hoà nghị viện hiến pháp. Nước này đã trở thành một thành viên của Liên hiệp quốc năm 1955, và là một thành viên sáng lập của OSCE năm 1995. Với tư cách một Đối tác Tham vấn của Hiệp ước Bắc Cực, Bulgaria đã tham gia vào ban quản lý các lãnh thổ nằm ở phía nam vĩ độ 60° nam. Quốc hội hay Narodno Sabranie (Народно събрание) gồm 240 đại biểu, với nhiệm kỳ 4 năm và được bầu lên bởi nhân dân. Một đảng hay liên minh phải giành tối thiểu 4% phiếu bầu để có đại diện trong nghị viện. Quốc hội có quyền ban hành pháp luật, thông qua ngân sách, lập kế hoạch bầu cử tổng thống, lựa chọn và bãi chức Thủ tướng và các bộ trưởng khác, tuyên chiến, triển khai quân đội ở nước ngoài và thông qua các hiệp ước và thoả thuận quốc tế. Sau cuộc bầu cử năm 2013, đảng Các công dân vì sự phát triển châu Âu của Bulgaria (GERB) đã thắng cử với 97 ghế, 30,5% phiếu bầu phổ thông. Điều này làm cho GERB trở thành đảng cầm quyền đầu tiên liên tiếp thắng lợi trong lịch sử Bulgaria hậu cộng sản. Tuy nhiên, sự thiếu sự ủng hộ từ các đảng khác và được chỉ định thành lập một chính phủ mới, lãnh đạo đảng GERB - Boyko Borisov từ chối đề nghị và vì vậy GERB trở thành đảng đối lập. Tuy nhiên, do sự sụp đổ của chính phủ liên minh vào năm 2014, GERB đã quay trở lại nắm quyền lực sau một cuộc bầu cử ngắn. Hệ thống tư pháp gồm các toà án vùng, quận và phúc thẩm, cũng như một Toà Phá án Tối cao. Ngoài ra, Bulgaria có một Toà án Hành chính Tối cao và một hệ thống toà án quân sự. Tổng thống Bulgaria là nguyên thủ quốc gia và tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Ông cũng là chủ tịch Hội đồng Tư vấn An ninh Quốc gia. Tuy không thể đưa ra bất kỳ điều luật nào ngoài việc đề xuất sửa đổi Hiến pháp, Tổng thống có thể từ chối một điều luật buộc nó phải quay lại trải qua quá trình tiếp tục tranh luận, dù nghị viện có thể bác bỏ sự phủ quyết của tổng thống bằng một đa số đại biểu. Bulgaria trở thành thành viên của Liên hợp quốc vào năm 1955 và từ năm 1966 đã là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an ba lần, gần đây nhất là từ năm ​​2002 đến 2003. Là một trong số các quốc gia thành lập Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) vào năm 1975. Hội nhập châu Âu - Đại Tây Dương là một ưu tiên kể từ khi Cộng sản sụp đổ, mặc dù lãnh đạo Cộng sản cũng có nguyện vọng rời khỏi Hiệp ước Warszawa và gia nhập Cộng đồng châu Âu vào năm 1987. Bulgaria gia nhập NATO ngày 29 tháng 3 năm 2004 và ký Hiệp ước gia nhập Liên minh châu Âu vào 25 tháng 4 năm 2005, được bầu 17 thành viên vào trong Nghị viện châu Âu. , và trở thành thành viên chính thức vào ngày 1 tháng 1 năm 2007. Ngoài ra, nước này còn có sự hợp tác kinh tế và ngoại giao ba bên với România và Hy Lạp, quan hệ tốt với Trung Quốc, Việt Nam và mối quan hệ lịch sử với Nga. Quân đội Quân đội Bulgaria gồm ba nhánh chính – lục quân, hải quân và không quân. Ở thời điểm năm 2009, chi tiêu quân sự chiếm khoảng 1.98% GDP. Sau một loạt các cuộc cắt giảm năm 1989, quân đội thường trực nước này chưa tới 45.000 người , giảm từ gần 200.000 năm 1988. Các lực lượng dự trữ gồm 303.000 binh lính và sĩ quan. Một số nhánh bán quân sự, như biên phòng và quân đội xây dựng đường sắt có tồn tại và có khoảng 34.000 người. Các lực lượng vũ trang có các thiết bị khá hiện đại của Liên Xô, như máy bay chiến đấu MiG-29, tên lửa đất đối không SA-6 Gainful và SA-10 Grumble và tên lửa đạn đạo tầm ngắn SS-21 Scarab. Quân đội Bulgaria đã tham gia vào nhiều nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, Bosna và Hercegovina, Kosovo, Afghanistan và Iraq. Ở thời điểm năm 2009, Bulgaria có hơn 700 nhân viên quân sự được triển khai ở nước ngoài, chủ yếu tại Afghanistan (610 người), tại Bosna và Herzegovina (khoảng 100 người) và tại Kosovo (khoảng 50 người). Năm 2008 Bulgaria đã bãi bỏ nghĩa vụ quân sự với các công dân của họ. Hải quân và không quân Bulgaria đã hoàn toàn chuyên nghiệp hoá năm 2006, và các lực lượng lục quân tiếp nối vào cuối năm 2008. Các lực lượng đặc biệt đã tiến hành các phi vụ với SAS, Delta Force, KSK, và Spetsnaz của Nga. Tháng 4 năm 2006 Bulgaria và Hoa Kỳ đã ký một thoả thuận hợp tác quốc phong theo đó đưa các căn cứ không quân tại Bezmer (gần Yambol) và Graf Ignatievo (gần Plovdiv), trại huấn luyện Novo Selo (gần Sliven), và một trung tâm hậu cần tại Aytos trở thành cơ sở quân sự chung. Tạp chí Foreign Policy magazine coi Căn cứ Không quân Bezmer là một trong sáu địa điểm hải ngoại quan trọng nhất do USAF sử dụng. Các tỉnh và huyện Bulgaria là một quốc gia đơn nhất. Kể từ những năm 1880, số lượng các đơn vị quản lý lãnh thổ đã thay đổi từ 7 đến 26. Giữa năm 1987 và năm 1999, cơ cấu hành chính gồm chín tỉnh (oblasti, số ít: oblast). Một cơ cấu hành chính mới được áp dụng song song với sự phân cấp của hệ thống kinh tế. Nó bao gồm 27 tỉnh và một tỉnh thủ đô (Sofia-Grad). Tất cả các trên được đặt tên theo thủ phủ của nó. Các tỉnh chia thành 264 huyện. Các huyện được điều hành bởi các thị trưởng, những người này được bầu vào nhiệm kỳ bốn năm, và được bầu trực tiếp bởi Hội đồng thành phố. Bulgaria là một quốc gia tập trung cao, nơi Hội đồng Bộ trưởng trực tiếp bổ nhiệm các thống đốc khu vực và tất cả các tỉnh và thành phố phụ thuộc rất nhiều vào nó để tài trợ. Kinh tế Bulgaria có một nền kinh tế thị trường tự do mở và đã công nghiệp hoá, với một khu vực tư nhân lớn và khá phát triển cùng một số doanh nghiệp chiến lược thuộc sở hữu nhà nước. Ngân hàng Thế giới xếp hạng nước này là một "nền kinh tế có thu nhập trên trung bình". Bulgaria đã có tăng trưởng kinh tế nhanh , thậm chí dù nước này vẫn bị xếp hạng là quốc gia thành viên có thu nhập thấp nhất của EU. Theo dữ liệu của Eurostat, GDP theo sức mua tương đương trên đầu người của Bulgaria ở mức 40% mức trung bình của EU năm 2008. Quỹ Tiền tệ Quốc tế ước tính GDP trên đầu người của Bulgaria ở mức $21,242 năm 2016, hay bằng một phần ba mức của Bỉ. Nền kinh tế dựa chủ yếu vào công nghiệp và nông nghiệp, dù khu vực dịch vụ đang đóng góp ngày càng nhiều hơn vào tăng trưởng GDP. Bulgaria sản xuất một lượng lớn hàng chế tạo và nguyên liệu thô như sắt, đồng, vàng, bismuth, than, điện, nhiên liệu dầu mỏ đã tinh lọc, các thiết bị xe hơi, vũ khí và vật liệu xây dựng. Tính đến năm 2016, GDP của Bulgaria đạt 50.446 USD, đứng thứ 81 trên thế giới và đứng thứ 26 châu Âu. Vì có tai tiếng về nạn tham nhũng cao, và rõ ràng thiếu sự kiên quyết đấu tranh với tình trạng tham nhũng ở các cấp độ cao, Liên minh châu Âu đã cho đóng băng một phần các khoản vốn khoảng €450 triệu và có thể đóng băng thêm nữa nếu chính quyền Bulgaria không thể hiện quyết tâm trong việc đấu tranh chống tham nhũng. Bulgaria đã chế ngự được tình trạng lạm phát từ cuộc khủng hoảng kinh tế sâu năm 1996–1997, nhưng những con số cho thấy tỷ lệ lạm phát đã gia tăng lên tới 12.5% trong năm 2007. Nạn thất nghiệp đã giảm từ hơn 17% hồi giữa thập niên 1990 xuống còn gần 7% năm 2007, nhưng ở một số vùng nông nghiệp tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao. Tình trạng lạm phát ở Bulgaria đồng nghĩa với việc nước này được chấp nhận vào eurozone sẽ không thể diễn ra cho tới năm 2013–2014. Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức khá thấp khoảng 6.3% năm 2008, nhưng đã tăng lên tới 8% năm 2009. Tăng trưởng GDP năm 2008 vẫn ở mức cao (6%), nhưng đã hầu như xuống mức âm năm 2009. Cuộc khủng hoảng có dấu ấn tiêu cực chủ yếu trên ngành công nghiệp, giảm 10% trên chỉ số sản xuất công nghiệp quốc gia, 31% trong công nghiệp mỏ, và 60% trong ngành sản xuất thép và kim loại. Chính phủ dự đoán mức sụt giảm 2.2% của GDP trong năm 2010, với con số thâm hụt ngân sách 0.7%. Các ngành kinh tế Sản lượng nông nghiệp đã giảm về tổng thể kể từ năm 1989, nhưng sản xuất đã gia tăng trong , và cùng với các ngành công nghiệp liên quan như chế biến thực phẩm nó vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trồng cấy chiếm tỷ lệ lớn hơn chăn nuôi. Thiết bị nông nghiệp gồm hơn 150.000 máy cày và 10.000 máy gặt đập liên hợp, cùng một phi đội máy bay hạng nhẹ lớn. Bulgaria là một trong những nhà sản xuất sản phẩm nông nghiệp hàng đầu thế giới như hồi (thứ 6 thế giới), hạt hướng dương (11), mâm xôi (13), thuốc lá (15), hạt tiêu (18) và sợi lanh (19). Dù Bulgaria có trữ lượng nhiên liệu thiên nhiên như dầu mỏ và khí khá thấp, ngành công nghiệp năng lượng phát triển cao của nước này đóng một vai trò tối quan trọng tại vùng Balkan. Vị trí địa lý chiến lược của Bulgaria biến nó trở thành một cổng quá cảnh và phân phối dầu mỏ và khí tự nhiên chính từ Nga tới Tây Âu và các quốc gia vùng Balkan khác. Về sản xuất điện trên đầu người, nước này xếp hàng thứ tư tại Đông Âu. Ngoài ra, Bulgaria có một ngành công nghiệp hạt nhân mạnh vì các mục đích hoà bình. nhà máy điện hạt nhân duy nhất của Bulgaria nằm ở vùng phụ cận Kozloduy, và có tổng công suất 3.760 MW. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân thứ hai đã được gần Belene với công suất dự tính 2.000 MW. Các nhà máy nhiệt điện (TPPs) sản xuất một lượng điện khá lớn, với hầu hết tập trung tại Khu phức hợp Maritsa Iztok. Vào năm 2009, nước này có mức độ gia tăng sản xuất điện từ các nguồn có thể tái tạo như điện gió, điện mặt trời khá vững chắc, dù vẫn phải dựa chủ yếu vào các nhà máy nhiệt điện và điện hạt nhân. Vì sở hữu rất nhiều rừng và đất đai nông nghiệp, biomass có thể là một nguồn cung cấp điện lớn. Điện gió cũng có tiềm năng cao, với công suất tiềm năng lên tới 3.400 MW. Vào năm 2009, Bulgaria có hơn 70 turbine gió với tổng công suất 112.6 MW, và có những kế hoạch tăng gấp ba lần công suất lên 300 MW vào năm 2010. Công nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Dù Bulgaria không có trữ lượng lớn về dầu mỏ và khí tự nhiên, nước này sản xuất ra một số lượng đáng kể khoáng chất, kim loại và điện. Bulgaria là nhà sản xuất dầu mỏ hạng thấp (thứ 97 trên thế giới) với tổng sản lượng 3.520 bbl/ngày. Các nhà thăm dò phát hiện ra giếng dầu đầu tiên của Bulgaria gần Tyulenovo năm 1951. Trữ lượng được chứng minh khoảng 15.000.000 bbl. Sản xuất khí tự nhiên đã sụt giảm mạnh hồi cuối thập niên 1990. Trữ lượng khí tự nhiên được chứng minh khoảng 5.663 bln. cu m. Khai mỏ là một nguồn thu xuất khẩu chủ yếu, và đã trở thành yếu tố chủ chốt của nền kinh tế Bulgaria. Nước này là nhà sản xuất than đứng hạng 19 thế giới, đứng thứ 9 về sản xuất bismuth, đứng thứ 19 về sản xuất đồng, và 26 về kẽm. Luyện kim sắt cũng có tầm quan trọng lớn. Hầu hết sản lượng thép và gang có từ Kremikovtsi và Pernik, với một cơ sở luyện kim thứ ba tại Debelt. Về sản xuất thép và sản lượng thép trên đầu người nước này đứng đầu vùng Balkan. Các nhà máy tinh luyện chì và kẽm lớn nhất nằm tại Plovdiv (nhà máy tinh luyện lớn nhất giữa Ý và dãy núi Ural), Kardzhali và Novi Iskar; đồng tại Pirdop và Eliseina, nhôm tại Shumen. Về sản lượng nhiều loại kim loại trên đầu người, như kẽm và sắt, Bulgaria đứng hạng nhất ở Đông Âu. Khoảng 14% tổng sản lượng công nghiệp liên quan tới chế tạo máy và 20% nhân lực trong lĩnh vực này. Tầm quan trọng của nó đã giảm bớt kể từ năm 1989. Du lịch Năm 2007 tổng số 5.200.000 du khách đã tới Bulgaria, biến nước này trở thành địa điểm thu hút du khách hàng thứ 39 thế giới. Du khách từ Hy Lạp, Romania và Đức chiếm 40%. Một số lượng lớn du khách Anh (+300.000), Nga (+200.000), Serbia (+150.000), Ba Lan (+130.000) và Đan Mạch (+100.000) tới thăm Bulgaria. Hầu hết trong số họ đều bị lôi cuốn bởi các phong cảnh tươi đẹp và đa dạng, các di sản văn hoá và lịch sử được bảo tồn tốt, và sự tĩnh lặng của các vùng nông thôn và miền núi. Các địa điểm du lịch chính gồm thủ đô Sofia, các khu resort ven biển như Albena, Sozopol, Bãi cát Vàng và Bãi biển Nắng; và các khu resort mùa đông như Pamporovo, Chepelare, Borovetz và Bansko. Các địa điểm du lịch vùng thôn quê như Arbanasi và Bozhentsi là nơi có các truyền thống sắc tộc được bảo tồn tốt. Các địa điểm thu hút du khách khác gồm Tu viện Rila từ thế kỷ thứ X và lâu đài Euxinograd thế kỷ XIX. Khoa học, công nghệ, viễn thông và vận tải Bulgaria chỉ chi 0.4% GDP cho nghiên cứu khoa học, hay khoảng $ 376 triệu năm 2008. Nước này có truyền thống mạnh trong toán học, thiên văn học, vật lý và công nghệ hạt nhân và giáo dục định hướng khoa học, và có kinh nghiệm khá lớn trong nghiên cứu dược. Viện Hàn lâm Khoa học Bulgaria (BAS), cơ quan khoa học hàng đầu của đất nước, tụ tập hầu hết các nhà nghiên cứu của Bulgaria làm việc trong rất nhiều cơ sở của nó. Các nhà khoa học Bulgaria đã có nhiều phát minh và sáng tạo quan trọng mang tính cách mạng trên bình diện thế giới. máy tính điện tử số đầu tiên của thế giới, do nhà khoa học người Bulgaria-Mỹ John Vincent Atanasoff thiết kế; đồng hồ điện tử số đầu tiên (Peter Petroff), chiếc máy bay ném bom đầu tiên (đại uý Simeon Petrov); lý thuyết động lực phân tử về hình thành tinh thể và phát triển tinh thể (của Ivan Stranski) và photoelectrets (Georgi Nadjakov), đây là một bước quan trọng trong việc phát triển máy photocopy đầu tiên. Bulgaria cũng là quốc gia thứ 6 trên thế giới có nhà du hành đi vào vũ trụ. Thiếu tướng Georgi Ivanov trên tàu Soyuz 33 (1979), tiếp đó là trung tá Alexander Alexandrov trên tàu Soyuz TM-5 (1988). Công nghệ thông tin là một trong số các nhánh khoa học phát triển nhất của Bulgaria, vào những năm 1980 nước này đã được gọi là Thung lũng Silicon của Khối Đông Âu. Theo báo cáo của Brainbench Global IT, Bulgaria xếp thứ nhất ở châu Âu về số chuyên gia IT trên đầu người và đứng thứ 8 thế giới về tổng số chuyên gia ICT, vượt xa một số nước có quy mô dân số lớn hơn nhiều. Ngoài ra, Bulgaria cũng là nước có siêu máy tính mạnh nhất ở Đông Âu (một trong top 100 trên thế giới vào năm 2009), một IBM Blue Gene/P, đi vào hoạt động tháng 9 năm 2008 tại Cơ quan Công nghệ Thông tin Nhà nước. Những năm sau 2000 đã chứng kiến một sự gia tăng mạnh số lượng người sử dụng Internet: năm 2000, có 430.000 người, năm 2004 – 1.545.100, và năm 2006 – 2.2 triệu người. Bulgaria có vị trí địa lý chiến lược có tầm quan trọng độc nhất. Từ những thời cổ đại, nước này đã là ngã tư đường chính giữa châu Âu, châu Á và châu Phi. Năm trong số mười Hành lang xuyên châu Âu chạy qua lãnh thổ nước này, tổng chiều dài đường bộ của Bulgaria là 102.016 km, trong đó có 93.855 km trải nhựa và 441 km là đường cao tốc. Nước này có nhiều kế hoạch xây dựng đường cao tốc, đang được tiến hành hay đã xây dựng một phần: Đường cao tốc Trakiya, đường cao tốc Hemus, đường cao tốc Cherno More, đường cao tốc Struma, đường cao tốc Maritza và đường cao tốc Lyulin. Bulgaria cũng có 6500 km đường sắt, hơn 60% đã được điện khí hoá. Có một dự án trị giá €360.000.000 triệu để hiện đại hoá và điện khí hoá tuyến đường sắt Plovdiv–Kapitan Andreevo. Tuyến đường sắt cao tốc duy nhất trong vùng, giữa Sofia và Vidin, sẽ đi vào hoạt động năm 2017, với chi phí €3.000.000.000. Giao thông đường không đá phát triển khá toàn diện. Bulgaria có sáu sân bay quốc tế chính — tại Sofia, Burgas, Varna, Plovdiv, Rousse và Gorna Oryahovitsa. Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ năm 1989, hầu hết các sân bay nội địa nhỏ đều bị bỏ hoang không sử dụng khi các chuyến bay nội địa giảm sút. Nước này duy trì nhiều sân bay quân sự và nông nghiệp. 128 trong tổng số 213 sân bay ở Bulgaria có đường băng cứng. Các cảng quan trọng nhất và có lượng vận tải hàng hoá lớn nhất là Varna và Burgas. Burgas, Sozopol, Nesebar và Pomorie là những cảng hỗ trợ cho các đội tàu đánh cá. Các cảng lớn trên sông Donau gồm Rousse và Lom (phục vụ cho thủ đô). Nhân khẩu Trong những năm Bulgaria là một trong những nước có tỷ lệ tăng dân số thấp nhất thế giới. Tăng trưởng dân số âm đã diễn ra từ đầu thập niên 1990, vì sụp đổ kinh tế và di cư cao. Năm 1989 dân số nước này có 9.009.018 người, giảm dần xuống còn 7.950.000 năm 2001 và 7.606.000 năm 2009. Dân số có tỷ lệ sinh 1.48 trẻ em trên phụ nữ năm 2008. Tỷ lệ sinh cần đạt mức 2.2 để tái lập mức tăng dân số tự nhiên. Đa số người Bulgaria (82,6%) thuộc, ít nhất về danh nghĩa, Giáo hội Chính thống Bulgaria. Được thành lập năm 870 thuộc Tòa Thượng phụ Constantinople (nơi có Tổng giám mục, tăng lữ và các bản kinh từ đây), Giáo hội Chính thống này có vị thế độc lập từ năm 927. Các tôn giáo lớn khác gồm Hồi giáo (12,2%), các giáo phái Tin lành (0,8%) và Công giáo La Mã (0,5%); với các giáo phái khác, vô thần và không tuyên bố chiếm xấp xỉ 4,1%. Bulgaria chính thức là một nhà nước thế tục và Hiến pháp đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng nhưng coi Chính thống là một tôn giáo chính thức. Trong cuộc điều tra dân số năm 2001, 82,6% người dân tuyên bố mình là tín đồ Chính Thống giáo, 12,2% Hồi giáo, 1.2% các giáo phái Kitô giáo khác, 4% các tôn giáo khác (Phật giáo, Đạo giáo, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo). Hồi giáo tới nước này vào cuối thế kỷ XIV sau cuộc chinh phục của người Ottoman. Ở thế kỷ XVI và XVII, các nhà truyền giáo từ Rôma đã truyền đạo tại Paulicians thuộc các quận Plovdiv và Svishtov khiến nơi này có thêm nhiều tín hữu Giáo hội Công giáo Rôma. Năm 2009, cộng đồng Do Thái tại Bulgaria, từng là một trong những cộng đồng lớn nhất châu Âu, có chưa tới 2.000 người. Theo cuộc điều tra dân số năm 2001, dân số Bulgaria gồm chủ yếu sắc tộc Bulgaria (83,9%), với hai cộng đồng thiểu số chính, người Thổ (9,4%) và Roma (4,7%). Trong số 2.0% còn lại, 0.9% gồm khoảng 40 cộng đồng thiểu số nhỏ hơn, chủ yếu là người Nga, người Armenia, người Ả Rập, người Vlach, người Do Thái, người Tatar Krym và Sarakatsani (về mặt lịch sử cũng được gọi là người Karakachan). 1,1% dân số không tuyên bố sắc tộc trong cuộc điều tra năm 2001. Cuộc điều tra năm 2001 định nghĩa một nhóm sắc tộc là một "cộng đồng người, liên quan tới nhau bởi nguồn gốc và ngôn ngữ, và giống nhau về cách thức sống và văn hoá"; và tiếng mẹ đẻ của một người là "tiếng một người nói tốt nhất và thường được sử dụng để trao đổi trong gia đình (hộ)". <noinclude> Giáo dục Giáo dục tại Bulgaria thuộc quyền quản lý của Bộ giáo dục và khoa học. Giáo dục toàn bộ thời gian là bắt buộc với mọi trẻ em trong độ tuổi 7 tới 16. Trẻ 16 tuổi có thể ghi tên vào các trường học theo định hướng của cha mẹ. Giáo dục tại các trường nhà nước là miễn phí, ngoại trừ tại các cơ sở cao học, trường cao đẳng và đại học. Chương trình dựa chủ yếu ở tám môn chính: tiếng Bulgaria và văn học, ngoại ngữ, toán học, công nghệ thông tin, hoa học xã hội và dân sự, khoa học tự nhiên và sinh thái, âm nhạc và nghệ thuật, giáo dục thể chất và thể thao. Chi tiêu công cho giáo dục thấp hơn nhiều so với mức trung bình của Liên minh Châu Âu . Các tiêu chuẩn giáo dục từng rất cao, nhưng đã xấu đi đáng kể trong thập kỷ qua. Bulgaria là một trong những nước học sinh có điểm số cao nhất trên thế giới về tỷ lệ đọc chữ năm 2001, hoạt động tốt hơn so với các đối tác Canada và Đức; đến năm 2006, điểm số về môn đọc, toán và khoa học đã giảm xuống. Chương trình đánh giá sinh viên (PISA) nghiên cứu năm 2015 cho thấy 41,5% số học sinh lớp 9 là không biết đọc chữ, toán và khoa học. Tỷ lệ biết chữ trung bình ở mức 98,4% không có sự khác biệt đáng kể giữa giới tính. Bộ Giáo dục và Khoa học tài trợ một phần cho các trường công lập, cao đẳng và đại học, đặt tiêu chuẩn cho sách giáo khoa và giám sát quá trình xuất bản. Quá trình giáo dục trải qua 12 lớp, trong đó, lớp một đến lớp tám là cấp tiểu học và từ chín đến mười hai là cấp trung học. Giáo dục đại học bao gồm bằng cử nhân 4 năm và bằng thạc sĩ 1 năm. Cơ sở giáo dục bậc nhất của Bulgaria là Đại học Sofia. Văn hoá Một số nền văn minh cổ, đáng chú ý nhất là của người Thrace, Hy Lạp, La Mã, Slav, và Bulgar, đã để lại dấu ấn trong văn hoá, lịch sử và di sản của Bulgaria. Các đồ tạo tác Thrace gồm nhiều ngôi mộ và đồ vàng bạc, trong khi người Bulgar cổ để lại dấu vết của họ trong văn hoá và kiến trúc sơ kỳ. Cả đế chế Bulgaria thứ nhất và thứ hai đều là những đầu mối của châu Âu Slav trong hầu hết thời Trung Cổ, để lại ảnh hưởng đáng chú ý về văn hoá và văn học trong thế giới Slavơ Chính thống phía đông qua các trường phái Preslav và Trường phái Văn học Ohrid. Bảng chữ cái Cyrill, được sử dụng trong nhiều ngôn ngữ Đông Âu và châu Á, có nguồn gốc từ hai trường phái này ở thế kỷ X Công Nguyên. Ngày nay Bulgaria có chín Địa điểm di sản thế giới của UNESCO – bức chạm nổi đá đầu thời kỳ Trung Cổ Madara Rider, hai lăng mộ Thrace (tại Sveshtari và Kazanlak), Nhà thờ Boyana, Tu viện Rila và Các Nhà thờ Đá Ivanovo, Vườn Quốc gia Pirin và Khu Dự trữ Thiên nhiên Srebarna, cũng như thành phố cổ Nesebar. Một đồ tạo tác lịch sử quan trọng khác là kho tàng vàng chế tác cổ nhất thế giới, có niên đại từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, từ Nghĩa trang Varna. Nước này có một truyền thống âm nhạc lâu dài, bắt nguồn từ đầu thời kỳ Trung Cổ. Một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng sớm nhất được biết ở Châu Âu Trung Cổ là Yoan Kukuzel (khoảng 1280–1360). Âm nhạc dân gian quốc gia có đặc trưng riêng biệt và sử dụng nhiều nhạc cụ truyền thống, như gudulka (гъдулка), gaida (гайда) – kèn túi, kaval (кавал) và tupan (тъпан). Bulgaria cũng có một di sản nghệ thuật thị giác giàu có, đặc biệt trong tranh tường, mural và các biểu tượng, nhiều tác phẩm trong số này là tác phẩm của Trường phái nghệ thuật Tarnovo. Rượu Bulgaria được xuất khẩu đi khắp thế giới, và tới năm 1990 nước này vẫn đứng thứ hai thế giới về tổng lượng xuất khẩu rượu đóng chai. Ở thời điểm năm 2007, nước này sản xuất 200.000 tấn rượu hàng năm, xếp hạng 20 thế giới. Bulgaria cũng sản xuất một lượng lớn bia và rakia (chủ yếu sản xuất tại nhà). Lukanka, banitsa, shopska salad, lyutenitsa, sirene và kozunak và những món đặc trưng của ẩm thực Bulgaria. Bulgaria có thành tích cao tại các môn thể thao như bóng chuyền, vật, cử tạ, bắn súng, thể dục, cờ vua, và gần đây là vật sumo và tennis. Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Bulgaria là một trong những đội tuyền hàng đầu châu Âu và thế giới, xếp hạng 4 thế giới theo bảng xếp hạng năm 2009 của FIVB. Bóng đá là môn thể thao được ưa chuộng nhất trong nước. Hristo Stoichkov (Христо Стоичков) là cầu thủ bóng đá Bulgaria đầu tiên và duy nhất giành Quả bóng vàng châu Âu (Ballon d'Or) vào năm 1994. Dimitar Berbatov (Димитър Бербатов) là một trong những cầu thủ bóng đá Bulgaria nổi tiếng nhất thế kỷ XXI. Các câu lạc bộ nổi tiếng trong nước gồm PFC CSKA Sofia (được coi là câu lạc bộ hàng đầu đất nước) và PFC Levski Sofia, là câu lạc bộ bóng đá Bulgaria đầu tiên tham gia UEFA Champions League hiện đại năm 2006–07. Đội tuyển quốc gia thành công nhất tại kỳ World Cup là tại World Cup 1994 khi họ vào tới bán kết và chỉ bị loại bởi đội tuyển Ý với một cú đúp của Roberto Baggio. Bulgaria thua trận với tỷ số 2-1 và cuối cùng giành vị trí thứ 4 sau trận thua 4-0 khi tranh giải 3, 4 trước Thuỵ Điển. Bulgaria tham gia vào cả Olympic mùa hè và mùa đông, và lần đầu tiên họ xuất hiện trong một kỳ Olympic hiện đại là vào năm 1896, khi vận động viên thể dục người Thuỵ Sĩ Charles Champaud đại diện cho nước này. Từ đó Bulgaria đã tham gia vào hầu hết các kỳ Olympic mùa hè, và tới năm 2008 họ đã giành được tổng cộng 212 huy chương: 51 vàng và 84 bạc cùng 77 đồng.
Croatia (: , phiên âm tiếng Việt hay dùng là "C'roát-chi-a" hoặc "Crô-a-ti-a"), tên chính thức Cộng hòa Croatia (tiếng Croatia: Republika Hrvatska ) là một quốc gia nằm ở ngã tư của Trung và Đông Nam Âu, giáp biển Adriatic. Thủ đô Zagreb tạo thành một trong những phân khu chính của đất nước, cùng với hai mươi quận. Croatia có diện tích 56.594 kilômét vuông (21.851 dặm vuông) và dân số năm 2019 là 4,076,246 người, hầu hết dân số là người theo Công giáo La Mã. Người Croatia đến khu vực này vào thế kỷ thứ 6 và tổ chức nhà nước thành hai lãnh địa công tước vào thế kỷ thứ 9. Tomislav I trở thành vị vua đầu tiên vào năm 925, phát triển Croatia thành một vương quốc, giữ được chủ quyền của nó trong gần hai thế kỷ, đạt đến cực thịnh trong thời cai trị của các vị vua Petar Krešimir IV và Zvonimir. Croatia gia nhập một liên minh cá nhân với Vương quốc Hungary năm 1102. Năm 1527, phải đối mặt với cuộc xâm lược của Ottoman, Quốc hội Croatia đã bầu Ferdinand của nhà Habsburg lên ngai vàng Croatia. Trong đầu thế kỷ 19, các phần của đất nước được chia thành Các tỉnh Illyrian của Pháp trong khi đế quốc Áo-Hung chiếm đóng Bosna và Hercegovina - một tranh chấp được giải quyết theo Hiệp ước Berlin (1787). Tháng 10 năm 1918, trong những ngày cuối cùng của Thế chiến thứ nhất, Nhà nước của người Slovene, Croat và Serb được thành lập, độc lập từ Áo-Hungary, được tuyên bố tại Zagreb, và trong tháng 12 năm 1918 nó đã được sáp nhập vào Vương quốc Nam Tư. Sau cuộc xâm lược Nam Tư vào tháng 4 năm 1941, hầu hết lãnh thổ Croatia được kết hợp vào nhà nước được Đức quốc xã hậu thuẫn, dẫn đến sự phát triển của một phong trào kháng chiến và tạo ra Liên bang Croatia, sau chiến tranh trở thành thành viên sáng lập và là thành viên liên bang của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nam Tư. Ngày 25 tháng 6 năm 1991, Croatia tuyên bố độc lập, hoàn toàn có hiệu lực vào ngày 8 tháng 10 cùng năm. Chiến tranh giành độc lập Croatia đã chiến đấu thành công trong bốn năm tiếp theo. Croatia là một nước cộng hòa được quản lý theo hệ thống nghị viện và một quốc gia phát triển với mức sống rất cao. Đất nước này là một thành viên của Liên minh châu Âu (EU), Liên Hợp Quốc (UN), Hội đồng Châu Âu, NATO, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và là thành viên sáng lập của Liên minh Địa Trung Hải. Là một thành viên tham gia tích cực trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, Croatia đã đóng góp quân đội cho sứ mệnh do NATO lãnh đạo ở Afghanistan và giành một vị trí không thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cho nhiệm kỳ 2008–2009. Từ năm 2000, chính phủ Croatia đã liên tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các tuyến đường và cơ sở giao thông dọc theo hành lang Pan-European. Nền kinh tế của Croatia bị chi phối bởi các ngành dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp. Du lịch là một nguồn thu ngoại tệ đáng kể, Croatia được xếp hạng trong số 20 địa điểm du lịch nổi tiếng nhất trên thế giới. Nhà nước kiểm soát một phần nền kinh tế, với chi tiêu chính phủ đáng kể. Liên minh châu Âu là đối tác thương mại quan trọng nhất của Croatia. Croatia cung cấp an sinh xã hội, hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn cầu, giáo dục tiểu học và trung học miễn phí, trong khi hỗ trợ văn hóa thông qua nhiều tổ chức công và đầu tư của công ty trên truyền thông và xuất bản. Lịch sử Lịch sử ban đầu Vùng đất là Croatia ngày nay đã có người ở trong suốt thời tiền sử. Các hoá thạch của người Neanderthal có niên đại từ giữa Thời kỳ đồ đá cũ đã được khai quật trong khu vực Krapina và Vindija. Những di tích gần đây hơn (hậu Mousterian) của người Neanderthal đã được tìm thấy tại Mujina pećina gần bờ biển. Đầu Thời kỳ đồ đá mới, các nền văn hoá Starčevo, Vučedol và Hvar đã xuất hiện rải rác trong khu vực. Thời kỳ đồ sắt còn để lại dấu vết trong văn hoá Hallstatt (người Illyrian thời kỳ đầu) và văn hoá La Tène (người Celt).Sau đó vùng này là nơi sinh sống của người Liburnian và người Illyrian, và các thuộc địa của Hy Lạp đã được thành lập trên hòn đảo Vis (bởi Dionysius I của Syracuse) và Hvar. Năm 9 Công Nguyên lãnh thổ Croatia hiện nay trở thành một phần của Đế chế La Mã. Hoàng đế Diocletian đã xây dựng một cung điện to lớn tại Split nơi ông về nghỉ ngừng các hoạt động chính trị năm 305. Ở thế kỷ thứ V Hoàng đế cuối cùng của La Mã Julius Nepos đã cai trị đế chế nhỏ của mình từ Cung điện của Diocletian trước khi ông bị giết hại năm 480. Buổi đầu lịch sử Croatia chấm dứt với cuộc xâm lược của người Avar ở nửa đầu thế kỷ thứ VII và phá hủy hầu hết mọi thị trấn La Mã. Những người Roma sống sót rút lui chiến lược để bảo vệ các địa điểm trên bờ biển, hòn đảo và các ngọn núi. Thành phố Dubrovnik hiện đại đã được xây dựng bởi những người sống sót đó. Người Croat đã tới vùng đất là Croatia hiện nay từ đầu thế kỷ thứ VII. Họ tổ chức thành hai lãnh địa công tước; Lãnh địa công tước Pannonia ở phía bắc và Lãnh địa công tước Littoral Croatia ở phía nam. Hoàng đế Porphyrogenitus đã viết rằng Porga, công tước của những người Croat Dalmatia, người đã được Hoàng đế Heraclius của Byzantine mời tới Dalmatia, đã yêu cầu Heraclius các giáo viên Thiên chúa giáo. Theo yêu cầu của Heraclius, Giáo hoàng John IV (640-642) đã gửi các giáo viên và những nhà truyền giáo tới Tỉnh Croatia. Những nhà truyền giáo đó đã cải đạo cho Porga, và nhiều người khác dưới quyền ông ta, sang đức tin Thiên chúa năm 640. Sự Thiên chúa giáo hóa người Croat hầu như hoàn thành ở thế kỷ thứ IX. Cả hai lãnh địa công tước đều trở thành chư hầu của Frankish hồi cuối thế kỷ thứ VIII, và cuối cùng trở thành độc lập ở thế kỷ sau đó. Nhà cai trị Croatia bản xứ đầu tiên được công nhận bởi Giáo hoàng là công tước Branimir, người được Giáo hoàng John VIII gọi là dux Croatorum ("công tước của người Croat") năm 879. Công tước Tomislav của Littoral Croatia là một trong những thành viên có ảnh hưởng nhất của Triều đại Trpimirović. Ông đã thống nhất người Croat tại Dalmatia và Pannonia vào một vương quốc duy nhất năm 925. Nhà nước của Tomislav trải dài từ Biển Adriatic tới sông Drava, và từ sông Raša tới sông Drina. Dưới thời cầm quyền của ông, Croatia trở thành một trong những vương quốc hùng mạnh nhất châu Âu Trung cổ. Tomislav đã đánh bại các cuộc xâm lược của Arpads trên chiến trường và buộc họ phải vượt Drava. Ông cũng sáp nhập một phần của Pannonia. Nó gồm phần giữa các con sông Drava, Sava và Kupa, nên vương quốc của ông đã có biên giới chung với Bulgaria trong một khoảng thời gian. Đây là lần đầu tiên hai vương quốc Croatia được thống nhất, và toàn bộ người Croat ở trong một nhà nước. Liên minh sau này được Byzantine công nhận, và nó trao ngôi báu hoàng gia cho Stjepan Držislav và ngôi báu giáo hoàng cho vua Zvonimir. Vương quốc Croatia trung cổ đạt tới đỉnh điểm phát triển trong thời cầm quyền của các vị vua Petar Krešimir IV (1058–1074) và Zvonimir (1075–1089). Sau sự mất đi của triều đình cầm quyền Croatia năm 1091, Ladislaus I của Hungary, anh/em của Jelena Lijepa, nữ hoàng cuối cùng của Croatia, trở thành vua của Croatia. Giới quý tộc Croatia tại Littoral phản đối việc này, dẫn tới một cuộc chiến tranh kéo dài 10 năm và việc công nhận vị vua cai trị người Hungary Coloman là vua của Croatita và Hungary theo hiệp ước năm 1102 (thường được gọi là Pacta conventa). Đổi lại, Coloman hứa duy trì Croatia như một vương quốc riêng biệt, không đưa người Hungary vào định cư tại Croatia, để đảm bảo sự tự quản của Croatia dưới một Ban, và tôn trọng mọi quyền, luật, và những đặc quyền của Vương quốc Croatia. Trong liên minh này, Vương quốc Croatia không bao giờ mất quyền bầu vị vua của riêng mình, dù triều đình cầm quyền đã mất đi. Năm 1293 và 1403 Croatia đã chọn vị vua của họ, nhưng trong cả hai trường hợp Vương quốc Hungary đã tuyên chiến và liên minh được tái lập. Trong bốn thế kỷ tiếp theo, Vương quốc Croatia nằm dưới quyền cai quản của Sabor và các Ban được vua Hungary chỉ định. Vương quốc Croatia và Slavonia vẫn là một thực thể lập hiến hầu như tách biệt về pháp luật, nhưng sự xuất hiện của một vị vua Hungary đã đưa lại những hậu quả khác như: sự xuất hiện của chế độ phong kiến và sự trỗi dậy của các gia đình quý tộc địa phương như Frankopan và Šubić. Congregatio Regni tocius Sclavonie Generalis năm 1273, tài liệu cổ nhất còn lại được viết bởi nghị viện Croatia, có từ giai đoạn này. Những vị vua sau đó đã tìm cách tái lập một số ảnh hưởng họ từng mất trước đây bằng cách trao một số đặc quyền cho các thị trấn. Giai đoạn đầu của liên minh riêng giữa Croatia và Hungary chấm dứt năm 1526 với Trận Mohács và sự thất bại của các lực lượng Hungary trước Đế chế Ottoman. Sau cái chết của Vua Louis II, giới quý tộc Croatia trong nghị viện Cetingrad đã lựa chọn nhà Habsburg làm những vị vua cai trị mới của Vương quốc Croatia, dưới điều kiện rằng họ phải cung cấp quân đội và tài chính cần thiết để bảo vệ Croatia chống lại Đế chế Ottoman. Thành phố Dubrovnik được thành lập thế kỷ thứ VII sau khi những kẻ xâm lược Avar và Slavơ phá huỷ thành phố Epidaurum La Mã. Những người Roma sống sót bỏ trốn tới một hòn đảo nhỏ gần bờ biển nơi họ thành lập một khu định cơ mới. Trong thời Thập tự chinh lần thứ tư thành phố này rơi vào tầm kiểm soát của Cộng hoà Venice cho tớihiệp ước Zadar năm 1358, khi Venice bị vương quốc Croato-Hungarian đánh bại, mất quyền kiểm soát Dalmatia và Cộng hoà Dubrovnik trở thành một vương quốc chư hầu. Trong suốt 450 năm tiếp theo Cộng hoà Dubrovnik đầu tiên là chư hầu của Ottoman và sau đó của Triều đại Habsburg. Trong thời gian này nước cộng hoà trở nên giàu có nhờ thương mại. Nước cộng hoà trở thành nơi xuất bản quan trọng nhất của văn học Croatia trong các giai đoạn Phục hưng và Baroque. Bên cạnh những nhà thơ và các tác gia như Marin Držić và Ivan Gundulić, những người mà tác phẩm của họ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển văn hoá Croatia, người nổi tiếng nhất Cộng hoà Dubrovnik là nhà khoa học Ruđer Josip Bošković, ông từng là một thành viên của Hội Hoàng gia và Viện hàn lâm Khoa học Nga. Nước cộng hoà tồn tại tới năm 1808 khi nó bị Napoleon sáp nhập. Ngày nay thành phố Dubrovnik là một địa điểm trong danh sách Địa điểm Di sản Thế giới của UNESCO và là một địa điểm du lịch nổi tiếng. Ngay sau Trận Mohács, triều đình Habsburg đã không thành công trong việc ổn định các biên giới giữa Đế chế Ottoman và Vương quốc Croatia bằng cách lập ra một captaincy tại Bihać. Tuy nhiên, năm 1529, quân đội Ottoman đã tràn qua khu vực và chiếm Buda và phong toả Vienna; một sự kiện sẽ dẫn tới sự hỗn loạn và bạo lực tại các vùng biên giới Croatia (xem Các cuộc chiến tranh Ottoman tại châu Âu). Sau sự thất bại của những chiến dịch quân sự đầu tiên, Vương quốc Croatia bị chia thành các đơn vị quân sự và dân sự năm 1553. Các đơn vị quân sự trở thành Croatian Krajina và Slavonian Krajina và cả hai cuối cùng trở thành các phần của Biên giới Quân sự Croatia nằm trực tiếp dưới sự kiểm soát của Vienna. Những cuộc cướp phá của Ottoman vào trong lãnh thổ Croatia kéo dài tới tận Trận Sisak năm 1593, sau đó các biên giới đã trở nên ổn định trong một khoảng thời gian. Vương quốc thời kỳ ấy được gọi là Reliquiae reliquiarum olim inclyti Regni Croatiae ("Tàn tích của tàn tích của Vương quốc Croatia nổi tiếng một thời"). Một trận đánh nổi tiếng trong thời kỳ này là Trận Szigetvár, khi 2,300 binh sĩ dưới sự lãnh đạo của ban Nikola Šubić Zrinski chống cự trong hai tháng trước 100.000 lính Ottoman dưới sự chỉ huy của hoàng đế Suleiman I, chiến đấu cho đến người cuối cùng. Hồng y Richelieu được thông báo là đã gọi sự kiện này là "trận đánh cứu vớt nền văn minh." Trong cuộc Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ, Slavonia đã được giành lại nhưng vùng đồi núi phía tây Bosnia, từng là một phần của Croatia cho tới cuộc chinh phục Ottoman, vẫn ở bên ngoài quyền kiểm soát của Croatia và biên giới hiện tại, nước này có hình dạng giống hình lưỡi liềm hay móng ngựa, đây là một di tích của lịch sử. Phần phía nam của 'móng ngựa' được thành lập bởi cuộc chinh phục Venetian sau cuộc Phong toả Zara và được coi là những cuộc chiến tranh thế kỷ XVII-XVIII với người Ottoman. Lý do về pháp lý (De jure) cho sự mở rộng Venetian là quyết định của vua Croatia, Ladislas của Naples, bán các quyền của mình với Dalmatia cho Venice năm 1409 . Trong hơn hai thế kỷ của các cuộc Chiến tranh Ottoman, Croatia đã trải qua những thay đổi nhân khẩu to lớn. Người Croat đã rời các vùng đất ven sông Gacka, Lika và Krbava, Moslavina tại Slavonia và một vùng đất ngày nay ở phía tây bắc Bosnia để đi về phía Áo nơi họ vẫn cư ngụ và ngày nay người Croat Burgenland là hậu duệ trực tiếp của những người định cư đó. Để thay thế những người Croat đã dời đi, triều đình Habsburg kêu gọi những dân cư Chính thống giáo của Bosnia và Serbia phục vụ hoạt động quân sự tại Croatiavà Slavonian Krajina. Người Serbia dần bắt đầu tới trong thế kỷ XVI, với đỉnh điểm là các cuộc Đại Di cư Serb năm 1690 và 1737-39. Các quyền lợi và nghĩa vụ của dân cư mới của biên giới quân sự được quyết định với Statuta Valachorum năm 1630. Hồi phục quốc gia Sự hồi phục quốc gia tại Croatia bắt đầu năm 1813 khi giám mục Zagreb Maksimilijan Vrhovac ra một lời khẩn cầu cho việc sưu tập "báu vật quốc gia". Đầu những năm 1830, một nhóm tác gia Croatia trẻ đã tụ tập Zagreb và thành lập phong trào Illyrian để đổi mới quốc gia và thống nhất mọi thực thể Nam Slavơ dưới Triều đình Habsburg. Mục tiêu lớn nhất của người Illyrian là việc thành lập một ngôn ngữ tiêu chuẩn như một đối trọng với tiếng Hungary, và ủng hộ văn học Croatia và văn hoá chính thức. Các thành viên quan trọng của phong trào này là Bá tước Janko Drašković, người khởi động phong trào khi viết một tờ rơi năm 1832, Ljudevit Gaj người được chính phủ hoàng gia Habsburg cho phép in tờ báo đầu tiên bằng tiếng Croatia, Antun Mihanović, người viết lời cho quốc ca Croatia, Vatroslav Lisinski, người soạn vở opera đầu tiên bằng tiếng Croatia, "Ljubav i zloba" ("Tình yêu và Hiểm ác", 1846), và nhiều người khác. Lo ngại đầu tiên về người Hungary và sau đó là áp lực đồng hoá của triều đình Habsburg, Vương quốc Croatia đã luôn từ chối thay đổi vị thế ngôn ngữ chính thức của tiếng Latinh cho tới tận giữa thế kỷ XIX. Mãi tới ngày 2 tháng 5 năm 1843 tiếng Croatia lần đầu tiên mới được sử dụng trong nghị viện, cuối cùng trở thành ngôn ngữ chính thức năm 1847 vì sự nổi tiếng của phong trào Illyrian. Thậm chí với một cộng đồng Slavơ (người Croatia) lớn, Dalmatia vẫn duy trì các cộng đồng Italia lớn tại bờ biển (tại các thành phố và hòn đảo, tập trung lớn nhất tại Istria). Theo cuộc điều tra dân số Áo-Hung năm 1816, 22% dân số Dalmatian là người nói tiếng Italia. Bắt đầu từ thế kỷ XIX, hầu hết người Dalmatia Italia dần bị đồng hoá vào văn hoá và ngôn ngữ Croatia đa số. Lịch sử hiện đại Câu trả lời của Croatia cho cuộc cách mạng Hungary năm 1848 là sự tuyên chiến. Các lực lượng Áo, Croatia và Nga cùng nhau đánh bại quân đội Hungary năm 1849 và sau 17 năm được ghi nhớ tại Croatia và Hungary như là sự Đức hoá. Sự thất bại sau cùng của chính sách này dẫn tới Thoả hiện Áo-Hung năm 1867 và việc thành lập một liên minh triều đình giữa Đế chế Áo và Vương quốc Hungary. Hiệp ước không giải quyết câu hỏi về vị thế của Croatia. Năm sau đó nghị viện Croatia và Hungary lập ra một hiến pháp cho liên minh và Vương quốc Croatia-Slavonia và Vương quốc Hungary. Sau khi Đế chế Ottoman mất quyền kiểm soát quân sự với Bosnia và Herzegovina, Áo-Hung xoá bỏ Croatian Krajina và Slavonian Krajina, khôi phục lại các lãnh thổ cho Croatia năm 1881. Ở nửa sau thế kỷ XIX các đảng chính trị ủng hộ Hungary khiến người Croat chống lại người Serb với mục đích kiểm soát nghị viện. Chính sách này thất bại năm 1906 khi một liên minh Croat-Serb thắng cử. Tình hình chính trị mới xuất hiện kéo dài không thay đổi cho tới trước Thế chiến I. Ngày 29 tháng 10 năm 1918,Sabor (nghị viện) Croatia tuyên bố độc lập, lập ra Nhà nước của người Slovene, người Croat và người Serb mới. Bị quân đội Italia tràn vào từ phía nam và phía tây gây áp lực, Hội đồng quốc gia (Narodno vijeće) bắt đầu những cuộc đàm phán mưu mô với Vương quốc Serbia vào ngày 23 tháng 11 năm 1918, một phái đoàn được gửi tới Belgrade với mục tiêu tuyên bố một liên minh. Đoàn đại biểu Hội đồng quốc gia chuyển 11 điểm cần được thực hiện để tạo lập một nhà nước tương lai. Quan trọng nhất trong số đó là điểm đầu tiên, nói về sự cần thiết của một hiến pháp cho nhà nước mới, một đề xuất đã được hai phần ba số đại biểu thông qua. Cuối cùng, một hiến pháp cho một nhà nước tập trung đã được thông qua với đa số 50% + 1 phiếu và dẫn tới sự chấm dứt quyền tự trị nhà nước. Ngày 1 tháng 12 năm 1918, Vương quốc của người Serb, người Croat, và Slovene mới, cũng được gọi là Vương quốc Nam Tư, được thành lập. Quyết định này đã dẫn tới sự phản đối của người Croat, và họ đã bắt đầu một quá trình chuyển dịch chính trị hướng tới sự tái lập một nhà nước có chủ quyền bằng sự lãnh đạo của Đảng Nông dân Croatia. Tình hình chính trị không lành mạnh tại Nam Tư bắt đầu xấu đi sau khi Stjepan Radić, chủ tịch CPP, bị giết hại trong tòa nhà nghị viện Nam Tư năm 1928 bởi cá nhân cực đoan quốc gia Serbia Puniša Račić. Giai đoạn hỗn loạn sau đó chấm dứt năm sau khi Vua Alexander xóa bỏ Hiến pháp, tạm đình chỉ Nghị viện và đưa ra một chế độ độc tài cá nhân. Bốn năm sau đó của chế độ Nam Tư được Albert Einstein miêu tả là một "tình trạng bạo lực kinh khủng được thực hiện chống lại người Croatia". Trong thời độc tài, Vladko Maček, lãnh đạo Đảng Nông dân Croatia, bị bỏ tù, và chỉ được phóng thích sau khi vua Alexander bị giết trong một âm mưu do phong trào cực đoan cánh hữu Croatia, Ustaše, thực hiện. Ngay khi Maček được thả, tình hình chính trị được khôi hục như trước vụ ám sát Stjepan Radić, với những yêu cầu tiếp tục của người Croatia về chủ quyền. Vấn đề Croatia chỉ được giải quyết ngày 26 tháng 8 năm 1939 bởi Thoả thuận Cvetković-Maček, khi Croatia được trao chủ quyền và được mở rộng biên giới và Maček trở thành phó thủ tướng Nam Tư. Nền hòa bình sau đó không kéo dài lâu, và chấm dứt với cuộc xâm lược của Đức năm 1941. Cuộc xâm lược của Đức ngày 6 tháng 4 năm 1941 thắng lợi chỉ sau chưa tới mười ngày, chấm dứt với sự đầu hàng vô điều kiện của Quân đội Hoàng gia Nam Tư ngày 17 tháng 4. Lãnh thổ Croatia, Bosnia và Herzegovina và vùng Syrmia tại Vojvodina trở thành một nhà nước bù nhìn của Phát xít Đức được gọi là Nhà nước Croatia Độc lập. Istria, thành phố cảng của Rijeka, và một phần của Dalmatia tới tận Split bị Italia chiếm đóng. Baranja và Medjumurje bị Hungary chiếm. Dù Ustashe mới chỉ quay lại sau khi bị trục xuất, họ đã được trao trách nhiệm điều khiển chế độ mới, những kẻ chiếm đóng Phe trục ban đầu đề xuất trao chức lãnh đạo cho Vladko Maček, lãnh đạo Đảng Nông dân Croatia (HSS), nhưng ông từ chối. Chỉ một ngày sau khi tiến vào Zagreb, ngày 17 tháng 4 năm 1941, Ante Pavelić tuyên bố rằng mọi người đã xúc phạm hay tìm các xúc phạm chống lại nhà nước Croatia đều bị tuyên án phản bội - một tội danh sẽ bị tử hình. Chế độ Ustashe đưa ra các điều luật chống Semitic kiểu Nuremberg, và cũng tiến hành các cuộc thảm sát chủ yếu chống lại người Serb và những sắc tộc phi Croat khác, cũng như thành lập các trại tập trung như trại tập trung tại Jasenovac và Stara Gradiska nơi những người chống đối chế độ Ustashe và những người 'gây phiền phức' khác bị giam giữ. Các tu sĩ Cơ đốc cũng liên quan tới phong trào Ustashe, đặc biệt vị Cha Miroslav Filipović khét tiếng bị lột áo thầy tu. Tuy nhiên, những người khác như Tổng giám mục Zagreb Alojzije Stepinac không chỉ lên án các tội ác của Ustashe trong các bài giảng của mình mà còn cung cấp nơi trú ngụ và bảo vệ cho những người Serb và người Do Thái bị truy đuổi. Thư viện Ảo Do Thái ước tình rằng từ tới người Serb Croatia bị giết hại tại Jasenovac và khoảng tới người Serb là nạn nhân của toàn bộ chiến dịch diệt chủng. Những tàn tích của Quân đội Hoàng gia Nam Tư, sau này được tổ chức lại trong Chetnik Serbia, kháng chiến chống lại sự chiếm đóng Phát xít và những kẻ cộng tác Ustashe của chúng, nhưng Chetnik Bảo hoàng Nam Tư nhanh chóng hợp tác với Phát xít Đức và Phát xít Ý. Cuộc nội chiến bùng nổ, với mọi phe phái đánh lẫn nhau. Sau này, trước "Chiến dịch Barbarossa" tấn công Liên Xô đầy bất ngờ của Hitler, một cuộc nổi dậy lớn diễn ra ngày 22 tháng 6 năm 1941 với việc tạo lập 1st Sisak Partisan Detachment. Giới lãnh đạo phong trào du kích Nam Tư nằm trong tay Josip Broz Tito người Croat, chính sách anh em và thống nhất của ông cuối cùng không những chỉ đánh bại những kẻ chiếm đóng Phe trục, mà còn nhiều kẻ cộng tác của chúng trong các lực lượng vũ trạng của Nhà nước Croatia Độc lập và những kẻ phản bội khác (có mặt trong mọi nhóm quốc gia và xã hội Nam Tư). Thắng lợi của những người du kích Nam Tư trước những kẻ chiếm đóng Phát xít và đồng minh của chúng dẫn tới các cuộc thảm sát những người Croatian Domobran (Home Guard) và Ustashe, họ bị Quân đoàn số 8 của Anh trục xuất khỏi Áo. Trong thập kỷ sau Thế chiến II, tới 350.000 người sắc tộc Italia rời bỏ Nam Tư. Số lượng nạn nhân của Thế chiến II tại Nam Tư vẫn là một nguồn gây tranh cãi lớn giữa những nhà sử học và các viện hàn lâm quốc gia Serbia và Croatia một bên và các nhà nghiên cứu độc lập một bên, đáng chú ý nhất là Vladimir Žerjavić (một người Croat) và Bogoljub Kočović (một người Serb), và những người khác. Croatia hiện đại được thành lập trên các nguyên tắc chống phát xít AVNOJ của du kích trong thế chiến II, và nó trở thành một nước cộng hòa lập hiến của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. Một chế độ chuyên chính vô sản được thành lập, nhưng vì sự chia rẽ Tito-Stalin, tự do kinh tế và cá nhân tại đây tốt hơn tại Khối Đông Âu. Từ những năm 1950, nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Croatia có quyền tự trị dưới sự quản lý của giới cộng sản tinh hoa địa phương, nhưng vào năm 1967 nhóm nhà thơ và nhà ngôn ngữ Croatia có ảnh hưởng đã xuất bản một Tuyên ngôn về Vị thế và Tên của Ngôn ngữ Croatia Tiêu chuẩn. Sau những mục tiêu yêu nước năm 1968 tài liệu đó biến hình thành một phong trào chung Croatia đòi những quyền thêm nữa cho Croatia, quyền dân sự lớn hơn và nhữn yêu cầu phi tập trung hoá kinh tế. Cuối cùng ban lãnh đạo Nam Tư coi vụ Mùa xuân Croatia là một sự tái lập chủ nghĩa quốc gia Croatia, giản tán phong trào như chủ nghĩa Xô vanh và bắt giữ hầu hết các lãnh đạo quan trọng. Năm 1974, một hiến pháp mới của Liên bang Nam Tư được phê chuẩn trao nhiều quyền tự trị hơn cho các nước cộng hòa riêng biệt, và vì thế đã hoàn thành các mục tiêu chính của phong trào Mùa xuân Croatia. Tình cảm quốc gia dẫn tới sự chấm dứt Liên bang Nam Tư, đã lan rộng trong nhiều sắc tộc trong một số năm. Những yêu cầu của người Albani năm 1981 về Kosovo đã bị tách khỏi Serbia và chuyển thành một nước cộng hòa hợp thành bên trong Nam Tư đã dẫn tới những cuộc bạo loạn, và thái độ tương tự cũng xảy ra bên trong các nhà nước khác với cuộc Bản ghi nhớ SANU của Serbia năm 1986; Croatia và Slovenia cũng phản ứng tiêu cực năm 1989 sau khi lãnh đạo Serbia Slobodan Milošević tổ chức những cuộc đảo chính tại Vojvodina, Kosovo và Montenegro để lập ra những chính quyền sẽ trung thành với các mục tiêu của ông. Dưới ảnh hưởng của chiến dịch tuyên truyền của Slobodan Milošević, tầm quan trọng của việc ai sẽ giành thắng lợi trong cuộc bầu cử đa đảng tại Croatia trong 50 năm đã giảm bớt. Có nghĩa là, người Serb đã có ảnh hưởng với cả lãnh đạo quốc gia người Croatia Franjo Tuđman và lãnh đạo cộng sản Ivica Račan. Franjo Tuđman, người giành thắng lợi trong cuộc bầu cử càng làm tình hình thêm nghiêm trọng. Người Serb ở Croatia rời nghị viện Croatia và lập ra Hiệp hội các Vùng đô thị Bắc Dalmatia và Lika tại Knin. Sau này nó trở thành Republika Srpska Krajina. Về những sự kiện xảy ra những năm 1990-92, Milan Babić, tổng thống Republika Srpska Krajina, sau này tuyên bố rằng ông đã "bị ảnh hưởng mạnh và bị dẫn dắt sai lầm bởi sự tuyên truyền của Serbia". Những sự kiện đó lên tới đỉnh điểm với cuộc Chiến tranh giành độc lập toàn lực của Croatia trong khoảng thời gian 1991 và 1995. Cuộc xung đột chấm dứt với Chiến dịch Cơn bão (được gọi trong tiếng Croatia là Oluja) vào mùa hè năm 1995. Những sự kiện của tháng 8 năm 1995 vẫn là chủ đề của nhiều vụ xét xử tại Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ, liên quan tới chiến thắng của Quân đội Croatia và việc trục xuất sắc tộc Serb . Croatia được quốc tế công nhận ngày 15 tháng 1 năm 1992 bởi Liên minh châu Âu và Liên hiệp quốc. Trong thời điểm đó, Croatia kiểm soát chưa tới hai phần ba lãnh thổ theo pháp lý của mình. Quốc gia đầu tiên công nhận Croatia là Iceland ngày 19 tháng 12 năm 1991. Địa lý Croatia nằm ở Trung và Đông Nam Âu, giáp với Hungary về phía đông bắc, Serbia về phía đông, Bosnia và Herzegovina ở phía đông nam, Montenegro về phía đông nam, biển Adriatic ở phía tây nam và Slovenia về phía tây bắc. Nó nằm giữa vĩ độ 42° và 47°N, kinh độ 13° và 20°E. Một phần của lãnh thổ ở cực nam xung quanh Dubrovnik thực tế là một lãnh thổ được bao bọc bởi quốc gia khác, kết nối với phần còn lại của đất liền bởi lãnh hải, nhưng tách khỏi đất liền bởi một dải bờ biển ngắn thuộc Bosna và Hercegovina xung quanh Neum. Lãnh thổ Croatia khoảng (21.851 dặm vuông), bao gồm (21.782 dặm vuông) đất và (49 dặm vuông) nước. Đây là quốc gia lớn thứ 127 trên thế giới. Độ cao từ dãy núi Dãy núi Dinaric với điểm cao nhất là đỉnh Dinara ở độ cao 1.831 m (6,007 feet) gần biên giới nước này với Bosna và Hercegovina ở phía nam đến bờ biển Adriatic tạo thành toàn bộ biên giới phía tây nam của nó. Croatia có hơn một ngàn đảo (kể cả đảo nhỏ) có người ở, khác nhau về kích thước, 48 trong số đó là đảo có người sinh sống vĩnh viễn. Các đảo lớn nhất là Cres và Krk, mỗi trong số chúng đều có diện tích khoảng (156 dặm vuông). Phần đồi núi phía bắc Hrvatsko Zagorje và các vùng đồng bằng phẳng của Slavonia ở phía đông là một phần của lưu vực sông Pannonian, đi qua các con sông lớn như Danube, Drava, Kupa và Sava. Sông Danube, con sông dài thứ hai của châu Âu, chảy qua thành phố Vukovar ở cực đông và tạo thành một phần biên giới với Serbia. Các khu vực trung tâm và phía nam gần bờ biển Adriatic và các đảo bao gồm các ngọn núi thấp và cao nguyên rừng. Tài nguyên thiên nhiên được tìm thấy trong nước với số lượng đủ lớn cho sản xuất bao gồm dầu mỏ, than, bô xít, quặng sắt, calci, thạch cao, nhựa đường tự nhiên, silic, mica, đất sét, muối và thủy điện. Địa hình cat-xtơ chiếm khoảng một nửa Croatia và đặc biệt nổi bật ở dãy núi Dinaric Alps. Có một số hang động sâu ở Croatia, 49 trong số đó là các hang sâu hơn 250 m (820,21 ft), 14 trong số đó sâu hơn 500 m (1.640,42 ft) và sâu hơn 1.000 m (3.280,84 ft). Các hồ nổi tiếng nhất của Croatia là hồ Plitvice, một hệ thống gồm 16 hồ, được nối với nhau bằng thác nước trên các thác đá dolomit và đá vôi. Các hồ nổi tiếng với màu sắc đặc biệt, từ màu ngọc lam đến xanh bạc hà, xám hoặc xanh dương.. Các hạt Croatia được chia thành 20 hạt (županija) và thành phố thủ đô Zagreb: Các địa điểm di sản thế giới Khu phức hợp lịch sử của Split với Cung điện Diocletian (1979) Thành phố Cũ của Dubrovnik (1979) Vườn quốc gia các hồ Plitvice (1979) Khu phức hợp Giám mục Euphrasian Basilica trong Trung tâm Lịch sử của Poreč (1997) Thành phố lịch sử Trogir (1997) Thánh đường Thánh James tại Šibenik (2000) Khu vực Stari Grad - đảo Hvar (2008) Chính phủ và chính trị Từ khi thông qua Hiến pháp năm 1990, Croatia đã trở thành một chế độ dân chủ. Từ năm 1990 đến năm 2000 họ có một hệ thống bán tổng thống, và từ năm 2000 họ có một hệ thống nghị viện. Tổng thống của nước Cộng hoà (Predsjednik) là Nguyên thủ quốc gia, được bầu lên trực tiếp với nhiệm kỳ năm năm và bị hạn chế bởi Hiến pháp chỉ được phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ. Ngoài tư cách tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, tổng thống có trách nhiệm thủ tục chỉ định Thủ tướng với sự ưng thuận của Nghị viện, và có một số ảnh hưởng trên chính sách đối ngoại. Nơi cư ngụ chính thức của tổng thống là Predsjednički dvori. Ngoài ra, tổng thống còn có các nhà nghì trên các hòn đảo Vanga (đảo Brijuni) và đảo Hvar. Nghị viện Croatia (Sabor) là một cơ cấu lập pháp lưỡng viện (một viện thứ hai, "Viện của các Hạt", được lập ra theo Hiến pháp năm 1990, đã bị xoá bỏ năm 2001). Số lượng thành viên của Sabor có thể thay đổi từ 100 đến 160; tất cả họ đều được dân chúng bầu ra với nhiệm kỳ năm năm. Các phiên họp toàn thể của Sabor diễn ra từ ngày 15 tháng 1 đến 15 tháng 6 và từ 15 tháng 9 đến 15 tháng 12. Chính phủ Croatia (Vlada) do Thủ tướng lãnh đạo, dưới thủ tướng là hai phó thủ tướng và mười bốn bộ trưởng chịu trách nhiệm về các lĩnh vực riêng biệt. Nhánh hành pháp chịu trách nhiệm đề xuất pháp luật và một ngân sách, thực hiện luật pháp, và hướng dẫn các chính sách đối nội và đối ngoại của nước cộng hoà. Trụ sở chính thức của chính phủ ở tại Banski dvori. Luật pháp Croatia có hệ thống tư pháp ba nhánh, gồm Toà án Tối cao, các Toà án Hạt, và các Toà án Đô thị. Toà án Hiến pháp xét xử các vấn đề liên quan tới Hiến pháp. Việc thực thi pháp luật tại Croatia là trách nhiệm của lực lượng cảnh sát Croatia, nằm dưới sự kiểm soát của Bộ Nội vụ. Những năm gần đây, lực lượng này đang thực hiện một cuộc cải cách với sự hỗ trợ từ các cơ quan quốc tế, gồm Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu từ khi tổ chức này thực hiện nhiệm vụ tại Croatia từ ngày 18 tháng 4 năm 1996. Nhân khẩu Croatia có đa số dân là người Croat (89.6%), các nhóm thiểu số gồm người Serb (4.5%), người Bosnia, người Hungary, người Italia, người Slovene, người Đức, người Séc, người Romani và các nhóm khác (5.9%). Trong hầu hết thế kỷ XX dân số Croatia đã tăng từ 3.430.270 năm 1931 lên 4.784.265 năm 1991. Tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên hiện ở mức âm với sự chuyển tiếp nhân khẩu hoàn thành trong thập niên 1970. Tuổi thọ trung bình là 75.1, và tỷ lệ biết chữ là 98.1%. Trong những năm gần đây chính phủ gặp sức ép phải thêm 40% giới hạn giấy phép làm việc mỗi năm cho lao động người nước ngoài và theo chính sách nhập cư của họ nước này đang tìm cách thu hút những người đã di cư hồi hương . Các tôn giáo chính của Croatia là Cơ đốc giáo La Mã 88%, Chính thống giáo 4.4%, và các phái Thiên chúa giáo khác 0.4%, Hồi giáo 1.3%, khác và không xác định 0.9%, không theo tôn giáo 5.2%. Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX dân số Croatia đã ngừng tăng trưởng bởi cuộc Chiến tranh giành độc lập Croatia. Trong cuộc chiến, nhiều nhóm dân cư đã bị chuyển chỗ ở và sự di cư tăng lên. Năm 1991, tại các vùng chủ yếu là người Serb, hơn 80.000 người Croat hoặc đã bị các lực lượng người Serb Croatia buộc rời bỏ nhà cửa hoặc buộc phải bỏ chạy do tình trạng bạo lực. Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh năm 1995, hơn 120.000 người Serb, và có lẽ khoảng 200.000 người đã bỏ chạy trước thắng lợi của các lực lượng Croatia. Chỉ một nhóm nhỏ người Serb quay lại nhà mình từ năm 1995, theo Human Rights Watch. Người Serb còn ở lại tại Croatia không sống tại các cao nguyên và vùng nội địa Dalmatia mà tại các thành phố lớn và các khu trung tâm của Croatia. Người Serb đã bị chính phủ Croatia cho tái định cư tại các vùng họ từng sinh sống trước kia. Kinh tế Tư nhân hoá và định hướng theo một nền kinh tế thị trường bắt đầu từ thời Chính phủ Croatia mới khi cuộc chiến tranh bùng nổ năm 1991. Vì hậu quả chiến tranh, cơ sở hạ tầng kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng, đặc biệt ngành công nghiệp du lịch mang lại nhiều lợi nhuận. Từ năm 1989 đến năm 1993, GDP giảm 40.5%. Khi cuộc chiến tranh chấm dứt năm 1995, ngành du lịch và nền kinh tế Croatia hồi phục ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên, tham nhũng, cronyism, và sự thiếu hụt minh bạch đã cản trở ý nghĩa của cuộc cải cách kinh tế, cũng như nguồn đầu tư nước ngoài. Kinh tế Croatia xoay chuyển mạnh năm 2000 khi ngành du lịch phát triển trở lại. Kinh tế mở rộng năm 2002, được kích thích bởi một sự bùng nổ tín dụng từ các ngân hàng mới tư nhân hoá và được bơm vốn từ nước ngoài, một số khoản đầu tư tư bản, đáng chú ý nhất là xây dựng đường sá, càng làm du lịch phát triển, và cung cấp cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Croatia có một nền kinh tế thị trường có thu nhập cao. Dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho thấy GDP danh nghĩa của Croatia ở mức $58.558 tỷ hay $13.199 trên đầu người, năm 2007. IMF dự báo cho năm 2008 là $69.332 tỷ hay $15.628 trên đầu người. Theo sức mua tương đương, tổng GDP ở mức $78.665 tỷ năm 2007, tương đương với $17.732 trên đầu người. Năm 2008, dự báo nó sẽ ở mức $82.272 tỷ, hay $18.545 trên đầu người. Theo dữ liệu của Eurostat, GDP theo sức mua tương đương của Croatia ở mức 63% mức trung bình của EU năm 2008. Tăng trưởng GDP thực năm 2007 là 6.0%. Tổng lương trung bình của một người Croat trong chín tháng đầu năm 2008 là 7,161 kuna (US$ 1,530) mỗi tháng Năm 2007, tỷ lệ thất nghiệp theo định nghĩa của Tổ chức Lao động Quốc tế ở mức 9.1%, sau khi giảm ổn định từ 14.7% năm 2002. Tỷ lệ thất nghiệp được đăng ký cao hơn, ở mức 13.7% vào tháng 12 năm 2008. Năm 2007, 7.2% sản xuất kinh tế thuộc nông nghiệp, 32.8% bởi công nghiệp và 60.7% bởi lĩnh vực dịch vụ. Theo dữ liệu năm 2004, 2.7% lực lượng lao động được sử dụng cho nông nghiệp, 32.8% cho công nghiệp và 64.5% trong ngành dịch vụ. Lĩnh vực công nghiệp chủ yếu là ngành đóng tàu, chế biến thực phẩm và hoá chất công nghiệp. Du lịch là nguồn thu đáng kể trong mùa hè với tổng cộng hơn 11 triệu du khách năm 2008 tạo ra doanh thu €8 tỷ. Croatia được xếp hạng 18 về các điểm thu hút khách du lịch nhiều nhất thế giới. Năm 2006 Croatia xuất khẩu hàng hoá với tổng giá trị $10.4 tỷ (FOB) ($19.7 tỷ gồm xuất khẩu dịch vụ). Nhà nước Croatia vẫn kiểm soát một phần khá lớn nền kinh tế, với chi tiêu chính phủ chiếm tới 40% GDP. Một số ngành công nghiệp lớn, thuộc sở hữu nhà nước, như các xưởng đóng tàu, vẫn dựa vào các khoản trợ cấp của chính phủ, loại bỏ đầu tư vào giáo dục và công nghệ cần thiết để đảm bảo tính cạnh tranh về lâu dài của nền kinh tế. Đáng lo ngại nhất là sự trì trệ của hệ thống tư pháp, cộng với tính kém hiệu quả của lĩnh vực hành chính công, đặc biệt các vấn đề sở hữu đất đai và tham nhũng. Một vấn đề lớn khác là sự tăng trưởng nhanh chóng khoản nợ quốc gia đã đạt mức 34 tỷ euro hay 89.1% GDP. Vì các vấn đề này, các nghiên cứu cho thấy dân cư Croatia nói chung không hy vọng nhiều vào tương lai nền kinh tế quốc gia. Croatia đã vượt qua khá tốt cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, nhưng đối mặt với những thách thức khá lớn trong năm 2009 chủ yếu vì sự suy giảm các mặt hàng xuất khẩu chính và lĩnh vực du lịch của nước này. Sự mất cân bằng thương mại với nước ngoài và nợ nước ngoài cao cũng là những nguy cơ, bởi việc tiếp cận các khoản vay từ bên ngoài sẽ bị hạn chế nhiều. Nước này đang là một thành viên của Liên minh châu Âu, đối tác thương mại lớn nhất. Tháng 2 năm 2005, Thoả thuận Ổn định và Hợp tác với EU chính thức có hiệu lực. Tính đến năm 2016, GDP của Croatia đạt 49.855 USD, đứng thứ 82 thế giới và đứng thứ 27 châu Âu. Cơ sở hạ tầng Mảng sáng trong sự phát triển cơ sở hạ tầng của Croatia gần đây là sự phát triển nhanh chóng của mạng lưới đường cao tốc, những kế hoạch phát triển đã bắt đầu và được thực hiện từ thập niên 1970s, nhưng chỉ trở thành hiện thực sau khi nước này giành được độc lập bởi các kế hoạch đường sá có tầm quan trọng 'quốc gia' của Chính phủ Nam Tư (khi đó). Croatia hiện có hơn 1,200 km đường cao tốc nối Zagreb với hầu hết các vùng khác. Các đường cao tốc nổi tiếng nhất là A1, nối Zagreb với Split và A3, chạy xuyên đông-tây qua tây bắc Croatia và Slavonia. Hầu hết các tuyến đường đều phải trả phí, ngoại trừ đường rẽ Zagreb và các đoạn của A3, A7, B8 và B9. Cũng có một mạng lưới đường nhỏ và khó đi hơn nối các tuyến đường cao tốc với nhau. Một trong các tuyến đường được sử dụng nhiều nhất là đường B28, nối A4 gần Zagreb với Bjelovar, nhưng cũng là shunpiking chính thay thế cho A3. Mạng lưới đường cao tốc Croatia được coi là có chất lượng tổng thể tốt và an ninh tuyệt vời, giành được nhiều giải thưởng của EUROTAP. Croatia có một mạng lưới đường sắt dày đặc, dù vì những hoàn cảnh lịch sử, một số vùng (đáng chú ý là Istria và thậm chí cả Dubrovnik) không có tuyến đường sắt tiếp cận nếu không phải đi qua nước khác. Cần có sự đầu tư nghiêm túc vào mạng lưới đường sắt trong những thập kỷ tới để nó có được tiêu chuẩn châu Âu cả về tốc độ và hiệu quả sử dụng. Tất cả các dịch vụ đường sắt đều do Croatian Railways () điều hành. Mạng lưới xe bus giữa các thành phố (do các doanh nghiệp tư nhân điều hành) phát triển rất mạnh, với mức độ bao phủ và thời gian hoạt động ở mức cao hơn đường sắt. Croatia có ba sân bay quốc tế lớn, nằm ở Zagreb, Split và Dubrovnik. Các sân bay quan trọng khác gồm Zadar, Rijeka (trên đảo Krk), Osijek, Bol, Lošinj và Pula. Croatia Airlines là hãng hàng không quốc gia. Cơ quan Hàng không Liên bang Hoa Kỳ (FAA) coi Cơ quan Hàng không Dân dụng Croatia là không tương thích với Tổ chức Hàng không Dân dụng Thế giới (ICAO) về các tiêu chuẩn an toàn. Một hệ thống phà dày đặc, được điều hành bởi Jadrolinija, nối các hoàn đảo của Croatia và nối các thành phố ven biển. Croatia cũng có dịch vụ phà tới Ý. Giáo dục Giáo dục phổ thông tại Croatia bắt đầu từ tuổi lên sáu và gồm tám lớp. Năm 2007 một điều luật được thông qua để tăng độ tuổi giáo dục miễn phí, nhưng không bắt buộc lên mười tám tuổi. Giáo dục cưỡng bách lên tới mười tám tuổi (Trường Cấp hai) Giáo dục cấp hai được thực hiện bởi các trường thể dục và các trường dạy nghề. Croatia có tám trường đại học, Đại học Zagreb, Đại học Split, Đại học Rijeka, Đại học Osijek, Đại học Zadar, Đại học Dubrovnik, Đại học Pula và Đại học Quốc tế Dubrovnik. Đại học Zadar, Đại học đầu tiên tại Croatia, được thành lập năm 1396 và vẫn hoạt động tới năm 1807, khi các cơ sở giáo dục cao học khác tiếp quản cho tới sự thành lập của Đại học Zadar mới năm 2002. Đại học Zagreb, được thành lập năm 1669, là Đại học có thời gian hoạt động liên tục lâu nhất tại Đông Nam Âu. Cũng có các trường bách khoa và giáo dục cao học khác. Văn hoá Văn hoá Croatia là kết quả của một lịch sử dài mười bốn thế kỷ đã chứng kiến sự phát triển của nhiều thành phố và các công trình. Nước này có bảy Địa điểm di sản thế giới và tám vườn quốc gia. Croatia cũng là nơi sinh của một số nhân vật lịch sử. Trong số đó có những người nổi tiếng như ba người đoạt giải Nobel và nhiều nhà phát minh. Một số chiếc bút máy đầu tiên của thế giới có từ Croatia. Croatia cũng có một địa điểm trong lịch sử có đồ quần áo như là nguồn gốc của chiếc cà vạt (kravata). Nước này có một nền nghệ thuật và văn học lâu dài và một truyền thống âm nhạc. Một khía cạnh đáng chú ý khác là sự đa dạng của ẩm thực Croatia và loại quà tặng truyền thống nổi tiếng của Croatia, Licitar. Thể thao Croatia có danh tiếng là nơi sản sinh ra nhiều vận động viên nổi tiếng trong nhiều môn thể thao. Các môn thể thao phổ biến nhất tại Croatia là bóng đá, bóng ném, bóng rổ, water polo, tennis, và trượt tuyết. Đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia đã giành huy chương đồng tại 1998 FIFA World Cup và Davor Šuker đoạt giải Chiếc giày Vàng với tư cách cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất. Đội tuyển bóng đá quốc gia cũng đã vào tới trận tứ kết 1996 European Championships và 2008 European Championships. Mới đây, Croatia cũng đã tạo ra bất ngờ khi lọt vào trận chung kết World Cup 2018 và thua đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp. Đội tuyển nước này hiện xếp hạng 9 trong Bảng xếp hạng của FIFA (thời điểm tháng 9 năm 2009). Các cầu thủ nổi tiếng nhất là Luka Modrić,Ivan Rakitić,Ivan Perišić,Mario Mandžukić, Ivica Olić và Eduardo. Đội tuyển bóng ném quốc gia Croatia từng hai lần là nhà vô địch Olympics (năm 1996 và 2004). Đội tuyển cũng giành huy chương vàng tại 2003 World Men's Handball Championship, và huy chương bạc tại các Giải vô địch thế giới năm 1995, 2003 và 2009. Croatia giành huy chương đồng tại 1994 European Championships và huy chương bạc tại 2008. RK Zagreb là Vô địch châu Âu năm 1992 và 1993 và 4 lần về thứ hai (1995, 1997, 1998 và 1999). Các vận động viên Croatia Ivano Balić, Igor Vori và Domagoj Duvnjak hiện là những cầu thủ bóng ném hàng đầu thế giới. Đội tuyển bóng rổ quốc gia Croatia đã giành huy chương bạc tại giải đấu bóng rổ Olympic năm 1992, huy chương đồng tại 1994 FIBA World Championship và huy chương đồng tại EuroBasket 1993 và EuroBasket 1995. Các câu lạc bộ bóng rổ Croatia từng năm lần là nhà vô địch Euroleague: KK Split ba lần (năm 1989, 1990 và 1991) và KK Cibona năm 1985 và 1986. Các vận động viên bóng rổ Croatia như Dražen Petrović, Krešimir Ćosić và Toni Kukoč là những vận động viên nước ngoài đầu tiên thành công tại giải NBA ở Hoa Kỳ. Đội tuyển water polo quốc gia Croatia đã giành huy chương vàng tại 2007 FINA World Championships và huy chương đồng năm 2009. Đội tuyển cũng giành huy chương bạc tại 1996 Olympic water polo tournament và huy chương bạc năm 1999 và 2003 tại European Championships. Các câu lạc bộ water polo Croatia đã 13 lần giành chức vô địch LEN Euroleague. HAVK Mladost từ Zagreb đã bảy lần giành chức Vô địch châu Âu (năm 1968, 1969, 1970, 1972, 1990, 1991 và 1996) và được trao danh hiệu Câu lạc bộ Tốt nhất thế kỷ XX bởi LEN. VK Jug từ Dubrovnik và VK Jadran từ Split đều từng ba lần giành chức Vô địch châu Âu. Đội tuyển Davis Cup Croatia (Ivan Ljubičić, Mario Ančić và Ivo Karlović cùng huấn luyện viên Nikola Pilić) đã giành chiến thắng giải 2005 Davis Cup vào tới bán kết năm 2009 (Marin Čilić và Ivo Karlović cùng huấn luyện viên Goran Prpić). Tay vợt tennis Goran Ivanišević là một trong những vận động viên nổi tiếng nhất nước. Ivanišević đã giành giải vô địch đơn Wimbledon năm 2001 và từng đứng thứ 2 trong Bảng xếp hạng ATP tháng 7 năm 1994. Ivan Ljubičić từng đứng thứ 3 trong Bảng xếp hạng ATP tháng 5 năm 2006. Iva Majoli đã giành chức vô địch đơn nữ Roland Garros năm 1997. Hiện tại tay vợt hàng đầu Croatia là Marin Čilić xếp hạng 15 tại thời điểm ngày 15 tháng 9 năm 2009. Janica Kostelić là vận động viên trượt tuyết tốc độ nữ thành công nhất trong lịch sử Olympic Mùa đông. Cô là người duy nhất giành bốn huy chương vàng môn trượt tuyết tốc độ tại Olympics Mùa đông (năm 2002 và 2006), và là người duy nhất giành ba huy chương vàng trượt tuyết trong một kỳ Olympics (2002). Cô cũng giành hai huy chương bạc năm 2006. Janica là vô địch tổng hợp World Cup năm 2001, 2003, và 2006. Ngày 5 tháng 2 năm 2006 Janica trở thành vận động viên trượt tuyết nữ thứ hai giành chiến thắng toàn bộ năm môn trong một mùa giải. Cô cũng giữ kỷ lục có số điểm cao nhất tại một mùa giải World Cup. Năm 2006 cô giành Giải Laureus World Sports cho người phụ nữ thể thao của năm. Anh trai cô Ivica Kostelić là vô địch trượt tuyết vượt chướng ngại vật năm 2003 và huy chương bạc nam Olympic 2006. Blanka Vlašić là vận động viên điền kinh thành công nhất Croatia môn nhảy cao. Cô là nhà vô địch thế giới năm 2007 và 2009. Blanka cũng là nhà vô địch thế giới trong nhà năm 2008 và giành huy chương bạc Olympic năm 2008. Thành tích cá nhân tốt nhất của cô là 2.08 m (chỉ kém 1 cm so với kỷ lục thế giới) được lập tại Zagreb ngày 31 tháng 8 năm 2009. Đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Croatia đã ba lần giành huy chương bạc tại Giải vô địch bóng chuyền châu Âu năm 1995, 1997 và 1999. Các vận động viên nổi tiếng khác của Croatia là Duje Draganja, Gordan Kožulj, Sanja Jovanović và Đurđica Bjedov môn bơi lội, Zoran Primorac, Dragutin Šurbek, Antun Stipančić và Tamara Boroš môn bóng bàn, Filip Ude môn thể dục, Siniša và Nikša Skelin môn rowing, Martina Zubčić và Sandra Šarić môn taekwondo, Snježana Pejčić môn bắn súng, Matija Ljubek môn canoeing, Željko Mavrović và Mate Parlov môn đấm bốc, Branko Cikatić và Mirko Filipović "Cro Cop" môn kickboxing và UFC Goran Reljic. Tôn giáo Các tôn giáo chính của Croatia là Công giáo La Mã chiếm 86,28% dân số, Chính Thống giáo 4,44%, 0,34% Tin Lành, Kitô giáo khác 0,30%, và 1,47% Hồi giáo. Các trường công lập cho phép sự mở các lớp giáo lý tôn giáo trong trường, đây là sự hợp tác giữa các cộng đồng tôn giáo với chính phủ, nhưng việc tham dự tham dự là không bắt buộc. Các lớp học được tổ chức rộng rãi trong các trường tiểu học và trung học công lập. Trong năm 2009, 92% học sinh tiểu học và 87% học sinh trung học tham dự các lớp học giáo lý tôn giáo. Vị trí pháp lý của cộng đồng các tôn giáo ở Croatia được xác định bởi luật pháp đặc biệt, đặc biệt liên quan đến chính phủ do sự tài trợ, ưu đãi về thuế, và giáo dục tôn giáo trong các trường học công lập. Các vấn đề khác sẽ do mỗi cộng đồng tôn giáo đàm phán riêng với chính phủ. Việc đăng ký của các cộng đồng tôn giáo ở nước này là không bắt buộc, nhưng tôn giáo nào đã đăng ký sẽ được chính phủ công nhận pháp nhân và được hưởng các ưu đãi về thuế và các lợi ích khác. Pháp luật Croatia quy định để đủ điều kiện đăng ký, một nhóm tôn giáo phải có ít nhất 500 tín hữu và được đăng ký như một hiệp hội dân sự trong 5 năm. Các nhóm tôn giáo có trụ sở ở nước ngoài phải gửi văn bản cho phép đăng ký từ nước sở tại của mình.
Sông Volga (tiếng Nga: Волга река, phiên âm: Vôn-ga) nằm ở phía đông phần lãnh thổ châu Âu nước Nga với độ dài 3.690 km (2.293 dặm), tạo thành nền tảng của hệ thống sông lớn nhất ở châu Âu. Tên gọi của sông Volga trong ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau sống dọc hai bên bờ sông là: tiếng Nga: Вoлга tiếng Tatar: İdel, Идел tiếng Chuvash Атăл (Atăl) tiếng Mordvin Рав (Rav) tiếng Mari Юл (Jul) tiếng Đức Wolga Tên gọi cổ đại là Rha (tạo thành tên gọi trong tiếng Mordvin) Miêu tả Bắt nguồn từ vùng đồi Valdai ở cao độ 225 m (740 ft) trên mực nước biển ở phía tây bắc Moskva và cách Sankt-Peterburg khoảng 320 km về phía đông nam, sông Volga chảy về phía đông nam, qua các tỉnh và thị thành như Tver, Dubna, Yaroslavl, Nizhny Novgorod đến Kazan thì chuyển hướng về phía nam, chảy qua Tolyatti, Samara và Volgograd để sau đó đổ vào biển Caspi ở phía dưới Astrakhan với cao độ 28 mét dưới mực nước biển. Ở khu vực có tầm chiến lược quan trọng nhất, nó uốn cong về phía sông Đông. Volgograd, trước đây là Stalingrad, nằm trong khu vực này. Sông Volga có nhiều sông nhánh, quan trọng nhất là các sông Kama, Oka, Vetluga và Sura. Sông Volga và các sông nhánh trong hệ thống sông Volga đảm bảo tưới tiêu cho một khu vực có diện tích khoảng 1,35 triệu km trong khu vực đông dân cư nhất của nước Nga. Vùng châu thổ sông Volga có chiều dài khoảng 160 km và bao gồm tới 500 kênh và sông nhỏ. Sông Volga bị đóng băng trong khoảng ba tháng mỗi năm trên gần như toàn bộ chiều dài của nó. Sông Volga tưới tiêu cho phần lớn miền tây Nga. Các hồ chứa nước lớn của nó cung cấp nước cho thủy lợi và phát điện. Hệ thống các kênh đào Moskva-Volga, kênh đào Volga-Don và kênh đào Mariinsk tạo thành một tuyến đường thủy nối liền Moskva với Bạch Hải, biển Baltic, biển Caspi, biển Azov và biển Đen. Nồng độ ô nhiễm hóa chất cao hiện nay là nguyên nhân gây ra các e ngại về vấn đề môi trường. Vùng lưu vực sông Volga được tưới tiêu bởi con sông này cung cấp một lượng lớn lúa mì và nhiều khoáng sản. Các trung tâm công nghiệp khai thác dầu khí đáng kể nằm trong thung lũng sông Volga. Các khoáng sản khác bao gồm khí đốt, muối và kali cacbonate. Châu thổ sông Volga và biển Caspi cạnh đó là nguồn cung cấp thủy sản quan trọng (cá). Thành phố Astrakhan, nằm ở vùng châu thổ này, là trung tâm cung cấp trứng cá muối. Volgograd và Nizhny Novgorod là các thành phố công nghiệp quan trọng trên bờ con sông này. Trong thời kỳ Xô viết, Nizhny Novgorod đã là cấm địa đối với người ngoại quốc. Các thành phố quan trọng khác là Saratov, Kazan, Tolyatti và Samara. Chín nhà máy thủy điện lớn và một số hồ chứa nước nhân tạo lớn được tạo thành bởi một hệ thống các đập nước nằm dọc sông Volga. Các hồ nhân tạo lớn nhất theo trật tự từ bắc xuống nam là các hồ chứa nước Rybinsk, Nizhny Novgorod, Samara và Volgograd. Lịch sử con người Trong thời kỳ cổ đại, sông Volga được biết dưới tên gọi Atil, Itil hay Idil, tên gọi của người Turk có nghĩa là "sông dài". Tuy nhiên, sự có mặt của người Turk là muộn hơn so với sự có mặt trong khu vực còn hoang vắng này của người Ấn-Âu. Đặc biệt, "Volga" có lẽ là sự Slav hóa của tên gọi tiền-Baltic liên quan đến một từ trong tiếng Litva là jilga - "sông dài". Thượng nguồn sông Volga là ranh giới của quần thể người nói tiếng Baltic tiền sử, như được chứng thực trong tên gọi của con sông này. Những tên gọi như Ilgupe ("sông dài") và các tên gọi khác tương tự như nó là phổ biến trong tiếng Litva và Latvia. (Gimbutas, The Balts, 1963). Nhà học giả thời cổ đại là Ptolemy ở Alexandria đã đề cập tới sông Volga trong Geography của ông (quyển 5, chương 8, bản đồ thứ hai về châu Á). Ông gọi nó là Rha, và nó chỉ là tên gọi cổ đại đứng hàng thứ ba. Tuy nhiên, nó chỉ đề cập tới phần hạ lưu sông Volga. Ptolemy tin rằng sông Đông và sông Volga chia sẻ cùng một nhánh thượng nguồn, và nhánh đó chảy từ dãy núi Hyperborean. Có lẽ các ngọn núi này là vùng đồi Valdai, nhưng tên gọi này được sử dụng bởi các nguồn khác để chỉ một khu vực không biết rõ nằm ở phía bắc. Những người dân với phong tục tập quán của người Baltic xuất hiện trong một số văn bản đó. Ngoài ra, người ta cũng biết rằng người Slav đã từng sinh sống ở phần hạ lưu sông Volga, do Ptolemy đề cập tới những người Serb cư trú ở bờ tây con sông này. Xuôi theo dòng sông Volga là khu vực định cư của người Hun và các sắc tộc Turk khác trong thiên niên kỷ đầu tiên của công nguyên, họ thay thế cho người Scythia và một số thành thị lớn như Atil và Saqsin đã xuất hiện. Tiếp theo đó, vùng lưu vực sông Volga đã đóng vai trò quan trọng trong sự dịch chuyển của con người từ châu Á tới châu Âu. Quốc gia Volga Bulgaria hùng mạnh đã từng rất thịnh vượng khi sông Kama nối liền với sông Volga. Những người này đã đến cùng với người Hun, dần dà chuyển thành người Tatar. Ngoài ra, sông Volga cũng chảy qua lãnh thổ của vương quốc Khazar. Người Khazar sau đó bị thay thế bởi người Kipchak, Kimek và Mông Cổ. Người Mông Cổ thành lập ra Hãn quốc Kim Trướng ở hạ lưu sông Volga. Sau đó đế chế này bị tách ra thành vài hãn quốc nhỏ hơn và cuối cùng thì các hãn quốc này đã bị người Nga sáp nhập lại vào thế kỷ 16. Trong thời kỳ hiện đại, thành phố trên vòng cung lớn của sông Volga là Volgograd - nơi đã diễn ra chiến dịch Stalingrad, mà kết quả của nó là chiến thắng cho Liên Xô đối với Đức trong Đại chiến thế giới lần thứ hai. Tình cảm sâu đậm của người dân Nga đối với con sông này thường được thấy trong các điệp khúc của các bài hát cũng như trong văn chương của họ. Sau tất cả những điều đó, nước Nga ban đầu đã được thành lập dọc theo bờ sông Volga, một phần vì những nhà buôn người Viking đã dùng con sông này làm đường tới phương nam tính từ điểm bắt đầu của họ ở gần khu vực Arkhangelsk. Các nhóm sắc tộc Sắc tộc dân bản địa ở thượng nguồn Volga là người Merya gốc Phần Lan đã đồng hóa thành người Nga. Một vài giả thuyết cho rằng từ Volga là từ valli trong tiếng Phần Lan, được dịch thành nước. Các nhóm sắc tộc gốc Phần Lan khác là người Mari và người Mordvin ở trung lưu sông Volga. Các nhóm sắc tộc người Turk đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 7 và đồng hóa một số nhóm người gốc Phần Lan và Ấn-Âu ở trung và hạ lưu sông Volga, sau này họ đã chuyển thành người Chuvash theo Chính thống giáo phương Đông và người Tatar theo Hồi giáo; cũng như thành người Nogai mà sau này đã di chuyển tới Daghestan. Người Kalmyk gốc Mông Cổ theo Phật giáo đã định cư ở bờ sông Volga vào thế kỷ 17. Khu vực sông Volga cũng là quê hương của nhóm sắc tộc thiểu số gốc Đức là người Đức-Volga, phần nhiều trong số đó có tổ tiên được một số Sa hoàng mời tới định cư ở Nga, chẳng hạn như Piotr Đại Đế, là một phần trong chiến dịch để mở mang và nâng cao dân trí của đất nước bằng cách nhập khẩu thợ lành nghề. Trong thời kỳ Liên Xô thì một phần của khu vực này đã từng trở thành Nước cộng hòa tự trị Đức-Volga cho nhiều người Đức-Volga sinh sống. Một số khác đã rời bỏ Nga sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Vận tải thủy Sông Volga có tầm quan trọng lớn trong giao thông, vận tải nội thủy ở Nga: tất cả các đập nước trên sông đều có các âu thuyền lớn (và kép), vì thế tàu bè với kích thước đáng kể có thể thực sự di chuyển từ biển Caspi gần như tới đầu thượng nguồn con sông này. Việc nối liền với sông Đông và Hắc Hải là có thể, thông qua kênh đào Volga-Đông. Việc nối liền với các hồ ở phía bắc và với Sankt-Peterburg cũng là có thể, thông qua tuyến đường thủy Volga-Baltic; còn việc nối liền với Moskva đã được thực hiện theo kênh đào Moskva nối liền sông Volga với sông Moskva. Hạ tầng cơ sở này đã được thiết kế để cho tàu thủy có kích thước và trọng tải tương đối lớn (kích thước cửa âu thuyền là 290 x 30 m trên sông Volga và nhỏ hơn một chút trên các sông và kênh đào khác) và nó trải rộng trên hàng ngàn kilômét. Cho đến thời gian gần đây việc đi lại trên các tuyến đường thủy Nga chỉ được cho phép trong phạm vi khá hạn hẹp. Sự gia tăng tiếp xúc giữa Liên minh châu Âu và Nga đã dẫn tới các chính sách mới trong việc đi lại trên các tuyến nội thủy của Nga. Người ta dự kiến rằng việc tàu bè của các quốc gia khác sẽ được phép đi lại trên các sông của Nga là không còn lâu nữa.. Văn hóa Như các dòng sông lớn khác trên thế giới, sông Volga đã trở thành một trong các biểu tượng của văn hóa Nga được nhiều nghệ sĩ Nga khai thác. Họa sĩ Nga Ilya Yefimovich Repin đã sáng tác bức tranh nổi tiếng "Những người kéo thuyền trên sông Volga" vào thế kỷ thứ XIX (khởi tạo năm 1870, hoàn thành năm 1973). Bức tranh được sáng tác theo cảm hứng của điệu hát dân gian Hò kéo thuyền trên sông Volga được nhà soạn nhạc M. A. Balakirev sưu tầm và tập hợp trong một tuyển tập dân ca ấn hành năm 1866. Bài hát đã được nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay trình bày.. Trong số đó, giọng hát của Fyodor Ilich Shaliapil vào năm 1906 vẫn được coi là giọng trầm kinh điển của âm nhạc Nga khi thể hiện bài hát này..
Iceland (phiên âm tiếng Việt: "Ai-xơ-len"; ; ; tên tiếng Việt khác: Băng Đảo), tên chính thức là Cộng hòa Iceland, là một quốc đảo thuộc khu vực châu Âu theo thể chế cộng hòa đại nghị. Iceland nằm giáp vòng Cực Bắc nên có khí hậu rất lạnh giá. Tuy nhiên đất nước này lại nằm trên vành đai núi lửa Đại Tây Dương, nên có rất nhiều núi lửa, suối nước nóng và nguồn địa nhiệt khổng lồ. Iceland cũng có rất nhiều sông băng. Nhờ có dòng hải lưu Gulf Stream chảy gần bên, khí hậu Iceland được ôn hòa hơn đôi chút. Iceland còn được gọi với biệt danh là "Vùng đất lửa và băng". Lịch sử của Iceland bắt đầu vào năm 874, khi 1 thuyền trưởng người Na Uy tên là Ingólfur Arnarson đến định cư ở hòn đảo này. Trong thế kỷ tiếp theo, người Na Uy và người Celt đã đến sinh sống tại Iceland. Đất nước này là một phần của Na Uy và Đan Mạch từ 1262-1944. Sau khi giành được độc lập, nền kinh tế quốc gia này đã phát triển mạnh mẽ, cùng với hệ thống phúc lợi xã hội vào hàng tốt nhất thế giới. Đất nước này xếp thứ 5 thế giới về thu nhập bình quân đầu người, và thứ nhất thế giới về chỉ số phát triển con người (HDI). Với nền kinh tế thị trường, Iceland có các ngành dịch vụ, tài chính rất phát triển. Do có nhiều quang cảnh thiên nhiên độc đáo, Iceland đang ngày càng thu hút khách du lịch quốc tế. Iceland là một thành viên của các tổ chức như Liên hiệp quốc, NATO, EFTA, EEA, OECD nhưng không tham gia Liên minh châu Âu. Từ nguyên Cả từ "Iceland" trong tiếng Anh và "Ísland" trong tiếng Iceland đều có nghĩa là "vùng đất băng". Trong tiếng Trung, quốc gia này được gọi là Băng Đảo (冰島, bính âm: Bīngdǎo), và mặc dù không chính xác với nghĩa gốc của cả "Iceland" hay "Ísland", một số báo tiếng Việt lại dùng tên Hán Việt từ nguồn tiếng Trung để gọi nước này. Lịch sử Lịch sử ban đầu Về mặt địa chất, Iceland là 1 hòn đảo trẻ. Iceland hình thành từ 1 chuỗi những vụ phun trào núi lửa cách đây 20 triệu năm tại khe nứt địa mảng Đại Tây Dương. Mẫu vật đá cổ nhất được tìm thấy ở Iceland có niên đại 16 triệu năm. Sau khi hình thành hòn đảo, những vụ phun trào núi lửa vẫn tiếp tục cho đến tận ngày nay ở Iceland. Iceland đã giữ mình như 1 hòn đảo không có người ở trong một thời gian rất lâu. Có ý kiến cho rằng 1 thương nhân Hy Lạp cổ đại tên là Pytheas đã tìm ra Iceland và gọi mảnh đất này bằng cái tên Thule, nhưng giả thuyết này không được hợp lý cho lắm vì Iceland hoàn toàn khác với những lời mô tả của Pytheas như 1 đất nước nông nghiệp với rất nhiều sữa, mật ong và hoa quả. Khoảng thời gian chính xác về ngày con người đặt chân đến Iceland vẫn là 1 đề tài gây tranh cãi. Những đồng xu La Mã cổ đại vào thế kỷ III đã được tìm thấy tại Iceland, nhưng không ai dám chắc thời gian mà những đồng xu này được mang đến, vì người Viking cũng lưu hành những đồng tiền như vậy trong nhiều thế kỉ. Có một số bằng chứng văn học rằng những tu sĩ người Ireland đã đến Iceland trước cả người Na Uy. Tuy nhiên lại không có 1 bằng chứng khảo cổ đáng tin cậy nào chứng tỏ điều đó. Vào thế kỷ XII, học giả Ari Þorgilsson đã viết trong cuốn sách Íslendingabók của ông rằng những chiếc chuông nhỏ của các tu sĩ Ireland đã được những người dân nhập cư tìm thấy, tuy nhiên cũng không có bằng chứng khảo cổ để xác minh. một số người Iceland thì cho rằng nguồn gốc của họ là từ vị vua Kjarvalr Írakonungr trong tác phẩm Landnámabók. Theo tác phẩm Landnámabók, Iceland đã được khám phá ra bởi 1 thủy thủ người Scandinavia tên là Naddoddr, khi ông ta định đi từ Na Uy tới quần đảo Faroe, nhưng bị lạc đường tới bờ biển phía Đông của Iceland. Naddoddr đã đặt tên cho vùng đất này là Snæland (Vùng đất Tuyết). 1 thủy thủ người Thụy Điển tên là Garðar Svavarsson cũng bị lạc tới Iceland. Ông đã khám phá ra đây là 1 hòn đảo và đặt cho nó một cái tên khác là Garðarshólmi (Đồi Garðar). Garðar Svavarsson đã sống tại vùng ngày nay là Húsavík qua mùa đông. Người Scandinavia đầu tiên chủ tâm tìm đường đến Iceland là Flóki Vilgerðarson (hay Hrafna-Flóki). Flóki đã sống ở Iceland một thời gian và đặt cho hòn đảo cái tên gọi ngày nay: Ísland, tức là Iceland. Người đầu tiên đến định cư Iceland là 1 thủ lĩnh Viking người Na Uy, đó là Ingólfur Arnarson. Theo truyền thuyết, ông đã thả 2 chiếc cột chạm khắc xuống biển khi gần tới Iceland và tuyên bố sẽ ở lại bất cứ nơi nào là đất liền. Ông cho đi thuyền dọc theo bờ biển Iceland và dừng lại khi tìm thấy những chiếc cột chạm ở bán đảo phía Tây Nam nước này, nay là bán đảo Reykjanesskagi. Sau đó, Arnarson cùng với gia đình của mình đã sống tại đó năm 874 và đặt tên cho nơi họ đang sống là Reykjavík (Vịnh Khói) do hơi nước nóng bốc lên từ những nguồn địa nhiệt dưới lòng đất. Sau này Reykjavík đã trở thành thủ đô và thành phố lớn nhất Iceland. Tuy nhiên có lẽ Ingólfur Arnarson không phải là người đầu tiên định cư vĩnh viễn ở Iceland mà có lẽ người đó là Náttfari, 1 nô lệ của Garðar Svavarsson sau khi ông chủ của anh ta trở về bán đảo Scandinavia. Những thông tin trên được tìm thấy trong cuốn Landnámabók, cuốn sách kể về những người nhập cư đến Iceland. Tuy nhiên, các nhà sử học Iceland tránh dùng tác phẩm này như nguồn sử liệu chính thức vì có nhiều điều trong cuốn sách mâu thuẫn. Tuy nhiên, đó cũng là tác phẩm đầu tiên kể về lịch sử của Iceland và các khám phá khảo cổ tại Reykjavík đã cho thấy đúng là những người nhập cư đầu tiên đã đến Iceland vào khoảng năm 870. Ingólfur Arnarson có 1 đoàn tùy tùng đông đảo đi theo gồm các thủ lĩnh Viking, gia đình và những người nô lệ của họ. Những người dân nhập cư này đã đến sống tại tất cả các khu dân cư trên đảo 1 thập kỉ sau đó. Những người đến Iceland này chủ yếu là người Na Uy, Ireland và Scotland. Trong đó, đa phần người Ireland và Scotland là những nô lệ bắt được khi người Viking tấn công đất nước của họ. Việc di cư đến Iceland của người Na Uy ngày càng trở nên phổ biến vì họ muốn chạy trốn khỏi ách cai trị tàn bạo của vị vua Na Uy lúc bấy giờ là Haraldur Harfagri, người được cho rằng đã thống nhất các phần của đất nước Na Uy lúc đó. Trung cổ Năm 930, các thủ lĩnh cai trị đã thành lập một cuộc họp với tên gọi Hội đồng Chấp chính (tiếng Iceland: Alþingi). Cuộc họp này được tổ chức vào mỗi mùa hè tại Đồng bằng Thing (Þingvellir), đây sẽ là lúc các thủ lĩnh họp bàn để đặt ra luật và giải quyết các tranh chấp. Luật pháp không được viết ra làm văn bản mà chỉ được ghi nhớ bởi các nhà hùng biện. Alþingi được coi là 1 trong những kiểu quốc hội cổ xưa mà trong đó, luật pháp được thực thi không phải lúc nào cũng chính xác nên thường dẫn đến những xung đột. Tuy nhiên thời kỳ Liên bang ở Iceland phát triển hầu như không bị đứt quãng. Thời gian này, người Viking đã đến được vùng Tây Nam Greenland và bờ biển phía Đông Canada. Người Iceland ban đầu thờ cúng những vị thần của người Na Uy như thần Odin, Thor, Freyja. Tuy nhiên đến thế kỷ X, Thiên chúa giáo phát triển mạnh mẽ ở châu Âu đã ảnh hưởng đến tôn giáo ở Iceland và người dân Iceland bắt đầu cải sang tôn giáo mới. Vào khoảng năm 1000, khả năng về một cuộc chiến tranh tôn giáo ở Iceland đã gần kề. Hội đồng Chấp chính Alþingi đã quyết định chọn ra 1 thủ lĩnh là Þorgeirr Ljósvetningagoði để ông quyết định tôn giáo chính thức của Iceland. Và ông đã chọn Thiên chúa giáo làm tôn giáo chính thức của đất nước này, tuy nhiên một số người ngoại đạo vẫn bí mật tôn thờ những vị thần cũ. Giám mục đầu tiên của Iceland là Ísleifr Gizurarson, được Giám mục Adalbert của Bremen phong năm 1056. Vào thế kỷ XI và thế kỷ XII, quyền lực chuyển sang tay những dòng họ giàu có. Thời kỳ 1200-1262 được biết đến với tên gọi Sturlungaöld - Thời kỳ của dòng họ Sturlungs, 1 trong 2 thế lực chính tranh giành quyền lực ở Iceland. Năm 1220, Snorri Sturluson đã thần phục vua Hakón của Na Uy, và người cháu trai của ông Sturla Sighvatsson, cũng thần phục Na Uy vào năm 1235. Ông ta đã sử dụng quyền lực và ảnh hưởng của dòng họ Sturlungar để gây chiến chống lại các phe cánh khác ở Iceland. Sau 1 thập kỉ xung đột, các thủ lĩnh Iceland đã đồng ý công nhận chủ quyền của Na Uy và thành lập 1 liên minh với vương triều Na Uy. Iceland được đặt dưới vương quyền của vua Na Uy cho đến năm 1380, khi vương triều Na Uy không có người kế vị. Đan Mạch đã nhanh chóng sáp nhập cả Iceland và Na Uy vào lãnh thổ của mình. Dưới sự cai trị của Đan Mạch, hoạt động ngoại thương của Iceland bị đình trệ và đến năm 1660, Iceland cũng không còn quyền tự trị và không có luật pháp riêng nữa. Năm 1602, chính quyền Đan Mạch cấm Iceland buôn bán với bất cứ nước nào khác ngoài nước này. Sự độc quyền về thương mại của Đan Mạch đối với Iceland kéo dài đến năm 1854 mới kết thúc. Vào giữa thế kỷ XVI, vua Christian III của Đan Mạch đã tiếp thu những giáo lý của Luther (Lutheranism). Các mục sư Thiên chúa giáo là Jón Arason và Ögmundur Pálsson đã chống lại tôn giáo cải cách của nhà vua. Ögmundur Pálsson bị trục xuất khỏi Đan Mạch vào năm 1541 nhưng Jón Arason thì vẫn tiếp tục đấu tranh. Cuộc chiến chống lại tôn giáo cải cách kết thúc năm 1550 khi Jón và hai con trai của ông bị bắt và giết hại. Từ sau sự kiện đó, Iceland trở thành 1 nước theo Giáo hội Luther cho đến tận ngày nay. Hiện đại Vào thế kỷ XVIII, khí hậu Iceland trở nên tồi tệ nhất kể từ khi những người dân nhập cư đến hòn đảo này. Năm 1783, ngọn núi lửa Laki ở Iceland phun trào, mang theo 12,5 km³ nham thạch. Lũ lụt, tro bụi và khí độc từ vụ phun trào này đã giết chết 9.000 người và 80% số gia súc. Hậu quả tiếp theo đó là 1 nạn đói khủng khiếp, giết chết 1/4 dân số Iceland lúc bấy giờ. Hiệp ước Kiel năm 1814 đã tách Na Uy ra khỏi Đan Mạch, rồi sau đó xảy ra cuộc Chiến tranh Napoléon, khiến Đan Mạch cố gắng giữ Iceland như 1 nước phụ thuộc vào mình. Sang thế kỷ XIX, tình hình thời tiết ngày càng trở nên tồi tệ hơn, dẫn đến việc 1 bộ phận lớn người dân Iceland bỏ sang Tân thế giới, chủ yếu nhập cư vào vùng Manitoba (Canada). Tuy nhiên, ý thức dân tộc đã hồi sinh ở Iceland trong thời kỳ này, được truyền cảm hứng từ chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa dân tộc từ châu Âu. Phong trào Vận động Dân tộc tại Iceland được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Jón Sigurðsson. Hội đồng Chấp chính Alþingi lỗi thời bị giải thể vào năm 1800 nhưng đến năm 1843, 1 Hội đồng Tư vấn cùng tên được thành lập lại, kế tục Alþingi của Liên bang Iceland. Năm 1874, Đan Mạch trao cho Iceland quyền tự trị, sau đó được mở rộng hơn vào năm 1904. 1 bản hiến pháp riêng đã được biên soạn vào năm 1874, rồi sau đó được sửa chữa lại năm 1903. Đạo luật Liên bang được ban hành ngày 1/12/1918, với sự đồng ý của Đan Mạch, đã công nhận Iceland là 1 lãnh thổ có chủ quyền thống nhất với Đan Mạch. Iceland có lá cờ riêng và yêu cầu Đan Mạch đại diện cho nước này trong các vấn đề về phòng thủ quân sự. Ngày 9/4/1940, quân đội Đức xâm chiếm Đan Mạch, cắt đứt sự liên hệ giữa Đan Mạch và Iceland. Kết quả là vào ngày 10/4, Quốc hội Iceland Alþingi đã quyết định tự kiểm soát vấn đề ngoại giao và chọn Sveinn Björnsson làm người đứng đầu chính phủ lâm thời, sau này trở thành tổng thống đầu tiên của Iceland. Trong năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, Iceland cố gắng giữ mình như 1 nước trung lập và chống lại cả Anh và Đức vì cho rằng họ vi phạm sự trung lập của nước này. Ngày 10/5/1940, quân đội Anh tiến vào Iceland. Chính quyền Iceland phản đối lại và gọi đây là hành động can thiệp trắng trợn vào chính sách trung lập của Iceland. Quân Đồng Minh đã chiếm đóng Iceland trong suốt chiến tranh, sau đó được thay thế bởi quân đội Mỹ. Và chính phủ Iceland đã phải đồng ý cho quân đội Mỹ đóng tại nước này. Theo một cuộc trưng cầu ý dân, Iceland đã trở thành 1 nước cộng hòa độc lập vào ngày 17/6/1944. Sau khi giành được độc lập, Iceland đã tham gia tổ chức NATO vào ngày 30/3/1949. 2 năm sau, Hiệp định Phòng thủ giữa Mỹ và Iceland được ký kết và quân đội Mỹ quay trở lại đóng tại Iceland trong suốt Chiến tranh Lạnh cho đến tận mùa thu năm 2006 mới kết thúc. Thời kỳ hậu chiến, Iceland có được sự phát triển kinh tế nhanh chóng do nằm trong Kế hoạch Marshall của Mỹ. Iceland đã tiến hành hiện đại hóa ngành công nghiệp đánh bắt và chế biến cá, xương sống của nền kinh tế nước này và thực hiện các biện pháp tài chính theo thuyết kinh tế của Kaynes. Thập niên 1970 được đánh dấu bởi cuộc Chiến tranh Cá tuyết, do những mâu thuẫn với Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland xung quanh việc Iceland mở rộng hải phận đánh bắt cá. Do quá phụ thuộc vào ngành đánh bắt cá, kinh tế Iceland phát triển không ổn định cho đến năm giữa thập niên 1990, khi nước này tiến hành đa dạng hóa và tự do hóa nền kinh tế, rồi gia nhập EEA (Khu vực Kinh tế châu Âu). Chính trị Chính phủ Quốc hội Iceland hiện nay, Alþingi, được thành lập năm 1845 như 1 cơ quan cố vấn cho vua Đan Mạch. Đây được coi là một sự tiếp nối với Hội đồng Chấp chính Alþingi cổ xưa của Iceland, được thành lập vào năm 930 vào thời kỳ Liên bang và bị giải tán năm 1799. Quốc hội hiện nay có 63 đại biểu, nhiênđược lựa chọn qua những cuộc tổng tuyển cử 4 năm/lần. Tổng thống Iceland là người đứng đầu quốc gia nhưng không có thực quyền. Tuy ông có thể dừng thông qua 1 đạo luật và đưa ra trưng cầu dân ý. Thủ tướng Iceland là người đứng đầu chính phủ, cùng với nội các xem xét các công việc hành pháp. Nội các được bổ nhiệm bởi tổng thống sau mỗi cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội, nhưng thường được lựa chọn bởi chủ tịch của các đảng. Quốc hội Iceland thường có sự liên kết giữa 2 hoặc nhiều đảng phái với nhau vì không đảng nào giành được đa số ghế trong quốc hội. Nữ tổng thống đầu tiên của thế giới là 1 phụ nữ người Iceland, bà Vigdís Finnbogadóttir, nhiệm kỳ 1980-1996. Các cuộc bầu cử hội đồng địa phương, quốc hội và tổng thống đều được tổ chức 4 năm/lần và không cùng năm với nhau.). Hiện nay Quốc hội nước này duy trì chế độ lưỡng viện. Nghị viện với 63 thành viên, gồm Thượng nghị viện có 21 thành viên và Hạ nghị viện có 42 thành viên, được bầu bằng tuyển cử phổ thông đầu phiếu theo hệ thống đại diện tỷ lệ, nhiệm kỳ năm. Tổng thống được bầu trực tiếp, nhiệm kỳ 4 năm. Tống thống bổ nhiệm Thủ tướng và các thành viên của Nội các. Thủ tướng và Nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội được lựa chọn trong hai Đảng cầm quyền là Đảng Độc lập và Đảng Tiến bộ - Tổng thống đứng trung lập. Trong cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 5 năm 2007, chính phủ mới là một liên minh giữa Đảng Độc lập cánh hữu và Liên minh Dân chủ Xã hội. Thủ tướng là ông Geir Haarde, một người của Đảng Độc lập. Còn tổng thống hiện nay là ông Ólafur Ragnar Grímsson. Quan hệ ngoại giao Iceland, một thành viên của Liên hợp quốc, NATO, EFTA, Hội đồng Châu Âu và OECD duy trì mối quan hệ ngoại giao và thương mại với thực tế ở tất cả các quốc gia, nhưng mối quan hệ với các nước Bắc Âu, Đức, Hoa Kỳ, Canada và các quốc gia NATO khác đặc biệt gần gũi. Iceland từng là một trong những quốc gia thành Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Theo lịch sử, do những điểm tương đồng về văn hoá, kinh tế và ngôn ngữ, Iceland là một quốc gia Bắc Âu, và tham gia vào hợp tác liên chính phủ thông qua Hội đồng Bắc Âu. Iceland là một thành viên của Khu vực Kinh tế Châu Âu (EEA), cho phép quốc gia tiếp cận thị trường chung của Liên minh châu Âu (EU). Đây không phải là thành viên của EU, nhưng trong tháng 7 năm 2009, quốc hội Iceland, Althing, đã bỏ phiếu ủng hộ đơn xin gia nhập EU,và chính thức áp dụng vào ngày 17 tháng 7 năm 2009.  Tuy nhiên, năm 2013, các cuộc thăm dò ý kiến ​​cho thấy rằng nhiều người Iceland hiện đang chống lại việc gia nhập EU; sau cuộc bầu cử năm 2013, hai bên thành lập chính phủ mới của hòn đảo - Đảng Tiến bộ Trung ương và Đảng Tự trị cánh hữu - tuyên bố họ sẽ tổ chức trưng cầu về thành viên EU. Quân đội Iceland không có quân đội thường trực, nhưng Đội Cảnh sát biển Iceland vẫn duy trì Hệ thống phòng không Iceland, và Đơn vị Đáp ứng Khủng hoảng Iceland để hỗ trợ các sứ mệnh gìn giữ, thực hiện các nhiệm vụ bán quân sự. Iceland Defense Force (IDF) là một quân lệnh của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ từ năm 1951 đến 2006. Các IDF, được tạo ra theo yêu cầu của NATO, ra đời khi Hoa Kỳ đã ký một thỏa thuận để cung cấp cho việc bảo vệ Iceland. IDF bao gồm các thành viên Iceland và các thành viên quân sự của các quốc gia NATO khác. IDF được giảm bớt sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và Không quân Hoa Kỳ duy trì bốn đến sáu chiếc máy bay đánh chặn tại Trạm Không quân Hải quân Keflavik, cho đến khi họ rút lui vào ngày 30 tháng 9 năm 2006. Kể từ tháng 5 năm 2008, các quốc gia NATO đã triển khai thường xuyên máy bay chiến đấu để tuần tra không phận Iceland trong sứ mệnh Cải cách Không khí Iceland. Iceland ủng hộ cuộc xâm lược Iraq vào năm 2003 bất chấp nhiều tranh cãi trong nước, triển khai một đội Cảnh sát biển EOD tới Iraq, được thay thế sau đó bởi các thành viên của Tổ chức Đáp ứng khủng hoảng Băng Đảo. Iceland cũng đã tham gia cuộc xung đột đang diễn ra ở Afghanistan và vụ đánh bom Nam Tư năm 1999 của Nam Tư. Iceland là nhà tổ chức trung lập của hội nghị thượng đỉnh Reagan-Gorbachev vào năm 1986 ở Reykjavík, tạo ra giai đoạn kết thúc Chiến tranh Lạnh. Các vụ tranh chấp quốc tế lịch sử của Iceland liên quan đến các bất đồng về quyền đánh bắt cá. Xung đột với Vương quốc Anh đã dẫn tới một loạt các cuộc gọi là Cuộc chiến tranh Tranh đồng, bao gồm các cuộc đối đầu giữa Lực lượng Cảnh sát Băng Đảo và Hải quân Hoàng gia trên ngư dân Anh, vào năm 1952-1956 do việc mở rộng vùng đánh cá của Iceland từ 3 xuống 4 nmi(5,6 đến 7,4 km, 3,5 đến 4,6 dặm), 1958-1961 sau khi kéo dài thêm 12 nmi (22,2 km, 13,8 dặm), 1972-1973 và một phần khác kéo dài đến 50 nmi (92,6 km, 57,5 ​​mi); và trong giai đoạn 1975-1976 một lần kéo dài thêm 200 nmi (370,4 km; 230,2 dặm). Theo Chỉ số Hòa bình Toàn cầu, Iceland là quốc gia hòa bình nhất thế giới, do thiếu lực lượng vũ trang, tỷ lệ tội phạm thấp, và mức độ ổn định chính trị-xã hội cao. Sách kỷ lục Guinness công nhận Iceland là "Nước được xếp hạng nhất trong hòa bình" và "Chi tiêu quân sự thấp nhất trên đầu người". Phân chia hành chính Iceland được chia thành các khu vực bầu cử, vùng, tỉnh và thành phố tự trị. Iceland có tất cả sáu khu vực bầu cử. Cho tới tận năm 2003, các khu vực bầu cử vẫn đồng nhất với các vùng. Sự sửa đổi hiến pháp về các khu vực bầu cử diễn ra nhằm mục đích cân bằng lại quyền lực giữa các vùng trong cả nước, bởi vì theo cách bầu cử cũ, các phiếu bầu ở những khu vực hẻo lánh ít dân được tính cao hơn so với khu vực thành phố Đại Reykjavík (gồm thủ đô và 3 thị trấn lân cận), nơi tập trung đông dân cư nhất cả nước. Iceland có những khu vực bầu cử sau: Bắc Reykjavík và Nam Reykjavík (khu vực thành phố) Tây Nam (ba thị trấn quanh Reykjavík) Tây Bắc và Đông Bắc (hai khu vực phía bắc Iceland) Nam (nửa phía nam Iceland, không gồm khu Đại Reykjavík) Iceland được chia thành 8 vùng, chủ yếu nhằm mục đích thống kê. Dưới vùng là các tỉnh. Iceland có tất cả 23 tỉnh, nhưng lại có 26 tòa án đại diện cho chính quyền tại những khu vực khác nhau. Các tòa án có nhiệm vụ quản lý lực lượng cảnh sát địa phương (trừ Reykjavík), thu thuế, đăng ký kết hôn... Các tỉnh của Iceland được chia tiếp thành 79 thành phố tự trị, quản lý các công việc địa phương như trường học, giao thông. Địa lý Vị trí Iceland là một hòn đảo nằm ở phía bắc Đại Tây Dương, gần kề phía nam Vòng Cực Bắc. Vòng Cực Bắc đi qua một số hòn đảo nhỏ nằm ở ngoài khơi phía bắc Iceland, tuy nhiên không cắt qua hòn đảo chính của nước này. Không giống như Greenland, Iceland được coi là một phần của châu Âu chứ không phải thuộc Bắc Mỹ, mặc dù về mặt địa chất thì Iceland thuộc về cả hai châu lục. Nếu xét về mặt văn hóa, kinh tế và sự tương đồng ngôn ngữ thì Iceland được xếp vào nhóm Bắc Âu cùng với các nước Scandinavia. Iceland là hòn đảo rộng thứ 18 trên thế giới và rộng thứ nhì châu Âu, sau đảo Anh. Iceland có vị trí chiến lược giữa biển Greenland và châu Âu. Tổng diện tích của Iceland là 103.000 km², trong đó phần đất là 100.250 km² còn phần nước là 2.750 km². Diện tích các vùng địa hình: Thảm thực vật: 23.805 km² Hồ: 2.757 km² Sông băng: 11.922 km² Đất hoang: 64.538 km² Diện tích đất con người sử dụng: Đất trồng trọt được: 0,07% Đất trồng cây quanh năm: 0% Đồng cỏ quanh năm: 23% Rừng cây gỗ: 1% Mục đích khác: 76% Địa hình Khoảng 11% diện tích của Iceland được bao phủ bởi các sông băng với tổng diện tích lên tới 11.922 km², trong đó ba sông băng rộng nhất là Vatnajökull (8.300 km²), Langjökull (953 km²), Hofsjökull (925 km²). Ngoài ra còn có một số sông băng nhỏ hơn như Mýrdalsjökull, Drangajökull, Eyjafjallajökull và Snæfellsjökull. Vào mùa đông, phần lớn diện tích của Iceland bị bao phủ bởi băng và tuyết, như ta có thể thấy trên hình bên. Khu vực trung tâm hòn đảo là Cao nguyên Iceland có khí hậu khắc nghiệt và là nơi không thể sinh sống được. Khu vực ven biển Iceland là những vùng đất thấp. Các vịnh biển fio được tạo thành do nước biển nhấn chìm các thung lũng sông băng cũ ăn sâu vào đất liền làm tăng độ dài đường bờ biển của Iceland lên tới 4.970 km. Khu vực ven biển là nơi sinh sống chủ yếu của người dân Iceland. Điểm cao nhất của Iceland là ngọn núi Hvannadalshnúkur, cao 2.110 m. Còn điểm thấp nhất của Iceland là phá Jölkulsárlón (-146 m). Là một hòn đảo trẻ, lại nằm trên vành đai núi lửa Đại Tây Dương, Iceland là một trong những nơi có hoạt động địa chất mạnh mẽ nhất trên thế giới với rất nhiều núi lửa và các suối nước nóng. Núi lửa phun hoặc động đất có thể gây ra rất nhiều thiệt hại cho hòn đảo. Vụ phun trào của núi lửa Laki vào những năm 1783-1784 đã gây ra nạn đói khủng khiếp khiến cho 1/4 dân số của hòn đảo bị chết. Những đám mây bụi từ vụ phun trào này thậm chí đã được nhìn thấy tại nhiều nơi ở châu Âu và còn bay đến một số nơi thuộc châu Á và châu Phi vài tháng sau đó. Tuy nhiên, người dân Iceland cũng được hưởng nhiều ưu đãi từ núi lửa. Hệ thống sông ngòi và thác nước rộng lớn tại đất nước này cung cấp một nguồn thủy điện lớn cho người dân sử dụng với giá rất rẻ. Người dân Iceland sử dụng hơi nóng từ những nguồn địa nhiệt để sưởi ấm cho nên hòn đảo gần như không phải đốt nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm môi trường. Những suối nước nóng phun lên từ lòng đất là một món quà lớn khác mà thiên nhiên dành cho Iceland. Núi lửa cũng mang lại cho Iceland lượng đất badan màu mỡ và một số khoáng chất như rhyolite và andesite. Iceland được sở hữu Surtsey, một trong những hòn đảo trẻ nhất thế giới được hình thành sau chuỗi phun trào núi lửa dưới biển từ năm 1963-1968. Khí hậu Khu vực bờ biển của Iceland có khí hậu ôn đới hải dương lạnh. Dòng biển nóng Bắc Đại Tây Dương đã mang đến cho hòn đảo một khí hậu ấm áp hơn so với những nơi khác cũng vĩ độ. Vùng bờ biển Iceland có một mùa đông tương đối dễ chịu, trời nhiều mây còn vào mùa hạ thì mát mẻ và ẩm ướt. Nhiệt độ ban ngày dao động trong khoảng từ 0 đến 3 °C vào mùa đông và từ 12 đến 15 °C vào mùa hè, mặc dù trong đất liền có thể mát hơn đáng kể. Vào mùa hè, ở một số địa điểm đặc biệt, nhiệt độ cao hơn đáng kể (trên 20 °C) xảy ra. Đặc biệt là do "Dòng Vịnh" (Hải lưu Gulf Stream) nên ở phía nam của hòn đảo tương đối hiếm có tuyết. Có những sự tương phản về khí hậu giữa các vùng của hòn đảo. Vùng bờ biển phía nam Iceland thường ấm và ẩm ướt hơn so với bờ biển phía bắc. Còn những vùng đất thấp trong nội địa thì lại vô cùng khô hạn. Tuyết rơi nhiều hơn ở phía bắc của Iceland. Và trong khi vùng bờ biển Iceland có khí hậu tương đối ôn hòa thì khu vực cao nguyên trung tâm lại có khí hậu vô cùng lạnh giá, thường xuyên không có người ở. Nhiệt độ cao nhất ghi được là 30,5 °C vào ngày 22 tháng 6 năm 1939 tại Teigarhorn thuộc bờ biển phía đông nam Iceland. Còn nhiệt độ thấp nhất ghi được là -38 °C ghi được ngày 22 tháng 1 năm 1918 tại Grímsstaðir và Möðrudalur thuộc vùng nội địa đông bắc. Tại thủ đô Reykjavík, nhiệt độ cao nhất ghi được là 24,8 °C vào ngày 11 tháng 8 năm 2004, còn nhiệt độ thấp nhất ghi được là -24,5 °C vào ngày 21 tháng 1 năm 1918. Thực vật và động vật Từ sau khi Thời kỳ Băng hà kết thúc, các loài thực vật và động vật chỉ có khoảng thời gian ngắn ngủi 10.000 năm để nhập cư vào Iceland và tiến hóa. Khoảng 3/4 đất đai ở Iceland cằn cỗi không thích hợp cho thực vật sinh trưởng. Loài thực vật chủ yếu ở đây là các loại cỏ mọc trên những cánh đồng chăn nuôi gia súc rộng lớn. Loại cây thân gỗ duy nhất của Iceland là một giống cây bulô phương bắc có tên gọi Betula pubescens. Trước khi con người tới, các rừng cây bulô chiếm 25-40% diện tích đất màu ở Iceland, nhưng qua nhiều thế kỉ, do sự chặt phá của con người, diện tích của rừng giảm dần và đến đầu thế kỷ XX thì còn lại rất ít. Điều này gây ra nhiều hậu quả khôn lường như xói mòn đất, mà đất lại là một tài nguyên rất quý đối với Iceland. Con người đã cố gắng trồng lại các rừng cây bulô nhưng chất lượng rừng không thể bằng được rừng tự nhiên. Khi con người đến Iceland, họ đã mang đến một số gia súc mà ngày nay ta có thể thấy như cừu Iceland, bò và đặc biệt là giống ngựa rất khỏe của đất nước này. Có rất nhiều cá ở những vùng biển xung quanh Iceland. Đánh bắt cá đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Iceland, chiếm tới hơn một nửa tổng sản phẩm xuất khẩu của nước này. Các loài thú hoang dã ở Iceland gồm có cáo Bắc Cực, chồn, chuột, thỏ và tuần lộc. Chúng di cư đến Iceland vào cuối Thời kỳ Băng hà, khi mặt nước biển còn đang đóng băng. Vào khoảng trước năm 1900, một số con gấu Bắc Cực cũng thỉnh thoảng ghé thăm Iceland trên những tảng băng trôi từ Greenland. Do khí hậu lạnh đặc trưng, Iceland không có bất cứ một loài bò sát hay lưỡng cư nào, vì chúng là những động vật biến nhiệt. Theo ước tính, Iceland có khoảng 1300 loài côn trùng. Nhân khẩu Dân số Từ khi những người dân nhập cư đầu tiên đến Iceland cho đến tận giữa thế kỷ XIX, dân số của nước này dao động trong khoảng từ 40.000 đến 60.000 người. Trong khoảng thời gian đó, các yếu tố như khí hậu khắc nghiệt, những vụ phun trào núi lửa cũng như các dịch bệnh đã ảnh hưởng rất bất lợi đối với dân số của Iceland. Tiêu biểu là vụ phun trào của núi lửa Laki vào cuối thế kỷ XVIII khiến 1/4 dân số hòn đảo thiệt mạng. Cuộc điều tra dân số đầu tiên ở Iceland diễn ra vào năm 1703, lúc đó dân số nước này là 50.358 người. Từ giữa thế kỷ XIX đến nay, điều kiện sống được cải thiện cộng với một hệ thống phúc lợi xã hội tốt đã khiến cho dân số Iceland tăng lên nhanh chóng. Dân số Iceland đã tăng nhanh từ 60.000 người (năm 1850) lên 300.000 người (năm 2006). Dân số năm 2007 của Iceland là 301.931 người. Khác với nhiều nước châu Âu khác đang bước vào thời kỳ suy giảm dân số, dân số của Iceland hiện nay được đánh giá là tăng khá nhanh. Tốc độ tăng dân số của Iceland đạt 0,84%, chỉ đứng sau các nước Ireland, Luxembourg và Liechtenstein ở Tây Âu. Người Iceland có nguồn gốc từ những người Na Uy và người Celt nhập cư vào đất nước này từ lâu đời. Người Iceland ngày nay là kết quả của sự hòa trộn đồng nhất giữa tổ tiên Na Uy và Celt của họ. Năm 2004, 20.665 người (tương đương 7% dân số Iceland) được sinh ra ở nước ngoài. Trong khi đó thì 10 636 người (3,6% dân số) có mang một quốc tịch nước ngoài. Những cộng đồng dân cư nước ngoài đông nhất tại Iceland là người Ba Lan, Đan Mạch, Nam Tư cũ, Philippines và Đức, chiếm khoảng 6% dân số. Khi những người dân nhập cư đầu tiên đến Iceland, họ chủ yếu tôn thờ những vị thần của Na Uy. Sau đó, Iceland trở thành một quốc gia theo đạo Cơ đốc từ thế kỷ X. Đến giữa thế kỷ XVI, dưới sự cai trị của vua Christian III của Đan Mạch, Iceland cải theo Giáo hội Luther cho đến tận ngày nay. Theo số liệu năm 2004, khoảng 85,5% dân số Iceland theo Giáo hội Luther, 2,1% theo tôn giáo Tự do Reykjavík, 2% theo Công giáo La Mã, 1,5% theo tôn giáo Tự do Hafnarfjorou. Các nhóm Cơ Đốc giáo khác chiếm tỉ lệ khoảng 2,7%. Số còn lại không rõ hoặc không có tôn giáo. Những thành phố lớn Thành phố đông dân cư nhất của Iceland là thủ đô Reykjavík. Reykjavík cùng với các thị trấn lân cận khác là Kópavogur, Hafnarfjörður và Garðabær tạo thành khu vực Đại Reykjavík, chiếm tới hai phân ba dân số nước này. Reykjavík là thành phố duy nhất của Iceland có dân số vượt quá 100.000 người. Dân số của riêng thành phố là 117 099 dân, còn nếu tính cả khu vực Đại Reyljavík thì tổng cộng là 192.996 người. Reykjavík là thủ đô nằm xa nhất về phía bắc của thế giới. Các thành phố có dân số trên 10.000 dân khác là Akureyri, Hafnarfjörður, Keflavík, Kópavogur. Kinh tế Iceland là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Thu nhập bình quân của người Iceland năm 2005 đạt 19.444 USD, xếp thứ 12 thế giới và cao hơn cả nhiều nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Anh, Pháp. Nền kinh tế phát triển cộng với hệ thống phúc lợi xã hội tốt đã khiến cho chỉ số phát triển con người của Iceland rất cao, xếp thứ nhất thế giới (xem Danh sách quốc gia theo chỉ số phát triển con người). Dựa trên hệ số Gini, Iceland có tỷ lệ bất bình đẳng thu nhập thấp. Iceland là nước có điều kiện sống tốt nhất trên thế giới. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới năm 2008, nền tài chính của Iceland đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng với những khoản nợ lớn bằng 10 lần GDP, đưa đất nước này rơi vào tình trạng "phá sản". Đây là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất đối với Iceland từ trước đến nay. Cuộc khủng hoảng về tài chính này cũng làm sụp đổ chính phủ liên minh tại Iceland và dự kiến trong năm 2009, kinh tế nước này sẽ tăng trưởng -9,6%. GDP đã có sự tăng trưởng trở lại vào năm 2011, và đã giúp thúc đẩy một xu hướng giảm dần cho tỷ lệ thất nghiệp. Thâm hụt ngân sách của chính phủ đã giảm từ 9,7% GDP trong năm 2009 và 2010 xuống 0,2% GDP trong năm 2014 ; tỷ lệ nợ / GDP của chính phủ dự kiến sẽ giảm xuống dưới 60% vào năm 2018 từ mức tối đa là 85% vào năm 2011 . Sự tăng trưởng của nền kinh tế của Iceland thời gian gần đây đã được nhìn nhận như một câu chuyện thành công về sự hồi phục kinh tế nhanh chóng sau khủng hoảng ở châu Âu . Các ngành kinh tế Các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu của Iceland là khoai tây, củ cải, rau xanh trồng trong nhà kính, thịt cừu, bơ sữa và cá. Kinh tế Iceland phụ thuộc rất lớn vào ngành đánh bắt và chế biến cá. Cá chiếm tới 40% tổng sản phẩm xuất khẩu của Iceland và cung cấp 8% việc làm cho người dân nước này. Kinh tế Iceland rất dễ bị tổn thương do sản lượng cá đánh bắt được hàng năm giảm dần và do giá cả loại sản phẩm này cũng như các tài nguyên khác của Iceland là nhôm và sắt silicon trên thị trường thế giới giảm sút. Thời gian gần đây, chính phủ Iceland tiến hành đa dạng hóa và tự do hóa nền kinh tế nhằm làm giảm sự phụ thuộc vào ngành đánh bắt cá của nước này, đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững hơn. Sản xuất công nghiệp và các ngành công nghệ hiện đại như dịch vụ phần mềm, dịch vụ tài chính, công nghệ sinh học được đẩy mạnh. Thị trường chứng khoán của Iceland được thành lập vào năm 1985. Là một nước thưa dân ở phía bắc với rất nhiều cảnh quan thiên nhiên phong phú, Iceland đang phát triển mạnh ngành du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái. Tỉ trọng các ngành của kinh tế Iceland như sau: nông nghiệp chiếm 8,4%, công nghiệp chiếm 15,6% và dịch vụ chiếm 76% GDP. Ngoại thương chiếm khoảng 40% tổng thu nhập từ xuất khẩu hàng hóa, chiếm 7% lực lượng lao động, làm việc chủ yếu trong nghề đánh bắt cá và công nghiệp chế biến cá. Năm 2006, xuất khẩu của Iceland đạt 3.587 tỉ USD, chủ yếu là cá và các sản phẩm từ cá (chiếm tổng cộng 70%), các sản phẩm từ động vật, nhôm, một số khoảng sản khác như sắt silicon, diatomite. Các thị trường xuất khẩu chính của Iceland là Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (17,9%), Đức (16,4%), Hà Lan (13%), Mỹ (8,1%), Tây Ban Nha (7,7%), Đan Mạch (4,3%). Nhập khẩu của Iceland năm 2006 đạt 5.189 tỉ USD, cao hơn nhiều so với xuất khẩu. Các sản phẩm mà Iceland nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, dầu mỏ, thực phẩm, vải. Iceland nhập khẩu các sản phẩm trên từ các nước là Đức (13,4%), Mỹ (9,1%), Thụy Điển (8,6%), Đan Mạch (7,3%), Na Uy (7,2%), Vương quốc Liên hiệp Anh và bắc Ireland (5,9%), Trung Quốc (5,3%), Hà Lan (5%)... Công nghiệp luyện nhôm là ngành công nghiệp sử dụng năng lượng quan trọng nhất tại Iceland và hiện tại đang có 3 nhà máy đang đi vào hoạt động là nhà máy Rio Tinto Alcan, Nordurál và Alcoa. Công nghiệp sản xuất trang thiết bị cho tàu thủy và công nghiệp chế biến cá phát triển, trước hết phục vụ cho nhu cầu trong nước. Các thiết bị tàu đánh cá do Iceland sản xuất được xuất khẩu rộng rãi trên thị trường thế giới bao gồm tàu đánh cá có lưới kéo. Iceland có rất nhiều sông suối, thác nước và một nguồn địa nhiệt khổng lồ dưới lòng đất. Những nguồn năng lượng này đã cung cấp 99% sản lượng điện cho Iceland. Nguồn nhiệt để sưởi ấm của Iceland được lấy trực tiếp từ những nguồn địa nhiệt dồi dào trong lòng đất nên giá thành rất rẻ. Iceland gần như không phải đốt các loại nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm môi trường nào như than hay khí đốt nên là một trong những đất nước sạch nhất thế giới. Nesjavellir là dự án nhiệt điện lớn nhất tại Iceland, trong khi đập Kárahnjúkar là nhà máy thủy điện lớn nhất tại nước này. Diện tích đất có thể trồng trọt được chiếm 19% diện tích cả nước, nhưng diện tích được canh tác chỉ chiếm 1% diện tích cả nước, chủ yếu là trồng cỏ và chăn nuôi, và hàng năm chỉ canh tác được từ 4-5 tháng. Iceland có khoảng 4.700 nông trại cỡ trung bình là 1.200 ha, trong đó 85% là thuộc tư nhân và khoảng 4,8% lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp. Giao thông Giao thông ở Iceland chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như địa hình gồ ghề, điều kiện khí hậu phức tạp. Iceland hiện nay là một trong số ít quốc gia và vũng lãnh thổ vẫn chưa có đường sắt, mặc dù một dự án xây dựng đường sắt đang được triển khai lần đầu tiên giữa Keflavík và Reykjavík. Iceland có tổng cộng 13.034 km đường bộ, việc xây dựng đường sá được bắt đầu vào năm 1900 và xúc tiến mạnh trong năm 1980. Các dịch vụ đường biển và đường hàng không kết nối Iceland với các nước khác trong khu vực, gồm châu Âu và Bắc Mĩ. Vào năm 1999, Iceland có tổng cộng 86 sân bay. Hãng hàng không quốc gia Iceland, Icelandair là một trong những nơi cung cấp nhiều việc làm nhất tại nước này. Tiền tệ Đồng tiền chính thức được sử dụng tại Iceland là đồng Króna hay krónur (íslensk króna, viết tắt là ISK). Một króna bằng 100 xu (aurar hay eyrir). Các mệnh giá tiền xu là 1, 5, 10, 50 và 100 króna, còn các mệnh giá tiền giấy là 500, 1000, 2000 và 5000 króna. Tỷ giá hối đoái giữa Dollar Mỹ và đồng króna là 1 USD/70.195 króna (năm 2006). Tỷ lệ lạm phát năm 2006 là 6,8%. Iceland có thể sẽ gia nhập nhóm các nước sử dụng đồng tiền chung châu Âu euro trong tương lai, mặc dù không phải là một thành viên của Liên minh châu Âu. Văn hóa Những tác phẩm văn học kinh điển của Iceland là các truyện dân gian (sagas), đó là các bộ sử thi bằng văn xuôi được viết vào thời kỳ người định cư đến Iceland. Nổi tiếng nhất là tác phẩm Njáls saga, kể về một mối hận thù truyền kiếp và hai tác phẩm Grænlendinga saga và Eiríks saga kể về những chuyến phiêu lưu khám phá và di cư đến Greenland và Vinland (nay là Newfoundland). Egils saga, Laxdæla saga, Grettis saga, Gísla saga và Gunnlaugs saga ormstungu cũng rất nổi tiếng trong các truyện dân gian của Iceland. Đất nước này cũng sản sinh ra nhiều nhà văn nổi tiếng như Halldór Laxness, Guðmundur Kamban, Tómas Guðmundsson, Davíð Stefánsson, Jón Thoroddsen, Guðmundur G. Hagalín, Þórbergur Þórðarson và Jóhannes úr Kötlum. Halldór Laxness là nhà văn đầu tiên của Iceland đoạt giải thưởng Nobel Văn học vào năm 1955. Kiến trúc ở Iceland chịu ảnh hưởng lớn của kiến trúc Scandinavia. Khi những người dân Viking di cư đến Iceland, họ không thể tìm được nhiều gỗ để làm nhà vì Iceland có rất ít rừng cây gỗ, do vậy họ đã sáng tạo ra kiểu nhà cỏ, một nét kiến trúc rất đặc sắc của Iceland. Những ngôi nhà cỏ ngày nay nằm chủ yếu ở thôn quê và không còn được xây dựng tiếp nữa, một số trở thành địa điểm tham quan cho du khách. Tại các thành phố lớn như thủ đô Reykjavík, kiến trúc hiện đại chiếm ưu thế, tuy nhiên vẫn xen lẫn nhiều công trình mang kiến trúc cổ như các nhà thờ. Þorramatur là món ăn dân tộc của Iceland, thường được ăn vào tháng 1 và tháng 2 để tưởng nhớ tổ tiên. Món ăn này gồm rất nhiều những thành phần khác nhau. Một số món ăn khác rất phổ biến ở Iceland là Hákarl (thịt cá mập để lâu), graflax (cá hồi ướp muối với cây thì là), hangikjöt (thịt cừu hun khói), slátur (xúc xích làm từ ruột cừu), skyr (một thức uống làm từ sữa thường kèm theo quả việt quất vào mùa hè như một món tráng miệng). Iceland là một quốc gia của những con người khỏe mạnh. Thanh thiếu niên Iceland tham gia rất nhiều các hoạt động thể thao như bóng đá, điền kinh, bóng rổ. Các môn thể thao khác như golf, tennis, bơi, cờ vua, cưỡi ngựa cũng hết sức phổ biến. Cờ vua là một thú tiêu khiển được yêu thích của tổ tiên Viking của người Iceland. Nước này có rất nhiều kiện tướng cờ vua như Friðrik Ólafsson, Jóhann Hjartarson, Margeir Pétursson, và Jón Arnason. Glíma là một môn vật cổ khởi nguồn từ thời kỳ xa xưa của nước này. Bơi và cưỡi ngựa rất được yêu thích tại Iceland. Và môn golf được 1/8 dân số nước này chơi. Bóng ném được coi là môn thể thao quốc gia ở Iceland và độ tuyển bóng ném Iceland được xếp hạng cao trên thế giới. Đội tuyển bóng đá nữ của nước này cũng nằm trong nhóm tốt nhất thế giới. Bên cạnh đó, còn có một số môn thể thao mạo hiểm khác như leo núi cũng được ưa chuộng. Đội tuyển bóng đá quốc gia Iceland lần đầu tiên tham dự Euro 2016 và đã gây bất ngờ lớn khi lọt vào tứ kết của giải ở ngay lần đầu tham dự. Phong tục tập quán Iceland là một trong những nước bình đẳng về giới tính nhất thế giới, rất nhiều phụ nữ Iceland làm việc ở những vị trí lãnh đạo trong chính phủ và các doanh nghiệp. Sau khi lấy chồng, phụ nữ Iceland giữ nguyên tên họ của mình. Iceland có một bộ luật rất khắt khe để bảo vệ quyền trẻ em. Những hành vi ngược đãi thân thể hay tinh thần của trẻ em đều bị trừng phạt rất nghiêm khắc, thậm chí có thể bị bỏ tù. Iceland có tỉ lệ người dân sử dụng internet cao nhất thế giới. Iceland cũng là một trong những nước có thái độ cới mở với người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới nhất thế giới, vì có liên quan đến văn hóa với những nước Bắc Âu khác như Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch (cả ba nước đều thuộc khối Scandinavia). Luật kết hợp dân sự đã được hợp pháp hóa tại nước này vào năm 1996. Vào năm 2010, Iceland đã trở thành quốc gia thứ 9 trên thế giới và là quốc gia thứ 7 tại châu Âu gia nhập nhóm quốc gia cho phép hôn nhân đồng tính. Người Iceland rất tự hào về đất nước mình. Họ tự hào về di sản văn hóa Viking được thừa hưởng và ngôn ngữ riêng của họ, tiếng Iceland. Người dân Iceland rất quan tâm đến việc bảo vệ truyền thống văn hóa và ngôn ngữ của mình. Những lễ hội phổ biến ở Iceland là Ngày Quốc khánh vào ngày 17 tháng 6 để kỉ niệm ngày Iceland giành độc lập dân tộc năm 1944, lễ hội Sumardagurinn fyrsti được tổ chức ngày đầu tiên của mùa hè và lễ hội Sjómannadagurinn được tổ chức vào mỗi tháng 6 để nhớ ơn những chuyến vượt biển của tổ tiên đến Iceland. Tôn giáo Hiến pháp của Iceland quy định quyền tự do tôn giáo, mặc dù Giáo hội Luther là nhà thờ nhà nước. Trong năm 2013, dân số Iceland được chia thành các nhóm tôn giáo như sau: 76,18% là tín hữu Giáo hội Luther Iceland 11,33% là tín hữu của các giáo phái Kitô giáo khác 5.91% hoặc 5,16% không theo tôn giáo nào 1.42% là tín đồ các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Iceland là quốc gia thế tục như các quốc gia Bắc Âu khác. Sự ảnh hưởng của tôn giáo đến chính trị là rất thấp. Du lịch Những năm gần đây, Iceland ngày càng trở nên thu hút khách du lịch quốc tế. Là một nước Bắc Âu dân cư thưa thớt, Iceland có nhiều quang cảnh thiên nhiên tươi đẹp như những vùng đồng cỏ yên bình rộng lớn ở thôn quê, những dãy núi cao, những sông băng lớn hay những thác nước hùng vĩ. Tại Iceland, khách du lịch có thể tham gia loại hình nghỉ dưỡng suối nước nóng. Iceland có rất nhiều các dòng suối nước khoáng nóng chứa nhiều khoáng chất có lợi cho sức khỏe. Du lịch sinh thái với những hoạt động như leo núi, trượt tuyết, cưỡi ngựa cũng rất được ưa chuộng. Hình ảnh về Iceland Tự nhiên Các thành phố lớn Xếp hạng quốc tế Xếp thứ 24/190 quốc gia theo dữ liệu năm 2010 của Ngân hàng Thế giới và thứ 21/183 quốc gia về GDP bình quân đầu người theo thống kê năm 2011 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Xếp thứ 14/187 quốc gia về chỉ số phát triển con người. Xếp thứ 27/179 nước và vùng lãnh thổ về tự do kinh tế năm 2012 theo Heritage Xếp thứ 1/163 nước về Chỉ số Nhận thức Tham nhũng vào năm 2006 của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Xem Danh sách các nước theo xếp hạng tham nhũng năm 2006)
Campuchia là một đất nước ở bán đảo Đông Dương, có lịch sử lâu đời và ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ. Các vương quốc đầu tiên Người ta biết về nước Phù Nam trước hết là nhờ những ghi chép của thư tịch cổ Trung Hoa như Lương thư (sử nhà Lương 502-556) là đầy đủ hơn cả. "Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía Tây biển. Nước cách Nhật Nam chừng 7.000 lý và cách Lâm Ấp hơn 3.000 lý về phía Tây Nam. Đô thành cách biển 500 lý. Một con sông lớn từ Tây Bắc chảy về phía Đông và đổ ra biển. Nước rộng hơn 3.000 lý. Đất thấp và bằng phẳng. Khí hậu và phong tục đại để giống Lâm Ấp". Tấn thư còn cho biết thêm: "Đất rộng 3.000 lý, có những thành phố xây tường, có lâu đài và nhà ở. Đàn ông Phù Nam xấu và đen, quấn tóc, ở truồng và đi chân không. Tính đơn giản và không trộm cắp. Họ chăm công việc nhà nông, gieo 1 năm gặt 3 năm. Họ thích trang trí bằng điêu khắc, chạm trổ; nộp thuế bằng vàng, bạc, hạt châu, hương liệu. Họ có sách vở, thư viện và nhiều vật khác. Chữ viết giống người Hồ. Ma chay cưới hỏi đại để giống Lâm Ấp". Theo truyền thuyết cổ được ghi chép lại bởi Khang Thái (Kang Tai), một quan lại Trung Hoa đã từng tới Phù Nam giữa thế kỷ thứ 3 thì xứ này do một người phụ nữ tên Liễu Diệp (Liu Yeh) cai trị. Sau đó một người nước ngoài tên là Hỗn Điền (Hun Tien), có thể là từ Ấn Độ, sang đã cưới Liễu Diệp và lập ra một triều đại tại đây. Theo các truyền thuyết địa phương thì vị ẩn sĩ Ấn Độ này tên là Kambu đã kết hôn với nữ thần Mera và con cháu của họ được gọi là Kambuja (con cháu của Kambu) và tên ghép của hai vợ chồng trở thành tên dân tộc là Kambu-Mera, Kmer hay Khmer. Thực sự thì Phù Nam là một quốc gia hỗn hợp gồm nhiều tộc người khác nhau, do một xứ Phù Nam chánh tông nắm địa vị tôn chủ và các tiểu quốc kia phải thần phục và cống nạp cho nó. Triều đại Phù Nam đầu tiên có 4 đời vua kế tiếp nhau là: Hỗn Điền Con Hỗn Điền (chưa rõ tên họ) Hỗn Bàn Huống Hỗn Bàn Bàn Tiếp đó một viên tướng khác lên ngôi, lập một triều đại khác bắt đầu là Phạm Sư Man (khoảng 220-280) Phạm Sư Man Phạm Chiêu Phạm Tràng Phạm Tầm Vào thế kỷ thứ 5 tài liệu Trung Hoa có nói tới một ông vua tên là Trì Lê Đà Bạt Ma ở ngôi từ 424-438 rồi tới Đồ Da Bạt Ma và Lưu Đà Bạt Ma. Thư tịch cổ còn nói tiếp sau đó nước Phù Nam bị một nước khác ở phía Bắc đánh bại (cuối thế kỷ thứ 6, giữa thế kỷ thứ 7). Phù Nam tới đây là dứt. Vương quốc Chân Lạp Nước đã đánh bại Phù Nam là Chân Lạp, một quốc gia do người Khmer sáng lập. Trung tâm của họ nằm ở Sae Mun (nay thuộc Thái Lan) và Champasack (nay thuộc Nam Lào). Quốc gia này do Bhavavarman sáng lập trong thế kỷ thứ 6, gọi là nước Bhavapura, tức Chân Lạp. Bhavavarman đã chấm dứt sự lệ thuộc Phù Nam. Sau khi ông mất, con ông là Mahendravarman lên kế ngôi và tấn công Phù Nam, buộc vua Phù Nam phải chạy trốn tới Naravana tức nước Chí Tôn (nay là Ba Thê, xã Vọng Thê, An Giang). Isanavarman kế ngôi Mahendravarman, tiếp tục tấn công "Với sức mạnh của mình đã vượt qua ranh giới lãnh thổ của Tổ tiên". Các vua thất trận đã bỏ chạy ra vùng hải đảo. Jayavarman I lật đổ Isanavarman để cai trị một lãnh thổ rộng lớn. Bia ký của ông được tìm thấy trên một vùng lãnh thổ bao gồm cả Sae Mun, Battambang, Seam Reap, Kompong Thom, Takeo, Prey Veng và Kampot. Sau khi đánh thắng Phù Nam, người Chân Lạp đã ồ ạt di cư xuống phía Nam. Họ đã dừng lại ở Takeo (cụm di tích Angkor Borey) và Prey Veng (cụm di tích Ba Phnom), trung lưu sông Mekong và Đông Bắc biển Hồ. Isanavarman đã xây dựng kinh đô Isanapura ở gần Kompong Thom. Theo Tùy thư của Trung Hoa thì nơi đây có tới 20.000 gia đình sinh sống. Ngoài ra vương quốc còn có 30 thành thị do các tổng đốc cai quản và quan tước cũng tựa như Lâm Ấp. Thời kỳ khủng hoảng của Chân Lạp Jayavarman qua đời năm 680. Hoàng hậu Jayadevi, nắm quyền trong khoảng 681-713, đã gây bất bình trong giới quý tộc và quan lại. Do những mâu thuẫn này mà năm 713, Puskaraksa đã truất phế bà và tự lên ngôi, lập kinh đô mới là Sambhupura ở gần Sambaur. Do sự biến này mà phần phía Bắc của vương quốc (tức nước Bhavapura cũ) tách ra khỏi Chân Lạp, lập lại nước riêng. Tài liệu Trung Hoa ghi lại là nước này chia làm hai: Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp. Biên giới nằm ở dãy núi Dângrêk (nay là biên giới Thái Lan-Campuchia). Ở miền Nam, Puskaraksa không thể kiểm soát nổi lãnh thổ của mình. Nhiều nơi nổi lên, tự lập nước riêng. Trong lúc đó vương triều Sailendra của nước Kalinga ở đảo Java, Indonesia mạnh lên đã tấn công vương quốc của Puskaraksa năm 774, chiếm được kinh đô Sambhupura và đẩy đất nước này tới hồi diệt vong. Thời kỳ Angkor (802-1432) Phục quốc (802-944) Đầu thế kỷ thứ 9, nhân khi vương triều Sailendra suy yếu, một người trong hoàng tộc Chân Lạp bị bắt làm tù binh đã trốn về nước, tập hợp lực lượng đấu tranh để thoát ra khỏi ảnh hưởng của Sailendra và thống nhất lại Campuchia, khởi đầu một đế chế hùng mạnh ở Đông Nam Á - đế quốc Khmer (802-1434). Ông lên ngôi vua, lấy hiệu là Jayavarman II. Jayavarman II đã cố công tìm kiếm một địa điểm mới để đặt kinh đô. Trong thời của ông, vương quốc đã dời đô nhiều lần, từ Indrapura cho tới Hariharalaya và Mahendrapura ở núi Kulen rồi cuối cùng là quay trở lại Hariharayala. Thời kỳ Jayavarman II tại vị, sự sùng bái thần Shiva có khuynh hướng biến thành sự sùng bái nhà vua (Devaraja). Do đó mà ông cũng được tôn sùng như một vị thần. Khi ông qua đời năm 854, người ta đã phong tặng cho ông danh hiệu Paramesvara tức "Chúa tể". Cháu của Jayavarman II là Yasovarman I cai trị từ 889-900 lại tiếp tục dời đô thêm 50 km, tại một nơi mà ông gọi là Yasohadrapura tức là Angkor. Đây là biến âm từ chữ Phạn Nagara, tức "Quốc đô". Đế quốc Khmer vì thế còn được gọi là vương quốc Angkor, đế quốc Angkor. Phát triển (944-1181) Rajendravarman II lên ngôi năm 944 được thừa kế cả hai dòng Khmer Nam và Bắc. Ông là con Mahendravarman thuộc hoàng tộc Bhavapura (phía Bắc) và Mahendradevi, dì ruột của Harsavarman II (942-944), vua của dòng Nam. Do sự kiện này mà hai dòng tộc Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp đã lập lại được sự thống nhất. Các văn bia thời kỳ này đều nhấn mạnh về nguồn gốc tộc Mặt trời (Suryavamsa) phía Bắc và tộc Mặt trăng (Somavamsa) phía Nam của vương triều. Tên nước được xác định là Kambuja và vua là Kambujaraja. Tuy đã tái thống nhất nhưng giữa hai dòng tộc vẫn có sự mâu thuẫn. Năm 1002, Jayaviravarman II lên ngôi ở Angkor tại miền Nam thì một hoàng thân khác cũng tự lên ngôi ở Sae Mun phía Bắc là Suryavarman I. Năm 1010, Suryavarman I đã lật đổ vua phía Nam rồi làm vua cả hai miền. Năm 1082, Jayavarman VI tự lên ngôi ở Sae Mun cũng đem quân đi lật đổ vua ở Angkor và cai trị vương quốc từ 1082 đến 1107. Tuy nhiên về sau thế lực của nhóm phía Bắc tập trung ở Sae Mun dần suy yếu và không còn là đối trọng với phía Nam được nữa. Cuối thế kỷ 12, các văn bia chỉ còn nhắc tới một tộc Kambu Mặt trời nhưng đã di cư xuống phía Nam mà thôi. Do sự thống nhất và ổn định, Rajendravarman II (944 – 968) vừa lên ngôi đã đem quân sang đánh Champa. Suryavarman I (1002-1050) còn tiến xa hơn, chinh phục được trung và hạ lưu sông Chao Phraya (sông Mê Nam nay thuộc Thái Lan) và cao nguyên Khorat. Harsavarman II (1066-1080) đã đánh Champa và Đại Việt. Tới thời Suryavarman II (1113-1150) thì vương quốc đã chinh phục được Champa trong khoảng 1145-1149 và thậm chí 5 lần đem quân đánh Đại Việt (1128, 1129, 1132, 1138, 1150). Sau cuộc tranh ngôi năm 1010, kinh đô bị hư hại nặng nên Suryavarman II đã cho tiến hành xây dựng Angkor Wat như là một biểu tượng cho sức mạnh của vương triều. Cực thịnh (1181-1201) Sau khi Suryavarman II qua đời, ngôi vua bị một người lạ tự xưng là Tribhuvanadi, tức Tyavarman, đánh cướp năm 1165 khiến quốc gia suy yếu. Năm 1177, Jaya Indravarman IV của Champa thừa cơ tấn công Angkor. Một hoàng thân trẻ của Angkor phải chờ đợi trong 16 năm mới tập hợp được lực lượng để đánh bại Champa và lên ngôi vua năm 1181, tức Jayavarman VII. Trong thời kỳ cai trị của Jayavarman VII, vương quốc Angkor đã đạt tới đỉnh cao của sự phát triển. Sau vài năm để khôi phục vương quốc, Jayavarman VII đã tính tới chuyện trả thù Champa. Năm 1190, Jayavarman VII đã cử một đạo binh lớn sang tấn công Champa và đánh bại hoàn toàn người Chăm. Một hoàng thân người Chăm thân Khmer được cử tới cai trị và Champa trở thành một tỉnh của Chân Lạp trong một thời gian dài. Ngoài việc đánh Champa, ông còn thôn tính luôn cả Haripunjaya gần biên giới Miến Điện-Thái Lan và bán đảo Malaya. Có thể quân Chân Lạp đã tới được cả Luang Prabang ở Lào nữa. Vương quốc Chân Lạp dưới thời Jayavarman VII có 23 tỉnh. Để cai trị đất nước rộng lớn, ông đã cho xây dựng 121 trạm nghỉ (Dharmasala) dọc theo các tuyến giao thông quan trọng mà ngày nay vẫn còn tồn tại dấu tích trên tuyến đường nối Angkor với Pimai ở Thái Lan và từ Sambor cho tới Vi Jaya của Champa (kinh đô Phật Thệ, nay ở Bình Định). Jayavarman VII cũng đã cho xây dựng kinh đo mới là Angkor Thom. Suy thoái Không rõ Jayavarman VII qua đời năm nào nhưng con trai ông là Indravarman II đã lên thay thế ông sau năm 1201 và cai trị tới 1243. Trong những năm cai trị đầu tiên của Indravarman II, đế quốc Khmer từng 3 lần giao chiến với quân Đại Việt trong các năm 1207, 1216 và 1218. Tuy nhiên, sau năm 1218, không còn thấy Đế quốc Khmer có chiến tranh với các quốc gia khác trong khu vực nữa. Không những vậy, năm 1220, Đế quốc Khmer còn cho lui quân khỏi Champa mà không có bất kỳ sự đấu tranh hay biến động nào từ Champa. Ở phía tây, những tộc người Thái nổi dậy, thành lập vương quốc Sukhothai, đẩy lui người Khmer. Trong khoảng 200 năm tiếp theo, người Thái trở thành đối thủ chính của người Khmer. Nối ngôi Indravarman II là Jayavarman VIII (trị vì từ 1243-1295). Không như các vua trước theo đạo Phật Đại thừa và có ảnh hưởng của đạo Hindu, Jayavarman VIII theo đạo Hindu và rất quá khích chống lại đạo Phật. Ông cho phá hủy phần lớn các tượng Phật trong vương quốc (các nhà khảo cổ ước tính trên 10 ngàn tượng Phật bị phá hủy, chỉ để lại rất ít dấu tích) và biến chùa chiền thành đền thờ của đạo Hindu. Từ bên ngoài, đế quốc này bị đe dọa bởi quân Mông Cổ dưới quyền chỉ huy của tướng Sagatu. Nhà vua tìm cách tránh nạn binh đao bằng cách triều cống cho người Mông Cổ, lúc này đang làm chủ Trung Quốc. Triều đại của Jayavarman VIII kết thúc năm 1295 khi ông bị con rể là Srindravarman (còn gọi là Indravarman III) (trị vì từ 1295-1309) lật đổ. Tân vương là người theo Phật giáo Theravada, là trường phái Phật giáo đến từ Sri Lanka, rồi lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á. Sau thời kỳ trị vì của Srindravarman, có rất ít tư liệu ghi lại lịch sử vương quốc thời kỳ này. Cột đá cuối cùng mang văn khắc được biết đến là từ năm 1327. Không có đền đài lớn nào được xây dựng thêm. Các nhà sử học ngờ rằng điều này gắn liền với tín ngưỡng Phật giáo Theravada vốn không đòi hỏi việc xây cất các công trình vĩ đại để thờ phụng. Tuy nhiên, việc vắng bóng các công trình lăng tẩm lớn cũng có thể do việc quyền uy của triều đình sút giảm và do đó thiếu nhân công xây dựng. Các công trình thủy lợi cũng dần đổ nát, mùa màng do đó cũng bị thất bát khi có lũ lụt hoặc hạn hán, làm đế quốc càng suy yếu. Quốc gia Thái láng giềng, vương quốc Sukhothai, sau khi đẩy lùi đế quốc Angkor, bị một vương quốc Thái khác, vương quốc Ayutthaya, chinh phục năm 1350. Từ sau năm 1352, Ayutthaya trở thành đối thủ chính của Angkor. Họ mở nhiều chiến dịch tấn công Khmer, nhưng đều bị đẩy lùi. Tuy nhiên tới năm 1431, cuối cùng thì sức mạnh áp đảo của Ayutthaya cũng trở nên quá lớn để chống lại, và Angkor thất thủ trước quân Thái. Thời kỳ hậu Angkor Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 là giai đoạn suy tàn liên tục và thu hẹp đất đai. Từ giữa thế kỷ 15, Campuchia liên tục bị các cuộc xâm lăng của vương quốc Ayutthaya (Thái Lan cổ) tàn phá. Angkor liên tục bị chiếm đóng và tàn phá. Để duy trì sự tồn tại của vương quốc Khmer, vua Ang Chan I (1516–1567) phải chuyển kinh đô từ Angkor về Longvek . Campuchia có được một giai đoạn thịnh vượng ngắn, trong khoảng giữa thế kỷ 16 sau khi đã xây dựng thủ đô Longvek mới ở vùng đông nam Tonle Sap. Dọc theo lưu vực Sông Cửu Long, Chân Lạp mở rộng buôn bán với các vùng khác ở châu Á. Đây là giai đoạn khi những nhà thám hiểm người Tây Ban Nha, là Blas Ruiz de Hernan Gonzales và Diogo Veloso, lần đầu tiên tới nước này và bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của Phương tây tại đây. Nhưng năm 1594, vương quốc Ayutthaya của người Thái một lần nữa lại tấn công Chân Lạp, tàn phá Longvek. Vua Satha I của Campuchia phải chạy trốn. Sự sụp đổ của Lovek như bắt đầu một thảm họa mà Campuchia không bao giờ gượng lại được nữa, đồng thời việc này cũng tạo cơ hội can thiệp cho người Tây Ban Nha. Năm 1596, Blas Ruiz de Hernan Gonzales và Diogo Veloso giúp vua Satha quay về Campuchia lấy lại Lovek. Tuy nhiên, năm 1598, sự can thiệp của người Tây Ban Nha cũng chấm dứt, do đoàn quân này bị sát hại cùng với vua Satha trong nội chiến giữa những người Khmer với nhau. Sang đầu thế kỷ 17, Campuchia có sự gắng gượng ổn định đôi chút dưới thời vua Chey Chettha II, tuy không thể bằng các thời kỳ trước đặc biệt là thời Angkor, với việc thành lập một thủ đô mới tại Oudong năm 1618. Vua Chey Chettha II đã mở rộng quan hệ với chúa Nguyễn ở Đàng Trong của Việt Nam, để cân bằng ảnh hưởng từ vương quốc Ayutthaya của Thái Lan. Đồng thời Chey Chettha II cũng giao thương với người Hà Lan, cho họ mở một nhà máy ở Oudong năm 1620 . Từ giữa thế kỷ 17 trở đi, Campuchia trở nên suy yếu trầm trọng trước hai láng giềng hùng mạnh và tham vọng bành trướng là Xiêm và Đàng Trong (Việt Nam). Sự định cư của người Việt ở châu thổ sông Cửu Long từ đầu thế kỷ 17 dẫn tới việc họ sáp nhập hoàn toàn vùng đó vào năm 1757, vì thế Campuchia mất một trong những vùng lãnh thổ trù phú nhất của họ và bị ngăn đường tiến ra biển Đông. ở phía tây người Thái tiếp tục xâm lấn và sáp nhập các tỉnh Battambang, Siem Reap vào lãnh thổ của họ. Khi người Pháp tới Đông Dương bảo hộ Campuchia từ năm 1863 đã dần lấy lại phần lãnh thổ Battambang, Siem Reap từ Xiêm La. Giai đoạn thuộc địa Pháp Năm 1863 vua Norodom ký một hiệp ước với Pháp để thành lập một chính quyền bảo hộ trên toàn vương quốc nhờ vậy Campuchia thoát khỏi nguy cơ bị Xiêm và Đại Nam thôn tính hoàn toàn. Dần dần đất nước này rơi vào quyền cai trị thuộc địa của Pháp. Năm 1906, Pháp gây chiến với Xiêm và giành lại 4 tỉnh vùng tây bắc từng bị người Xiêm chiếm trong thế kỷ 18,19 là Battambang, Siem Reap, Meanchey, Oddar. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người Nhật cho phép chính phủ Pháp (chính phủ Vichy) đang hợp tác với Đức Phát xít tiếp tục cai quản Campuchia và các lãnh thổ Đông Dương khác, nhưng họ cũng nuôi dưỡng chủ nghĩa quốc gia Khmer. Campuchia lại được hưởng một thời kỳ độc lập ngắn năm 1945 trước khi quân Đồng Minh tái lập quyền kiểm soát của Pháp. Vua Norodom Sihanouk, người từng được Pháp lựa chọn để kế vị Sisowath Monivong năm 1941, nhanh chóng chiếm lấy vị trí chính trị trung tâm khi ông tìm cách trung lập hóa những người cánh tả và những đối thủ cộng hòa và cố gắng đàm phán những điều kiện có thể chấp nhận được để giành lấy độc lập từ tay người Pháp. "Cuộc thập tự chinh giành độc lập" của Sihanouk dẫn tới việc người Pháp miễn cưỡng bằng lòng trao lại chủ quyền cho ông. Một thoả thuận từng phần được đưa ra tháng 10 năm 1953. Sau đó Sihanouk tuyên bố rằng công việc đòi độc lập đã hoàn thành và thắng lợi trở về Phnom Penh. Chính phủ đầu tiên của Sihanouk Những nỗ lực của Việt Minh trong Kháng chiến chống Pháp đã đem lại kết quả. Theo Hiệp ước Geneva về Đông Dương, Việt Minh đang đóng trên lãnh thổ của Campuchia tập kết ra Bắc Việt Nam, quân Pháp phải rút khỏi Đông Dương. Chính quyền do Sihanouk xây dựng một Campuchia độc lập, thân thiện với Bắc Việt Nam và các đồng minh. Trung lập là yếu tố cơ bản của chính sách đối ngoại Campuchia trong các thập kỷ 1950 và 1960. Tuy nhiên, chính phủ Campuchia xây dựng quan hệ tốt đẹp với khối Xã Hội Chủ nghĩa, nhận viện trợ to lớn từ Liên Xô và Trung Quốc, giúp đỡ to lớn quân Giải Phóng Việt Nam. Tới giữa thập kỷ 1960, nhiều phần tại các tỉnh phía đông Campuchia được dùng làm những căn cứ cho quân đội Bắc Việt Nam và các lực lượng Việt Cộng (NVA/VC) hoạt động chống lại Nam Việt Nam, cảng Sihanoukville được xây dựng và sử dụng để tiếp tế cho họ. Song song với việc đó là hàng hóa từ Hạ Lào qua đông bắc Campuchia vào Việt Nam. Campuchia trở thành mắt xích quan trọng của các tuyến Đường Hồ Chí Minh, trước năm 1970, phần lớn hàng hóa được chuyển qua đây. Khi các hoạt động của NVA/VC tăng lên, Hoa Kỳ và Nam Việt Nam bắt đầu lo ngại, vào năm 1969, Hoa Kỳ bắt đầu một chiến dịch ném bom rải thảm dài mười bốn tháng nhắm vào các cơ sở của NVA/VC khiến nước này rơi vào tình trạng bất ổn định. Hoa Kỳ tuyên bố rằng chiến dịch ném bom chỉ diễn ra ở vùng không lớn hơn mười, và sau này là hai mươi dặm bên trong biên giới Campuchia, các vùng nơi có dân Campuchia sinh sống đã được NVA di tản. Những cuộc ném bom này gây ra thương vong rất lớn cho dân Campuchia, vốn không quen với chiến tranh như dân Việt Nam. Hoàn toàn không có việc sơ tán dân như tuyên bố, đơn giản vì quân Mỹ và Nam Việt Nam không đến những vùng bị ném bom, được cho là còn Quân đội Nhân dân Việt Nam và các lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Từ vị thế trung lập Campuchia bị lôi kéo vào cuộc Chiến tranh Việt Nam. Trong suốt thập kỷ 1960, chính trị trong nước Campuchia bị chia rẽ. Chống đối nổi lên bên trong tầng lớp trung lưu và cánh tả gồm cả những lãnh đạo từng được đào tạo ở Pháp như Son Sen, Ieng Sary, và Saloth Sar (sau này được gọi là Pol Pot), những người này đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy dưới sự lãnh đạo bí mật của Đảng cộng sản Campuchia (CPK). Sihanouk gọi những người nổi dậy đó là Khmer Rouge, dịch chính xác là "Khmer đỏ." Nhưng cuộc bầu cử quốc hội năm 1966 cho thấy cánh tả được ủng hộ nhiều hơn, và tướng Lon Nol đã lập ra một chính phủ, tồn tại tới tận năm 1967. Trong giai đoạn 1968 và 1969, cuộc nổi dậy ngày càng tồi tệ. Tháng 8, 1969, tướng Lon Nol lập ra một chính phủ mới. Hoàng tử Sihanouk đi ra nước ngoài để chăm sóc sức khoẻ từ tháng 1 năm 1970. Cộng hòa Khmer và cuộc chiến Tháng 3, 1970, khi hoàng tử Sihanouk đang vắng mặt, tướng Lon Nol lật đổ hoàng tử Sihanouk và nắm lấy quyền lực. Sơn Ngọc Thành tuyên bố ủng hộ chính phủ mới. Ngày 9 tháng 10, chế độ quân chủ ở Campuchia bị bãi bỏ, và đất nước được đổi tên thành Cộng hòa Khmer. Hà Nội từ chối yêu cầu của chính phủ mới đòi họ rút quân. Khoảng từ 2.000-4.000 người Campuchia từng tới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1954 trở về Campuchia, được các binh sĩ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hỗ trợ. Để đáp lại, Hoa Kỳ cung cấp viện trợ vũ khí cho các lực lượng của chính phủ mới, và họ lao vào cuộc chiến chống lại cả những kẻ nổi loạn bên trong và cả những lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tháng 4 năm 1970, Tổng thống Mỹ Nixon tuyên bố với công chúng rằng các lực lượng trên bộ của Mỹ và Nam Việt Nam đã tiến vào Campuchia trong một chiến dịch nhằm tiêu diệt các vùng căn cứ của NVA tại Campuchia (xem Cuộc xâm nhập Campuchia). Người Mỹ ném bom Campuchia trong hơn một năm. Những cuộc phản đối diễn ra tại các trường đại học Mỹ, dẫn tới cái chết của bốn sinh viên tại Kent State, ủng hộ việc rút quân Mỹ khỏi Việt Nam. Dù một số lượng lớn trang thiết bị đã bị Hoa Kỳ và các lực lượng Nam Việt Nam chiếm được và phá huỷ, chính sách ngăn chặn các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tỏ ra không thành công. Quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa di chuyển sâu hơn vào bên trong Campuchia để tránh các cuộc hành quân của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam. Các đơn vị NVA tràn qua các vị trí quân sự của Campuchia trong khi CPK mở rộng các cuộc tấn công quy mô nhỏ vào những đường thông tin liên lạc. Trong ban lãnh đạo Cộng hòa Khmer có tình trạng không thống nhất giữa ba thành viên chính: Lon Nol, Sirik Matak anh em họ của Sihanouk, và lãnh đạo Quốc hội In Tam. Lon Nol vẫn nắm quyền lực một phần nhờ bởi không có ai đã được chuẩn bị để thế chỗ ông. Năm 1972, một hiến pháp ra đời, nghị viện được bầu ra, và Lon Nol trở thành tổng thống. Nhưng tình trạng không thống nhất, những vấn đề về việc nâng lực lượng quân đội 30.000 người lên hơn 200.000, và tình trạng tham nhũng tràn lan làm suy yếu chính quyền hành chính và quân đội. Cuộc nổi dậy của những người cộng sản bên trong Campuchia tiếp tục lớn mạnh, và được cung cấp trang bị cũng như ủng hộ quân sự từ phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Pol Pot và Ieng Sary nắm được quyền lãnh đạo lực lượng cộng sản do người Việt Nam đào tạo, nhiều người trong số đó đã bị thanh lọc. Cùng lúc đó các lực lượng của Đảng cộng sản Campuchia trở nên mạnh hơn và độc lập hơn khỏi quyền kiểm soát của người Việt Nam. Tới năm 1973, CPK đã đánh những trận lớn chống lại các lực lượng chính phủ mà không cần hoặc có rất ít sự hỗ trợ từ phía Quân đội Nhân dân Việt Nam, họ kiểm soát gần 60% lãnh thổ Campuchia và 25% dân số. Chính phủ đã ba lần nỗ lực đàm phán với những người nổi dậy nhưng không mang lại kết quả, nhưng tới năm 1974, CPK đã hoạt động thành những nhóm tách biệt với nhau và một số lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chuyển vào trong miền Nam Việt Nam. Quyền kiểm soát của Lon Nol bị giảm xuống chỉ còn những vùng bao quanh thành phố và những đường vận chuyển chính. Hơn hai triệu người tị nạn chiến tranh sống ở Phnom Penh và các thành phố khác. Vào ngày đầu năm 1975, quân cộng sản tung ra một cuộc tấn công kéo dài 117 ngày và vô cùng ác liệt làm sụp đổ chính quyền Cộng hòa Khmer. Những cuộc tấn công đồng thời xung quanh vành đai Phnom Penh ghìm chặt các lực lượng cộng hòa, trong khi các đơn vị của CPK vượt qua và chiếm quyền kiểm soát vùng tiếp tế chiến lược là hạ lưu sông Cửu Long. Chiến dịch không vận cung cấp vũ khí và lương thực do Hoa Kỳ thực hiện đã chấm dứt khi Quốc hội nước này từ chối viện trợ thêm cho Campuchia. Phnom Penh và các thành phố khác bị tấn công bằng rocket hàng ngày gây ra thương vong cho hàng nghìn thường dân. Chính phủ Lon Nol đầu hàng ngày 17 tháng 4, 5 ngày sau khi phái đoàn Hoa Kỳ rời khỏi Campuchia. Campuchia dân chủ (1975-1979) Ngay sau khi giành chiến thắng, Chính phủ Khmer ra lệnh sơ tán dân ra khỏi tất cả các thành phố và thị trấn, đưa những người dân thành thị tới những vùng nông thôn để làm việc như những nông dân, Hàng ngàn người đã chết đói và chết vì bệnh tật trước khi CPK giành được chính quyền, trong thời gian tản cư sau đó và vì những hậu quả của nó. Nhiều người bị buộc phải rời khỏi các thành phố và định cư tại những ngôi làng mới được lập nên, thiếu lương thực, dụng cụ lao động và chăm sóc y tế. Nhiều người đã đánh mất khả năng tự kiếm sống để tồn tại trong môi trường nông nghiệp. Hàng ngàn người chết đói trước khi mùa màng được thu hoạch. Thiếu ăn và suy dinh dưỡng - ở bờ vực của nạn đói – là điều xảy ra liên tục trong nhiều năm Hoàng tử Sihanouk từ chức nguyên thủ quốc gia ngày 4 tháng 4. Vào ngày 14 tháng 4, sau khoá họp đầu tiên, PRA thông báo rằng Khieu Samphan sẽ làm chủ tịch hội đồng lãnh đạo quốc gia trong nhiệm kỳ 5 năm.. Hoàng tử Sihanouk bị quản thúc tại gia. Những tàn tích của xã hội cũ bị xoá bỏ và tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo và Thiên chúa giáo, bị đàn áp.. Campuchia không có hệ thống tiền tệ cũng như hệ thống ngân hàng. Cuộc sống dưới chính quyền Campuchia dân chủ rất ngặt nghèo và bạo tàn. Ở nhiều vùng trong nước, người dân bị bố ráp và bị hành quyết vì tội nói tiếng nước ngoài, đeo kính, bới rác kiếm thức ăn, và thậm chí là than khóc khi có người thân qua đời. Những doanh nghiệp và các quan chức thời trước bị săn đuổi một cách tàn nhẫn và bị giết chết cùng toàn bộ gia đình họ.. Chưa có những ước tính chính xác về số lượng người đã chết trong giai đoạn 1975 và 1979, nhưng có lẽ hàng trăm ngàn người đã bị hành quyết một cách tàn nhẫn bởi chính quyền Khmer đỏ. Quan hệ của nước Campuchia dân chủ với Việt Nam và Thái Lan trở nên xấu đi nhanh chóng vì các cuộc xung đột biên giới và khác biệt về ý thức hệ. Mặc dù theo chủ nghĩa cộng sản, CPK có tư tưởng dân tộc rất nặng, và thanh trừng đa số các thành viên của họ từng sống tại Việt Nam. Campuchia dân chủ thiết lập những mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc, và cuộc xung đột Campuchia-Việt Nam đã trở thành một phần của sự đối đầu giữa Trung Quốc và Liên Xô trong đó Moskva hỗ trợ Việt Nam. Các cuộc xung đột biên giới ngày càng tệ hại khi Campuchia dân chủ tấn công quân sự vào các làng mạc nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Tháng 12 năm 1977, Campuchia chấm dứt quan hệ ngoại giao với Hà Nội, buộc tội Việt Nam có mưu đồ thành lập một Liên bang Đông Dương. Giữa năm 1978, các lực lượng Việt Nam tấn công Campuchia, tiến sâu khoảng 30 km rồi rút lui trước khi mùa mưa diễn ra. Lý do để Trung Quốc ủng hộ CPK là vì họ muốn ngăn chặn phong trào liên kết toàn thể Đông Dương nhằm giữ vững ưu thế quân sự của mình trong vùng. Cộng hòa Nhân dân Campuchia (1979 - 1993) Tháng 12, 1978, Việt Nam thông báo thành lập Mặt trận Campuchia thống nhất bảo vệ quốc gia (KUFNS) dưới sự lãnh đạo của Heng Samrin, một cựu chỉ huy trong quân đội Campuchia Dân chủ. Nó bao gồm những người Khmer cộng sản còn ở lại Việt Nam sau năm 1975 và các viên chức ở khu vực phía đông – như Heng Samrin và Hun Sen – người từng chạy sang Việt Nam từ Campuchia năm 1978. Cuối tháng 12 năm 1978, các lực lượng Việt Nam tấn công tổng lực vào Campuchia, chiếm Phnom Penh vào ngày 7 tháng 1, đuổi những tàn quân của nước Campuchia Dân chủ chạy về phía tây sang Thái Lan. Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày 8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân Cách mạng nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập. Tuy vậy chính quyền này chỉ được một số nước cộng sản công nhận và chưa tự bảo vệ được mà vẫn cần đến sự có mặt của quân đội Việt Nam. Năm 1981, Cộng hòa Nhân dân Campuchia tổ chức bầu quốc hội và ban hành hiến pháp. Trong thời gian này, Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ vẫn giữ được ghế đại diện cho Campuchia ở Liên Hợp Quốc. Năm 1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia. Các nỗ lực khôi phục hòa bình diễn ra sôi động trong thời gian 1989 và 1991 với hai hội nghị quốc tế ở Paris, và một phái đoàn gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc giúp đỡ duy trì ngừng bắn. Ngày 23 tháng 10 năm 1991, Hội nghị Paris tái họp để ký kết một thỏa ước tổng thể, trao cho Liên Hợp Quốc quyền giám sát ngừng bắn, hồi hương người tị nạn Khmer dọc theo biên giới Thái Lan, giải giáp và giải ngũ các phe xung đột, chuẩn bị tiến hành bầu cử tự do. Hoàng thân Sihanouk, Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Tối cao Campuchia (SNC), và các thành viên khác của SNC trở về Phnom Penh tháng 11 năm 1991, bắt đầu quá trình hòa giải tại Campuchia. Phái đoàn Tối cao Liên Hợp Quốc về Campuchia (UNAMIC) được triển khai cùng thời gian đó để duy trì liên lạc giữa các phe phái, bắt đầu các chiến dịch tháo mìn và đưa người tị nạn, khoảng 370 ngàn người, trở về từ Thái Lan. Trong cuộc bầu cử do Liên Hợp Quốc tổ chức năm 1993, có hơn 4 triệu người Campuchia (chừng 90% số người trong độ tuổi bầu cử) bỏ phiếu, mặc dù Khmer Đỏ, vốn không chịu giải giáp và giải ngũ, tìm cách đe dọa và ngăn chặn một số người tham gia bầu cử. Đảng FUNCINPEC của hoàng thân Ranariddh nhận được nhiều phiếu nhất, khoảng 45,5% số phiếu, tiếp theo là đảng Nhân dân của Hun Sen, rồi đến đảng Dân chủ Tự do Phật giáo. Đảng FUNCINPEC tiếp đó thành lập chính phủ liên minh với các đảng phái tham gia bầu cử, với quốc hội gồm 120 thành viên. Quốc hội thông qua hiến pháp mới ngày 24 tháng 9, theo đó Campuchia sẻ là một quốc gia quân chủ lập hiến, đa đảng, tự do, với cựu hoàng thân Sihanouk được đưa lên làm vua trở lại. Hoàng thân Ranariddh và Hun Sen trở thành Thủ tướng thứ nhất và thứ hai trong Chính phủ Hoàng gia Campuchia (RGC). Vương quốc Campuchia (1993 - hiện tại) Đảng Nhân dân Campuchia - CPP dần dần dẹp yên Khmer đỏ và thanh trừng các thành phần Hoàng Gia chống đối. Các lực lượng Khmer Đỏ cuối cùng phải đầu hàng năm 1998. Sau các cuộc xung đột vũ trang giữa các đảng kình địch nhau khiến hơn 100 người chết, Hun Sen tiến hành đảo chính giành chính quyền, hoàng thân Ranariddh bị phế truất, và Hun Sen trở thành Thủ tướng duy nhất. Giới lãnh đạo đảng FUNCINPEC quay trở lại Cambodia sau cuộc bầu cử Quốc hội năm 1998. Trong cuộc bầu cử đó, đảng CPP giành được 41% số phiếu, đảng FUNCINPEC được 32%, và đảng của Sam Rainsy (SRP) được 13%. Do tình hình bạo lực chính trị và việc thiếu tiếp cận từ giới truyền thông, nhiều quan sát viên quốc tế cho rằng có nhiều sai phạm nghiêm trọng trong cuộc bầu cử. Đảng CPP và FUNCINPEC lập một chính phủ liên hiệp mới, trong đó CPP đóng vai trò đối tác chính. Do tình hình sức khỏe ngày càng kém đi, năm 2004, vua Sihanouk tuyên bố thoái vị, ở lại Bắc Kinh và Bình Nhưỡng để chữa bệnh. Hoàng thân Sihamoni được truyền ngôi và trở thành vua mới của Campuchia. Ngày 4 tháng 10 năm 2004, Quốc hội Campuchia phê chuẩn thỏa thuận với Liên Hợp Quốc về việc thiết lập một tòa án xét xử tội ác của các quan chức cao cấp Khmer Đỏ. Các quốc gia bảo trợ cam kết tài trợ 43 triệu USD tài chính cho tòa án, dự kiến kéo dài trong 3 năm, trong khi chính quyền Campuchia cũng đóng góp phần của mình là 13,3 triệu USD. Tòa án dự kiến sẽ bắt đầu xét xử các quan chức cấp cao của Khmer Đỏ vào năm 2008.
Nam Việt Nam có thể là: Miền Nam Việt Nam Nam Bộ Việt Nam Việt Nam Cộng hòa
Đây là danh sách các bài viết về lịch sử các nước hiện thời, các quốc gia và các vùng độc lập. Xem Danh sách các cựu quốc gia (các nước đã biến mất, các đế chế, v.v.) và Các nước ở châu Âu cũ sau năm 1815 để xem danh sách các quốc gia đã không còn tồn tại. Xem danh sách các quốc gia để xem thêm các bài khác và các danh sách quốc gia. A Abkhazia - Afghanistan - Ai Cập - Albania - Algérie - Andorra - Angola - Anguilla - Anh - Antilles thuộc Hà Lan - Lãnh thổ biển Ấn Độ của Anh - Quần đảo Virgin thuộc Anh - Antigua và Barbuda - Argentina - Armenia - Aruba - Quần đảo Ashmore và Cartier - Azerbaijan – Áo - Ả Rập Saudi - Ấn Độ B Bahamas - Bahrain - Đảo Baker - Ba Lan - Bangladesh - Barbados - Bassas da India - Bắc Triều Tiên - Belarus - Belize - Bénin - Bermuda - Bhutan - Bỉ - Bolivia - Bosna và Hercegovina - Botswana - Đảo Bouvet - Bồ Đào Nha - Bờ Tây và Dải Gaza - Brasil - Brunei - Bulgaria - Burkina Faso - Burundi C Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất - Campuchia - Cameroon - Canada - Cabo Verde - Quần đảo Cayman - Cộng hoà Trung Phi - Chechnya - Chile - Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa - Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) - Đảo Christmas - Đảo Clipperton - Quần đảo Cocos - Colombia - Comoros - Cộng hoà Dân chủ Congo - Cộng hoà Congo - Quần đảo Cook - Quần đảo biển Coral - Costa Rica - Côte d'Ivoire - Croatia - Cuba - Cộng hoà Séc D Đan Mạch - Djibouti - Dominica - Đông Timor - Cộng hoà Dominican - Đức - E Ecuador - El Salvador - Eritrea - Estonia - Ethiopia - Đảo Europa F Quần đảo Falkland (Quần đảo Malvinas) - Quần đảo Faroe - Fiji - G Gabon - Gambia - Ghana - Gibraltar - Quần đảo Glorioso - Greenland - Grenada - Gruzia - Guadeloupe - Guam - Guatemala - Guernsey - Guinée - Guiné-Bissau - Guinea Xích đạo - Guyana H Haiti - Hà Lan - Hàn Quốc - Đảo Heard và Quần đảo McDonald - Hoa Kỳ - Quần đảo Hoàng Sa - Honduras - Hồng Kông - Hy Lạp - Đảo Howland - Hungary I Iceland - Indonesia - Iran - Iraq - Ireland - Israel (xem thêm Palestine) J Jamaica - Jan Mayen - Đảo Jarvis - Jersey - Đảo san hô Johnston - Jordan - Đảo Juan de Nova K Kazakhstan - Kenya - Đá ngầm Kingman - Kiribati - Kuwait - Kypros - Kyrgyzstan L Lào - Latvia - Liban - Lesotho - Liberia - Libya - Liechtenstein - Latvia - Luxembourg M Macao - Macedonia - Madagascar - Malawi - Malaysia - Maldives - Mali - Malta - Đảo Man - Quần đảo Bắc Mariana - Quần đảo Marshall - Martinique - Mauritania - Mauritius - Mayotte - Mexico - Liên bang Micronesia - Quần đảo Midway - Miến Điện - Moldova - Monaco - Mông Cổ - Montserrat - Maroc - Mozambique - Myanma N Namibia - Nauru - Đảo Navassa - Nepal - New Caledonia - New Zealand - Nicaragua - Nga - Nhật Bản - Niger - Nigeria - Niue - Đảo Norfolk - Na Uy O Oman P Pakistan - Palau - Đảo san hô Palmyra - Panama - Papua New Guinea - Paraguay - Peru - Philippines- Quần đảo Pitcairn - Puerto Rico - Phần Lan - Pháp - Guyane thuộc Pháp - Polynesia thuộc Pháp - Lãnh thổ Nam Nam Cực thuộc Pháp Q Qatar R Réunion - Rumani - Rwanda S Saint Helena - Saint Kitts và Nevis - Saint Lucia - Saint Pierre và Miquelon - Saint Vincent và Grenadines - Samoa - San Marino - São Tomé và Príncipe - Sénégal - Serbia và Montenegro - Seychelles - Sierra Leone - Singapore - Slovakia - Slovenia - Quần đảo Solomon - Somali - Cộng hoà Nam Phi - Nam Georgia và Quần đảo Nam Sandwich - Sri Lanka - Sudan - Suriname - Svalbard - Swaziland - Syria T Tajikistan - Tanzania - Tatarstan - Tchad - Thái Lan - Tây Ban Nha - Tây Tạng - Thụy Điển - Thụy Sĩ - Togo - Tokelau - Tonga - Transnistria - Trinidad và Tobago - Đảo Tromelin - Tunisia - Thổ Nhĩ Kỳ - Turkmenistan - Quần đảo Turks và Caicos - Tuvalu U Uganda - Ukraina - Uruguay - Uzbekistan - Úc V Việt Nam - Toà Thánh (xem thêm Thành phố Vatican) - Vanuatu W Đảo Wake - Wallis và Futuna - Bờ Tây và Dải Gaza - Tây Sahara Y Ý - Yemen Z Zambia - Zimbabwe
Đế quốc Việt Nam (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự Etsunan Teikoku, tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam tồn tại chỉ 5 tháng trong lịch sử Việt Nam (từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945) dưới sự kiểm soát và chi phối của Đế quốc Nhật Bản. Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương đêm ngày 9 tháng 3 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố Đế quốc Việt Nam độc lập với sự cộng tác với Đế quốc Nhật Bản. Ngày 17 tháng 4, Nội các Đế quốc Việt Nam do Trần Trọng Kim làm Tổng trưởng (Thủ tướng) được thành lập. Tuy có nội các nhưng Đế quốc Việt Nam thực chất vẫn là nền quân chủ chuyên chế mà không phải là nền quân chủ lập hiến như ở Anh Quốc hay Hà Lan. Do Đế quốc Việt Nam không có Quốc hội, cũng không có Hiến pháp, mặt khác, Đế quốc Nhật Bản vẫn nắm quyền chi phối hoạt động của Đế quốc Việt Nam, ngay cả các Bộ trưởng của Đế quốc Việt Nam không thể làm được việc gì nếu không được cố vấn tối cao Nhật Bản đồng ý. Theo một số tài liệu lịch sử, Đế quốc Việt Nam là chính quyền do Đế quốc Nhật Bản dựng lên và không có thực quyền. Giới sử gia phương Tây xếp chung với các chính phủ bù nhìn khác do Nhật thành lập tại các nước bị họ chiếm đóng trong Thế chiến II như Mãn Châu Quốc, Chính phủ Uông Tinh Vệ, Mông Cương, Đệ nhị Cộng hòa Philippines,... Tháng 8 năm 1945, khi Đế quốc Nhật Bản sắp bại trận, Bảo Đại đã gửi thư cho Tổng thống Mỹ, vua Anh, Thống chế Trung Hoa và Pháp đề nghị công nhận Đế quốc Việt Nam là chính phủ đại diện cho Việt Nam nhưng không được hồi âm. Cùng với sự bại trận của Nhật Bản trong Thế chiến II, theo Tuyên bố Cairo, tất cả các chính phủ này đều tự sụp đổ hoặc bị Đồng Minh giải thể trong năm 1945. Vua Bảo Đại sau này cũng xác nhận rằng nước Việt Nam chỉ là vật hiến tặng của Đế quốc Pháp cho Đế quốc Nhật Bản và không có được độc lập thực sự. Đến 24 tháng 8 năm 1945, trong cao trào của Cách mạng Tháng Tám, Hoàng đế Bảo Đại quyết định thoái vị. Thủ tướng Đế quốc Việt Nam là Trần Trọng Kim phản đối cách mạng do tư tưởng bảo hoàng, khăng khăng muốn giữ ngai vàng cho triều đình nhà Nguyễn. Nhưng với việc quân Nhật đã đầu hàng, một mình Trần Trọng Kim không làm gì được trước cao trào cách mạng. Theo lời thuật của Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Thanh niên của Đế quốc Việt Nam, tất cả thành viên nội các Đế quốc Việt Nam đều không ủng hộ Trần Trọng Kim do nhận thấy lòng dân đã hướng về Việt Minh, nhất trí từ chức và ủng hộ Chính phủ mới của Hồ Chí Minh. Chính phủ Đế quốc Việt Nam đến đây tan rã. Bối cảnh Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Pháp tại Đông Dương đã mất hết quyền kiểm soát Đông Dương thuộc Pháp và quyền này rơi vào tay người Nhật vào năm 1941. Tuy nhiên, người Nhật vẫn giữ lại những quan chức Pháp người Việt và chỉ điều khiển sau hậu trường. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, khi tình hình chiến tranh Thái Bình Dương thay đổi bất lợi, Nhật đổi chính sách và tiến hành đảo chính Pháp, bắt giam các tướng lãnh và tước khí giới của quân đội Pháp ở Đông Dương. Đại sứ Nhật ở Đông Dương là Matsumoto Shunichi giao cho đại diện Pháp là Toàn quyền Đông Dương, Đô đốc Jean Decoux tối hậu thư đòi người Pháp phải chấp nhận vô điều kiện quyền chỉ huy của Đế quốc Nhật Bản trên mọi phương diện. Ở Huế, đại úy Kanebo Noburu vào báo với vua Bảo Đại quyền lực của Pháp đã bị loại bỏ. Sau cuộc tập kích bất ngờ vào quân Pháp đêm 9/3/1945, vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là duy trì bằng được "trật tự và ổn định" nhằm tìm nguồn cung ứng vật chất tại chỗ cho gần 100.000 lính Nhật, cũng như để cung cấp cho việc phòng thủ nước Nhật Bản trước đà tấn công của quân Đồng Minh. Tuy nhiên, đúng lúc đó, bộ máy hành chính thực dân mà Nhật kế thừa từ Pháp đã tan rã, vì thế việc thành lập bộ máy cai trị bản xứ đặt ra như một đòi hỏi cấp bách và Đế quốc Việt Nam ra đời trong bối cảnh đó. Ngay từ đêm 8/3/1945, quân đội Nhật Bản đã được phái đến canh giữ nghiêm ngặt nhà của các quan lớn trong Triều Nguyễn. Họ giữ các quan này ở trong nhà để chờ lệnh từ chỉ huy Nhật. Theo lời kể của đại thần Phạm Quỳnh, quân Nhật đi tìm tất cả các quan trong Viện Cơ mật (gồm sáu vị Thượng thư) và giam họ lại một chỗ. Sáng 10/3/1945, trên đường đi săn, Bảo Đại bị một toán quân Nhật giữ lại và hôm sau đưa về kinh thành. Khi đã đưa được Bảo Đại về kinh đô, quan Nhật là Yokoyama đưa cho họ 2 văn bản đã viết sẵn: Bản tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước nhà Nguyễn đã ký với Pháp và Bản tuyên bố giải tán Viện Cơ mật, tất cả nhằm dọn đường cho việc thành lập nội các Đế quốc Việt Nam. Yokoyama nói thẳng: "Tôi cho các vị 15 phút để suy nghĩ". Trong hoàn cảnh đó, các quan nhà Nguyễn không muốn ký cũng không được. Đế quốc Việt Nam tuyên bố độc lập Hôm sau, ngày 11 Tháng Ba năm 1945, vua Bảo Đại gặp mặt Cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki tại điện Kiến Trung để ký bản Tuyên cáo Việt Nam độc lập. Cùng đi với Yokoyama là Tổng lãnh sự Konagaya Akira và Lãnh sự Watanabe Taizo. Bản tuyên cáo đó (mà Nhật đã ép các quan trong Viện Cơ mật phải ký như đã nêu trên) có chữ ký của sáu vị Thượng thư trong Cơ mật Viện là Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Úy, Bùi Bằng Đoàn, Trần Thanh Đạt và Trương Như Đính, nguyên văn chiếu chỉ đề ngày 27 Tháng Giêng ta năm thứ 20 niên hiệu Bảo Đại: Theo đó triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 vốn áp đặt nền bảo hộ của Pháp lên toàn cõi nước Việt Nam. Tuy nhiên, do văn bản được Nhật Bản soạn thảo nên đoạn sau của Tuyên cáo được cài thêm khẩu hiệu về Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á, cũng như vai trò lãnh đạo và quyền trưng dụng mọi tài sản của Việt Nam sẽ thuộc về Đế quốc Nhật Bản: Với Dụ số 1 ra ngày 17 tháng 3, vua nêu khẩu hiệu "Dân Vi Quý" (chữ Nho: 民爲貴; lấy dân làm quý) làm phương châm trị quốc. Vua Bảo Đại giải tán nội các cũ, các quan Thượng thư đồng loạt từ chức. Việc tìm một người bản xứ đứng ra lập nội các mới cũng được Nhật Bản cân nhắc. Cụ Huỳnh Thúc Kháng là một nhân vật quan trọng trong phong trào Duy Tân, được Nhật mời đầu tiên, nhưng cụ đã từ chối ngay vì không muốn phục vụ cho quân đội nước ngoài đang chiếm đóng nước mình. Trước đó, năm 1943, nhà yêu nước Nguyễn An Ninh đang bị cầm tù ở Côn Đảo, được một viên tướng Nhật ra đảo mời hợp tác nhưng ông cũng kiên quyết từ chối. Cuối cùng, nhà sử học Trần Trọng Kim được Nhật Bản đón về từ Singapore, rồi được đưa ra Huế để Bảo Đại giao nhiệm vụ thành lập nội các mới. Lúc đó vua Bảo Đại nói với Trần Trọng Kim: "Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ lập thành một chính phủ để lo việc nước." Trần Trọng Kim được lựa chọn thành viên nội các, Nhật Bản không bắt ông phải dùng những người của họ đã định trước. Mục tiêu của Trần Trọng Kim khi thành lập chính phủ là "Chúng tôi muốn đặt trước Đồng Minh khi chiến tranh chấm dứt với một nước Việt Nam độc lập trên thực tế để chúng ta không thể nào trở lại tình trạng cũ là một thuộc địa của Pháp nữa". Tướng Nhật Tscuchihashi nghĩ rằng chỉ cần Việt Nam độc lập danh nghĩa hơn là thực chất và chính phủ mới của Việt Nam phải được Nhật kiểm soát chặt chẽ. Theo tác giả Daniel Grandcléme, thoạt đầu quan đại thần Phạm Quỳnh được chỉ định tạm quyền nhưng ông này quá thân Pháp, ngoài ra ông ta thấy ngay "nền độc lập" của Đế quốc Việt Nam có những giới hạn khắt khe giống như hồi còn chế độ bảo hộ Pháp: không được tự chủ về ngoại giao, không có quân đội, không có độc lập tài chính... Do vậy, quân Nhật quyết định không bổ nhiệm Phạm Quỳnh và chọn một nhân vật ôn hoà hơn và gần gũi với Nhật Bản - đó là nhà sử học Trần Trọng Kim, người lúc này đang ở Singapore và vua Bảo Đại chẳng có vai trò gì trong việc chỉ định. Để chuẩn bị nội các mới, Bảo Đại hai lần gửi điện vào Sài Gòn mời Ngô Đình Diệm ra Huế, nhưng cả hai bức điện đều bị tình báo Nhật ngăn chặn, vì thật ra phương án sắp đặt cho hoàng thân Cường Để (1882-1951) lên ngôi vua và Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng trước đó không lâu đã bị giới lãnh đạo quân sự Nhật Bản hủy bỏ, do không muốn gây nhiều xáo trộn, để thay vào bằng kế hoạch Bảo Đại - Trần Trọng Kim cũng được chuẩn bị sẵn từ hơn một năm trước. Trong bản Tuyên cáo trước quốc dân về đường lối chính trị, dưới sự khống chế của Nhật Bản, nội các Trần Trọng Kim tuyên bố: "quốc dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thực hợp tác với nước Đại Nhật Bản trong sự kiến thiết nền Đại Đông Á, vì cuộc thịnh vượng chung của Đại Đông Á có thành thì sự độc lập của nước ta mới không phải là giấc mộng thoáng qua". Bản Tuyên cáo của Chính phủ Trần Trọng Kim làm nhân dân bàn tán xôn xao, vì Đức đã bại trận, Nhật Bản cũng khó tránh khỏi thất bại, cho nên Trần Trọng Kim lại phải tuyên bố để trấn an dư luận: "Việc nước Đức đầu hàng không hại gì đến sự liên lạc mật thiết giữa hai nước Nhật và Việt Nam… Sự bại trận ấy không thể giảm bớt lòng chúng ta kiên quyết giúp Nhật Bản đeo đuổi cuộc chiến đấu cho đến khi toàn thắng để kiến thiết vùng Đại Đông Á… ta chỉ phải giữ vững cuộc trị an trong nước và chịu những hy sinh cần thiết để cho quân đội Nhật Bản được chúng ta tận tâm giúp đỡ về mặt tinh thần và vật chất, nền độc lập của chúng ta có như thế mới thật vững bền". Các tờ báo đương thời như Sài Gòn, Điện Tín, Dân Báo ở Sài Gòn, Tin Mới, Trung Bắc Chủ nhật, Nước Nam, Đông Phát ở Hà Nội, Ngày Mới ở Hải Phòng, Đoàn kết ở Vinh, Thanh niên ở Nam Định đều đăng bài tuyên bố nhiệt thành ủng hộ bản tuyên cáo. Tại Huế, chính phủ phát hành bán nguyệt san Việt Nam Đế quốc Công báo. Theo Trần Văn Chánh, đa số quần chúng tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt với sự "độc lập" dưới sự chiếm đóng của quân đội Nhật. Ngày 17/3/1945, ở các hương thôn, lý trưởng được lệnh tổ chức dân chúng mừng sự ra đời của Đế quốc Việt Nam tại các đình làng, nhưng không khí rất ảm đạm: "Cửa đình mở rộng, trước sân đình có cờ, chuông, trống, như ngày cúng Thần. Hội đồng xã chỉ lưa thưa có mấy ông. Dân chúng chẳng ai đến cả, trừ một số chức việc có phận sự trong làng. Đến giờ, chuông trống nổi dậy, hương xã làm lễ tế Thần. Lý trưởng đọc lời ‘tuyên cáo độc lập’. Y như một bài văn tế. Xong, chiêng trống tiếp tục và buổi lễ chấm dứt không đầy 30 phút. Không một tiếng vỗ tay. Không một lời hoan hô. Các ông làng xã, khăn đen áo dài khệ nệ như trong các đám cúng Thần theo nghi lễ cổ truyền, lặng lẽ đóng cửa đình sau khi dọn dẹp". Khoảng 4 ngàn người ở Vinh ngày 14 tháng 3 và 15 ngàn người ở Hà Đông chiều 15 tháng 3 đã tham dự biểu tình mừng Việt Nam độc lập. Chủ nhật ngày 18 tháng 3, tại vườn Ông Thượng, Sài Gòn diễn ra cuộc biểu tình cả trăm ngàn người để ăn mừng sự độc lập của Việt Nam. Cũng trong ngày 18 tháng 3, một cuộc biểu tình chưa từng có ở Thái Bình diễn ra trong cảnh tưng bừng náo nhiệt. Trong khi Bảo Đại tìm người lập nội các thì ngày 30/3/1945, trong một cuộc họp với công chức người Việt ở Long Xuyên, Toàn quyền Nhật Bản là Minoda nói thẳng bằng tiếng Pháp về bản chất sự "độc lập" của Đế quốc Việt Nam: Sau này, trong hồi ký của mình, Trần Trọng Kim nhận xét về ý đồ của Nhật Bản như sau: Nội các Đế quốc Việt Nam Ngay từ đêm 8/3, quân Nhật Bản đã được phái đến canh giữ nghiêm ngặt nhà của các quan lớn trong triều đình Nguyễn. Họ giữ các quan này ở trong nhà để chờ lệnh từ chỉ huy quân đội Nhật. Theo lời kể của đại thần Phạm Quỳnh, quân Nhật đi tìm tất cả các quan trong Viện Cơ mật và giam họ lại một chỗ. Đến sáng 9/3, khi đã đưa được vua Bảo Đại về kinh đô, quan Nhật là Yokoyama đưa cho họ 2 văn bản đã viết sẵn: Bản tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước nhà Nguyễn đã ký với Pháp và Bản tuyên bố giải tán Viện Cơ mật, tất cả nhằm dọn đường cho việc thành lập nội các Đế quốc Việt Nam. Yokoyama nói thẳng "tôi cho các vị 15 phút để suy nghĩ". Trong hoàn cảnh đó, các quan nhà Nguyễn không muốn ký cũng không được. Nội các mới được thành lập vào ngày 17 tháng 4 với Trần Trọng Kim là Nội các Tổng trưởng. Ngay buổi đầu ông Trần Trọng Kim trình danh sách nội các với Bảo Đại đã có sự hiện diện của viên Cố vấn tối cao Nhật Bản tại Huế là Masayuki Yokoyama. Sau khi vua Bảo Đại chấp thuận nội các, Cố vấn Nhật xem danh sách nội các rồi nói "Tôi chúc mừng cụ đã chọn được người rất đứng đắn" . Đây là chính phủ kiểu hiện đại đầu tiên ở nước Việt Nam (không kể các triều đại phong kiến và chính phủ bảo hộ của Pháp trước đó) và Trần Trọng Kim là người đầu tiên có chức danh Thủ tướng ở Việt Nam. Với nội các tập hợp được những trí thức có tiếng lúc bấy giờ, thành phần nội các ra mắt ngày 19 tháng 4, trong đó có: Bác sĩ Trần Đình Nam - Bộ trưởng Bộ Nội vụ Luật sư Trịnh Đình Thảo - Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Kỹ sư Lưu Văn Lang - Bộ trưởng Công chính Bác sĩ Hồ Tá Khanh - Bộ trưởng Bộ Kinh tế Luật sư Phan Anh - Bộ trưởng Bộ Thanh niên Thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn - Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ nghệ Cựu Tổng đốc tỉnh Thái Bình là Phan Kế Toại được bổ làm Khâm sai Bắc Kỳ còn Nguyễn Văn Sâm làm Khâm sai Nam Kỳ đại diện cho triều đình Huế ở ngoài Bắc và trong Nam. Tại Hà Nội, Phan Kế Toại tiếp thu phủ Thống sứ và Trần Văn Lai nhậm chức ở tòa Đô chính trước đám đông dân chúng đến chứng kiến việc thu hồi độc lập trên danh nghĩa. Đế quốc Việt Nam không thành lập Bộ quốc phòng để tránh bị Nhật Bản lôi kéo tham gia chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách đồng minh của Nhật Bản. Suốt từ ngày 9/3/1945, từ vua Bảo Đại cho tới các tuyên cáo của nội các Đế quốc Việt Nam, rồi cả báo chí, bao giờ cũng có câu "Đại Đông Á vạn tuế" . Bản thân khẩu hiệu "Đại Đông Á" vốn do Nhật tạo ra, và 5 nguyên tắc của nó cho thấy rõ mục đích: Nhật Bản muốn lôi kéo các nước châu Á mà họ đã thôn tính được, bắt các nước này đóng góp nhân lực, của cải để Nhật tiến hành chiến tranh chống Anh - Mỹ, cũng như triệt tiêu ý định chống Nhật tại các nước này. Mới ra mắt được 4 tháng, ngày 5/8/1945, hàng loạt thành viên nội các Trần Trọng Kim xin từ chức: 3 Bộ trưởng xin từ nhiệm, Bộ trưởng Vũ Ngọc Anh qua đời vì trúng bom do máy bay Mỹ ném. Các Bộ trưởng khác tuyên bố bất lực, bởi không thể làm được việc gì nếu không được Cố vấn tối cao Nhật đồng ý, trong khi vua Bảo Đại chỉ lo ăn chơi, săn bắn mà không quan tâm đến chính trị. Trần Trọng Kim cố gắng liên hệ nhưng các nhân vật cấp tiến đều khước từ cộng tác, đến đầu tháng 8 chính Trần Trọng Kim cũng nói mình bị "tăng huyết áp" và không ra khỏi nhà. Dù rằng thành viên trong nội các Trần Trọng Kim đều là trí thức và thanh liêm, muốn giúp nước nhưng trước sự khống chế của Nhật Bản, họ đều thấy bản thân bị cô lập, bất lực và nội các cũng tan rã dần. Sau Cách mạng tháng Tám, phân nửa thành viên nội các Trần Trọng Kim đã đi theo Chính phủ kháng chiến của Việt Minh. Luật sư Phan Anh, người sớm nhận ra sự thật, sau này viết: "Chúng tôi đã lầm rất lớn. Chúng tôi đã tưởng lợi dụng được một đế quốc chống một đế quốc khác, tranh thủ quyền lợi về ta, nhưng trái lại bọn Nhật đã lợi dụng chúng tôi, ít nhất cũng là về danh nghĩa. Đó là một bài học đau đớn!" Ngày 08 tháng 5 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại đã tuyên Chiếu với Nội các về việc nước Việt Nam đã được giải phóng. Chiếu có đoạn: "Nước Việt Nam nay đã được giải phóng. Trẫm đã lựa chọn khắp các nhân tài trong nước, kén lấy những người có học thức, có kinh nghiệm, chắc chư khanh sẽ không phụ lòng Trẫm ủy thác và lòng dân hi vọng...". Sau Chiếu của Hoàng đế, Nội các ra Tuyên cáo với Quốc dân về việc nước Việt Nam độc lập: "Sau 80 năm bị áp chế, nước ta đã khôi phục nền tự chủ và địa vị của một nước văn hiến cõi Á Đông. Vâng theo Đức Kim thượng, chúng tôi hết sức theo đuổi mục đích hợp nhất Quốc dân để củng cố nền độc lập và gây mạnh tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng xã hội. Chính phủ sẽ ghi công các bực anh hùng đã hi sinh cho nòi giống, tìm cách cho các chính khách hải ngoại được trở về; xóa bỏ những hình án bất công và giải phóng những nhà ái quốc còn bị giam hãm. Nội các sẽ tìm cách thống nhất pháp luật để tránh sự lạm quyền. Nạn tham nhũng cần phải trừ cho tiệt. Chính phủ rất chú trọng đào tạo một thế hệ thanh niên mới, có tổ chức, có huấn luyện. Về kinh tế, Chính phủ dự bị một cuộc tổ chức mới, chú trọng nhất là nâng cao trình độ sinh hoạt dân chúng. Muốn thi hành chính sách ấy, phải cần sự hợp tác của các đoàn thể và cá nhân. Chúng tôi xin tuyên thể với quốc dân đem hết tâm trí để theo đuổi mục đích duy nhất là xây đắp nền độc lập nước nhà, không tư vì cá nhân hay đảng phái". Hoạt động Theo tuyên chiếu của Hoàng đế Bảo Đại ngày 8 tháng 5 năm 1945, Tổng trưởng Nội các Trần Trọng Kim cử Hội đồng xét về quốc hiệu, quốc kỳ, quốc ca. Ngày 12 tháng 6 năm 1945, Hoàng đế ký dụ số 52 tái khẳng định quốc hiệu là Việt Nam, quốc kỳ là cờ quẻ Ly có nền vàng thẫm hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm. Bản Đăng đàn cung tiếp tục được giữ làm âm điệu của quốc ca, phần từ sẽ quyết định sau. Dù không tồn tại được lâu, Nội các Trần Trọng Kim đã cố gắng đặt nền móng xây dựng một thể chế độc lập và tự chủ đầu tiên không thuộc Pháp. Tuy không được chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như thiếu thốn rất nhiều nhân sự và vật lực để điều hành chính phủ, đối ngoại thì phải cố gắng dung hòa các thế lực quốc tế và chủ thuyết Đại Đông Á của Đế quốc Nhật, đối nội thì có nhiều phe phái muốn giành chính quyền, chính phủ mới vẫn đạt được một số điều kiện cơ bản, nhóm lên hy vọng độc lập và tự chủ cho nước Việt Nam. Trần Trọng Kim trở thành thủ tướng vì Ngô Đình Diệm đã từ chối đảm nhiệm chức vụ này, thành viên nội các đều do ông lựa chọn nên toàn là nhân sĩ trí thức nổi tiếng. Theo nhận định của báo Nhân dân sau này, tuy ít nhiều nắm bắt được nguyện vọng độc lập của quốc dân, và nhận thức được ý nghĩa của khối đoàn kết dân tộc, đề ra được một số chủ trương cải cách tiến bộ, nhưng Chính phủ Trần Trọng Kim không thể quy tụ, phát huy được sức mạnh của dân tộc, bởi thực quyền và phương tiện nằm trong tay Nhật. Công việc cấp bách nhất khi đó là vận chuyển gạo từ miền Nam ra miền Bắc để cứu đói mà chính phủ này cũng không thực hiện nổi. Theo hồi ký của nhà báo Nguyễn Kỳ Nam, người được Toàn quyền Nhật Bản là Minoda cho đi theo trong các chuyến công du các tỉnh, sau một thời gian đã nhận xét: "Thế là rõ rệt rồi, Minoda thay thế Pagès (toàn quyền Pháp trước đó)! Nhật thay thế Pháp cai trị Nam Kỳ theo luật lệ Pháp để lại. Không hơn không kém! Việt Nam không độc lập gì ráo! Hay là Việt Nam xin được độc lập trên giấy tờ mà thôi. Chứ thật sự thì anh Nhật cầm hết quyền hành. Minoda đi khắp các tỉnh, định đường lối cai trị... y hệt như Pháp" . Thả tù chính trị và lập đội trị an Trong những bước đầu tiên là Bộ trưởng Tư pháp Trịnh Đình Thảo ra lệnh thả hàng ngàn tù nhân chính trị bị Pháp giam giữ. Tuy nhiên, Đạo dụ ngày 17/5/1945 quy định chỉ thả những chính trị phạm không phải là đảng viên Cộng sản, và chỉ có một số rất ít tù nhân là đảng viên Cộng sản được ra khỏi nhà lao. Tiếp theo đó thì Bộ trưởng Bộ Thanh niên là Phan Anh đứng tổ chức đội Thanh niên Tiền tuyến theo tinh thần quốc gia để huy động quốc dân giữ an ninh vì không có bộ Quốc phòng. Đế quốc Việt Nam không thành lập Bộ Quốc phòng để tránh phải tham gia chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách đồng minh của Nhật Bản. Đế quốc Việt Nam không có quân đội, người Nhật nắm toàn bộ vấn đề quốc phòng mà không giao cho chính phủ Trần Trọng Kim. Để bảo vệ trị an, Đế quốc Việt Nam có một nhóm nhỏ gọi là Thanh niên Tiền tuyến, nhưng khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, lực lượng này lại bỏ đi theo Việt Minh. Không có quân đội, lực lượng trị an lại không tuân lệnh là một trong các nguyên nhân khiến Đế quốc Việt Nam dễ dàng bị sụp đổ sau này. Thu hồi Nam Kỳ Trong thời gian ngắn ngủi chấp chính, chính phủ mới đã làm được một việc quan trọng nhất là thống nhất trên danh nghĩa xứ Nam Kỳ vào nước Việt Nam kể từ ngày 8 tháng Tám, 1945. Trước đó vào ngày 20 tháng Bảy chính phủ Việt Nam cũng thu hồi ba nhượng địa cũ là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng vốn bị người Pháp chia cắt và áp dụng quy chế trực trị và bổ nhiệm ba vị đốc lý người Việt thay thế người Pháp.. Về việc thu hồi Nam Kỳ thì cuộc thương thuyết với Toàn quyền Tsuchihashi có kết quả mặc dù lúc đầu Tsuchihashi còn do dự vì triều đình Cao Miên (Campuchia) cũng đòi đất Nam Kỳ. Thủ tướng Trần Trọng Kim phái Nguyễn Văn Sâm làm quan Khâm sai vào Sài Gòn tiếp thu đất Nam Kỳ. Đại sứ Yokoyama ở Huế theo đó tuyên bố trao trả Nam Kỳ cho triều đình Huế. Ở ngoài Bắc thì Thống sứ Nishimura bàn giao với Khâm sai Phan Kế Toại tại Hà Nội ngày 12 tháng 8. Ngày 14 tháng 8, Đế quốc Việt Nam công bố chính thức tiếp thu Nam Kỳ, Nguyễn Văn Sâm được cử làm khâm sai. Ngày 16 tháng 8, giới chức Nhật bắt đầu chuyển giao các công sở cho Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Thống đốc Minoda ở Sài Gòn đợi khâm sai Nguyễn Văn Sâm để bàn giao. Ban đầu dự tính vị Khâm sai Nam Bộ sẽ đến vào ngày 19 tháng 8, nhưng trên đường đi bị chậm trễ do Việt Minh nên tới chiều ngày 22 tháng 8 ông mới về tới Sài Gòn. Chính phủ Đế quốc Việt Nam lệnh rằng ngày 23 tháng 8 cử hành khánh hạ quốc gia được thống nhất; phủ Khâm sai Nam Bộ thông cáo cho các công sở, nhà buôn nghỉ làm, và tổ chức diễn hành, chào quốc kỳ, diễn thuyết mừng Việt Nam độc lập và thống nhất. Ngày 25 tháng 8, tổ chức Thanh niên Tiền phong, lúc này đã tách khỏi Mặt trận Quốc gia và gia nhập Việt Minh, tham gia giành chính quyền. Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ được thành lập. Sang ngày 26 thì Khâm sai Nguyễn Văn Sâm từ nhiệm sau khi được tin vua Bảo Đại đã thoái vị ở Huế, chấm dứt thể chế Đế quốc Việt Nam. Cải cách hành chính Chính phủ Trần Trọng Kim hợp nhất hai bộ máy hành chính Nam triều và Bảo hộ do thực dân Pháp để lại. Từ đây, chính phủ Trần Trọng Kim đứng đầu hệ thống hành chính thống nhất trên toàn quốc. Chính phủ buộc các quan chức địa phương chỉ được nhận chỉ thị và báo cáo trực tiếp với Chính phủ Việt Nam chứ không được liên hệ với Sở Tối cao Cố vấn Nhật Bản. Tuy nhiên các cơ quan công an, tuyên truyền, thông tin liên lạc vẫn do người Nhật kiểm soát. Chính phủ thành lập Ủy ban Cải tổ và Thống nhất Luật pháp. Hội đồng Cải cách Cai trị, Tư pháp và Tài chính có 16 thành viên như các ông Vũ Văn Hiền, Trần Văn Chương, Trần Văn Ân, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đình Nam, Phan Kế Toại được giao nhiệm vụ xúc tiến việc soạn thảo cơ cấu mới cho quốc gia. Chính phủ này còn dự định lập ra những Tư vấn Hội nghị ở các địa phương để giúp các Cơ quan Hành chính địa phương, tiến tới thành lập Tư vấn Hội nghị Toàn quốc giúp chính phủ cải cách quốc gia và soạn thảo Hiến pháp. Thủ tướng Trần Trọng Kim ra chỉ thị ngày 8 tháng Năm thành lập Hội nghị Tư vấn Quốc gia gồm 59 thành viên từ nhiều giới để giúp sức Sau đó sẽ bầu Quốc hội Lập hiến để phê chuẩn và ban hành Hiến pháp. Những dự định này chưa được thực hiện thì chính phủ đã giải tán. Chính phủ cũng dự định soạn sơ thảo một bản Hiến pháp cấp tiến bảo đảm quyền tự do chính trị, tự do nghiệp đoàn và tự do tín ngưỡng. Hội đồng dự thảo Hiến pháp có 14 thành viên gồm có những ông Phan Anh, Nguyễn Tường Long, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Hồ Tá Khanh, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Thinh, Hồ Hữu Tường. Việc soạn thảo mới chỉ được tiến hành dở dang thì Đế quốc Việt Nam đã sụp đổ. Chính phủ cũng ra lệnh bãi bỏ thuế thân cho những ai không có tài sản và những người có tiền lương dưới 100 đồng một tháng. Thay thế ảnh hưởng của Pháp Đốc lý Hà Nội là Trần Văn Lai và Đô trưởng Sài Gòn Kha Vạng Cân ra sức đưa người Việt vào thay thế các vị trí của người Pháp trong bộ máy chính quyền cũ và phá hủy các bức tượng do người Pháp dựng lên trong các thành phố. Một bước đột phá không kém là thay chương trình dạy học bằng tiếng Pháp sang chương trình học bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn đề ra. Thủ tướng Trần Trọng Kim giao việc này cho Hội đồng Cải cách Giáo dục với 18 thành viên trong đó có Hoàng Xuân Hãn, Hoàng Thị Nga, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Minh Giám, Bùi Kỷ, Ngụy Như Kontum, Ưng Quả, và Hồ Văn Ngà duyệt xét. Ngày 3 Tháng Sáu, 1945 vua Bảo Đại ra dụ số 67 chính thức bỏ tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính và cho áp dụng chương trình giáo dục của Hoàng Xuân Hãn. Kết quả là đợt thi tú tài đầu tiên bằng tiếng Việt là vào niên học 1944-45. Tổng số trường học trên toàn quốc gồm có 4952 trường tiểu học (284.341 học sinh, thi bằng tiểu học), 25 trường cao đẳng tiểu học (2.000 học sính, thi bằng cao đẳng) và 4 trường trung học (500 học sinh, thi bằng tú tài) bấy lâu nay dùng tiếng Pháp để giảng dạy nay đổi qua dùng tiếng Việt. Đây cũng là nền tảng xây dựng cho chương trình giáo dục Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giáo dục Việt Nam Cộng hòa sau này. Tiếng Việt cũng được dùng làm ngôn ngữ hành chính, dùng ghi chép các giấy tờ, sổ sách. Nạn đói năm 1945 Năm 1945, đường sắt xuyên Đông Dương không còn sử dụng được nữa và đường thiên lý Bắc Nam cũng bị Đồng Minh ném bom phá hoại. Đường biển thì quân Đồng minh đã gài thủy lôi ở cửa biển Hải Phòng khiến hải cảng chính ở Bắc Kỳ cũng không thông thương được. Tàu chở hàng cỡ lớn đã bị Nhật trưng dụng, đồng thời quân Đồng minh phong tỏa đường biển nên tàu bè chở gạo ra Bắc chỉ ra được đến Đà Nẵng. Khi không quân Đồng minh mở rộng tầm oanh kích thì tàu chở gạo phải cập bến ở Quy Nhơn rồi cuối cùng chỉ ra được đến Nha Trang. Các kho thóc ở miền Bắc thì do Nhật Bản nắm giữ để chuẩn bị chở về chính quốc nên không được phép dùng để phát chẩn cứu đói. Khi đó gạo được chất đống trong kho của Nhật, Bảo Đại đã thử thuyết phục Đại sứ quán Nhật Bản mở kho phát gạo nhưng chỉ huy Nhật Bản không cho phép. Không có phương tiện và tài chính, Nhật Bản thì tăng cường lấy gạo ở Việt Nam để chuyển về nước, chính phủ Trần Trọng Kim phải huy động những phương tiện thô sơ chuyển vận gạo từ Nam ra Bắc như xe bò hay thuyền nhỏ. Do thiếu phương tiện và nhân lực nên dù đã cố gắng Đế quốc Việt Nam vẫn không làm thuyên giảm được hậu quả ghê gớm của nạn đói Kết quả là nạn đói năm Ất Dậu 1945 đã khiến gần 2 triệu người chết đói, hàng triệu người phải bỏ nhà cửa đi lang bạt kiếm ăn, nhiều vùng nông thôn tại miền Bắc Việt Nam trở nên xơ xác, tiêu điều. Báo Ngày Nay xuất bản tháng 6/1945 nhận xét về sự bất lực của Chính phủ Đế quốc Việt Nam, viết: Về vấn đề này, nhà sử học Trần Văn Giàu chỉ ra nguyên nhân của sự bất lực này của Đế quốc Việt Nam: Không những vậy, Đạo dụ của chính phủ Trần Trọng Kim ngày 13/6/1945 còn quy định: ai phạm việc phá hoại cầu cống, đường sá, cướp phá hoặc làm hư hại kho ngũ cốc, đồ ăn, gạo, đều bị kết án tử hình. Đạo dụ cũng cấm chỉ mọi cuộc tụ tập trên 10 người. Vì đạo dụ này, nhân dân không dám kéo đi phá kho thóc để chia cho người đói, hàng chục vạn người đã chết đói ngay bên ngoài cửa những kho thóc còn đầy ắp. Trong khi Bộ Tiếp tế chỉ làm được vài việc vặt, thì Bộ Tài chính của Đế quốc Việt Nam gom tiền thuế của dân giao cho Nhật. Chỉ riêng trong 5 tháng tồn tại, Chính phủ Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật Bản khoản tiền 720 triệu đồng Đông Dương (Piastre), ngang với số tiền 726 triệu do chính quyền thực dân Pháp nộp cho Nhật Bản trong 5 năm trước đó (từ 1940 tới 9/3/1945). Tổng cộng trong thời gian Thế chiến thứ hai, người Việt Nam đã phải nộp cho Nhật Bản khoản tiền 1 tỷ 446 triệu đồng Đông Dương, tương đương 14 tỷ 460 triệu Franc lúc đó. Dù phạm vi hoạt động có giới hạn, chính phủ Trần Trọng Kim cố gắng để vận chuyển gạo chống nạn đói. Bộ trưởng Tiếp tế Nguyễn Hữu Thí được gửi vào Sài Gòn sắp xếp việc vận chuyển gạo từ Nam ra Trung Bộ và Bắc Bộ. Các hải cảng xa Sài Gòn được dùng làm điểm khởi hành để tránh Mỹ oanh tạc. Tư nhân được phép tự do chuyên chở và mua bán gạo. Để ngăn hành vi gian dối, chính phủ ra lệnh kiểm soát giá cả và tồn kho lúa gạo. Người vi phạm có thể bị tử hình hoặc tịch thu tài sản. Ty Liêm phóng Kinh tế Bắc Bộ, do Nguyễn Duy Quế đứng đầu, thành lập để ngăn chặn việc buôn lậu. Vào cuối tháng 3, tất cả các hội cứu tế miền Bắc tập hợp lại thành Tổng Hội Cứu tế do Nguyễn Văn Tố cầm đầu, và đẩy mạnh lạc quyên cũng như chẩn tế. Từ tháng 3 tới tháng 5, Tổng Hội quyên được 783.403 đồng. Tại Nam Bộ, trong tháng 5 hơn 20 hội chẩn tế ra đời, và trong vòng một tháng các tổ chức trên quyên được 1.677.886 đồng, kể cả 481.570 đồng để mua và chuyên chở 1.592 tấn gạo. Nhờ nhiều nguyên nhân, trước hết được mùa chiêm vào tháng 5 và 6/1945; nhu cầu lương thực giảm hẳn sau khi đã có nhiều người bị chết đói từ trước; cũng như một số lượng kho thóc của quân Nhật bị Việt Minh đánh phá để chia cho dân đói trong Cao trào kháng Nhật cứu nước (từ tháng 3/1945), qua tháng 6/1945, nạn đói đã giảm đáng kể. Sụp đổ Quá trình sụp đổ Vì không phải là một thế lực chính trị được ủng hộ rộng rãi và không có quân đội riêng, cũng không có bộ Quốc phòng (hoặc An ninh), chính phủ Trần Trọng Kim thực tế vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương và chỉ kiểm soát được những thành phố và thị trấn lớn ở miền Bắc và miền Trung, trong khi không kiểm soát được tình trạng hỗn loạn diễn ra ở nhiều nơi khác. Trong thời kỳ cầm quyền, Đế quốc Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề: sự tận thu tài nguyên của quân đội Nhật Bản để phục vụ chiến tranh, sự khống chế của Nhật Bản, không có quân đội, và nhất là nạn đói Ất Dậu làm chết gần 2 triệu người. Cũng như tại bất cứ lãnh thổ nào mà quân Nhật chiếm đóng, người Nhật thực thi một chế độ quân quản cực kỳ tàn bạo. Họ tàn sát, tra tấn bất cứ người nào làm trái ý họ. Chính điều này cũng góp phần khiến cho Đế quốc Việt Nam được thành lập dưới chế độ quân quản của Nhật không được nhân dân ủng hộ. Tuy Chính phủ mới quyết định không thành lập Bộ Quốc phòng để không bị Nhật lôi kéo tham gia vào thế chiến thứ hai, Trần Trọng Kim vẫn giao cho Phan Anh lập đội Thanh niên Tiền tuyến (còn được gọi là phong trào Thanh niên Khất thực). Tuy nhiên khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, lực lượng này lại quay sang ủng hộ Việt Minh và không tuân lệnh của Đế quốc Việt Nam nữa. Với các báo cáo điện tín đến từng giờ, đặc biệt là khi Việt Minh tiếp quản Hà Nội, nhưng cũng liên quan đến các sự kiện đáng lo ngại gần kinh đô, chẳng hạn ở Thanh Hóa và Hà Tĩnh, Thủ tướng Trần Trọng Kim cuối cùng đã từ bỏ nỗ lực của mình để tái thiết nội các. Vào ngày 20 tháng 8, ông đưa ra một tuyên bố (thực ra là được soạn thảo bốn ngày trước đó), tuyên bố đã hoàn thành hai mục tiêu quan trọng của mình là thống nhất lãnh thổ Việt Nam và duy trì khả năng hành chính. Kim nói: "Trước lịch sử, sứ mệnh của nội các chúng tôi giờ đây coi như đã hoàn thành". Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi, Kim nhìn nhận mọi thứ cần phải tiếp tục. Trước khi từ chức, ông mong mỏi thống nhất về mặt chính trị, cho rằng kẻ thù "mong muốn chia rẽ". Cùng thời gian này, vua Bảo Đại ra một tuyên bố, được ông soạn thảo ba hôm trước, nhìn nhận "sự giúp đỡ của Nhật Bản trong việc giúp Việt Nam giành lại độc lập", bày tỏ mong muốn thành lập một nội các mới, sẵn sàng từ bỏ vị trí hiện tại nếu cần thiết. Bảo Đại cũng thừa nhận mình "muốn làm công dân một nước đôc lập hơn là vua của một nước nô lệ". Câu nói này trước đó đã gây tranh cãi lớn trong cuộc họp nội các diễn ra ngày 17 tháng 8, vì ngữ cảnh của nó mang nghĩa Bảo Đại sẵn sàng thoái vị và đàm phán với Việt Minh. Trần Đình Nam, bộ trưởng bộ nội vụ thốt ra một câu đại loại như là "nhà vua cũng nên rút lui", khiến Trần Trọng Kim cho rằng ông này khi quân phạm thượng. Vũ Văn Hiền, bộ trưởng bộ tài chính mong muốn bàn giao chính quyền cho Việt Minh trong trường hợp nền quân chủ lập hiến được giữ vững. Nội các quyết định cử Phan Anh ra Hà Nội đàm phán. Bản tuyên bố của Bảo Đại khiến Trần Trọng Kim thất vọng sâu sắc, nhưng nhận sự đồng tình từ Hồ Tá Khanh cùng Phan Anh vì họ cảm thấy rõ cam kết của Bảo Đại đối với lợi ích quốc gia. Sau khi cân nhắc, ông quyết định không thay đổi từ ngữ trong bản tuyên bố này. Sau khi tuyên bố được đưa ra, người Nhật kiểm soát đài truyền thành ở Huế chiều ngày 21 tháng 8. Khi quân Nhật đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim cũng chỉ tồn tại được đến ngày 23 tháng 8 năm 1945. Lực lượng Việt Minh tổ chức quần chúng tiến hành cuộc Cách mạng tháng 8. Chính phủ Trần Trọng Kim không có hành động quân sự chống lại mà tự nguyện chuyển giao chính quyền cho Việt Minh. Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Phạm Khắc Hòe, nguyên Tổng lý Ngự tiền văn phòng của triều Nguyễn kể lại rằng: ngay cả khi Nhật Bản đã đầu hàng, Trần Trọng Kim vẫn tìm cách giữ ngôi báu cho nhà Nguyễn, nhưng tình thế sụp đổ của chính phủ Đế quốc Việt Nam đã là không thể xoay chuyển, khi mà chính các thành viên nội các Đế quốc Việt Nam cũng ủng hộ Việt Minh do chán ngán việc bị Nhật Bản khống chế: {{cquote|"Rõ ràng là Trần Trọng Kim đã hạ quyết tâm phục vụ quan thầy Nhật đến cùng… Ngày 17-8, chính phủ họp. Ông Trần Đình Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, phát biểu: "Toàn dân thắt chặt đoàn kết chung quanh tổ chức mạnh nhất, hăng hái nhất, tức là Việt Minh, làm cho nước ngoài không thể giở thủ đoạn "chia để trị" ra được nữa. Vậy, tôi đề nghị chúng ta rút lui ngay, nhường hẳn quyền bính cho Việt Minh. Theo tôi nghĩ thì cả Hoàng đế cũng nên rút lui". Câu nói này làm cho Trần Trọng Kim nhảy dựng người lên, nghiêm khắc lên án Trần Đình Nam là dám đòi nhà vua bỏ ngôi báu. Một cuộc tranh luận sôi nổi dấy lên.Các bộ trưởng có thiện chí đều xin từ chức. Chính phủ Trần Trọng Kim không thể tồn tại được. Ông Trần Trọng Kim có muốn duy trì nó cũng không được. Ông đành ấm ức chấp nhận thực tế phũ phàng chứ không phải tự nguyện nhường quyền cho Việt Minh.Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập sau cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 là kết quả của cuộc đấu tranh lâu đài, gian khổ, đầy hy sinh của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Pháp, Nhật và tay sai, chứ đâu phải là một chính phủ chuyển tiếp êm thấm. Càng không phải là nhờ thiện chí của ông Thủ tướng Trần Trọng Kim!|}} Ở miền Nam Việt Nam, Pháp theo quân Anh trở lại Đông Dương và ngày 23 tháng 9 năm 1945 đã nổ súng gây chiến ở Sài Gòn rồi mở rộng đánh chiếm Nam Bộ. Pháp đã chấp thuận đề xuất của một số chính trị gia thuộc Hội đồng tư vấn Nam Kỳ (Conseil consultatif de Cochinchine) lập ra Cộng hòa tự trị Nam Kỳ. Điều này được nhiều người đánh giá là âm mưu của Pháp muốn tách miền Nam Việt Nam ra khỏi Việt Nam. Một số nhân sĩ của nội các Đế quốc Việt Nam đã tham gia vào việc xây dựng chính phủ Việt Nam Cộng hòa sau đó tại lãnh thổ miền Nam như Trần Văn Chương, Trần Đình Nam. Một số khác tham gia Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam hoặc đi theo Việt Minh như ông Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Phan Kế Toại, Trịnh Đình Thảo, Tạ Quang Bửu, Đặng Văn Hướng... Nguyên nhân sụp đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chủ thể kế thừa là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đều cho rằng trên thực tế Đế quốc Việt Nam chỉ là một chính phủ bù nhìn và mọi quyền lực đều thuộc về người Nhật Bản. Chính phủ Đế quốc Việt Nam chưa hề thiết lập được bộ máy Nhà nước hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương cũng như việc chính phủ Đế quốc Việt Nam chỉ kiểm soát được một phần rất nhỏ của lãnh thổ Việt Nam, ranh giới không rõ ràng, số lượng dân cư không ổn định (do Chiến tranh đang xảy ra và lực lượng chiến đấu chính là Việt Minh và phát xít Nhật). Mọi quyết định về điều hành Việt Nam đều do Đế quốc Nhật Bản thực hiện chứ không phải là Đế quốc Việt Nam. Trên phương diện quốc tế, do được Đế quốc Nhật Bản (thuộc khối phát xít) thành lập nên tất cả các nước Đồng Minh (Anh, Pháp, Mỹ, Trung Quốc, Liên Xô...) đều không công nhận Đế quốc Việt Nam là chính phủ đại diện của Việt Nam. Theo Tuyên bố Cairo, các nước khối Đồng Minh sẽ không công nhận bất cứ chính phủ nào do Đế quốc Nhật Bản thành lập tại các lãnh thổ chiếm đóng. Với việc bị khối Đồng Minh khước từ và Đế quốc Nhật Bản đầu hàng, dù cho Cách mạng tháng Tám không nổ ra thì Đế quốc Việt Nam cũng sẽ không thể tồn tại được quá 1 tháng, vì họ sẽ bị quân Đồng Minh (Anh và Pháp) loại bỏ khi đổ bộ lên Việt Nam vào tháng 9/1945. Ngay bản thân nội các Đế quốc Việt Nam cũng bị chia rẽ. Nhiều quan chức của Đế quốc Việt Nam là người yêu nước, ban đầu họ tham gia vì muốn đem tài năng ra phục vụ đất nước, nhưng rồi họ nhận ra là mình không làm gì được trong gọng kìm khống chế của Nhật Bản nên cảm thấy chán ngán. Sau khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, họ quay sang ủng hộ Việt Minh. Có người còn làm bộ trưởng trong chính phủ cách mạng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo Báo Nhân Dân, do Đế quốc Việt Nam chưa hề tổ chức bất kỳ cuộc tổng tuyển cử nào để bầu lên Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của một nhà nước theo thể chế Cộng hòa (như cuộc Tổng tuyển cử năm 1946 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) nên Đế quốc Việt Nam chưa thể trở thành một nhà nước chính danh, một người đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam. Việc không tổ chức được Tổng tuyển cử còn cho thấy chính phủ Đế quốc Việt Nam không thể duy trì và thực hiện quyền lực quốc gia trong dài hạn và không đủ khả năng bảo vệ và đại diện cho nhân dân Việt Nam. Chính phủ Trần Trọng Kim - Bảo Đại đã bất lực trước các nhiệm vụ tự nó đặt ra lúc đầu. Ngay một công việc cấp bách khi đó là vận chuyển gạo từ miền Nam ra miền Bắc để cứu đói mà Chính phủ Trần Trọng Kim - Bảo Đại cũng không thực hiện nổi. Cố gắng dựa vào biểu tượng quân chủ đã lỗi thời và một ông vua không có thực quyền, Chính phủ Trần Trọng Kim không thể quy tụ được ý chí độc lập của người dân Việt Nam (thực tế cho thấy tổ chức trị an duy nhất của Đế quốc Việt Nam là "Thanh niên Tiền tuyến" cũng không nghe lệnh chính phủ này mà quay sang ủng hộ Việt Minh). Cùng với đó là sự công khai xác nhận mối gắn bó, sự phụ thuộc nặng nề vào Đế quốc Nhật Bản, một thế lực phát xít đã gây chiến tranh xâm lược khắp Đông Á, Đế quốc Việt Nam đã tự đặt mình vào thế đối lập với tất cả các cường quốc Đồng Minh chống phát xít. Với những mâu thuẫn nghiêm trọng cả bên trong lẫn bên ngoài đó, một khi Đế quốc Nhật Bản bại trận thì Đế quốc Việt Nam cũng không thể tồn tại được. Nhận xét Theo nhà sử học Joyce C. Lebra, Đế quốc Việt Nam được thành lập như một bộ phận của chính sách Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á của Nhật. Tuy nhiên, nó cũng chỉ là một trong những khẩu hiệu và khái niệm được dùng để biện hộ cho sự chiếm đóng của Đế quốc Nhật Bản tại Đông Á từ thập niên 1930 cho đến hết Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó các chính quyền bản xứ phải vận động người dân và nền kinh tế trong nước phục vụ cho lợi ích của Đế quốc Nhật Bản. Các chính quyền này trên danh nghĩa là độc lập, song thực tế không có nhiều quyền lực, hầu hết các chính sách quan trọng đều do lực lượng quân quản Nhật quyết định (tiêu biểu như chính phủ bù nhìn Mãn Châu quốc của cựu hoàng đế nhà Thanh (Phổ Nghi) hay chính phủ Đế quốc Đại Hàn). Theo tác giả Lê Xuân Khoa, Đế quốc Việt Nam dù không có thực quyền và chịu sự khống chế của Nhật Bản, song nó cũng "đóng một vai trò nhất định trong lịch sử". Nó là một bước đệm để cho Việt Nam có cơ hội đòi hỏi nền độc lập hoàn toàn khi thế chiến thứ hai kết thúc. Theo tiến sĩ sử học Vũ Ngự Chiêu:Chính phủ Trần Trọng Kim hoặc đã bị đánh giá thấp hay lãng quên. Khuynh hướng phù thịnh và sự thiếu tài liệu chính xác phần nào gây nên hậu quả này. Ngoài ra, các guồng máy tuyên truyền của các thế lực tảng lờ sự thực lịch sử, bẻ cong dữ kiện theo mục tiêu chính trị giai đoạn. Tuy nhiên, xúc động đã qua và các tài liệu văn khố cùng tư liệu nguyên bản khác đã được mở, chúng ta có thể đánh giá tầm quan trọng lịch sử của chính phủ Kim. Dài theo sự hiện hữu ngắn ngủi, và trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, chính phủ Kim đã tham gia vào việc phát động một cuộc cách mạng từ trên xuống, khởi phát từ cuộc thanh trừng chính quyền Decoux. Hai trong những khía cạnh quan trọng cần nhấn mạnh: Đó là sự kích thích đám đông tham gia sinh hoạt chính trị, và, hiện tượng Việt-Nam-hóa hầu hết các cơ cấu xã hội [...] Dẫu vậy, những thành quả của Kim chẳng phải "chìm nhanh vào sự lãng quên không để lại một dấu vết" Theo Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng:"Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập sau khi Nhật Bản lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp tại Đông Dương vào ngày 9 tháng 3 năm 1945 và tuyên bố trả độc lập cho Việt Nam. Nhưng vì độc lập mà Nhật gọi là trao trả cho Việt Nam rất là giới hạn thành ra việc thành lập chính phủ cũng bị rất nhiều trở ngại. Phải mất trên một tháng từ khi ông Bảo Đại ra tuyên ngôn tuyên bố độc lập vào ngày 11 tháng 3 cho đến ngày 15 tháng tư mới thành lập được chính phủ. Đó là vì Nhật không chấp nhận bất kỳ những nhà chính trị nào dù là thân Nhật mà họ cho rằng có thể có những ước vọng độc lập nhiều hơn là Nhật dành cho.Với an ninh, quốc phòng và kinh tế tài chánh đều nằm trong tay quân đội Nhật, tất cả những gì mà chính phủ Trần Trọng Kim có thể đạt được trong việc giành lại chủ quyền cho Việt Nam thực tế là chỉ có tính cách biểu tượng. Nhưng trong tình huống Đông Dương vào năm chót của thế chiến thứ hai, biểu tượng này đóng một vai trò rất quan trọng. Biết rằng thất bại của Nhật Bản chỉ là một vấn đề thời gian, Trần Trọng Kim và chính phủ của ông đưa ra một chương trình nhằm thay đổi tâm lý người Việt đến mức mà đất nước sẽ không thể trở lại tình trạng thuộc địa nữa một khi chiến tranh chấm dứt... Theo ông Hãn, để đạt được mục tiêu này, họ đề ra ba nhiệm vụ chính. Thứ nhất thương thuyết với Nhật để chuyển nhượng quyền chính trị và kinh tế về cho Việt Nam cũng như là thống nhất đất nước bị Pháp chia thành ba phần, bằng cách đưa Nam Kỳ và các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Tourane trở lại dưới sự cai trị của triều đình Huế. Thứ hai, Việt Nam hóa cơ cấu hành chánh thuộc địa của Pháp bằng cách thay thế các quan chức và chuyên viên Pháp, Nhật với người Việt. Và thứ ba tạo ra trong quần chúng một tinh thần quốc gia mới, một niềm ái quốc mới qua một hệ thống giáo dục hoàn toàn dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy. Theo ông Hoàng Xuân Hãn, họ hy vọng rằng sẽ có được từ một năm đến 18 tháng để thực hiện chương trình này." Nhà sử học, giáo sư Đinh Xuân Lâm:Về phía Nhật Bản, chúng cũng nhanh chóng tìm cách nắm chắc bộ máy cầm quyền "bản xứ" do người Pháp lập ra trước đó, và nay đã hoang mang dao động trước vụ Nhật đảo chính Pháp. Chúng bày trò "trao trả độc lập" để làm áp lực buộc vua Bảo Đại ký đạo Dụ số 1 "cải tổ bộ máy triều đình cho phù hợp với tình hình mới". Ngày 19 - 3, viện Cơ mật mới được thành lập trước đó (6-3) do Phạm Quỳnh đứng đầu xin từ chức, Nhật đưa Trần Trọng Kim từ Băng Cốc (Thái Lan) về Sài Gòn, rồi ra Huế gặp Bảo Đại và nhận đứng ra lập nội các mới. Ngày 17/4, nội các Trần Trọng Kim ra mắt. Ngày 4/5, nội các họp phiên đầu tiên, ngày 8/5 bệ kiến Bảo Đại và ra tuyên cáo chính thức. Nội các Trần Trọng Kim với thành phần là những trí thức có tên tuổi - trong số đó phải kể tới một số nhân vật tiêu biểu của nước ta trước năm 1945, có uy tín đối với nhân dân, như Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo, Phan Anh,…họ đều là giáo sư, luật gia, nhà báo chưa hề dính líu với bộ máy quan trường, trước đó lại từng có nhiều hoạt động thể hiện có tư tưởng yêu nước, có tinh thần dân tộc nên được nhiều người ngưỡng mộ - cũng đã làm cho một bộ phận nhân dân có phần tin tưởng, đặt hy vọng vào. Thủ đoạn của bọn cầm quyền Nhật là triệt để lợi dụng bộ máy chính quyền do chúng mới dựng lên để lũng đoạn tình hình có lợi cho chúng, chúng chỉ muốn có một chính phủ bù nhìn hoàn toàn để thi hành mọi ý định của chúng. Mặc dù vậy, nội các Trần Trọng Kim vượt qua bao khó khăn từ nhiều phía, chủ yếu là từ Nhật, với lời hứa hẹn "phấn đấu cho Việt Nam thành một quốc gia độc lập" và với những công tác lớn được đưa vào chương trình hành động như "Giải quyết nạn đói", "Thống nhất chủ quyền lãnh thổ"… là những yêu cầu cấp bách của tình hình lúc đó, cũng đã đáp ứng một phần lòng mong mỏi của quốc gia...Theo lời thuật của Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Thanh niên của Đế quốc Việt Nam:Lúc ấy, những công chức người Pháp vẫn tiếp tục làm việc. Nhưng họ có mưu mô. Ngoan ngoãn cúi đầu trước Nhật. Thâm ý là chờ đợi xem thế nào? Chờ đợi một cách tích cực. Cụ thể là: Chịu sự sai bảo của ông chủ mới để được ngồi lỳ trong bộ máy hành chánh. Trong phủ Toàn quyền, trong phủ Thống sứ: toàn là người Pháp. Họ đã mất con bài chính trị, thì phải giữ con bài hành chính... Chắc chắn Nhật chóng hay chầy sẽ đầu hàng. Giữ chặt các chức vụ hành chánh để còn có vai trò trong tương lai. Bên cạnh trận địa hành chánh, lại còn trận địa kín nữa chứ... Tôi với tư cách người yêu nước, tôi đã quan sát tình hình ấy. Chúng tôi không muốn bị cả người Pháp lẫn người Nhật đánh lừa mình. Nhóm trí thức chúng tôi không phải một đảng mà là một nhóm, chúng tôi nghĩ rằng nhiệm vụ cấp bách là phải đuổi bọn Pháp ra khỏi bộ máy hành chính. Chúng tôi huy động sinh viên, thanh niên công chức làm việc đó. "Khẩu hiệu thứ hai của chúng tôi là tạm thời ngồi làm việc với người Nhật, nhưng không là "đồng tác giả" (co-auteurs), không phải là "kẻ hợp tác" với họ; phải giữ thế trung lập...." Lấy tư cách là thành viên của chính phủ Trần Trọng Kim, tôi nói với ông rằng chúng tôi tuyệt đối không có ảo vọng gì về người Nhật. Tình thế đã dứt khoát rồi. Phải là kẻ điên mới đi hợp tác với Nhật. Có những người điên, nhưng chúng tôi là trí thức, chúng tôi tham gia chính phủ là để phụng sự. Chính với chính sách ấy mà chúng tôi đã thành lập chính phủ với khẩu hiệu như vừa nói là: Đuổi cổ bọn Pháp và nắm lấy độc lập.... Chính phủ Trần Trọng Kim với tất cả bộ trưởng cùng theo đuổi một mục đích như tôi; đã tự vạch ra đường lối chung cho mình mà tôi vừa phác lại để ông thấy rõ. Chính phủ ấy khi ra đời đã tự coi như một mắt xích lâm thời, tôi có thể nói hẳn ra là, theo tôi nhận định, như một công cụ phục vụ cho sự nghiệp giành độc lập. Chúng tôi không coi chính mình là những người' lãnh đạo phong trào, lãnh đạo đất nước, mà là những công cụ, những tay chân của công cuộc đấu tranh dân tộc. Và do đó sự chuyển tiếp từ chính phủ Trần Trọng Kim đến nền cộng hòa trong Cách mạng tháng Tám diễn ra một cách tự nhiên suôn sẻ nữa cơ. Tôi có thể nói với ông rằng với tư cách bộ trưởng, chúng tôi trăm phần trăm ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất cả, kể cả Thủ tướng Trần Trọng Kim. Đã có sự nhất trí toàn vẹn, sâu sắc về sự chuyển tiếp ấy. Trong báo Cờ giải phóng (số 13), nhà sử học Trần Văn Giàu phân tích: "Nội các Trần Trọng Kim không có những tên Việt gian nổi tiếng ở trong. Giặc Nhật không dám cho những tên chó săn quá lộ lên "cầm quyền", e mất tín nhiệm với dân. Nhưng dù giặc Nhật có giở trò gì chúng cũng không lừa phỉnh được dân ta. Rồi đây, nội các Trần Trọng Kim có làm được công chuyện gì đáng kể không? Nhất định không! Thân phận là bù nhìn, nó chỉ có thể giữ việc bù nhìn. Phương châm của nó là: Hứa hẹn thật nhiều, thực hành rất ít hay thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là bọc nhung vào ách Nhật Bản đầu độc đồng bào. Thái độ của nó là: Ca ngợi giặc Nhật, vào hùa với giặc áp bức bóc lột nhân dân. Cho nên, thấy Nhật thu thóc, nó câm miệng. Thấy Nhật tăng thuế, nó gật đầu. Thấy Nhật bắn giết, nó làm thinh. Giúp Nhật bắt lính, bắt phu, nó hô hào đi lính, đi phu cho Nhật" Chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh là không ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, không thỏa hiệp với chúng. Chủ trương của Đảng Cộng sản là vạch mặt chính phủ Trần Trọng Kim, đánh đổ nó, trong lúc đó thì ta ngó thấy rằng kẻ thù chính là quân phiệt Nhật, bố đẻ của chính phủ Trần Trọng Kim" Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Ba, nhận xét rằng "nền độc lập" của Đế quốc Việt Nam rõ ràng chỉ là giả hiệu bởi những lý do sau: Một nước độc lập phải có một Chính phủ được toàn dân bầu ra, có bộ máy Nội các đầy đủ, hoàn toàn độc lập. Đế quốc Việt Nam thì hoàn toàn không có Quốc hội, không có Hiến pháp và cũng không do nhân dân bầu cử ra, sự ra đời của nó là từ toan tính của Đế quốc Nhật Bản. Chính phủ này cũng không có Bộ Quốc phòng, không có quân đội, không có Bộ Công an, việc giữ an ninh quốc gia, tuyên truyền do quân Nhật nắm giữ. Chính phủ Trần Trọng Kim đã để mặc (hoặc không dám ngăn cản) quân Nhật vơ vét lương thực của người dân, gây ra nạn đói kinh hoàng làm chết hơn 2 triệu người ở nhiều tỉnh miền Bắc. Câu nói cuối cùng trong bản Tuyên cáo là "Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên", tự điều đó cho thấy chính phủ này phải lệ thuộc chặt chẽ vào Đế quốc Nhật Bản Ngày 25/8/1945, Bảo Đại đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước hàng ngàn người tại Ngọ Môn, sau đó trao ấn tín cho đại diện Việt Minh là ông Trần Huy Liệu. Bảo Đại nói: "Trẫm muốn làm dân một nước độc lập, hơn làm Vua một nước bị trị". Câu nói này chứng tỏ Bảo Đại thừa nhận trước đó nước Việt Nam chưa có được độc lập, và chính Bảo Đại đã "khai tử" bản Tuyên ngôn Độc lập giả hiệu mà ông phải đọc từ sức ép của đế quốc Nhật. Chính cựu hoàng Bảo Đại cũng đã viết cho Chính phủ Pháp vào tháng 12-1945: "Năm 1940, Chính phủ Pháp ở Đông Dương đã hiến một cách vô sỉ đất đai của chúng tôi cho phát xít Nhật, nhưng chúng tôi đã giành được nền độc lập hoàn toàn ngày 2 tháng 9 năm 1945" Trong thư viết ngày 8/5/1947 tại Sài Gòn gửi học giả Hoàng Xuân Hãn, ông Trần Trọng Kim nói về sự yếu ớt và bất lực của Đế quốc Việt Nam năm 1945, và vai trò tiếp quản của Việt Minh như sau: ''"Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng ái quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi, thành ra tranh giành nhau, nghi kỵ nhau rồi lăng mạ lẫn nhau... Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà mình thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái địa vị bàng quan mà thôi... Tôi vẫn biết việc chống Pháp chỉ có Việt Minh mới làm nổi... Nay Việt Minh đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất là có cái thanh thế rất mạnh...".
Bourgogne (/ˈbɜːrɡəndi/; tiếng Pháp: Bourgogne [buʁɡɔɲ] ) là một lãnh thổ lịch sử và khu vực hành chính cũ và tỉnh của miền trung đông nước Pháp. Tỉnh này từng là quê hương của Công tước xứ Bourgogne từ đầu thế kỷ 11 cho đến cuối thế kỷ 15. Thủ đô Dijon là một trong những trung tâm nghệ thuật và khoa học lớn của châu Âu, một nơi giàu có và quyền lực to lớn, và Chủ nghĩa tu viện phương Tây. Vào thời kỳ đầu của Châu Âu Hiện đại, Bourgogne là tâm điểm của văn hóa cung đình, tạo nên phong cách thời trang cho các hoàng gia Châu Âu và triều đình của họ. Công quốc Bourgogne là chìa khóa trong quá trình chuyển đổi thời Trung cổ sang châu Âu thời kỳ đầu hiện đại. Sau sự phân chia vào thế kỷ thứ 9 của Vương quốc Burgundia, các vùng đất và tàn tích được phân chia cho Vương quốc Pháp đã bị Vua Robert II của Pháp giảm xuống cấp bậc công tước vào năm 1004. Nhà Bourgogne, một chi nhánh của Nhà Capet, cai trị một lãnh thổ gần giống với biên giới và lãnh thổ của khu vực hành chính hiện đại Bourgogne. Sau sự tuyệt chủng của dòng dõi nam Burgundian, công quốc được trao lại cho Vua Pháp và Nhà Valois. Sau cuộc hôn nhân của Philip xứ Valois và Margaret III của Flanders, Công quốc Burgundy được sáp nhập vào Nhà nước Bourgogne cùng với các bộ phận của Các quốc gia thấp sẽ được gọi chung là Hà Lan Bourgogne. Sau khi tiếp tục mua lại Hạt Bourgogne, Hà Lan và Luxembourg, Nhà Valois-Bourgogne đã sở hữu nhiều thái ấp của Pháp và đế quốc trải dài từ dãy núi Alps phía tây đến Biển Bắc, theo một cách nào đó gợi nhớ đến vương quốc Lotharingia của người Frank ở Trung cổ. Nhà nước Bourgogne, theo đúng nghĩa của nó, là một trong những lãnh thổ công tước lớn nhất tồn tại vào thời điểm xuất hiện của Châu Âu thời kỳ đầu hiện đại. Nó được coi là một trong những cường quốc của thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16. Công tước xứ Bourgogne nằm trong số những hoàng tử giàu có và quyền lực nhất ở châu Âu và đôi khi được gọi là "Đại công tước của phương Tây". Thông qua tài sản của mình, Nhà nước Burgundian là một trung tâm thương mại và thương mại lớn của châu Âu. Sự diệt vong của vương triều đã dẫn đến việc Vua Louis XI sáp nhập công quốc vào các vương quốc của Pháp, trong khi phần lớn tài sản của người Bourgogne ở Các quốc gia thấp được chuyển cho con gái của Công tước Charles the Bold, Mary, và con cháu nhà Habsburg của bà. Do đó, sự phân chia di sản Burgundy đã đánh dấu sự khởi đầu của cuộc cạnh tranh Pháp-Habsburg kéo dài hàng thế kỷ và đóng một vai trò then chốt trong nền chính trị châu Âu rất lâu sau khi Bourgogne đã mất vai trò là một bản sắc chính trị độc lập. Từ nguyên học Nó được đặt tên theo người Burgundi, một dân tộc Đông Đức đã di cư về phía tây bên kia sông Rhine vào cuối thời kỳ La Mã. Cái tên Bourgogne trong lịch sử có nghĩa là nhiều thực thể chính trị. Nó xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 9 với tư cách là một trong những người kế vị của Vương quốc Burgundy cổ đại, sau cuộc chinh phục vào năm 532 đã hình thành một bộ phận cấu thành của Đế chế Frankish. Kể từ khi thành lập hệ thống tỉnh của Pháp vào năm 1790, Bourgogne đã đề cập đến khu vực địa lý bao gồm bốn tỉnh Côte-d'Or, Saône-et-Loire, Yonne và Nièvre. Lịch sử Những cư dân đầu tiên được ghi nhận của khu vực sắp trở thành Bourgogne là nhiều bộ tộc Gallic Celts, nổi bật nhất trong số đó là Aedui bán cộng hòa, những người cuối cùng được sáp nhập vào Đế chế La Mã sau thất bại của Gaulish trong Trận Alesia. Văn hóa Gallo-Roman phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ La Mã. Trong thế kỷ thứ 4, người Bourgogne, một tộc người Đức có thể có nguồn gốc từ đảo Bornholm thuộc vùng Baltic, đã định cư ở phía tây dãy núi Alps. Họ đã thành lập Vương quốc của người Bourgogne, vương quốc này đã bị chinh phục vào thế kỷ thứ 6 bởi một bộ tộc người Đức khác, người Frank. Dưới sự thống trị của người Frank, Vương quốc Bourgogne tiếp tục tồn tại trong nhiều thế kỷ. Sau đó, khu vực này được phân chia giữa Công quốc Burgundy (ở phía tây) và Hạt Bourgogne Tự do (ở phía đông). Công quốc Bourgogne được biết đến nhiều hơn trong số hai, sau này trở thành tỉnh Bourgogne của Pháp, trong khi Hạt Bourgogne trở thành tỉnh Franche-Comté của Pháp. Sự tồn tại hiện đại của Bourgogne bắt nguồn từ sự tan rã của Đế chế Frankish. Vào những năm 880, có bốn Bourgogne: công quốc, hạt và các vương quốc Thượng Bourgogne và Hạ Bourgogne. Trong thời Trung cổ, Bourgogne là quê hương của một số nhà thờ và tu viện quan trọng nhất của phương Tây, bao gồm cả những nhà thờ và tu viện ở Cluny, Cîteaux và Vézelay. Cluny, được thành lập vào năm 910, đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ ở châu Âu trong nhiều thế kỷ. Tu viện Cistercian đầu tiên được thành lập vào năm 1098 tại Cîteaux. Trong thế kỷ tiếp theo, hàng trăm tu viện Cistercian được thành lập trên khắp châu Âu, một phần lớn là do sức hút và ảnh hưởng của Bernard of Clairvaux. Tu viện Fontenay, Di sản Thế giới được UNESCO công nhận, ngày nay là tu viện Xitô được bảo tồn tốt nhất ở Bourgogne. Tu viện Vézelay, cũng là Di sản Thế giới được UNESCO công nhận, vẫn là điểm khởi đầu cho các cuộc hành hương đến Santiago de Compostela. Cluny gần như bị phá hủy hoàn toàn trong Cách mạng Pháp. Trong Chiến tranh Trăm năm, Vua John II của Pháp đã trao công quốc cho con trai út của ông, Philip the Bold. Công quốc nhanh chóng trở thành đối thủ lớn của vương miện. Triều đình ở Dijon vượt trội hơn triều đình Pháp cả về kinh tế và văn hóa. Cháu trai của Phillip the Bold Philip Tốt bụng đã mua lại Namur, Hainaut, Brabant và Holland ở Bỉ và Hà Lan hiện đại. Năm 1477, trong trận chiến Nancy trong Chiến tranh Burgundian, công tước cuối cùng Charles the Bold đã bị giết trong trận chiến, và bản thân Công quốc đã bị Pháp sáp nhập và trở thành một tỉnh. Tuy nhiên, phần phía bắc của đế chế đã bị Habsburgs Áo chiếm giữ. Với cuộc Cách mạng Pháp vào cuối thế kỷ 18, các đơn vị hành chính của các tỉnh đã biến mất, nhưng được tái lập thành các khu vực dưới thời Đệ ngũ Cộng hòa vào những năm 1970. Khu vực hành chính ngày nay bao gồm hầu hết các công quốc trước đây. Vào năm 2016, Bourgogne và khu vực lịch sử Franche-Comté đã sáp nhập cho các mục đích hành chính thành khu vực mới Bourgogne-Franche-Comté. Văn hoá Xem thêm: Rượu vang Bourgogne Bourgogne là một trong những vùng sản xuất rượu vang chính của Pháp. Nó nổi tiếng với cả rượu vang đỏ và trắng, chủ yếu được làm từ nho đen Pinot noir và Chardonnay, mặc dù có thể tìm thấy các giống nho khác, bao gồm Gamay, Aligote, Pinot blanc và Sauvignon blanc. Khu vực này được chia thành Côte-d'Or, nơi có những loại rượu Bourgogne đắt tiền và được đánh giá cao nhất, và Beaujolais, Chablis, Côte Chalonnaise và Mâcon. Danh tiếng và chất lượng của những loại rượu vang hàng đầu, cùng với thực tế là chúng thường được sản xuất với số lượng ít, đã dẫn đến nhu cầu cao và giá cao, với một số loại rượu vang Bourgogne được xếp hạng trong số những loại rượu đắt nhất thế giới. Về ẩm thực, vùng này nổi tiếng với mù tạt Dijon, thịt bò Charolais, gà Bresse, món coq au vin của người Bourgogne và rượu bourguignon bò, và pho mát époisses. Các địa điểm du lịch của Bourgogne bao gồm Rock of Solutré, Nhà tế bần Beaune, Cung điện Ducal ở Dijon, và nhiều lâu đài, lâu đài, nhà thờ và tu viện thời Phục hưng và Trung cổ. Trước đó, phần phía đông nam của Bourgogne là khu công nghiệp nặng nề, với các mỏ than gần Montceau-les-Mines và các xưởng đúc sắt và pha lê ở Le Creusot. Những ngành công nghiệp này đã suy giảm trong nửa sau của thế kỷ XX. Phương ngữ địa phương được gọi là Burgundian (Bourguignon); nó là một ngôn ngữ Oïl tương tự như tiếng Pháp tiêu chuẩn nhưng có một số ảnh hưởng của Pháp-Provençal và Hà Lan. Địa lý Vùng Bourgogne vừa lớn hơn Công quốc Bourgogne cũ vừa nhỏ hơn vùng do Công tước xứ Bourgogne cai trị, từ Hà Lan hiện đại đến biên giới Auvergne. Ngày nay, Bourgogne được tạo thành từ các tỉnh cũ: Bourgogne: Côte-d'Or, Saône-et-Loire, và nửa phía nam của Yonne. Điều này tương ứng với công quốc Bourgogne cũ (sau này được gọi là tỉnh Bourgogne). Tuy nhiên, quận cũ Bourgogne (sau này được gọi là tỉnh Franche-Comté) không nằm trong vùng Bourgogne, nhưng nó tạo nên vùng Franche-Comté. Ngoài ra, một phần nhỏ của công quốc Bourgogne (tỉnh Bourgogne) hiện nằm trong vùng Champagne-Ardenne. Nivernais: nay là tỉnh Nièvre. nửa phía bắc của Yonne là một lãnh thổ không thuộc Bourgogne (ít nhất là không phải từ thế kỷ 11), và là biên giới giữa Champagne, Île-de-France và Orléanais, là một phần của mỗi tỉnh này vào những thời điểm khác nhau trong lịch sử. Cộng đồng lớn Autun Auxerre Avallon Beaune Chalon-sur-Saône Dijon Le Creusot Mâcon Montceau-les-Mines Nevers Paray-le-Monial Sens Khí hậu Khí hậu của khu vực này về cơ bản là khí hậu đại dương (Cfb trong phân loại Köppen), với ảnh hưởng lục địa (đôi khi được gọi là "khí hậu nửa lục địa").
Cổ đông (tiếng Anh: Shareholder) là cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp một phần hay toàn bộ phần vốn góp (cổ phần) của một công ty cổ phần. Chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu này gọi là cổ phiếu. Về bản chất, cổ đông là thực thể đồng sở hữu công ty cổ phần chứ không phải là chủ nợ của công ty đó do vậy quyền lợi và nghĩa vụ của họ gắn liền với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Các loại cổ đông Các loại cổ đông thường được phân biệt bằng quyền cũng như nghĩa vụ gắn liền với loại cổ phiếu mà họ sở hữu. Cổ đông sáng lập: là những cổ đông đầu tiên góp vốn để hình thành nên công ty cổ phần. Cổ đông đặc biệt: là cổ đông (thường là Nhà nước) mặc dù chỉ nắm một số lượng cổ phần rất ít ỏi chỉ mang tính chất tượng trưng nhưng có quyền phủ quyết trong một số quyết sách quan trọng (được quy định trong điều lệ công ty) của công ty cổ phần. Loại cổ đông này còn gọi là cổ đông ưu đãi biểu quyết và loại cổ phần mà cổ đông đặc biệt nắm giữ gọi là cổ phần vàng Cổ đông ưu đãi: là những cổ đông được ưu tiên một quyền nào đó (thường là quyền hưởng một tỷ lệ cổ tức cố định trước khi lợi nhuận được phân phối cho các cổ đông khác, quyền nhận lại giá trị của cổ phần khi có yêu cầu). Đi kèm với quyền ưu tiên, cổ đông ưu đãi thường bị hạn chế các quyền khác (ví dụ quyền ứng cử vào bộ máy quản trị của công ty, quyền biểu quyết...). Cổ đông phổ thông: là các cổ đông nắm giữ cổ phần phổ thông. Một cách phân loại khác là căn cứ tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ, theo cách này cổ đông được phân loại thành cổ đông lớn và cổ đông thiểu số. Tỷ lệ để có thể coi là cổ đông lớn thường do điều lệ công ty cổ phần quy định trên cơ sở tuân thủ luật pháp. Quyền cơ bản của cổ đông Quyền bỏ phiếu: Với số cổ phiếu tương ứng, cổ đông có thể bỏ phiếu hay thông qua đại diện do cổ đông uỷ quyền một cách hợp pháp để bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của công ty cổ phần như đường lối, chiến lược kinh doanh, phân phối lợi nhuận, tăng hoặc giảm vốn điều lệ....trong kỳ họp (hoặc lấy ý kiến bằng văn bản) đại hội đồng cổ đông. Những vấn đề phải do đại hội đồng cổ đông quyết định được quy định trong bản điều lệ của công ty. Quyền nhận cổ tức từ lợi nhuận của công ty; nhận phần giá trị tài sản còn lại của công ty khi công ty giải thể hoặc phá sản. Tỷ lệ nhận tương ứng với tỷ lệ cổ phần của cổ đông. Khi công ty phá sản, giải thể, cổ đông chỉ có thể được nhận giá trị tài sản còn lại của công ty sau khi công ty đã thực hiện thanh toán các khoản nợ: nộp thuế, trả lương cho người lao động, trả nợ vay, trả nợ cho đối tác cung ứng hàng hóa, dịch vụ..... Nói một cách khác, quyền của cổ đông đối với tài sản của công ty cổ phần có thứ tự ưu tiên xếp sau các chủ nợ của công ty đó. Quyền lựa chọn: lựa chọn mua thêm cổ phần của công ty khi công ty tăng vốn điều lệ, chuyển đổi cổ phần ưu đãi thành cổ phần thường... Quyền chuyển nhượng cổ phần mình đang nắm giữ, một số cổ đông như cổ đông sáng lập... có thể bị hạn chế thực hiện quyền này bởi một số điều kiện.
Île-de-France (tạm dịch: Đảo Pháp) là vùng thủ đô của nước Pháp, bao gồm 8 tỉnh: Essonne, Hauts-de-Seine, Paris, Seine-Saint-Denis, Seine-et-Marne, Val-de-Marne, Val-d'Oise, Yvelines. Từ nguyên Mặc dù cái tên hiện đại Île-de-France có nghĩa đen là "Đảo Pháp", nhưng thực tế từ nguyên của nó vẫn chưa rõ ràng. "Đảo" có thể ám chỉ vùng đất nằm giữa các sông Oise, Marne và Seine, hoặc nó cũng có thể là liên quan đến Île de la Cité, nơi có cung điện và nhà thờ hoàng gia Pháp. Ngoài ra, tên này có thể đề cập đến các vùng đất nằm dưới sự cai trị trực tiếp của các vị vua Capetus trong thời Trung cổ; do đó, các vùng đất là một "hòn đảo" trong một vùng biển gồm nhiều lãnh thổ phong kiến ​​khác nhau do các chư hầu của nhà vua cai trị. Lịch sử Lịch sử vùng Île-de-France bắt đầu từ thế kỷ 10 khi được dựng lên bởi Nhà Capet. Biên giới của nó luôn biến đổi cho đến tận thời kỳ 1500 - 1800 (fr). Trong lịch sử vùng này mở rộng về phía Tây nhiều hơn, trong khi phía Bắc hẹp hơn ngày nay, thu hẹp dần về phía đông nam. Vùng này có ý nghĩa thương mại quan trọng; các nhà buôn thường tập trung ở Paris, hình thành dần vùng xung quanh Paris. Đến thế kỷ 17, một lượng lớn dân vùng này di cư đến Nouvelle-France (Québec), đặc biệt là những người filles du Roy Sau cách mạng Pháp, vùng bị phân chia thành ba tỉnh: Seine, Seine-et-Oise và Seine-et-Marne. Vùng được chính thức thành lập sau năm 1945. Việc phi tập trung hóa hành chính được thực hiện từ năm 1964. Năm 1965, với các hoạt động của nhà chính trị Paul Delouvrier lúc đó đang đứng đầu các quận Paris, số tỉnh được tăng từ ba lên tám, bao gồm Paris. Vùng mang tên Île-de-France từ năm 1976. Sau các diễn biến chính trị của năm 1982 tên các tỉnh cũ một lần nữa được củng cố. Hành chính Giáo dục Tại Paris và vùng Île-de-France, bạn có thể tìm thấy tất cả các ngành học được ưa chuộng. Các ngành công nghệ cao là một trong những lĩnh vực nổi bật nhất, đặc biệt là lĩnh vực phần mềm tin học. Trong đó, đại học Paris 6 và ENST (École Nationale Supérieure des Télécommunications) là hai trung tâm đào tạo bậc nhất. Áp dụng công nghệ cao trong y dược và sức khỏe cũng là một điểm mạnh của Île-de-France. Chính vì vậy, bạn hoàn toàn có thể đăng ký một trong rất nhiều chương trình đào tạo sau đại học về sinh hóa, công nghệ sinh học, nghiên cứu gen hay toán tin trong khoa học đời sống. Không những thế, Île-de-France còn đứng đầu trong lĩnh vực hình ảnh và kỹ thuật số. Tại đây bạn có thể tìm thấy rất nhiều chương trình đào tạo phù hợp cho mọi trình độ. Bạn không thể bỏ qua các trường như: ENSCI (École Nationale Supérieure de Création Industrielle) hay ENSAD (École Nationale Supérieure des Arts Décoratifs). Ngoài ra các bạn yêu thích chuyên ngành về hình ảnh có thể đăng ký các chương trình đào tạo BTS tại rất nhiều trường khác của Île-de-France Chính trị Địa lý Vùng này có diện tích 12 072 km², chứa thủ đô của Pháp, Paris (75). Năm 1999, dân số của vùng là 11 triệu người, tức là khoảng 19% dân số Pháp. Giao thông Kinh tế Nhân khẩu học Những cư dân của vùng Île-de-France được gọi là người Franciliens Văn hóa
Keukenhof (nghĩa đen: "vườn nhà bếp", ), còn được gọi là Vườn châu Âu nằm ở Lisse, một thị trấn nhỏ ở phía nam Amsterdam, Hà Lan. Đây là vườn hoa lớn nhất thế giới với diện tích 32 ha và hàng năm trồng khoảng 7 triệu hoa. Keukenhof được biết đến rộng rãi với hoa tulip nhưng vườn cũng có nhiều loài hoa khác, bao gồm lục bình Hyacinthus, thủy tiên, hoa loa kèn, hoa hồng, cẩm chướng và diên vĩ. Keukenhof mở cửa cho khách du lịch bắt đầu từ tuần cuối cùng của tháng 3 đến giữa tháng 5. Vườn hoa này là ý tưởng xuất hiện vào năm 1949 của thị trưởng Lisse khi đó. Ý tưởng này là tạo ra một triển lãm dành cho những người trồng hoa khắp Hà Lan và châu Âu có thể tham gia. Keukenhof được đặt tên "Vườn châu Âu", do từ khi thành lập, nó là vườn hoa lớn nhất thế giới vào dịp mùa xuân ở Bắc bán cầu. Thời điểm ngắm tulip tốt nhất là vào khoảng giữa tháng 4, tùy thuộc vào thời tiết. Keukenhof mở cửa từ 8 giờ sáng đến 7:30 tối, với giá vé khoảng 12,50 euro mỗi người. Nó nằm giữa các thị trấn Hillegom và Lisse, phía nam Haarlem ở Nam Hà Lan, tây nam Amsterdam. Có đường tàu hỏa và xe buýt đến đó. Lịch sử Keukenhof là một khu săn bắn vào thế kỷ 15. Nó cũng là nơi có các loại thảo mộc cung cấp cho nhà bếp của lâu đài Keukenhof, phục vụ cho bá tước Jacoba de Baviere. Sau khi nữ bá tước này qua đời, lâu đài đã thuộc quyền sở hữu của nhiều thương nhân giàu có sau đó. Thống đốc của đội tàu công ty Đông Ấn là Adriaen Maertensz Block đã từng sống ở đó trong những năm ông nghỉ hưu vào thế kỷ 17 trong lâu đài Keukenhof ngày nay mà ông đã để cho xây dựng năm 1641. Trong thế kỷ 19, nam tước và nữ nam tước Van Pallandt giao cho kiến trúc sư cảnh quan là Jan David Zocher và con trai của ông, Louis Paul Zocher, người đã từng làm việc ở Vondelpark, thiết kế các công trình xung quanh lâu đài. Khu vườn được thành lập vào năm 1949 bởi thị trưởng của Lisse. Ý tưởng là để trựng bày một triển lãm hoa ngoài trời, nơi người trồng từ khắp Hà Lan và châu Âu có thể khoe các sản phẩm lai tạo của họ, và giúp các ngành công nghiệp xuất khẩu hoa của Hà Lan phát triển (Hà Lan là nước xuất khẩu hoa lớn nhất thế giới). Keukenhof đã trở thành vườn hoa lớn nhất thế giới sau đó. Hình ảnh Các ảnh dưới đây đều được chụp trong công viên Keukenhof.
Vạn Ninh là một huyện ven biển nằm ở phía bắc tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Địa lý Huyện Vạn Ninh nằm ở phía bắc của tỉnh Khánh Hoà, nằm cách thành phố Nha Trang khoảng 60 km về phía bắc, phía nam dãy Đèo Cả - Vọng Phu, có vị trí địa lý: Phía đông và phía nam giáp Biển Đông Phía tây giáp thị xã Ninh Hòa và huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên Phía bắc giáp thị xã Đông Hòa và huyện Tây Hòa thuộc tỉnh Phú Yên. Huyện Vạn Ninh có diện tích tự nhiên là 550 km², với khoảng 75% là rừng. Tổng dân số là 134.820 người. Dân cư sống chủ yếu bằng nông nghiệp, ngư nghiệp lâm nghiệp và dịch vụ Huyện có một số khoáng sản như cao lanh (ở Xuân Tự), cát trắng (ở Đầm Môn), sa khoáng imenit (ở Vĩnh Yên - Hòn Gốm), đá granit (ở Tân Dân), vàng (ở Xuân Sơn). Đường sắt Bắc - Nam chạy qua các ga Đại Lãnh, Tu Bông và ga Giã trên địa bàn huyện. Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Vân Phong – Nha Trang đi qua đang được xây dựng. Mũi Đôi Mũi Đôi tại bán đảo Hòn Gốm, vịnh Vân Phong, xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa là điểm cực Đông trên đất liền của Việt Nam. Nơi này đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là di tích quốc gia. Tọa độ: . Lịch sử Huyện Vạn Ninh trước kia là huyện Quảng Phước thuộc phủ Thái Khang, được thành lập năm Thịnh Đức thứ nhất (1653), đến năm 1690, phủ Thái Khang đổi thành phủ Bình Khang gồm 2 huyện Quảng Phước và Tân Định. Năm Gia Long thứ hai (1803) phủ Bình Khang đổi thành phủ Bình Hòa. Năm Minh Mạng thứ mười hai (1831), phủ Bình Hòa lại đổi thành phủ Ninh Hòa, gồm các tổng: Phước Tường Ngoại, Phước Tường Nội, Phước Thiện, Phước Hà Nội, Phước Hà Ngoại, Phước Khiêm. Sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, Pháp đã mở đường 21, nối liền Buôn Ma Thuột với huyện Tân Định và cảng Hòn Khói, nền kinh tế Tân Định trở nên phồn thịnh. Pháp lại đổi tên huyện Tân Định thành phủ Ninh Hòa, cắt 3 tổng của huyện Quảng Phước là Phước Khiêm, Phước Hà Nội, Phước Hà Ngoại nhập vào phủ Ninh Hòa (thị xã Ninh Hòa ngày nay). Huyện Quảng Phước cũ đổi thành huyện Vạn Ninh ngày nay. Từ năm 1945 trở về trước, huyện Vạn Ninh có 3 tổng: Phước Tường Nội, Phước Tường Ngoại, Phước Thiện. Đầu năm 1946, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương thành lập đơn vị hành chính cấp xã, huyện Vạn Ninh thành lập được 8 xã. Phước Thiện có 3 xã: Phước Đông, Phước Trung, Phước Tây; Phước Tường Nội có 3 xã: Đồng Xuân, Đồng Tiến, Đồng Hòa; Phước Tường Ngoại có 2 xã: Liên Hưng, Liên Hiệp. Đến năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cắt tổng Phước Thiện nhập vào huyện Ninh Hòa. Năm 1976, Vạn Ninh và Ninh Hòa hợp nhất thành huyện Khánh Ninh thuộc tỉnh Phú Khánh. Ngày 23 tháng 10 năm 1978, Chính phủ ra Quyết định số 268-CP thành lập thị trấn Vạn Giã thuộc huyện Khánh Ninh. Năm 1979, Khánh Ninh lại được tách ra làm 2 huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh cho đến ngày nay. Huyện Vạn Ninh gồm thị trấn Vạn Giã và 9 xã: Vạn Bình, Vạn Hưng, Vạn Khánh, Vạn Long, Vạn Lương, Vạn Phú, Vạn Phước, Vạn Thắng, Vạn Thạnh. Ngày 30 tháng 9 năm 1981, chia xã Vạn Phước thành 2 xã: Vạn Phước và Vạn Thọ. Ngày 13 tháng 9 năm 1985, chia xã Vạn Thọ thành 2 xã: Vạn Thọ và Đại Lãnh. Ngày 15 tháng 4 năm 1986, chia xã Vạn Hưng thành 2 xã: Vạn Hưng và Xuân Sơn. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Khánh Hòa được tái lập từ tỉnh Phú Khánh, huyện Vạn Ninh thuộc tỉnh Khánh Hòa. Tháng 12 năm 1993, Nghị quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa IX điều chỉnh ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, thôn Vũng Rô (thuộc xã Đại Lãnh) được tách ra khỏi huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa để sáp nhập vào xã Hòa Xuân, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (nay thuộc xã Hòa Xuân Nam, thị xã Đông Hòa). Huyện Vạn Ninh có 1 thị trấn và 12 xã như hiện nay. Ngày 22 tháng 9 năm 2010, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 855/QĐ-BXD công nhận thị trấn Vạn Giã là đô thị loại IV. Hành chính Huyện Vạn Ninh có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Vạn Giã (huyện lỵ) và 12 xã: Đại Lãnh, Vạn Bình, Vạn Hưng, Vạn Khánh, Vạn Long, Vạn Lương, Vạn Phú, Vạn Phước, Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Vạn Thọ, Xuân Sơn. Du lịch Huyện Vạn Ninh có các thắng cảnh du lịch như: bãi biển Đại Lãnh và vịnh Vân Phong. Bãi biển Đại Lãnh nằm dưới chân đèo Cả, có một bờ biển thoải dài, cát trắng mịn, nước trong xanh, đã là điểm du lịch từ nhiều năm. Bãi biển này vào năm 1836 đã được vua Minh Mạng chọn làm biểu tượng khắc trên một trong 9 đỉnh đồng đặt trước Thế Miếu ở Huế. Mũi Hòn Đôn trên bán đảo Hòn Gốm là điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam. Vịnh Vân Phong chỉ mới vừa được phát hiện tiềm năng. Vịnh có phần đất vươn ra biển Đông xa nhất Việt Nam. Với độ sâu trung bình 20-27 mét và ưu thế kín gió, gần đường hàng hải quốc tế, vịnh được quy hoạch thành cảng nước sâu để giao thương quốc tế, đặc biệt như trung chuyển dầu khí của Việt Nam. Đồng thời với ưu điểm về sự trong sạch, yên tĩnh và nét sơ khai, hoang dã, vịnh cũng được phát triển thành một điểm du lịch nghỉ dưỡng cho các du khách nước ngoài. Vịnh được Hiệp hội Du lịch thế giới (WTO) và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đánh giá là khu du lịch nhiệt đới phức hợp với bãi tắm đẹp. Hiện nơi đây cũng đang chuẩn bị cho việc xây dựng Đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong. Nhân Vật Ưu Tú * Phó tướng Trần Đường (?-?) người tập hợp nhân dân theo lời hiệu triệu của vua Hàm Nghi đánh Pháp trên địa phận tỉnh Khánh Hòa, ông là phó tướng của phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa Hòa thượng Thích Quảng Đức
Thác nước là chỗ dòng suối, dòng sông có nước chảy từ trên cao xuống dưới thấp, với góc nghiêng lớn, tốc độ nước chảy xiết, có thể tạo ra sóng nước và xoáy nước. Sự hình thành và cấu tạo Những loại thác nước Thác nhiều tầng. Loại Thác nước này có dòng nước lớn chảy qua nhiều bậc, tầng đá liên tiếp nhau. Thác nước lớn. Những thác nước khổng lồ, do những dòng sông lớn tạo nên khi chảy qua vùng địa hình phức tạp. Những thác nước lớn Thác nước ở Việt Nam Cũng như các nước phát triển và các nước đang phát triển khác trên thế giới, các thác nước lớn ở Việt Nam được vận dụng làm nguồn năng lượng chạy các nhà máy thủy điện. Hình ảnh
Thác Gia Long hay còn gọi là Đray Sáp Thượng một thác nước trên sông Serepôk thuộc địa phận xã Dray Sáp, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk và xã Đắk Sôr, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông. Địa điểm Cách thác Gia Long chừng 3 km về phía hạ nguồn là thác Đray Sáp và thác Đray Nu, phía dưới nữa là thác Trinh Nữ tại Serepok, thuộc tỉnh Đăk Nông. Thác Gia Long cao khoảng 30m, rộng khoảng 100m. Phía thượng nguồn sông cỡ hơn 2 km là Thủy điện Buôn Kuốp . Theo lời kể của nhân dân địa phương, tên thác gắn với việc Nguyễn Ánh (Gia Long) chạy trốn nhà Tây Sơn đến đây. Tuy nhiên Có thuyết cho rằng tên thác là do Bảo Đại đặt khi ông đến đây du ngoạn. Vì nó gắn với giai đoạn lịch sử vua Bảo Đại xây dựng hàng loạt khu nghỉ dưỡng, biệt thự ở Tây Nguyên và đặt tên các địa điểm tham quan theo tên của các vị vua. Đặc điểm Thác Gia Long là một thác nước đẹp trong hệ thống thác trên sông Serepốk do cảnh quan ở đây rất hùng vĩ và hoang sơ. Ở thác Gia Long có một đường hầm nhân tạo thông giữa các con đường xung quanh, có những mố cầu treo được người Pháp xây dựng từ những năm 30, những kè đá chắn lũ đẹp nhất Việt Nam cũng được xây cùng thời điểm. Hiện nay người ta đã nắn dòng thác về hướng khác vì lý do xây dựng thủy điện trên thượng nguồn nên hình ảnh dòng thác không còn đúng. Hình ảnh Chú thích
Thác Ialy, hay Jrai-li hoặc Yali, (phát âm:/za li/) là thác trên Krông B'Lah ở ranh giới huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum và huyện Chư Păh tỉnh Gia Lai, Việt Nam . Hiện tại thác đã được ngăn lại để xây dựng Nhà máy Thủy điện Ialy. Vị trí Thác Ialy trên Krông B'Lah (hay Đăk Bla) ở ranh giới xã Ya Ly huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum và xã Ia Mơ Nông huyện Chư Păh tỉnh Gia Lai . Thác Ialy từng là một trong những thác nước lớn nhất Việt Nam. Vào thập niên 1950 thác đo được 42 mét . Mặc dù có nhiều cách ghi tên khác nhau, nhưng cách gọi thông dụng là Yaly. Nó được lý giải bởi truyền thuyết truyền khẩu về mối tình bi kịch của đôi trai gái người Jrai là chàng Rốc và nàng H’Li. Yali nghĩa là "nước mắt nàng H’Li" đã chết vì khóc thương người yêu không trở về, dòng nước mắt của nàng chảy thành thác. Chỉ dẫn
Thác Trinh Nữ là một thác nước trên dòng sông Krông Nô - một phụ lưu của sông Sêrêpôk, thuộc huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông. Sông Krông Nô là ranh giới tỉnh Đăk Nông với tỉnh Đắk Lắk. Địa điểm Thác nằm cách trung tâm huyện Cư Jút khoảng 3 km, và cách thành phố [[Buôn Ma Thuột] khoảng 20 km theo quốc lộ 14. Hiện thác đang được công ty Du lịch Đắk Lắk tổ chức khai thác với nhiều các dịch vụ du lịch đa dạng kèm theo. Về tên thác Tương truyền rằng cái tên của thác “Trinh Nữ” được bắt nguồn từ một câu chuyện dân gian kể về tình yêu của một thiếu nữ bản địa. Vì tình yêu trắc trở, cô đã gieo mình xuống dòng nước để giữ trọn tình yêu. Cảm động trước hành động của cô gái, người dân quanh vùng đã đặt tên thác là “Trinh Nữ”. Cũng có một huyền thoại khác là hàng năm đều có một cô gái chết đuối ở đây và người ta chiêm nghiệm thấy rất đúng (Thực chất do đây là một đoạn sông rất nguy hiểm, những tảng đá lớn và dòng sông chảy xiết làm nên nét riêng của thác chính là những cái bẫy chết người khiến hàng năm ở đây đều có người chết đuối). Đặc điểm Thác Trinh Nữ không phải là một thác đẹp do không có dòng thác đổ từ trên cao xuống vì thực chất đây chỉ là một ghềnh sông có dòng chảy tương đối hiền hòa vào mùa khô nhưng thật hung dữ vào mùa mưa Tây nguyên. Thác rất đặc biệt với những tảng đá bazan dạng cột to lớn màu đen có tuổi địa chất từ 2 đến 5 triệu năm giữa dòng sông hoặc nhô ra từ bờ. Hiện nay Bảo tàng Địa chất đang tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xin Chính phủ Việt Nam công nhận khu vực đá bazan ở thác Trinh Nữ là di sản địa chất và tiến hành xây dựng một công viên địa chất tại đây. Đây cũng là một địa điểm du lịch được tổ chức khai thác và đầu tư tương đối tốt nhất trong vùng.
Thác Hang Cọp là một thác nước thuộc thành phố Đà Lạt. Thác có chiều cao khoảng 50 mét. Nằm cách quốc lộ 20b khoảng 2,7 km về phía đông, thuộc ấp Túy Sơn, xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt. Tên gọi Thác có nhiều tên gọi khác nhau như: Thác Đạ Sar, Long Nhân, Hang Cọp, Thác Ông Thuận, Thiên Thai... Dưới thác có một cái hang trong tảng đá lớn người ta đồn rằng nơi đây ngày xưa là nơi trú ngụ của một con cọp cho nên mới lấy hang cọp mà đặt tên cho thác. Miêu tả Thác nằm cách quốc lộ 20b khoảng 2,7 km về phía đông, thuộc ấp Túy Sơn, xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt, xa khu vực dân cư 3 km, nằm trong khu rừng thông với diện tích 308 ha, chiều cao thác khoảng 50 m, dài 500 m. Trên đỉnh ngọn thác có một chiếc cầu treo giăng ra đón khách. Thiên nhiên quanh thác Hang Cọp hiện nay vẫn còn giữ được vẽ nguyên thủy sơ khai. Xung quanh thác có rừng thông đặc chủng và rừng hỗn giao khá xanh tốt thích hợp cho các chuyến du lịch dã ngoại. Hiện nay, gần thác Hang Cọp có tượng dũng sĩ người Chi’ll K'ho đang giương nỏ bắn cọp và tượng "chúa tể sơn lâm", cao khoảng 5m, dài 10m nằm trong khuôn viên của thác. Nguồn tham khảo
Sông Tây Dvina hay Daugava (tiếng Nga: Западная Двина́, tiếng Belarus: Заходняя Дзвіна, tiếng Latvia: Daugava, tiếng Ba Lan: Dźwina, tiếng Đức: Düna) là một con sông bắt nguồn từ vùng đồi Valdai, Nga, chảy qua các quốc gia như Nga, Belarus, Latvia để đổ vào vịnh Riga, một nhánh của biển Baltic. Tổng chiều dài của con sông này là 1.020 km (633,7 dặm). Nó được nối bằng kênh đào với các sông Berezina và Dnieper. Có ba đập thủy điện trên sông này - đó là Rīgas HES theo chiều dòng chảy thì ở ngay phía trên Riga hay 35 km từ cửa sông, Ķeguma HES cách đập đầu tiên 35 km hay 70 km từ cửa sông, và Pļaviņu HES cách đập thứ hai 37 km (ngược dòng) hay 107 km từ cửa sông. Đập thứ tư, Daugavpils HES, đã được lập kế hoạch nhưng bị chỉ trích mạnh. Belarus hiện tại có kế hoạch xây dựng một vài nhà máy thủy điện trên phần thuộc Belarus của sông Daugava. Các thành phố trên bờ sông Vitebsk, Belarus Vieliž, Belarus Polatsk, Belarus Daugavpils, Latvia Jēkabpils, Latvia Aizkraukle, Latvia Ogre, Latvia Salaspils, Latvia Riga, Latvia Các sông nhánh chính Pałata
Số nguyên tử hoặc số proton, số hiệu nguyên tử (ký hiệu Z) của một nguyên tố hóa học là số proton được tìm thấy trong hạt nhân của một nguyên tử. Nó giống hệt với số điện tích của hạt nhân. Số nguyên tử xác định duy nhất một nguyên tố hóa học. Trong một nguyên tử không tích điện, số nguyên tử cũng bằng số electron. Tổng của nguyên tử Z và số neutron N bằng số khối A của một nguyên tử. Vì các proton và neutron có cùng khối lượng (và khối lượng của các electron không đáng kể cho nhiều mục đích) và sự mất khối lượng của liên kết nucleon luôn nhỏ so với khối lượng nucleon, khối lượng nguyên tử của bất kỳ nguyên tử nào, khi được biểu thị bằng nguyên tử hợp nhất đơn vị khối lượng (tạo ra một đại lượng gọi là " khối lượng đồng vị tương đối "), nằm trong khoảng 1% của toàn bộ số A. Các nguyên tử có cùng số nguyên tử Z nhưng số neutron N khác nhau và do đó khối lượng nguyên tử khác nhau được gọi là các đồng vị. Hơn một phần ba các nguyên tố xuất hiện trong tự nhiên tồn tại dưới dạng hỗn hợp các đồng vị (xem các nguyên tố đơn đồng vị) và khối lượng đồng vị trung bình của hỗn hợp đồng vị cho một nguyên tố (gọi là khối lượng nguyên tử tương đối) trong một môi trường xác định trên Trái Đất, sẽ xác định khối lượng nguyên tử tiêu chuẩn của nguyên tố. Trong lịch sử, chính các khối lượng nguyên tử của các nguyên tố (so với hydro) là đại lượng có thể đo được của các nhà hóa học trong thế kỷ 19. Ký hiệu Z thông thường xuất phát từ tiếng Đức có nghĩa là số, trước khi tổng hợp các ý tưởng hiện đại từ hóa học và vật lý, chỉ biểu thị vị trí số của một nguyên tố trong bảng tuần hoàn, có thứ tự xấp xỉ, nhưng không hoàn toàn, phù hợp với thứ tự của các nguyên tố theo trọng lượng nguyên tử. Chỉ sau năm 1915, với gợi ý và bằng chứng cho thấy số Z này cũng là điện tích hạt nhân và đặc tính vật lý của các nguyên tử, đã tạo ra từ tiếng Đức cho số nguyên tử được sử dụng phổ biến trong bối cảnh này. Lịch sử Bảng tuần hoàn và số tự nhiên cho mỗi phần tử Nói một cách lỏng lẻo, sự tồn tại hoặc xây dựng một bảng các phần tử định kỳ tạo ra một trật tự của các phần tử, và do đó chúng có thể được đánh số theo thứ tự. Dmitri Mendeleev tuyên bố rằng ông đã sắp xếp các bảng tuần hoàn đầu tiên của mình (xuất bản lần đầu vào ngày 6 tháng 3 năm 1869) theo thứ tự trọng lượng nguyên tử ("Atomgewicht"). Tuy nhiên, khi xem xét các tính chất hóa học quan sát được của các nguyên tố, ông đã thay đổi thứ tự một chút và đặt tellua (trọng lượng nguyên tử 127,6) trước iod (trọng lượng nguyên tử 126,9). Vị trí này phù hợp với thông lệ hiện đại về việc sắp xếp các nguyên tố theo số proton, Z, nhưng số đó không được biết hoặc còn đang bị nghi ngờ vào thời điểm đó. Tuy nhiên, việc đánh số đơn giản dựa trên vị trí bảng tuần hoàn không bao giờ hoàn toàn thỏa đáng. Bên cạnh trường hợp iod và telluri, sau đó một số cặp nguyên tố khác (như argon và kali, cobalt và nickel) được biết là có trọng lượng nguyên tử gần như giống hệt hoặc đảo ngược, do đó yêu cầu vị trí của chúng trong bảng tuần hoàn được xác định bởi tính chất hóa học của chúng. Tuy nhiên, việc xác định dần dần các nguyên tố họ lanthan ngày càng giống nhau về mặt hóa học, có số nguyên tử không rõ ràng, dẫn đến sự không nhất quán và không chắc chắn trong việc đánh số định kỳ các nguyên tố ít nhất là từ luteti (nguyên tố 71) trở đi (hafni không được biết đến vào thời điểm đó). Mô hình Rutherford-Bohr và van den Broek Năm 1911, Ernest Rutherford đã đưa ra một mô hình nguyên tử trong đó lõi trung tâm chiếm phần lớn khối lượng của nguyên tử và điện tích dương, tính theo đơn vị điện tích của electron, bằng khoảng một nửa trọng lượng nguyên tử của nguyên tử, được biểu thị bằng số nguyên tử hydro. Do đó, điện tích trung tâm này sẽ xấp xỉ một nửa trọng lượng nguyên tử (mặc dù nó khác gần 25% so với số nguyên tử vàng , ), nguyên tố duy nhất mà Rutherford đưa ra dự đoán của mình). Tuy nhiên, bất chấp ước tính của Rutherford rằng vàng có điện tích trung tâm khoảng 100 (nhưng là nguyên tố trên bảng tuần hoàn), một tháng sau khi bài báo của Rutherford xuất hiện, Antonius van den Broek chính thức đề nghị rằng điện tích trung tâm và số các electron trong nguyên tử chính xác bằng vị trí của nó trong bảng tuần hoàn (còn được gọi là số nguyên tố, số nguyên tử và ký hiệu Z). Điều này cuối cùng đã được chứng minh là đúng. Thí nghiệm năm 1913 của Moseley Vị trí thí nghiệm được cải thiện đáng kể sau khi nghiên cứu của Henry Moseley vào năm 1913. Moseley, sau khi thảo luận với Bohr, người ở cùng phòng thí nghiệm (và đã sử dụng giả thuyết của Van den Broek trong mô hình nguyên tử Bohr của mình), đã quyết định kiểm tra trực tiếp giả thuyết của Van den Broek và Bohr, bằng cách xem liệu các vạch quang phổ phát ra từ các nguyên tử bị kích thích phù hợp với định đề của lý thuyết Bohr rằng tần số của các vạch quang phổ tỷ lệ với bình phương của Z. Để làm điều này, Moseley đã đo các bước sóng của các chuyển đổi photon trong cùng (đường K và L) được tạo ra bởi các nguyên tố từ nhôm (Z = 13) sang vàng (Z = 79) được sử dụng như một loạt các mục tiêu anốt di động bên trong ống tia X. Căn bậc hai của tần số của các photon tăng từ mục tiêu này sang mục tiêu tiếp theo trong một tiến trình số học. Điều này dẫn đến kết luận (định luật Moseley) rằng số nguyên tử không tương ứng chặt chẽ (với độ lệch của một đơn vị cho các đường K, trong công trình của Moseley) với điện tích tính toán của hạt nhân, tức là số nguyên tố Z. Tóm lại, Moseley đã chứng minh rằng loạt nguyên tố họ lanthan (từ lanthan đến luteti) phải có đúng 15 nguyên tố, không ít hơn và không nhiều hơn - điều này còn quá mới mẻ so với hóa học thời bấy giờ. Các nguyên tố bị thiếu Sau cái chết của Moseley năm 1915, số nguyên tử của tất cả các nguyên tố đã biết từ hydro đến uranium (Z = 92) đã được kiểm tra bằng phương pháp của ông. Có bảy nguyên tố (với Z < 92) không được tìm thấy và do đó được xác định là vẫn chưa được khám phá, tương ứng với các số nguyên tử 43, 61, 72, 75, 85, 87 và 91. Từ 1918 đến 1947, tất cả bảy nguyên tố còn thiếu này đã được phát hiện. Vào thời điểm này, bốn nguyên tố vượt quá urani đầu tiên cũng đã được phát hiện, do đó bảng tuần hoàn đã hoàn thành không có khoảng trống tính đến nguyên tố curium (Z = 96). Các proton và ý tưởng về các electron hạt nhân Năm 1915, lý do điện tích hạt nhân tính bằng đơn vị Z, hiện được công nhận là giống với số nguyên tố, không được hiểu rõ. Một ý tưởng cũ được gọi là giả thuyết của Prout đã đưa ra giả thuyết rằng các nguyên tố đều được tạo thành từ dư lượng (hoặc "nguyên mẫu") của nguyên tố hydro nhẹ nhất, trong mô hình Bohr-Rutherford có một electron và điện tích hạt nhân. Tuy nhiên, ngay từ năm 1907, Rutherford và Thomas Royds đã chỉ ra rằng các hạt alpha, có điện tích +2, là hạt nhân của các nguyên tử heli, có khối lượng gấp bốn lần hydro, không phải hai lần. Nếu giả thuyết của Prout là đúng, một cái gì đó phải trung hòa một phần điện tích của hạt nhân hydro có trong hạt nhân của các nguyên tử nặng hơn. Năm 1917, Rutherford đã thành công trong việc tạo ra hạt nhân hydro từ phản ứng hạt nhân giữa các hạt alpha và khí nitơ, và tin rằng ông đã chứng minh định luật Prout. Ông đã gọi các hạt nhân nặng mới là proton vào năm 1920 (tên thay thế là prouton và prototype). Người ta đã thấy rõ ngay từ công trình của Moseley rằng hạt nhân của các nguyên tử nặng có khối lượng lớn hơn gấp đôi so với dự kiến của chúng được tạo ra từ hạt nhân hydro, và do đó cần có một giả thuyết về sự trung hòa của các proton dư thừa được cho là hiện diện trong tất cả các hạt nhân nặng. Một hạt nhân heli được cho là bao gồm bốn proton cộng với hai "electron hạt nhân" (các electron liên kết bên trong hạt nhân) để cân bằng hai điện tích dương. Ở đầu kia của bảng tuần hoàn, một hạt nhân vàng có khối lượng gấp 197 lần hydro được cho là chứa 118 electron hạt nhân trong hạt nhân để mang lại cho nó một điện tích còn lại +79, phù hợp với số nguyên tử của nó. Việc phát hiện ra neutron làm cho Z trở thành số proton Tất cả các lý luận về các electron hạt nhân đã kết thúc với khám phá ra neutron của James Chadwick vào năm 1932. Một nguyên tử vàng hiện được coi là chứa 118 neutron chứ không phải 118 electron hạt nhân, và điện tích dương của nó giờ được nhận ra là hoàn toàn đến từ tổng số 79 proton của nó. Do đó, sau năm 1932, số nguyên tử Z của một nguyên tố cũng được nhận ra là giống hệt với số proton của hạt nhân. Tính chất hóa học Mỗi nguyên tố có một tập hợp các tính chất hóa học cụ thể là kết quả của số lượng electron có trong nguyên tử trung tính, đó là Z (số nguyên tử). Cấu hình của các electron này tuân theo các nguyên tắc của cơ học lượng tử. Số lượng electron trong vỏ electron của mỗi nguyên tố, đặc biệt là vỏ hóa trị ngoài cùng, là yếu tố chính trong việc xác định hành vi liên kết hóa học của nó. Do đó, chỉ riêng số nguyên tử mới xác định tính chất hóa học của một nguyên tố; và chính vì lý do này mà một nguyên tố có thể được định nghĩa là: "Tập hợp các nguyên tử có cùng số hiệu nguyên tử hay số đơn vị điện tích hạt nhân". Nguyên tố mới Việc tìm kiếm các yếu tố mới thường được mô tả bằng cách sử dụng số nguyên tử. Kể từ năm 2010, tất cả các nguyên tố có số nguyên tử từ 1 đến 118 đã được quan sát. Tổng hợp các nguyên tố mới được thực hiện bằng cách bắn phá các nguyên tử mục tiêu của các nguyên tố nặng bằng các ion, sao cho tổng các số nguyên tử của các nguyên tố mục tiêu và ion bằng với số nguyên tử của nguyên tố được tạo ra. Nói chung, chu kỳ bán rã của các nguyên tố trở nên ngắn hơn khi số nguyên tử tăng lên, mặc dù "hòn đảo của sự ổn định " có thể tồn tại đối với các đồng vị chưa được khám phá với số lượng proton và neutron nhất định.
Sông Ural (, ) hay Jayıq/Zhayyq (, , , ), còn gọi là Yaik () trước năm 1775, là một con sông chảy qua Nga và Kazakhstan. Nó bắt nguồn từ phía nam dãy núi Ural và đổ vào biển Caspi. Với chiều dài , đây là sông dài thứ ba châu Âu sau Volga và Danube, và sông dài thứ 18 của châu Á. Sông Ural thường được xem là biên giới giữa châu Âu và châu Á. Sông Ural xuất phát từ một nơi gần núi Kruglaya trong dãy Ural, chảy về hướng nam, qua Magnitogorsk, tới Orsk nó chảy về hướng tây , đến Orenburg, sông này hợp với sông Sakmara. Từ Orenburg, nó chảy tiếp về phía tây, đến Kazakhstan, rồi lại chảy về phía nam ở Oral, chảy ngoằn nghèo qua một đồng bằng phẳng, rộng, trước khi đổ vào biển Caspi.
Sông Sakmara là một con sông thuộc Nga có chiều dài 760 km (470 dặm). Nó là một sông nhánh của sông Ural và hợp lưu với con sông này tại Orenburg. Thượng nguồn của con sông này nằm ở nước cộng hòa tự trị Bashkortostan (Bashkiria). Các thành thị nằm dọc theo sông Sakmara là Yuldybayevo (Bashkortostan) và Kuvandyk (tỉnh Orenburg).
Các ống nano carbon (Tiếng Anh: Carbon nanotube - CNT) là một dạng thù hình của carbon. Một ống nano carbon đơn vách là một tấm than chì độ dày một-nguyên-tử cuộn tròn lại thành một hình trụ liền, với đường kính cỡ nanomet. Điều này xảy ra trong các cấu trúc nano mà ở đó tỉ lệ giữa chiều dài và đường kính vượt trên 10.000. Các phân tử carbon hình trụ đó có các tính chất thú vị làm cho chúng có khả năng hữu dụng cao trong rất nhiều ứng dụng của công nghệ nano, công nghiệp điện tử, quang học, và một số ngành khoa học vật liệu khác. Chúng thể hiện độ bền đáng kinh ngạc và các tính chất điện độc đáo, và độ dẫn nhiệt hiệu quả. Các ống nano vô cơ cũng đã được tổng hợp. Ống nano là một loại cấu trúc fullerene, trong đó cũng bao gồm cả buckyball. Trong khi buckyball có dạng hình cầu, một ống nano lại có dạng hình trụ, với ít nhất một đầu được phủ bởi một bán cầu có cấu trúc buckyball. Tên của chúng được đặt theo hình dạng của chúng, do đường kính của ống nano vào cỡ một vài nanomet (xấp xỉ nhỏ hơn 50.000 lần một sợi tóc), trong khi độ dài của chúng có thể lên tới vài milimet. Các nhà nghiên cứu ở đại học Cincinnati (UC) đã phát triển một quá trình để xây mạng thẳng hàng các ống nano carbon cực dài. Họ đã có thể sản xuất các ống nano carbon dài 18mm và có thể xoắn lại thành các sợi nano carbon. Có hai loại ống nano carbon chính: ống nano đơn vách (SWNT) và ống nano đa vách (MWNT). Bản chất của liên kết trong ống nano carbon được giải thích bởi hóa học lượng tử, cụ thể là sự xen phủ orbital. Liên kết hóa học của các ống nano được cấu thành hoàn toàn bởi các liên kết sp2, tương tự với than chì. Cấu trúc liên kết này, mạnh hơn các liên kết sp<sup>3</sub> ở trong kim cương, tạo ra những phân tử với độ bền đặc biệt. Các ống nano thông thường tự sắp xếp thành các "sợi dây thừng" được giữ với nhau bởi lực Van der Waals. Dưới áp suất cao, các ống nano có thể trộn với nhau, trao đổi một số liên kết sp2 cho liên kết sp3, tạo ra khả năng sản ra các sợi dây khỏe, độ dài không giới hạn thông qua liên kết ống nano áp suất cao. Sự khám phá Các loại ống nano carbon Đơn vách Phần lớn các ống nano đơn vách (SWNT-Single-Walled Nanotube) có đường kính gần 1 nanomet, với độ dài đường ống có thể gấp hàng nghìn lần như vậy. Cấu trúc của một SWNT có thể được hình dung là cuộn một vách than chì độ dày một-nguyên-tử (còn gọi là graphene) thành một hình trụ liền. Cách mà tấm graphene được cuộn như vậy được biểu diễn bởi một cặp chỉ số (n,m) gọi là vector chiral. Các số nguyên n và m là số của các vector đơn vị dọc theo hai hướng trong lưới tinh thể hình tổ ong của graphene. Nếu m=0, ống nano được gọi là "zigzag". Nếu n=m, ống nano được gọi là "ghế bành". Nếu không, chúng được gọi là "chiral". Ống nano đơn vách là loại ống nano carbon cực kì quan trọng bởi chúng thể hiện các tính chất điện quan trọng mà không ống nano đa vách nào có được. Các ống nano đơn vách là ứng cử viên sáng giá trong việc thu nhỏ kích thước sản phẩm ngành cơ điện từ cỡ micro hiện nay xuống còn nano. Sản phẩm căn bản của ngành này là dây điên, mà SWNT lại dẫn điện rất tốt. Một ứng dụng hữu ích khác của SWNT là trong việc phát triển các transitor cảm ứng (FET-field effect transitor) nội phân tử. Việc sản xuất cổng logic (logic gate) đầu tiên sử dụng FET làm bằng SWNT gần đây đã trở thành hiện thực. Bởi vì SWNT trở thành p-FET khi tiếp xúc với oxy và n-FET khi không tiếp xúc với oxy, chúng đều có thể bảo vệ một nửa SWNT khỏi bị tiếp xúc với oxy, trong khi cho tiếp xúc với oxy nửa còn lại. Kết quả là một SWNT đơn có thể hoạt động như một cửa luận lý NOT với cả loại FET n và p trong cùng một phân tử. Ống nano đơn vách vẫn có chi phí sản xuất cao, khoảng $1500 mỗi gam vào năm 2000, và việc phát triển các phương pháp tổng hợp hiệu quả hơn là rất cần thiết cho tương lai của công nghệ nano. Nếu không thể phát hiện các phương pháp tổng hợp rẻ hơn, nó sẽ trở thành cản trở về mặt tài chính trên con đường đưa ống nano đơn vách ra ứng dụng trong thực tế. Một vài nhà cung cấp phân phối SWNT arc discharge với khoảng $50–100 vào năm 2007. Đa vách Ống carbon nano đa vách (MWNT) gồm nhiều vách than chì(graphite). Có hai mô hình được sử dụng để mô tả MWNT. Trong mô hình thứ nhất có tên gọi:Russian doll, MWNT gồm nhiều ống SWNT đơn lồng vào nhau. Trong mô hình thứ hai: Parchment, MWNT được mô tả như một tấm graphite cuộn lại. Khoảng cách giữa các vách trong MWNT tương đương vách khoảng cách các vách graphite trong cấu trúc than chì, xấp xỉ 3.4 Å. MWNT có đường kính lớn hơn SWNT, và có độ trơ với hóa chất cao hơn. Năm 2009, nhóm nghiên cứu của giáo sư James Tour ở ĐH Rice dùng KMnO4 trong H2SO4 đặc để mở ống MWNT tạo nên Graphene nanoribbon, công trình được đăng trên tạp chí nature. MWNT hai vách được gọi là DWNT, được tổng hợp trên quy mô gram vào năm 2003. by the bằng phương pháp CCVD. Vòng Ống carbon nano vòng được tiên đoán bằng lý thuyết với nhiều tính chất đặc biệt. Mầm Ống carbon nano mầm và một dạng đặc biệt, kết hợp bởi ống carbon nano và fullerene. Trong vật liệu composite, mầm fullerene đóng vai trò như là mỏ neo, giúp các ống carbon nano không trượt, giúp tăng cường độ bền của vật liệu. Các dạng khác Ống carbon nano dài 18.5 cm được báo cáo vào năm 2009, được tổng hợp trên nền Silic bằng phương pháp CVD cải tiến. Ống carbon nano ngắn nhất được biết đến là phân tử cycloparaphenylene, được tổng hợp vào đầu năm 2009. Ống carbon nano mỏng nhất là loại ghế bành (armchair) (2,2) với đường kính 3Å, được tổng hợp trong lòng ống carbon nano đa vách. Việc xác định loại ống được thực hiện bằng kính hiển vi điện tử quét truyền qua độ phân giải cao(HRTEM), máy quang phổ raman và lý thuyết mật độ chức năng(DFT). Các tính chất Độ mạnh Động lực học Điện Nhiệt Sai lệch Ứng dụng Arc discharge Chế tạo transistor hiệu ứng trường (CNT-FET) CNT-FET là transistor hiệu ứng trường sử dụng một hoặc nhiều ống nano carbon làm kênh dẫn (kênh nối giữa Source và Drain) thay vì silicon trong MOSFET truyền thống. Được nghiên cứu lần đầu tiên vào năm 1998, và kể từ đó có nhiều phát triển đáng kể. Theo định luật Moore, kích thước của các linh kiện bán dẫn (transistor) sẽ giảm đi khoảng hai lần mỗi hai năm. Việc chạy đua thu nhỏ linh kiện này là động lực cho những tiến bộ khoa học - công nghệ kể từ cuối thế kỷ 20. Tuy nhiên, tới phiên bản ITRS 2009, việc thu nhỏ hơn nữa phải đối mặt với các giới hạn nghiêm trọng liên quan đến công nghệ chế tạo và hiệu suất thiết bị khi kích thước kênh của transistor thu hẹp xuống phạm vi dưới 22 nm. Các giới hạn liên quan đến đường đi của electron (electron tunneling) chạy qua kênh quá ngắn và màng cách điện mỏng, dòng điện bị rò khi chưa có kích thích, lãng phí dòng điện chạy thụ động, hiệu ứng xảy ra do kênh ngắn và sự sai lệch cấu trúc thiết bị và doping. Những giới hạn này có thể được khắc phục ở một mức độ nào đó và tạo điều kiện tiếp tục thu nhỏ kích thước thiết bị bằng cách thay đổi vật liệu làm kênh trong cấu trúc MOSFET truyền thống bằng một hoặc nhiều ống nano carbon. Chế tạo sensor đo lường độ ẩm Tạo ra những tấm phim cảm biến (sensing films) từ ống nano carbon và Nafion. Hợp chất được tạo ra bằng phương pháp Spin Coating. Người ta dùng tấm phim này phủ lên điện cực của QCM (Quartz Crystal Microbalances) để  đo lường độ ẩm trong khoảng 8.50 đến 15,300 ppmv. Trong điều kiện độ ẩm thấp, hợp chất CNT/Nafion phủ lên điện cực bằng vàng của QCM cho ra kết quả tuyến tính với độ nhạy tuyệt vời, phản hồi nhanh và thời gian khôi phục ngắn (ít hơn 5s - ở điều kiện thử nghiệm là 15.76 ppmv). Truyền tải nhiệt bằng dung dịch CNT lỏng So với các hạt nano Al2O3, CuO, TiO2, Cu, Fe, dung dịch CNT với nồng độ thấp và phân tán có độ dẫn nhiệt rất cao (~3000W/mK). Lý do là bởi vì CNT có đặc tính dẫn nhiệt rất gần với kim cương với diện tích bề mặt lớn, carbon phân bố trên CNT thành hình trụ với hệ số L/D ~132,000,000/1. Truyền nhiệt đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các ngành công nghiệp. Nhiệt tạo ra từ việc sản xuất năng lượng cần được làm lạnh với số lượng lớn. Hơn nữa, hầu hết các phản ứng hoá học đều toả nhiệt, nhiệt tạo ra từ phương tiện giao thông, máy điều hoà nhiệt độ,… nên việc dẫn nhiệt và làm nguội trở lên cấp thiết. Bào mòn laser Chemical vapor deposition (CVD) Môi trường lửa tự nhiên, phụ và có kiểm soát Các ứng dụng tiềm năng, hiện tại và cổ đại Kiến trúc Dẫn điện Các ứng dụng khác Ống nano carbon cũng được triển khai trong các hệ thống cơ điện nano, bao gồm các thành phần bộ nhớ cơ học (NRAM phát triển bởi Nantero Inc.) và motor điện cỡ nano (xem Motor nano). Một cách sử dụng khác của ống nano carbon là phương tiện vận chuyển gene. Eikos Inc ở Franklin, Massachusetts và Unidym Inc. ở Silicon Valley, California đang phát triển các tấm phim vô hình, dẫn điện làm bằng ống nano carbon để thay cho oxit thiếc indium (ITO). Phim ống nano carbon khỏe hơn phim ITO rất nhiều, làm chúng trở nên lý tưởng cho việc sử dụng trong màn hình cảm ứng và màn hình dẻo. Phim ống nano cũng rất hứa hẹn trong việc sử dụng cho màn hình máy tính, điện thoại di động, PDA, và ATM. Các phần mềm mô phỏng phân tử ống nano carbon CoNTub v1.0 Nanorex Wrapping Nanotube Modeller TubeASP Tubegen Mô hình phân tử ống nano carbon Carbon Nanotube Models
Lực bảo toàn hay còn gọi là lực thế là các loại lực khi tác động lên một vật sinh ra một công cơ học có độ lớn không phụ thuộc vào dạng của đường đi mà chỉ phụ thuộc vào vị trí của điểm đầu và điểm cuối. Một số loại lực thế thường gặp Thế năng của lực hấp dẫn (trọng lực) Thế năng hấp dẫn của một vật có khối lượng khi di chuyển từ vị trí có độ cao ban đầu đến vị trí lúc sau (so với mốc thế năng) sinh ra một công, được xác định như sau: Giả sự vật đi lên, với , và là quãng đường dịch chuyển, chính là hiệu số . Góc hợp bởi chiều của lực tác dụng và quãng đường dịch chuyển. Trong trường hợp này , do gia tốc trọng trường luôn hướng xuống, ngược chiều với chiều chuyển động. Áp dụng vào công thức tính công, ta có: Lưu ý rằng, kí hiệu chính là trọng lực mà vật chịu tác dụng. Ta thấy, công của vật lúc này chỉ phụ thuộc vào vị trí đầu-cuối của vật, do đó, lực hấp dẫn chính là lực thế. Thế năng của lực đàn hồi (lò xo) Công của lực đàn hồi được xác định như sau, với : Ta thấy rằng, công đàn hồi sinh ra chỉ phụ thuộc vào độ biến dạng lò xo, chứ không phụ thuộc vào hình dạng đường đi. Nên lực đàn hồi cũng là lực thế. Lực không đổi Xét lực không đổi, tác dụng vào vật, làm vật dịch chuyển một đoạn đường từ đến . Khi đó, công thực hiện: Vậy, cũng là lực thế.
Bài này viết về mang như là một chi động vật nhai lại thuộc họ Hươu nai, các nghĩa khác xem bài Mang (định hướng). Mang, còn gọi là hoẵng, kỉ, mển hay mễn, là một dạng hươu, nai thuộc chi Muntiacus. Mang có lẽ là loại hươu cổ nhất được biết đến, xuất hiện vào khoảng 15-35 triệu năm trước căn cứ trên di tích hóa thạch tìm thấy trong các trầm tích của thế Miocen tại Pháp và Đức. Các loài ngày nay còn sống có nguồn gốc nguyên thủy ở vùng Đông Nam Á cũng như ở Ấn Độ. Bản địa mển bao gồm cả vùng Hoa Nam, Đài Loan, và các hải đảo thuộc Indonesia. Mang Reeves được du nhập sang Anh và nay đã sinh sản, phổ biến ở một số khu vực ở Anh. Là một loại động vật nhiệt đới, mển không có chu kỳ động dục theo mùa thời tiết nên khi chuyển sang các khu vực ôn đới có thể cho giao phối ở bất kỳ thời gian nào trong năm. Mang đực có các gạc ngắn có thể mọc lại nhưng có xu hướng cắn xé nhau bằng răng (có răng nanh dài chĩa xuống) để bảo vệ lãnh địa. Mang là loại động vật được chú ý trong các nghiên cứu về sự tiến hóa do các biến thể lớn trong bộ nhiễm sắc thể của chúng cũng như các phát hiện về các loài mới trong thời gian gần đây. Phân loài Mười hai loài: Muntiacus atherodes: Mang vàng Borneo Muntiacus crinifrons: Mang đầu lông, mang đen, mang đen đầu đỏ Muntiacus feae: Mang Fea Muntiacus gongshanensis: Mang Cống Sơn, kỉ Cống Sơn Muntiacus montanus: Mang Sumatra Muntiacus muntjak: Mang Ấn Độ, mang đỏ Muntiacus muntjak annamensis: Hoẵng Nam Bộ Muntiacus muntjak aureus Muntiacus muntjak bancanus Muntiacus muntjak curvostylis Muntiacus muntjak guangdongensis Muntiacus muntjak malabaricus Muntiacus muntjak menglasis Muntiacus muntjak montanus Muntiacus muntjak muntjak Muntiacus muntjak nigripes Muntiacus muntjak vaginalis Muntiacus muntjak yunnanensis Muntiacus reevesi: Mang Reeves, mang Trung Quốc Muntiacus rooseveltorum: Mang Roosevelt Muntiacus puhoatensis: Mang Pù Hoạt Muntiacus putaoensis: Mang lá Muntiacus truongsonensis: Mang Trường Sơn Muntiacus vuquangensis: Mang Vũ Quang, mang lớn Chú thích
Lý thuyết BCS là mô hình lý thuyết vi mô được ba nhà vật lý John Bardeen, Leon Cooper và Robert Schrieffer đưa ra vào năm 1957 để giải thích hiện tượng siêu dẫn. Lý thuyết này giải thích rất thành công những tính chất vi mô của hệ siêu dẫn và nhiệt động lực học của hệ. Lý thuyết này cũng rất tương thích với một mô hình định tính khác là "lý thuyết Ginzburg-Landau". Ý tưởng cơ bản của mô hình này là khi trong hệ xuất hiện lực hút giữa các điện tử, trạng thái điện tử cơ bản của hệ chất rắn trở nên không bền so với trạng thái mà trong đó có xuất hiện cặp điện tử với spin và xung lượng trái ngược. Lực hút giữa các điện tử này là do nguyên nhân tương tác giữa điện tử với các mode biến dạng của tinh thể mạng (phonon). Ta có thể hình dung, khi một điện tử chuyển động, tương tác của nó với mạng tinh thể làm biến dạng mạng tinh thể và điện tử đi theo sau đó sẽ dễ dàng chuyển động hơn trong tinh thể. Hai điện tử này tạo thành một cặp điện tử Cooper. Từ tương tác điện tử với các phonon ta có thể suy ra lực tương tác hút hiệu dụng giữa hai điện tử. Với giả thiết trên về tương tác hút giữa các điện tử, bằng phương pháp trường trung bình ta có thể giải được mô hình và thu được những kết quả định lượng. John Bardeen, Leon Cooper và Robert Schrieffer đã nhận giải thưởng Nobel về vật lý năm 1972 nhờ công trình này. Tuy nhiên lý thuyết BCS chỉ áp dụng đúng cho các chất siêu dẫn cổ điển có nhiệt độ của trạng thái siêu dẫn rất thấp. Sau phát minh về các chất siêu dẫn nhiệt độ cao, cho đến nay chưa có lý thuyết hoàn chỉnh nào giải thích các hiện tượng này.
Trong toán học, các số tự nhiên được sử dụng để đếm (như trong "có sáu đồng xu trên bàn") và thứ tự (như trong "đây là thành phố lớn thứ ba trong cả nước"). Đôi khi, các số tự nhiên có thể xuất hiện dưới dạng một bộ mã thuận tiện (nhãn hoặc "tên"), nghĩa là, như những gì các nhà ngôn ngữ học gọi là số danh nghĩa, loại bỏ nhiều hoặc tất cả các thuộc tính của một số theo nghĩa toán học. Tập hợp các số tự nhiên thường được kí hiệu bằng kí hiệu . Trong tiêu chuẩn của ISO 80000-2 và tài liệu giáo khoa chuẩn của Việt Nam, số tự nhiên được định nghĩa là các số nguyên không âm (đôi khi được ký hiệu chung là biểu tượng , để nhấn mạnh rằng số 0 cũng được bao gồm), trong khi những số khác bắt đầu bằng 1, tương ứng với các số nguyên dương (đôi khi được ký hiệu chung bằng ký hiệu , , hoặc với nhấn mạnh rằng số 0 bị loại trừ). Các số tự nhiên là cơ sở mà từ đó nhiều tập hợp số khác có thể được xây dựng bằng cách mở rộng: tập hợp các số nguyên, được xây dựng bằng cách bao gồm (nếu chưa có) phần tử trung tính 0 và một phép cộng nghịch đảo ( − ) cho mỗi số tự nhiên khác nhau ; tập hợp các số hữu tỉ, bằng cách bao gồm một nghịch đảo phép nhân ( ) cho mỗi số nguyên khác (và cả tích của các phép nghịch đảo này với các số nguyên); tập hợp các số thực bằng cách bao gồm với các số hữu tỉ các giới hạn của (hội tụ) dãy Cauchy của các số hữu tỉ; các số phức, bằng cách cộng với các số thực căn bậc hai chưa giải của trừ một (và cả tổng và tích của chúng),.... Những chuỗi mở rộng này làm cho các số tự nhiên được nhúng (nhận dạng) về mặt quy tắc trong các hệ thống số khác. Các tính chất của số tự nhiên, chẳng hạn như tính chia hết và phân phối của các số nguyên tố, được nghiên cứu trong lý thuyết số. Các vấn đề liên quan đến việc đếm và sắp xếp thứ tự, chẳng hạn như phân vùng và liệt kê, được nghiên cứu trong tổ hợp. Theo ngôn ngữ thông thường, đặc biệt là trong giáo dục tiểu học, số tự nhiên có thể được gọi là số đếm để loại trừ trực quan các số nguyên âm và số 0, và cũng để đối chiếu tính rời rạc của phép đếm với tính liên tục của phép đo - một đặc điểm nổi bật của số thực. Lịch sử Thời cổ đại Phương pháp nguyên thủy nhất để biểu diễn một số tự nhiên là đặt một ký hiệu cho mỗi đối tượng. Sau đó, một tập hợp các đối tượng có thể được kiểm tra xem có bằng nhau, thừa hay thiếu — bằng cách đánh dấu và xóa một đối tượng khỏi tập hợp đó. Bước tiến lớn đầu tiên trong trừu tượng hóa là việc sử dụng các chữ số để biểu diễn các con số. Điều này cho phép các hệ thống được phát triển để ghi số lượng lớn. Người Ai Cập cổ đại đã phát triển một hệ thống chữ số mạnh mẽ với các chữ tượng hình riêng biệt cho 1, 10 và tất cả các quyền hạn của 10 đến hơn 1 triệu. Một tác phẩm chạm khắc trên đá ở Karnak, có niên đại khoảng năm 1500 TCN và bây giờ là Bảo tàng Louvre ở Paris, mô tả 276 như 2 trăm, 7 chục và 6 đơn vị; và tương tự cho số 4,622. Người Babylon có một hệ thống giá trị vị trí về cơ bản dựa trên các chữ số cho 1 và 10, sử dụng cơ số sáu mươi, với biểu tượng cho 60 giống với biểu tượng cho 1 — giá trị cụ thể của nó được xác định từ ngữ cảnh. Một tiến bộ nữa trong việc trừu tượng hóa con số nhưng diễn ra trễ hơn nhiều: phát triển ý tưởng thể hiện số không như là một con số với biểu diễn số của riêng nó. Vào khoảng 700 TCN, những người Babylon đã dùng chữ số không trong hệ thống ký hiệu giá trị theo vị trí nhưng một điều khá lạ là mãi cho đến lúc nền văn hóa Babylon đến hồi suy tàn, người Babylon cũng chỉ biết dùng chữ số không ở giữa các con số (ví dụ: khi viết số 3605 họ biết đặt chữ số không vào giữa), và chữ số này vẫn chưa bao giờ được sử dụng để làm chữ số cuối cùng của một số (ví dụ: người Babylon thể hiện số 3600 và 60 như nhau - người Babylon dùng hệ cơ số 60 - để phân biệt đâu là 3600 và 60 họ phải kèm thêm một chú thích bằng lời ở dưới). Các nền văn minh Olmec và Maya đã dùng số không như là một con số riêng từ khoảng thế kỷ thứ 1 TCN (dường như được phát triển một cách độc lập), tuy nhiên việc sử dụng này đã không được phổ biến ra ngoài vùng Trung Bộ châu Mỹ. Khái niệm số không mà chúng ta hiện nay vẫn dùng xuất phát từ nhà toán học Ấn Độ Brahmagupta vào năm 628. Mặc dầu số không đã được dùng như một con số bởi tất cả các nhà tính toán thời Trung Cổ (dùng để tính ngày Phục Sinh) mà khởi đầu là Dionysius Exiguus vào năm 525, nhưng nhìn chung vẫn không có một chữ số La Mã nào được dành riêng để viết số không. Thay vì vậy, thời đó người ta dùng từ Latinh là nullae, có nghĩa là"không có gì"để chỉ số không. Người ta thường xem các nhà triết học Hy Lạp Pythagore và Archimedes là những người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống về các con số như là một thực thể trừu tượng. Tuy nhiên, cùng thời kỳ đó, một số nơi như Ấn Độ, Trung Quốc và Trung Bộ châu Mỹ cũng có những nghiên cứu độc lập tương tự. Các định nghĩa hiện đại Ở châu Âu thế kỷ 19, đã có cuộc thảo luận toán học và triết học về bản chất chính xác của các số tự nhiên. Một trường phái của chủ nghĩa tự nhiên tuyên bố rằng các số tự nhiên là hệ quả trực tiếp của tâm lý con người. Henri Poincaré là một trong những người ủng hộ nó, cũng như Leopold Kronecker, người đã tóm tắt niềm tin của mình là "Chúa tạo ra các số nguyên, tất cả những thứ khác là tác phẩm của con người". Đối lập với các nhà Tự nhiên học, các nhà toán học kiến thiết thấy cần phải cải thiện tính chặt chẽ logic trong nền tảng của toán học. Vào những năm 1860, Hermann Grassmann đề xuất một định nghĩa đệ quy cho các số tự nhiên, do đó nói rằng chúng không thực sự là tự nhiên - mà là hệ quả của các định nghĩa. Sau đó, hai lớp định nghĩa chính thức như vậy đã được xây dựng; về sau, chúng vẫn được chứng minh là tương đương trong hầu hết các ứng dụng thực tế. Các định nghĩa lý thuyết tập hợp về số tự nhiên được Frege khởi xướng. Ban đầu, ông định nghĩa một số tự nhiên là lớp của tất cả các tập hợp tương ứng 1-1 với một tập hợp cụ thể. Tuy nhiên, định nghĩa này hóa ra lại dẫn đến những nghịch lý, bao gồm cả nghịch lý Russell. Để tránh những nghịch lý như vậy, phép hình thức hóa đã được sửa đổi để một số tự nhiên được định nghĩa là một tập hợp cụ thể và bất kỳ tập hợp nào có thể được đưa vào tương ứng 1-1 với tập hợp đó được cho là có số phần tử đó. Loại định nghĩa thứ hai được Charles Sanders Peirce đưa ra, được Richard Dedekind tinh chỉnh, và được Giuseppe Peano khám phá thêm; phương pháp này bây giờ được gọi là số học Peano. Nó dựa trên tiên đề về các tính chất của số thứ tự : mỗi số tự nhiên có một kế tiếp và mọi số tự nhiên khác 0 đều có một tiền nhiệm duy nhất. Số học Peano tương đương với một số hệ thống yếu của lý thuyết tập hợp. Một trong những hệ thống như vậy là ZFC với tiên đề về vô hạn được thay thế bằng sự phủ định của nó. Các định lý có thể được chứng minh trong ZFC nhưng không thể được chứng minh bằng cách sử dụng Tiên đề Peano bao gồm định lý Goodstein. Với tất cả các định nghĩa qua tập hợp này, thật tiện lợi khi bao gồm cả số 0 (tương ứng với tập rỗng ) vào tập hợp số tự nhiên. Bao gồm cả số 0 hiện là quy ước chung giữa các nhà lý thuyết tập hợp và các nhà logic học. Các nhà toán học khác cũng bao gồm cả 0, và các ngôn ngữ máy tính thường bắt đầu từ 0 khi liệt kê các mục như bộ đếm vòng lặp và phần tử chuỗi hoặc mảng. Mặt khác, nhiều nhà toán học đã giữ truyền thống cũ hơn để lấy 1 là số tự nhiên đầu tiên. Ký hiệu Các nhà toán học dùng ký hiệu N hay ℕ cho tập hợp tất cả các số tự nhiên. Một số văn bản cũ cũng đôi khi dùng kí hiệu J cho tập hợp này. Theo định nghĩa, tập hợp vô hạn và đếm được, tức lực lượng của tập hợp số tự nhiên là Vì các thuộc tính khác nhau thường được liên kết với các mã thông báo và (tương ứng là các phần tử trung tính cho phép cộng và phép nhân), điều quan trọng là phải biết phiên bản số tự nhiên nào được sử dụng trong trường hợp đang xem xét. Điều này có thể được thực hiện bằng cách giải thích bằng văn xuôi, bằng cách viết ra tập hợp một cách rõ ràng hoặc bằng cách định danh số nhận dạng chung bằng chỉ số viết lên trên hoặc chỉ số viết xuống dưới, chẳng hạn như thế này: Đôi khi một số tác giả dùng chỉ số dưới hoặc chỉ số trên"+"để ám chỉ khái niệm"dương"của số tự nhiên, tức là N+ hay N+ = { 1, 2,... }. Thế nhưng, cần thận trọng với ký hiệu kiểu này, vì trong một số trường hợp khác, ít nhất là đối với trường phái toán châu Âu, ký hiệu này lại ám chỉ cho khái niệm"không âm", lấy ví dụ: R+ = [0,∞) hay Z+ = { 0, 1, 2,...}. Trong khi đó, ký hiệu * là chuẩn mực dùng cho khái niệm"khác số không"hay tổng quát hơn là dùng cho một phần tử có thể nghịch đảo được. Tài liệu giáo khoa chuẩn của Việt Nam, cũng dùng ký hiệu N*. Thuộc tính Phép cộng Cho tập hợp của các số tự nhiên và hàm kế thừa ánh xạ mỗi số tự nhiên cho một số tiếp theo, người ta có thể định nghĩa phép cộng các số tự nhiên một cách đệ quy bằng cách đặt và với mọi , . Khi đó là một monoid giao hoán với phần tử đơn vị là 0. Nó là một monoid tự do trên phần tử sinh là 1. Monoid giao hoán này thỏa mãn thuộc tính hủy bỏ, vì vậy nó có thể được nhúng trong một nhóm. Nhóm nhỏ nhất chứa các số tự nhiên là các số nguyên. Nếu 1 được xác định là , thì . Có nghĩa là, đơn giản là phần tử kế thừa của . Định nghĩa hình thức Trong lịch sử, quá trình đưa ra một định nghĩa toán học chính xác về số tự nhiên là một quá trình nhiều khó khăn. Các định đề Peano đưa ra những điều kiện tiên quyết cho một định nghĩa thành công về số tự nhiên. Một số phép xây dựng cho thấy rằng, với lý thuyết tập hợp đã biết, các mô hình của các định đề Peano chắc chắn tồn tại. Các tiên đề Peano Có một số tự nhiên 0. Với mọi số tự nhiên , tồn tại một số tự nhiên liền sau, ký hiệu là . Không có số tự nhiên nào mà số liền sau của nó là 0. Hai số tự nhiên khác nhau phải có hai số liền sau tương ứng khác nhau: nếu a ≠ b thì S(a) ≠ S(b). Nếu có một tính chất nào đó được thỏa mãn với số 0, và chúng ta chứng minh được rằng với mọi số tự nhiên thỏa tính chất đó thì số liền sau của nó cũng thỏa tính chất đó, khi đó, tính chất đó được thỏa mãn với mọi số tự nhiên. (Định đề này đảm bảo rằng phép quy nạp toán học là đúng.) Cần lưu ý rằng "0" ở định nghĩa trên không nhất thiết phải là số không mà chúng ta vẫn thường nói đến."0" ở đây chẳng qua là một đối tượng nào đó mà khi kết hợp với một hàm liền sau nào đó thì sẽ thỏa mãn các tiên đề Peano. Có nhiều hệ thống thỏa mãn các tiên đề này, trong đó có các số tự nhiên (bắt đầu bằng số không hay bằng số một). Xây dựng dựa trên lý thuyết tập hợp Phép xây dựng chuẩn Trong lý thuyết tập hợp có một trường hợp đặc biệt của phép xây dựng von Neumann định nghĩa tập hợp số tự nhiên như sau: Chúng ta định nghĩa , tập hợp rỗng và định nghĩa với mọi . Sau đó tập hợp số tự nhiên được định nghĩa là giao của tất cả các tập hợp chứa 0 mà là các tập đóng đối với hàm liền sau. Nếu chúng ta thừa nhận tiên đề về tính vô hạn thì sẽ chứng minh được định nghĩa này thỏa mãn các tiên đề Peano. Mỗi số tự nhiên khi đó bằng tập hợp của các số tự nhiên nhỏ hơn nó, sao cho: , , , , , vân vân Khi ta thấy một số tự nhiên được dùng như là một tập hợp, thì thông thường, ý nghĩa của nó như được trình bày ở trên. Theo định nghĩa đó, có đúng n phần tử (theo nghĩa thông thường) trong tập và (cũng theo nghĩa bình thường) khi và chỉ khi là một tập con của . Cũng từ định nghĩa này, những cách hiểu khác nhau về các ký hiệu như (là một n-tuple hay là một ánh xạ từ vào )) trở nên tương đương nhau. Các phép xây dựng khác Mặc dù phép xây dựng chuẩn thông dụng nhưng nó không phải là phép xây dựng duy nhất. Ví dụ về phép dựng của Zermalo: có thể định nghĩa 0 = { } và , tạo ra 0 = { } 1 = {0} = {{ }} 2 = {1} = {{{ }}},... Hay chúng ta có thể định nghĩa 0 = {{ }} và } tạo ra 0 = {{ }} 1 = {{ }, 0} = {{ }, {{ }}} 2 = {{ }, 0, 1},... Có thể vẫn còn tranh cãi, nhưng nhìn chung người ta thường gán định nghĩa có tính lý thuyết tập hợp xưa nhất về số tự nhiên cho Frege và Russell. Trong định nghĩa của hai người này thì mỗi số tự nhiên n cụ thể được định nghĩa là tập hợp của tất cả các tập có phần tử. Frege và Rusell bắt đầu bằng cách định nghĩa 0 là (rõ ràng đây là tập của tất cả các tập có 0 phần tử) và định nghĩa (với A là một tập bất kỳ) là . Như vậy 0 sẽ là tập của tất cả các tập có 0 phần tử, sẽ là tập của tất cả các tập có một phần tử, sẽ là tập của tất cả các tập có 2 phần tử, và cứ thế. Sau đó, tập hợp của tất cả các số tự nhiên được định nghĩa như là phần giao của tất cả các tập có chứa 0 và là tập đóng với phép (tức là nếu tập này chứa phần tử ) thì nó cũng phải chứa ). Định nghĩa này sẽ không dùng được trong những hệ thống thông thường của lý thuyết tập hợp tiên đề vì những tập được tạo ra như vậy quá lớn (nó sẽ không dùng được trong bất kỳ lý thuyết tập hợp nào với tiên đề tách - separation axiom); nhưng định nghĩa này sẽ làm việc được trong Cơ sở Mới (New Foundations) (và trong các hệ thống tương thích với Cơ sở Mới) và trong một vài hệ thống của lý thuyết kiểu. Trong phần còn lại của bài này, chúng ta sử dụng phép xây dựng chuẩn đã mô tả ở trên. Các phép toán trên tập hợp số tự nhiên Các phép toán trên tập hợp các số tự nhiên có thể định nghĩa nhờ phép đệ quy như sau Phép cộng Phép cộng này khiến trở thành một vị nhóm giao hoán với phần tử trung lập là 0, cũng là một vị nhóm tự do với một hệ sinh nào đó. Vị nhóm thỏa tính chất khử và do đó có thể được nhúng trong một nhóm. Nhóm nhỏ nhất chứa các số tự nhiên là số nguyên. Nếu chúng ta ký hiệu là 1, khi đó ; tức là, số liền sau của chẳng qua là . Phép nhân Tương tự như phép cộng, chúng ta định nghĩa phép nhân × như sau Phép nhân được định nghĩa như vậy khiến (N,×) trở thành một vị nhóm với phần tử trung lập là 1; một hệ sinh của vị nhóm này chính là tập hợp các số nguyên tố. Phép cộng và phép nhân thỏa tính chất phân phối: . Các tính chất mà phép cộng và phép nhân thỏa khiến tập số tự nhiên trở thành một trường hợp ví dụ của nửa vành giao hoán. Nửa vành là dạng tổng quát hóa đại số của số tự nhiên mà trong đó phép nhân không cần phải thỏa tính giao hoán. Nếu chúng ta hiểu tập hợp số tự nhiên theo nghĩa"không có số 0"và"bắt đầu bằng số 1"thì các định nghĩa về phép + và × cũng vẫn thế, ngoại trừ sửa lại và . Trong phần còn lại của bài này, chúng ta viết để ám chỉ tích , và chúng ta cũng sẽ thừa nhận quy định về thứ tự thực hiện các phép toán. Quan hệ thứ tự Chúng ta có thể định nghĩa một quan hệ thứ tự toàn phần trên tập số tự nhiên như sau: Với hai số tự nhiên a,b, ta có nếu và chỉ nếu tồn tại một số tự nhiên sao cho . Kiểu sắp thứ tự này cùng với các phép toán số học đã định nghĩa ở trên cho ta: Nếu , và là các số tự nhiên và , thì và Tập số tự nhiên còn có một tính chất quan trọng nữa là chúng là tập sắp tốt: mọi tập không rỗng của các số tự nhiên phải có một phần tử nhỏ nhất. Phép chia có dư và tính chia hết Cho hai số tự nhiên và . Xét tập hợp M các số tự nhiên sao cho . Tập này bị chặn nên có một phần tử lớn nhất, gọi phần tử lớn nhất của M là . Khi đó và . Đặt . Khi đó ta có , trong đó . Có thể chứng minh rằng các số và là duy nhất. Số được gọi là thương hụt (hay vắn tắt là thương), số được gọi là số dư khi chia cho . Nếu thì . Khi đó ta nói rằng chia hết cho hay là ước của , là bội của . Tổng quát hóa Với hai hướng sử dụng như đã nêu ở phần giới thiệu, số tự nhiên trước hết được tổng quát hóa theo hai hướng sử dụng này: số thứ tự được dùng để mô tả vị trí của một phần tử trong một dãy sắp thứ tự và bản số dùng để xác định kích thước của một tập hợp nào đó. Trong trường hợp dãy hữu hạn hay tập hợp hữu hạn, cả hai cách sử dụng này thực chất là đồng nhất với nhau. Các tập hợp số : Tập hợp số tự nhiên : Tập hợp số nguyên : Tập hợp số hữu tỉ = : Tập hợp số vô tỉ : Tập hợp số thực Ghi chú
Đại Vương cung thánh đường Giáo tông Thánh Phêrô tại Vatican (tiếng Ý: Basilica Papale maggiore di San Pietro in Vaticano) hay đơn giản là Vương cung thánh đường Thánh Phêrô (tiếng Latinh: Basilica Sancti Petri) là một nhà thờ Công giáo tọa lạc tại Thành quốc Vatican, đất nước độc lập nhỏ nhất thế giới nằm trong lòng thành phố Roma. Được các bậc thầy kiến trúc sư Donato Bramante, Michelangelo, Carlo Maderno và Gian Lorenzo Bernini lần lượt chịu trách nhiệm thiết kế, vương cung thánh đường này là kiệt tác kiến trúc nổi tiếng nhất và vĩ đại nhất của thời Phục Hưng và là công trình nhà thờ lớn nhất trên thế giới theo thể tích khối. Tuy đây không phải là nhà thờ mẹ của Giáo hội Công giáo Rôma và cũng không phải là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Rôma (những danh hiệu này thuộc về Tổng lãnh vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô), Vương cung thánh đường Thánh Phêrô là một trong những thánh đường thiêng liêng nhất của Công giáo. Công trình này được nhận định là thánh đường "nắm giữ vị trí độc nhất trong thế giới Kitô giáo" và là "nhà thờ vĩ đại nhất trong các nhà thờ thuộc Giáo hội Kitô Hoàn vũ". Nhà thờ hiện nay được xây dựng từ ngày 18 tháng 4 năm 1506 và hoàn thành ngày 18 tháng 11 năm 1626. Trước đó, vào thế kỷ thứ 4 cũng đã có một nhà thờ được xây dựng trên khu đất hiện tại trong thời đại của Hoàng đế La Mã Constantinus Đại đế. Truyền thống Giáo hội Công giáo Rôma tin rằng, khu vực dưới bàn thờ của vương cung Thánh đường này là phần mộ của Thánh Phêrô - vị giám mục của Rôma và cũng là giáo hoàng đầu tiên. Vì lý do đó, nhiều Giáo hoàng đầu tiên cũng đã được chôn cất trong nhà thờ này trong giai đoạn sơ khai của Kitô giáo. Thánh đường này là nổi tiếng như là một địa điểm hành hương và cho các mục đích phụng vụ. Giáo hoàng thực hiện một số nghi thức phụng vụ tại đây hàng năm, thu hút lượng người tham dự từ 15.000 tới 80.000 người tập trung trong đại thánh đường hoặc Quảng trường Thánh Phêrô ngay phía trước. Vương cung thánh đường Thánh Phêrô có nhiều mối liên hệ lịch sử với nhà thờ Thiên Chúa giáo sơ khai, Giáo hoàng, Cải cách Tin Lành, Phong trào Phản Cải cách và nhiều nghệ sĩ, đặc biệt là Michelangelo. Là một kiệt tác kiến trúc, công trình này được coi là một trong những tòa nhà lớn nhất trong thời đại Phục Hưng. Vương cung thánh đường Thánh Phêrô là một trong bốn nhà thờ tại Roma có tước hiệu Đại vương cung thánh đường. Ngược lại với quan niệm sai lầm phổ biến, thánh đường này không phải là một nhà thờ chính tòa, bởi vì đây không phải là nơi đặt ngai tòa của một giám mục; ngai tòa của giáo hoàng với tư cách Giám mục Giáo phận Rôma là ở Tổng lãnh vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô. Tên gọi Tổng quan Thánh đường thánh Phêrô là một nhà thờ theo phong cách Phục Hưng nằm tại thành phố Vatican, phía tây của sông Tiber và gần đồi Janiculum và Lăng Hadrian. Kiến trúc vòm trung tâm của nó nổi bật trên đường chân trời của thành phố Roma. Tới thánh đường phải đi qua Quảng trường Thánh Phêrô, một sân trước có hai phần, cả hai phần được một dãy cột cao bao quanh. Không gian đầu tiên có hình bầu dục và không gian thứ hai có hình thang. Mặt tiền của thánh đường, với một số lượng lớn cột trụ, trải dài trên phần cuối của quảng trường và được nối tiếp bằng các bậc thềm, ở trên đó có hai bức tượng của các tông đồ thế kỷ 1 tới Rome, thánh Peter và Paul cao 5,55 m (18,2 ft). Thánh đường có hình chữ thập, với một gian giữa thon dài dưới dạng thánh giá nhưng những thiết kế ban đầu là một cấu trúc tập trung ở giữa và điều này vẫn còn là bằng chứng trong kiến trúc ngày nay. Các không gian trung tâm chi phối cả bên ngoài và bên trong bằng một trong những mái vòm lớn nhất thế giới. Lối vào thông qua một tiền sảnh kéo dài suốt tòa nhà. Một trong những cánh cửa bằng đồng kéo dài từ tiền sảnh là Cửa Thánh, chỉ mở trong dịp lễ Jubilees. Nội thất của thánh đường này có kích thước rất lớn khi so sánh với các nhà thờ khác. Một tác giả đã viết: "Từ từ chúng ta nhận ra - khi chúng ta thấy mọi người đến gần tượng đài này, điều kỳ lạ xuất hiện khi các khách tham quan có vẻ nhỏ đi, tất nhiên, nhỏ so với quy mô của tất cả mọi thứ trong tòa nhà này. Cảm xúc này đã lấn lướt chúng ta." Nhà thờ Thánh Phêrô là nơi có nhiều tác phẩm nghệ thuật, đáng kể nhất là các tác phẩm của Michelangelo. Nhà thờ này được khởi công xây dựng ngày 18 tháng 4 năm 1506 trên nền một nhà thờ khác. Chính Giáo hoàng Giuliô II đã ra lệnh phá bỏ nhà thờ cũ này để xây nhà thờ mới với mong muốn đây sẽ là nơi chôn cất chính mình sau khi mất. Do đó, ông đã chọn họa sĩ nổi tiếng Michelangelo làm người đứng đầu việc xây dựng công trình này. Tuy nhiên, Michelangelo phải nhường vị trí này cho Donato Bramante do một số tranh cãi về việc có nên phá bỏ nhà thờ cũ hay không. Bramante đã cho phá bỏ hầu hết nền nhà thờ 1.200 năm cùng với 4 cây cột. Sau khi Giáo hoàng Giuliô II và Bramante lần lượt mất năm 1513 và 1514, công trình này bị gián đoạn nhiều lần và được chỉ huy bởi nhiều kiến trúc sư khác nhau. Trong đó có Raffaello, người đã thiết kế và xây dựng nhà thờ với hình dáng giống một cây thập tự. Một thời gian sau, lần lượt các kiến trúc sư Sangallo và Michelangelo tiếp tục việc xây dựng. Đối với Michelangelo, đây là lần thứ 2 ông chỉ huy công trình này. Ông đã thiết kế mái vòm nổi tiếng, một kỳ tích của kỹ thuật xây dựng bởi đây là công trình xây bằng gạch có khoảng cách bắc cầu tự do lớn nhất (dài 24 m, ở độ cao 120 m). Tuy nhiên, Michelangelo không thể hoàn thành mái vòm này (ông mất năm 1564) mà phải nhờ đến kiến trúc sư Giacomo della Porta. Năm 1626, tức sau 120 năm xây dựng, nhà thờ được khánh thành với 187 m chiều dài và 45 m chiều cao với sức chứa trên 60.000 người.
Trình duyệt ngoại tuyến là một nhóm các chương trình đặc biệt. Nó có công dụng tải nhanh một trang web về máy, và nó tải nguyên trang luôn. Khi tải xong, người dùng có thể copy về máy các nhân của mình để xem chi tiết tin tức trên trang web đó. Các chương trình Đầu tiên phải kể đến Offline Explorer và TelePort. Đây là 2 chương trình nhiều người dùng nhất.