vi
stringlengths
846
10.5k
en
stringlengths
799
10.5k
Ngày 1/4, nhân ngày giỗ lần thứ 22 (2001-2023) của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn , gia đình và Trịnh Công Sơn Foundation đã tổ chức chuỗi các chương trình khá đặc biệt, ý nghĩa ngay tại ngôi nhà nơi nhạc sĩ đã sinh sống và làm việc tới cuối đời. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Theo đó, chuỗi các chương trình bắt đầu vào sáng nay (1-4) gồm Bảo tàng 3D ngôi nhà 47C Phạm Ngọc Thạch (tức 47C Duy Tân cũ), công bố bộ sưu tập tem Kỹ thuật số, triển lãm tranh cá nhân của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, công bố ấn phẩm bộ tranh in 12 tác phẩm hội họa của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đêm nhạc “The Legend Concert – Trịnh Công Sơn”… Đáng chú ý, với chương trình Bảo tàng 3D, ngôi nhà 47C Phạm Ngọc Thạch, nơi cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng sống và làm việc đến cuối đời sẽ trở thành Bảo tàng 3D và người mến mộ tài năng nhạc sĩ sẽ được viếng thăm tự do, được “chạm” vào từng chi tiết thực tế của ngôi nhà. Cùng thời điểm đó, Bộ sưu tập Tem kỹ thuật số lưu trữ bằng công nghệ blockchain với số lượng 222 chiếc được công bố. Những hình ảnh trong bộ sưu tập được thực hiện bởi nhiếp ảnh Dương Minh Long – người đã chụp, lưu giữ và bảo quản hơn 9.000 tấm phim màu và phim đen trắng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong 33 năm qua. Bộ sưu tập tem kỹ thuật số về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được lưu trữ bằng công nghệ blockchain. Triển lãm tranh cá nhân của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là hoạt động thứ ba trong chuỗi chương trình tưởng niệm năm nay. Tài năng hội họa của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn một lần nữa được giới thiệu tới khán giả thông qua loạt tác phẩm được ông sáng tác qua nhiều năm trên các chất liệu: sơn dầu, phấn màu, chì than… Trong đó, có chân dung diễn viên điện ảnh Phạm Linh Đan, chân dung nhà thơ Bùi Giáng, chân dung người bạn Nhật Bản Michiko, chân dung các em gái Trịnh Vĩnh Tâm , Trịnh Hoàng Diệu, Trịnh Vĩnh Trinh cùng các cháu trong gia đình… Sự kiện này do gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phối hợp cùng AC Heritage, Trung Tâm M.A.S tổ chức. Triển lãm diễn ra từ ngày 9 đến ngày 23-4 tại Không gian Nghệ thuật M.A.S – The Global City (phường An Phú, TP Thủ Đức , TPHCM ). Cùng thời điểm triển lãm tranh lần đầu tiên được trưng bày, Công ty Di sản Văn hóa Á Châu (AC Heritage) cũng phát hành bộ tranh in 12 tác phẩm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với số lượng in hạn chế. Đêm nhạc The Legend Concert – Trịnh Công Sơn sẽ được tổ chức tối 9-4. Đặc biệt, Đêm nhạc The Legend Concert – Trịnh Công Sơn sẽ được tổ chức tối 9-4 tại Không gian Nghệ thuật M.A.S – The Global City với sự tham gia biểu diễn của các ca sĩ Tuấn Ngọc, Hồng Nhung, Hà Anh Tuấn. Trong đêm nhạc còn có sự tham gia đặc biệt của các nghệ sĩ trong gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh, biên đạo múa Sebastien Ly từ Pháp, Alexander Tú Nguyễn từ Mỹ… Ngoài ra, tuần lễ phim điện ảnh Trịnh Công Sơn sẽ được trình chiếu lại trên 18 cụm rạp Galaxy Cinema toàn quốc để tưởng niệm 22 năm ngày mất của cố nhạc sĩ (từ ngày 31- 3 đến 6-4-2023).
April 1, on the 22nd death anniversary (2001-2023) of the late musician Trinh Cong Son , his family and the Trinh Cong Son Foundation organized a series of quite special and meaningful programs right at the house where the musician lived and worked until the end of his life. Musician Trinh Cong Son. Accordingly, the series of programs starting this morning (April 1) includes the 3D Museum of the house at 47C Pham Ngoc Thach (formerly 47C Duy Tan), the announcement of a Digital stamp collection, and a personal painting exhibition. by musician Trinh Cong Son, publication of a set of 12 paintings by musician Trinh Cong Son, music night "The Legend Concert - Trinh Cong Son"... Notably, with the 3D Museum program, the house at 47C Pham Ngoc Thach, where the late musician Trinh Cong Son lived and worked until the end of his life, will become a 3D Museum and fans of the musician's talent will be able to visit. Visit freely, "touch" every actual detail of the house. At the same time, a Digital Stamp Collection stored using blockchain technology with a quantity of 222 pieces was announced. The images in the collection were taken by photographer Duong Minh Long - who has taken, saved and preserved more than 9,000 color and black-and-white films of musician Trinh Cong Son over the past 33 years. The digital stamp collection about musician Trinh Cong Son is stored using blockchain technology. The solo painting exhibition of musician Trinh Cong Son is the third activity in a series of memorial programs this year. The painting talent of musician Trinh Cong Son was once again introduced to the audience through a series of works he created over many years on materials: oil paint, pastel, charcoal... Among them, there are feet. Portrait of movie actor Pham Linh Dan, portrait of poet Bui Giang, portrait of Japanese friend Michiko, portrait of his sisters Trinh Vinh Tam, Trinh Hoang Dieu, Trinh Vinh Trinh and their children in the family... This event was organized by the family of the late musician Trinh Cong Son in collaboration with AC Heritage and M.A.S Center. The exhibition takes place from April 9 to 23 at M.A.S Art Space - The Global City (An Phu ward, Thu Duc City , Ho Chi Minh City ). At the same time that the painting exhibition was first displayed, the Asian Cultural Heritage Company (AC Heritage) also released a limited edition set of 12 works by musician Trinh Cong Son. The Legend Concert - Trinh Cong Son will be held on the evening of April 9. In particular, The Legend Concert - Trinh Cong Son will be held on the evening of April 9 at M.A.S Art Space - The Global City with the participation of singers Tuan Ngoc, Hong Nhung, Ha Anh Tuan. The music night also had the special participation of artists from musician Trinh Cong Son's family: singer Trinh Vinh Trinh, choreographer Sebastien Ly from France, Alexander Tu Nguyen from the US... In addition, Trinh Cong Son's movie week will be re-screened on 18 Galaxy Cinema theaters nationwide to commemorate the 22nd anniversary of the late musician's death (from March 31 to April 6, 2023).
Lịch sử là một chủ đề thách thức và thôi thúc sự sáng tạo cho những cây bút trẻ. Dẫu vậy, thời gian gần đây vẫn rất nhiều tiểu thuyết lịch sử ghi được dấu ấn. Bộ tiểu thuyết lịch sử Công chúa Đồng Xuân của Trần Thùy Mai. Ảnh: NXB Phụ nữ Việt Nam. Theo nhận định của PGS.TS Thái Phan Vàng Anh (Giảng viên Khoa Ngữ văn tại Đại học Sư phạm Huế), trong những năm gần đây đề tài lịch sử ngày càng được chú ý từ phía độc giả lẫn các cây viết. Văn học hiện nay ghi nhận nhiều bộ tiểu giá trị như Vũ Tịch, Thiên Hạ Chi Vương của Trường An, Công chúa Đồng Xuân của Trần Thùy Mai, Vua Thành Thái của Nguyễn Hữu Nam… Tiểu thuyết lịch sử là một dòng văn chương, chuyên viết viết về những nhân vật lịch sử và sự kiện có thật trong lịch sử. Khác với truyện sử hay ký lịch sử, dòng tiểu thuyết này đòi hỏi các chi tiết rất công phu. Vì vậy một phần các nhân vật xuất hiện đều có yếu tố hư cấu. Dù vậy, tính chân thực của các sự kiện và nhân vật vẫn là yếu tố quan trọng. Chẳng hạn bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa, Hoàng Lê nhất thống chí… Ngày nay, do quan niệm văn học phản ánh hiện thực, quá khứ trong tiểu thuyết không quá cách xa so với thời gian viết. Nhiều nhà văn nhận ra rằng sự việc xảy ra chỉ mới vừa qua, trong phạm vi đời người, cũng đã là lịch sử. Các nhân vật được đề cập trong tiểu thuyết lịch sử không nhất thiết phải là những nhân vật nổi tiếng hay có dấu ấn. Chân dung tác giả Huỳnh Trọng Khang. Ảnh: Nhân vật cung cấp. “Quá khứ luôn có những chất liệu hấp dẫn, có thể tạo được cảm hứng sáng tác, ngay cả với những nhân vật, những sự kiện tưởng chừng quen thuộc, vẫn có thể khai thác. Về vấn đề cây bút trẻ tiếp cận dòng tiểu thuyết này, tôi nghĩ khó hay dễ là tùy người. Bản thân tôi thấy viết dù là đề tài gì, kể cả những đề tài gần gũi với mình, cũng không dễ dàng chút nào”, Huỳnh Trọng Khang, tác giả Mộ phần tuổi trẻ chia sẻ. Còn đối với Lê Khải Việt, tác giả của tập truyện ngắn Chuyến bay tháng ba , thách thức của một nhà văn khi dấn thân vào các chủ đề lịch sử là làm sao viết hấp dẫn và thu hút độc giả, đồng thời không bị sa lầy vào sử liệu. “Tuy vậy, theo đuổi đề tài lịch sử là một thách thức với các cây bút trẻ, nếu vốn đọc của họ còn ít ỏi”, tác giả Khải Việt cho biết. Tiểu thuyết lịch sử tại Việt Nam hiện có rất nhiều lớp nhà văn thuộc các thế hệ khác nhau tham gia. Đây là một mảng đề tài rộng lớn có đời sống sáng tác đa dạng. Không chỉ các tác phẩm mang tính đại chúng, những tác phẩm tiên phong cũng đã xuất hiện và thu hút sự chú ý trên văn đàn. Lối viết tiểu thuyết lịch sử cũng rất đa dạng, chẳng hạn Lưu Vĩ Lân kết hợp yếu tố trinh thám vào trong tác phẩm, các chi tiết cung đấu trong Từ Dụ Thái Hậu của Trần Thùy Mai… “Đối với lao động viết dù là viết về chủ đề gì cũng rất nhọc nhằn. Các tác giả phải quan sát, tích lũy và chắt lọc. Tuy nhiên, chất liệu của đề tài lịch sử khá hiếm. Trong khi đó, việc tái hiện một không gian trong quá khứ khác với chúng ta đã là một khó khăn rồi. Những người viết về đề tài lịch sử ít nhiều cũng là các nhà biện khảo, họ đều có tư cách của nhà khảo cứu để làm việc với hàng núi tư liệu, đào bới trong đó để tạo nên một ý tưởng của mình”, PGS.TS Phạm Xuân Thạch (Trưởng khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) nhận định. Series tiểu thuyết về triều Nguyễn và Tây Sơn của nhà văn Trường An. Ảnh: Chungta. Đồng tình với quan điểm trên, PGS.TS Thái Phan Vàng Anh (Giảng viên Khoa Ngữ văn tại Đại học Sư phạm Huế) cũng cho rằng khó khăn trong việc xây dựng một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử có thể nằm ở chỗ người viết làm cách nào để tái hiện lại không gian trong quá khứ. Từ sinh hoạt, lời ăn tiếng nói cho đến các mối quan hệ, lễ nghi, tất cả đều phải được nhà văn tìm hiểu rất kỹ để tránh việc có các hạt sạn trong tác phẩm. “Trong những tác phẩm được ra mắt gần đây, cách xử lý mối quan hệ giữa văn học và lịch sử ngày càng sáng tạo hơn. Lớp nhà văn trẻ đã tìm kiếm được lối đi riêng biến lịch sử trở thành một đề tài hấp dẫn”, PGS.TS Thái Phan Vàng Anh cho biết. Vượt qua những khó khăn nhất định của thể loại, các tác giả vẫn cho thấy được sức sáng tạo vô hạn của mình trong việc xây dựng những tác phẩm về đề tài lịch sử. Sự quan tâm của họ không chỉ dừng lại ở thời kỳ phong kiến mà còn là giai đoạn kháng chiến, chiến tranh và hậu chiến. Những nhân vật xuất hiện trong các câu chuyện có thể là những người trẻ, những người lính tưởng chừng như vô danh. Thể loại này ngày càng được đánh giá cao cả trong giới phê bình lẫn phía người viết và độc giả.
History is a challenging and creative topic for young writers. However, recently there have been many historical novels that have left their mark. The historical novel Princess Dong Xuan by Tran Thuy Mai. Photo: Vietnamese Women's Publishing House. According to Associate Professor, Dr. Thai Phan Vang Anh (Lecturer at the Department of Literature at Hue University of Education), in recent years the topic of history has received increasing attention from both readers and writers. Current literature recognizes many sets of sub-values ​​such as: Vu Tich, King of Heaven by Truong An, Princess Dong Xuan by Tran Thuy Mai, King Thanh Thai by Nguyen Huu Nam… Historical fiction is a genre of literature that specializes in writing about historical figures and real events in history. Unlike historical stories or historical accounts, this type of novel requires very elaborate details. Therefore, part of the characters that appear have fictional elements. However, the authenticity of events and characters is still an important factor. For example, set Three Kingdoms Dien Nghia, Hoang Le unified... Nowadays, due to the concept of literature reflecting reality, the past in novels is not too far away from the time of writing. Many writers realize that what happened recently, within the scope of human life, is already history. The characters mentioned in historical novels are not necessarily famous or notable figures. Portrait of author Huynh Trong Khang. Photo: Provided by the character. “The past always has attractive materials that can inspire creativity, even with seemingly familiar characters and events that can still be exploited. Regarding the issue of young writers approaching this genre of novels, I think it's difficult or easy depending on the person. I personally find that writing no matter what topic, even topics that are close to me, is not easy at all", Huynh Trong Khang, author Youth grave share. As for Le Khai Viet, author of the short story collection March flight , the challenge of a writer engaging with historical topics is to write attractively and attract readers, while not getting bogged down in historical data. "However, pursuing historical topics is a challenge for young writers, if their reading capital is still small," said author Khai Viet. Historical novels in Vietnam currently have many classes of writers of different generations participating. This is a large subject area with a diverse creative life. Not only popular works, pioneering works have also appeared and attracted attention on the literary scene. The style of writing historical novels is also very diverse, for example, Liu Weilan combines detective elements into his work, and the details of palace battles in Tu Du Queen Mother by Tran Thuy Mai… “The labor of writing, no matter what topic, is very strenuous. Authors must observe, accumulate and refine. However, the material on historical topics is quite rare. Meanwhile, recreating a space in the past that is different from ours is already a difficulty. People who write about historical topics are more or less examiners, they all have the status of researchers to work with mountains of documents, digging through them to create their own ideas", Associate Professor .Dr. Pham Xuan Thach (Dean of Literature Department, University of Social Sciences and Humanities, Hanoi National University) commented. Series of novels about the Nguyen and Tay Son dynasties by writer Truong An. Photo: Chungta. Agreeing with the above point of view, Associate Professor, Dr. Thai Phan Vang Anh (Lecturer in the Department of Literature at Hue University of Education) also believes that the difficulty in creating a work of historical fiction may lie with the writer. How to recreate the space of the past. From activities and speech to relationships and rituals, all must be studied very carefully by the writer to avoid having flaws in the work. “In recently released works, the way of handling the relationship between literature and history is becoming more and more creative. The class of young writers has found their own path to turn history into an attractive topic," Associate Professor, Dr. Thai Phan Vang Anh said. Overcoming certain difficulties of the genre, the authors still show their limitless creativity in creating works on historical topics. Their interest does not stop at the feudal period but also the resistance, war and post-war periods. The characters appearing in the stories can be young people and seemingly anonymous soldiers. This genre is increasingly appreciated both by critics and by writers and readers.
Mang màu đỏ sẫm và lang thang xung quanh hành tinh xanh nhất của hệ Mặt Trời, các vật thể bí ẩn hứa hẹn giúp chúng ta tìm hiểu quá khứ 4,6 tỉ năm trước, lúc Trái Đất đang được hoài thai. Theo Live Science, 18 vật thể bí ẩn là những tiểu hành tinh màu đỏ hiếm, quay quanh Sao Hải Vương và được chụp lại bởi 4 hệ thống quan sát thiên văn quốc tế là Palomar 200 inch, Gemini North, Gemini South và Keck (đặt tại Mỹ và Chile). Dữ liệu từ 2 năm quan sát giúp nhóm nghiên cứu, dẫn đầu bởi nhà thiên văn Bryce Bolin từ Trung tâm Chuyến bay không gian Goddard của NASA, nhận thấy chúng đỏ hơn hầu hết các tiểu hành tinh khác quanh Sao Hải Vương cũng như bất kỳ tiểu hành tinh nào khác từng được biết. 12 trong số 18 tiểu hành tinh đỏ được quan sát xung quanh Sao Hải Vương – Ảnh: NASA. Có bốn cái cực kỳ đỏ. Màu đỏ càng đậm càng cho thấy chúng giàu các hợp chất dễ bay hơi như amoniac và methanol. Các hợp chất này dễ bị tiêu biến hết khi ở gần Mặt Trời , đó cũng là lý do chúng ta không thể tìm thấy các tiểu hành tinh đỏ như vậy ở quanh mình, bởi Mặt Trời đủ sức tẩy sạch bất cứ chất dễ bay hơi nào quanh các khối đá không gian. Nghiên cứu công bố trên Monthly Notices of the Royal Astronomical Society: Letters cho rằng vẫn còn nhiều vật thể đỏ bí ẩn như thế ở ngoài kia, xa hơn, ví dụ bên ngoài quỹ đạo của Sao Diêm Vương. Nhưng màu sắc không phải thứ quan trọng nhất ở chúng, mà là cách và nơi chúng hình thành. Nhóm nghiên cứu cho biết những cái đỏ nhất có thể đã ra đời ở nơi xa Mặt Trời hơn ngày nay nhiều, trước khi di chuyển vào trong và bị cuốn vào quỹ đạo của Sao Hải Vương. Chúng có thể ra đời ngay thời điểm khởi đầu của hệ Mặt Trời. Vì vậy, việc nghiên cứu các vật thể đỏ thẫm bí hiểm này sẽ mở ra cơ hội tìm hiểu xem những vật thể đầu tiên của hệ sao chúng ta hình thành như thế nào. Vì hoàn toàn nguyên sơ, các tiểu hành tinh đỏ này cũng là cơ hội vàng để tìm kiếm thành phần ban đầu cấu thành nên hành tinh – mọi yếu tố, bao gồm các vật liệu tiền thân của sự sống. Các nhà khoa học ước tính chúng là những “viên nang thời gian” này giúp chúng ta nhìn vào thế giới khoảng 4,6 tỉ năm trước. Trái Đất được cho là khoảng hơn 4,55 tỉ tuổi, tức chúng sẽ đưa chúng ta vào khoảnh khắc địa cầu và có thể là vài hành tinh khác nữa đang được “hoài thai” từ chiếc đĩa khí bụi vây quanh Mặt Trời non trẻ.
Wearing a dark red color and wandering around the bluest planet of the solar system, mysterious objects promise to help us learn about the past 4.6 billion years ago, when the Earth was being conceived. According to Live Science, The 18 mysterious objects are rare red asteroids orbiting Neptune and were imaged by four international astronomical observation systems: Palomar 200 inch, Gemini North, Gemini South and Keck (located in the US and Chile). Data from two years of observations helped the team, led by astronomer Bryce Bolin from NASA's Goddard Space Flight Center, find them redder than most other asteroids around Neptune as well as any other asteroids around Neptune. any other asteroid known. 12 out of 18 red asteroids observed around Neptune - Photo: NASA. There are four extremely red ones. The darker the red color, the richer it is in volatile compounds such as ammonia and methanol. These compounds are easily destroyed when nearby Sun , which is also the reason we can't find such red asteroids around us, because the Sun is strong enough to wash away any volatile substances around space rocks. Research published above Monthly Notices of the Royal Astronomical Society: Letters suggests that there are still many more mysterious red objects like that out there, farther away, for example beyond the orbit of Pluto. But it's not the color that's most important about them, it's how and where they form. The reddest ones may have been born much farther from the Sun than they are today, the team says, before moving inward and being caught in Neptune's orbit. They may have been born right at the beginning of the solar system. Therefore, studying these mysterious dark red objects opens the door to understanding how the first objects of our star system formed. Because they are completely pristine, these red asteroids also represent a golden opportunity to search for the original composition of the planet – all the elements, including the precursor materials of life. Scientists estimate they are “time capsules” that give us a look at the world about 4.6 billion years ago. The Earth is believed to be more than 4.55 billion years old, which will take us into the moment when the Earth and possibly a few other planets are being "conceived" from the gas and dust disk surrounding the young Sun. .
Hà Nội đang thực hiên cải tạo nâng cấp 45 công viên hiện có và đôn đốc hoàn thành xây dựng mới 9 công viên trên địa bàn thành phố giai đoạn 2021-2025. Hiện nay, trên địa bàn Thành phố có 63 công viên, vườn hoa phục vụ công ích do Thành phố và UBND cấp huyện quản lý theo phân cấp. Ngoài ra, còn có các công viên, vườn hoa do các chủ đầu tư dự án tại các khu đô thị tự quản lý. Tại Hội nghị giao ban giữa Thường trực Thành ủy – HĐND – UBND Thành phố với lãnh đạo quận, huyện, thị xã Quý I/2023, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Dương Đức Tuấn đã trình bày báo cáo của Ban Cán sự Đảng UBND Thành phố về công tác quản lý, khai thác, sử dụng và đầu tư công viên trên địa bàn Thành phố. Theo đó, thực hiện Chương trình số 03-CTr/TU của Thành ủy về chỉnh trang đô thị, phát triển đô thị và kinh tế đô thị thành phố Hà Nội giai đoạn 2021-2025, UBND Thành phố đã ban hành Kế hoạch số 332/KH-UBND về việc cải tạo, nâng cấp và xây mới các công viên, vườn hoa trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2021-2025. Trong đó xác định: Cải tạo nâng cấp 45 công viên hiện có trên địa bàn 10 quận. Hoàn thành xây dựng mới 6 công viên trong giai đoạn 2021-2025: Công viên Chu Văn An, Công viên CV1, Công viên Khu Đô thị Tây Nam Hà Nội, Công viên văn hóa Kim Quy, Công viên hồ Phùng Khoang, Công viên Văn hóa – Vui chơi giải trí, Thể thao quận Hà Đông. Đôn đốc triển khai 03 công viên: Công viên Thiên Văn Học, Công viên Bắc Nam Mai Dịch, Công viên Hữu Nghị. Công viên Thống Nhất – điểm vui chơi, thư giãn lý tưởng giữa lòng Hà Nội (Ảnh sưu tầm). Về tiến độ triển khai đầu tư xây dựng công viên, đối với 5 công viên do Thành phố quản lý, có 4 công viên nằm trong Kế hoạch cải tạo nâng cấp (Thống Nhất, Thủ Lệ, Bách Thảo, Hòa Bình), riêng Công viên Lê Nin đã được UBND quận Ba Đình đầu tư, nâng cấp đồng bộ từ năm 2017 và hiện chỉ duy tu sửa chữa nhỏ. Đối với các công viên do quận, huyện, thị xã quản lý, cuối năm 2022, UBND quận Tây Hồ đã cải tạo được 3/5 điểm xung quanh Vườn hoa Hồ Trúc Bạch; UBND quận Hoàn Kiếm đã hoàn thành cải tạo, đưa vào sử dụng Vườn hoa Diên Hồng; UBND quận Long Biên đã khởi công cải tạo Vườn hoa Ngọc Lâm, dự kiến hoàn thành tháng 6/2023. Ngoài ra, UBND các quận đang tiếp tục hoàn thiện các thủ tục, dự kiến trong năm 2023 sẽ thực hiện cải tạo 11 vườn hoa, 1 công viên. UBND Thành phố cũng đã chỉ đạo Sở Xây dựng thường xuyên đôn đốc các chủ đầu tư và UBND các quận, huyện đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công viên theo đúng kế hoạch 9 công viên xây mới; đồng thời, đôn đốc các chủ đầu tư dự án phát triển đô thị sớm hoàn thành, bàn giao các công viên, vườn hoa để phục vụ người dân. Trong thời gian tới, Thành phố tiếp tục tập trung nguồn lực, khẩn trương thực hiện cải tạo, nâng cấp đồng bộ các công viên theo kế hoạch để phục vụ nhân dân theo hướng tạo công viên mở phù hợp với hiện trạng công viên và khu vực liền kề. Đối với các dự án xã hội hóa, Thành phố chỉ đạo đôn đốc nhà đầu tư hoàn thành việc đầu tư các công viên, vườn hoa theo dự án đầu tư đã được phê duyệt. Trong trường hợp, nhà đầu tư không hoàn thành việc đầu tư theo cam kết đầu tư, sẽ thực hiện việc thu hồi giấy phép đầu tư để kêu gọi nhà đầu tư khác thực hiện hoặc chuyển đầu tư công. Thành phố cũng tập trung kêu gọi đầu tư xã hội hóa đối với những công viên chuyên đề. Với những công viên công cộng, công viên mở phục vụ nhân dân sẽ được triển khai theo hướng giảm mật độ xây dựng (chỉ đầu tư xây dựng những công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu phục vụ công viên) tăng diện tích cây xanh (bổ sung những khu vực trồng cây xanh tập trung…), qua đó, giảm chi phí đầu tư và chi phí duy tu duy trì.
Hanoi is renovating and upgrading 45 existing parks and urging the completion of 9 new parks in the city in the 2021-2025 period. Currently, in the City there are 63 parks and flower gardens serving public benefits managed by the City and district People's Committees according to decentralization. In addition, there are also parks and flower gardens managed by project investors in urban areas. At the meeting between the Standing Party Committee - People's Council - City People's Committee and district and town leaders in the first quarter of 2023, Vice Chairman of the City People's Committee Duong Duc Tuan presented the report of the Party Committee of the People's Committee. City on the management, exploitation, use and investment of parks in the City. Accordingly, implementing Program Không. 03-CTr/TU of the City Party Committee on urban beautification, urban development and urban economy of Hanoi city for the period 2021-2025, the City People's Committee has issued Plan Không. 332/KH-UBND on renovating, upgrading and building new parks and flower gardens in the City in the period of 2021-2025. It determines: Renovating and upgrading 45 existing parks in 10 districts. Complete the construction of 6 new parks in the period 2021-2025: Chu Van An Park, CV1 Park, Southwest Hanoi Urban Area Park, Kim Quy Cultural Park, Phung Khoang Lake Park, Park Culture - Entertainment, Sports in Ha Dong district. Urging the implementation of 03 parks: Astronomy Park, North-South Mai Dich Park, Huu Nghi Park. Thong Nhat Park - an ideal place for entertainment and relaxation in the heart of Hanoi (Photo collection). Regarding the progress of investment in park construction, for 5 parks managed by the City, there are 4 parks in the Renovation and Upgrade Plan (Thong Nhat, Thu Le, Bach Thao, Hoa Binh), specifically Lenin Park has been approved by the People's Committee Ba Dinh district Invested and upgraded synchronously since 2017 and currently only maintains minor repairs. For parks managed by districts, towns, and cities, by the end of 2022, the People's Committee West Lake District 3/5 points around Truc Bach Lake Flower Garden have been renovated; People's Committee Hoan Kiem District Completed renovation and put into use Dien Hong Flower Garden; People's Committee Long Bien district has begun renovating Ngoc Lam Flower Garden, expected to be completed in June 2023. In addition, the People's Committees of the districts are continuing to complete procedures, and it is expected that in 2023, 11 flower gardens and 1 park will be renovated. The City People's Committee has also directed the Department of Construction to regularly urge investors and People's Committees of districts to accelerate the completion of parks according to the plan of 9 new parks; At the same time, urge investors of urban development projects to soon complete and hand over parks and flower gardens to serve the people. In the coming time, the City will continue to focus resources and urgently carry out renovation and synchronous upgrading of parks as planned to serve the people in the direction of creating open parks in accordance with the current state of the parks and adjacent area. For socialization projects, the City directs and urges investors to complete the investment in parks and flower gardens according to approved investment projects. In case the investor does not complete the investment according to the investment commitment, the investment license will be revoked to call on other investors to make or transfer public investment. The city also focuses on calling for social investment in theme parks. With public parks and open parks serving the people, they will be deployed in the direction of reducing construction density (only investing in the construction of essential technical infrastructure works to serve the park) and increasing green area. (addition of concentrated green tree planting areas...), thereby reducing investment costs and maintenance costs.
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ban hành công điện nhằm tập trung tháo gỡ vướng mắc về đất đai, vật liệu xây dựng để thực hiện các dự án đường bộ cao tốc và bất động sản. Các địa phương như TP Hà Nội, TP.HCM đã có nhiều giải pháp để triển khai thực hiện những dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc và bất động sản. Tuy nhiên, thực tế việc triển khai còn nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt đối với việc: Khai thác, cung ứng vật liệu xây dựng cho các dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc; xác định giá đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở lưu trú cho công nhân. Để kịp thời khắc phục tình trạng trên, Thủ tướng ban hành công điện nhằm tập trung tháo gỡ vướng mắc về đất đai, vật liệu xây dựng để thực hiện các dự án đường bộ cao tốc và bất động sản. Cao tốc Bắc – Nam đoạn Mai Sơn – QL45. Ảnh: Hoàng Hà. Về việc khai thác, cung ứng vật liệu xây dựng cho các dự án đường bộ cao tốc, Thủ tướng nhấn mạnh phương châm phải dành ưu tiên cao nhất về nguồn lực, vật liệu để đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án giao thông, nhất là những dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc. Các địa phương chịu trách nhiệm trước Thủ tướng trong trường hợp để xảy ra tình trạng giấy phép khai thác khoáng sản hết hạn, không đủ điều kiện gia hạn, thiếu nguồn vật liệu cung cấp cho dự án. Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành chỉ đạo các sở, ngành, các huyện, thị xã có trách nhiệm cùng với các chủ đầu tư, nhà thầu thỏa thuận với các chủ sở hữu về giá đền bù, hỗ trợ, thuê đất, bồi thường cây cối, hoa màu… đối với mỏ mới nằm trong hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng phục vụ các dự án, đảm bảo phù hợp với mặt bằng giá bồi thường của nhà nước quy định. Địa phương cấp trực tiếp cho chủ đầu tư, nhà thầu thực hiện dự án hoặc làm việc với các nhà cung ứng vật liệu, chủ mỏ để có cam kết việc cung ứng vật liệu theo giá đã công bố, niêm yết, nếu không phải xử lý theo quy định của pháp luật. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, quản lý chặt chẽ giá vật liệu xây dựng, đặc biệt là giá vật liệu tại các mỏ đang khai thác để không xảy ra tình trạng nâng giá, ép giá, bán với giá cao hơn mức giá đã được địa phương công bố. Trường hợp phát hiện tình trạng cố tình thông đồng, ép giá cao hơn so với giá đã công bố phải có giải pháp mạnh như xử phạt, xem xét thu hồi giấy phép. Thủ tướng yêu cầu, xem xét xử lý trách nhiệm người đứng đầu đối với các sở, ngành, địa phương không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thủ tướng giao Bộ GTVT khẩn trương xây dựng kế hoạch và chịu trách nhiệm toàn diện về nhu cầu vật liệu thi công (bao gồm đất, đá, cát đắp nền) cho các dự án đầu tư xây dựng giao thông, nhất là dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc, lên biểu đồ nhu cầu vật liệu theo tiến độ dự án đến năm 2024 gửi Bộ TN&MT và các địa phương. Bộ GTVT cần chỉ đạo chủ đầu tư, nhà thầu chủ động làm việc với địa phương để bảo đảm các mỏ và nguồn cung cấp vật liệu san lấp, đắp nền phục vụ thi công; thực hiện theo đơn giá vật liệu do địa phương ban hành theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm tính ổn định và không làm tăng vốn đầu tư. Về việc xác định giá đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, Thủ tướng yêu cầu khẩn trương rà soát, tổng hợp các dự án đang vướng mắc thủ tục pháp lý liên quan đến việc xác định giá đất cụ thể, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Thủ tướng nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm, không né tránh, không đùn đẩy để giải quyết, tháo gỡ; việc này phải báo cáo kết quả cho Thủ tướng hàng quý, bắt đầu từ quý 2. Thủ tướng thăm hỏi các hộ dân tại khu nhà ở xã hội phường Quỳnh Lâm, TP Hòa Bình. Ảnh: Nhật Bắc. Về xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở lưu trú cho công nhân, Thủ tướng yêu cầu thực hiện đúng quy định của pháp luật về công tác quy hoạch, công bố quy hoạch, bố trí quỹ đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở để phát triển nhà ở xã hội. Rà soát, thực hiện nghiêm quy định về việc dành 20% quỹ đất ở đã đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong các dự án nhà ở thương mại, khu đô thị để đầu tư phát triển nhà ở xã hội theo pháp luật về nhà ở. Công khai, giới thiệu quỹ đất đầu tư nhà ở xã hội cho các doanh nghiệp để nghiên cứu, đề xuất đầu tư. Quy hoạch, bố trí các dự án nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân độc lập tại các vị trí phù hợp, thuận tiện, có quy mô lớn, đầy đủ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, đặc biệt là các TP lớn như TP Hà Nội , TP.HCM … Dành quỹ đất và kêu gọi các chủ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp bất động sản tham gia đầu tư, phát triển nhà ở công nhân, nhà lưu trú cho công nhân thuê tại các khu công nghiệp và khu kinh tế. Thủ tướng giao Bộ Xây dựng nghiên cứu xây dựng báo cáo Chính phủ trình Quốc hội xem xét ban hành “Nghị quyết của Quốc hội thí điểm một số chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội” vào kỳ họp tháng 5.
Prime Minister Pham Minh Chinh has just issued an official telegram to focus on removing problems with land and construction materials to implement highway and real estate projects. Localities such as Hanoi and Ho Chi Minh City have had many solutions to implement investment projects in highway construction and real estate. However, the actual implementation still has many difficulties and obstacles, especially with regard to: Exploiting and supplying construction materials for highway construction investment projects; determine land price, allocate land, lease land, change land use purpose; Build social housing and accommodation for workers. To promptly overcome the above situation, the Prime Minister issued an official telegram to focus on removing problems with land and construction materials to implement highway and real estate projects. North - South Expressway section Mai Son - National Highway 45. Photo: Hoang Ha. Regarding the exploitation and supply of construction materials for highway projects, the Prime Minister emphasized the motto of giving the highest priority to resources and materials to speed up investment progress in transportation projects. , especially highway construction investment projects. Localities are responsible to the Prime Minister in cases where mineral exploitation licenses expire, are not eligible for renewal, or lack of materials to supply the project. Chairman of the Provincial and City People's Committees directs departments, branches, districts and towns to be responsible for working with investors and contractors to negotiate with owners on compensation, support, land rental, and compensation prices. Usually trees, crops, etc. for new mines are included in the construction materials survey records for projects, ensuring compliance with the compensation price level prescribed by the state. Localities issue directly to investors, project contractors or work with material suppliers and mine owners to commit to supplying materials at announced or listed prices, if not handled according to the provisions of law. Strengthen inspection, examination, control, and strict management of construction material prices, especially material prices at currently exploited mines so that price increases, price pressures, and selling at inflated prices do not occur. higher than the locally announced price. In case of detecting intentional collusion or forcing prices higher than announced prices, there must be strong solutions such as fines and consideration of license revocation. The Prime Minister requested to consider and handle the responsibilities of heads of departments, branches and localities that do not complete their assigned tasks. The Prime Minister assigned the Ministry of Transport to urgently develop a plan and take full responsibility for the need for construction materials (including soil, stone, sand for foundation) for traffic construction investment projects, especially the Invest in highway construction, chart material needs according to project progress until 2024 and send to the Ministry of Natural Resources and Environment and localities. The Ministry of Transport needs to direct investors and contractors to proactively work with localities to ensure mines and supplies of leveling and embankment materials for construction; Follow the unit price of materials issued by the locality in accordance with the provisions of law, ensuring stability and not increasing investment capital. Regarding determining land prices, land allocation, land lease, and changing land use purposes, the Prime Minister requested to urgently review and synthesize projects that are having problems with legal procedures related to land price determination. Specifically, land allocation, land lease, and change of land use purpose. The Prime Minister emphasized the spirit of responsibility, not avoiding or pushing to solve and solve problems; This result must be reported to the Prime Minister every quarter, starting from the second quarter. The Prime Minister visited households in the social housing area of ​​Quynh Lam ward, Hoa Binh city. Photo: Nhat Bac. Regarding the construction of social housing and accommodation for workers, the Prime Minister requires strict implementation of legal regulations on planning, announcement of planning, and arrangement of land funds in accordance with planning and plans. land use planning, construction planning, housing development programs and plans to develop social housing. Review and strictly implement regulations on reserving 20% ​​of residential land funds invested in technical infrastructure in commercial housing projects and urban areas for investment in social housing development according to housing law. . Publicize and introduce social housing investment land funds for businesses to research and propose investment. Plan and arrange social housing projects and housing for independent workers in suitable, convenient locations, with large scale, complete technical and social infrastructure, especially Big cities like Hanoi City , Ho Chi Minh City ... Set aside land funds and call on industrial park infrastructure investors, manufacturing enterprises and real estate enterprises to participate in investing and developing worker housing and accommodation for workers to rent in the zones. industrial and economic zones. The Prime Minister assigned the Ministry of Construction to research and develop a report for the Government to submit to the National Assembly for consideration and promulgation of "The National Assembly's Resolution on piloting a number of policies to promote social housing development" at the May session.
Khi bị hành hình, Nguyễn Trung Trực đòi được mở mắt, đứng hiên ngang giữa pháp trường, tuyên lời nói bất hủ cuối cùng: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam này thì mới hết người Nam đánh Tây!” Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, thuở nhỏ gọi là Chơn. Giữ chức Quản cơ, nên ông thường được gọi tắt là Quản Lịch hoặc Quản Chơn. Tên Nguyễn Trung Trực chỉ được dùng từ sau khi ông chỉ huy đánh chìm tàu chiến L’Espérance năm 1861, trong cuộc chiến tranh giữ đất Nam Kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Gốc người Bình Định (cụ thể nay là ở thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát , tỉnh Bình Định ), từ đời ông nội của Nguyễn Trung Trực, để tránh quân Tây Sơn nên đã di cư vào Nam, định cư ở thôn Bình Nhựt, tổng Bình Cách, huyện Thuận An, phủ Tân Bình, trấn Phiên An (nay thuộc xã Thạch Đức, huyện Bến Lức , tỉnh Long An ), sinh sống bằng nghề chài lưới. Năm 1838, Nguyễn Trung Trực được sinh ra ở đấy. Lớn lên, ông nối nghiệp nhà, theo nghề chài lưới trên sông Vàm Cỏ Đông, đồng thời đi học văn và đặc biệt là học võ tại Bảo Định, Định Tường. Năm 1858, ông đoạt giải thi võ tại Cát Tài, phủ lỵ Tân An. Cũng năm ấy, thực dân Pháp bắt đầu đến xâm lược, Nguyễn Trung Trực được các võ sinh trong miền tôn làm thủ lĩnh, tham gia chống Pháp. Đền thờ Nguyễn Trung Trực tại TP Phú Quốc và hiện vật trưng bày trong khu đền thờ (Ảnh: DUY NHÂN). Tháng 2-1859, thực dân Pháp nổ súng đánh thành Gia Định. Nguyễn Trung Trực sốt sắng chiêu mộ nghĩa dân, lập đạo nghĩa binh chống Pháp, đứng dưới cờ của Tướng Nguyễn Tri Phương, xây dựng và chiến đấu ở Đại đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa). Lúc đầu, do chưa được trọng dụng, ông lui về Tân An làm lễ tuyên thệ xuất quân, rồi lại đưa đoàn “dân dũng” của mình đến Kỳ Hòa, đứng dưới cờ của Trương Định, được phong là “Quản binh đạo”. Tháng 2-1861, Đại đồn Kỳ Hòa thất thủ. Nguyễn Trung Trực đưa lực lượng của mình rút trở về Tân An. Thực dân Pháp tiếp tục tấn công, đánh hạ thành Định Tường (tháng 4-1861) rồi thường xuyên cho tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động, kiểm soát giao thông trên sông và các làng ven sông trong vùng. Chiếc tiểu hạm L’Espérance được phái đến án ngữ vàm Nhật Tảo (nay thuộc xã Nhựt Tân, huyện Tân Trụ , tỉnh Long An ) trong binh tình đó. Trưa 10-12-1861, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân dưới quyền quyết định tấn công tàu Hy Vọng. Tránh bị địch nghi ngờ khi tiếp cận, ông cho giả trang lực lượng chiến đấu thành một đám cưới đi thuyền ghé vào tàu “trình giấy”. Áp sát được mục tiêu, ông chỉ huy nghĩa quân trèo, nhảy cả lên tàu, chém giết. Địch không kịp trở tay đề phòng, bị diệt 17 tên Pháp, 20 cộng sự Việt, chỉ 2 lính Pháp và 6 lính Ta-gan (lính Philippines đánh thuê) chạy thoát. Tàu địch bị chiếm, bị nghĩa quân nổi lửa, đốt cháy. L’Espérance chìm nghỉm dưới sông Vàm Cỏ Đông . Chiến công rất lớn này của Nguyễn Trung Trực đã vẻ vang vào trong thơ của danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt (dịch): “Lửa bừng Nhật Tảo inh trời đất”, kèm (và đối) với câu ca ngợi chiến công lớn thứ 2 của ông (dịch): “Kiếm bạt Kiên Giang rợn quỷ thần”. Sau chiến công Nhật Tảo, Nguyễn Trung Trực được phong chức Quản cơ, cùng Trương Định tiếp tục nhiều trận oanh liệt đánh giặc giữ đất. Sau khi Hàng ước 1862 được triều đình Huế ký với Pháp, ông cùng Trương Định kháng mệnh triều đình – điều động ra khỏi 3 tỉnh miền Đông đã nhường cho Pháp, vẫn cứ ở lại chiến trường quyết liệt sự nghiệp Nam Kỳ kháng Pháp. Nhưng đến khi Trương Định hy sinh (năm 1864) và Pháp lăm le đánh chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây thì ông nhận chức “Hà Tiên thành thủ úy” của vua Tự Đức ban, đưa lực lượng về miền Tây giữ thành. Chưa kịp tới nơi thì ngày 24-6-1867 thành đã bị Pháp chiếm mất. Nguyễn Trung Trực quyết định lập mật khu ở Sân Chim ( huyện An Biên , tỉnh Kiên Giang) và Hòn Chông ( huyện Kiên Lương , tỉnh Kiên Giang), tổ chức kháng chiến giữ đất miền Tây. 4 giờ sáng 16-6-1868, Nguyễn Trung Trực bất ngờ dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành , tỉnh Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang (nay là khu vực trụ sở UBND tỉnh Kiên Giang ), tiêu diệt cả chủ tỉnh Rạch Giá lẫn 5 sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 súng các loại và làm chủ tình hình được đến 5 ngày. Đây chính là chiến công đã đi vào trong câu thơ bất hủ của Huỳnh Mẫn Đạt (dịch): “Kiếm bạt Kiên Giang rợn quỷ thần!”. Nhưng về phía Pháp thì cùng với việc gọi đây là “một sự kiện bi thảm”, một lực lượng quân tướng lớn đã được điều động từ Vĩnh Long tới, phản kích. Bắt đầu từ ngày 21-6-1868 đã nổ ra những trận đánh không cân sức giữa lực lượng của Nguyễn Trung Trực và Pháp. Cuối cùng, trước sức ép quá lớn của địch, Nguyễn Trung Trực phải lui quân về Hòn Chông, rồi từ đó đưa vợ con cùng nghĩa quân xuống thuyền, vượt biển ra đảo Phú Quốc, lập căn cứ ở Gành Dầu và Cửa Cạn, cố thủ. Người Pháp tiếp tục đưa lực lượng lớn ra Phú Quốc, truy kích. Tiếp tục những trận đánh không cân sức để giữ đất trên đảo “ngọc”, đến ngày 19-9-1868 vợ tử trận, con nhỏ chết vì khát sữa, nghĩa quân và súng đạn tổn thất, hao mòn nhiều, lại thêm việc giặc lùng bắt mẹ của ông, đưa ra đảo làm con tin, đồng thời tàn sát dân đảo để làm áp lực dụ hàng, Nguyễn Trung Trực đã quyết định nộp mình cho địch. Không mua chuộc được Nguyễn Trung Trực, người Pháp quyết định đưa ông về pháp trường Rạch Giá, hành hình vào ngày 27-10-1868 (tức ngày 12 tháng 9 năm Mậu Thìn). 30 tuổi vào ngày hồn lìa khỏi xác ấy, ở chợ Rạch Giá, trước sự thương tiếc đớn đau của đồng bào kéo đến pháp trường rất đông để tiễn ông về trời, trong đó dân làng Tà Niên – có nghề dệt chiếu hoa nổi tiếng – đã đem chiếu rải khắp pháp trường làm chỗ lót chân cho người anh hùng thọ tử. Nguyễn Trung Trực đã đòi được mở mắt, đứng hiên ngang giữa pháp trường, tuyên lời nói lẫm liệt bất hủ cuối cùng: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam này thì mới hết người Nam đánh Tây!”. Những điều linh diệu đã hiện ra, ngay sau đấy. Truyền rằng: Khi bị chém đầu, máu của Nguyễn Trung Trực từ cổ phun ra đã đọng ngay lại thành hình chữ “Thọ” trên những chiếc chiếu hoa đặc sản của dân làng Tà Niên cung tiến tại pháp trường, khiến cho từ đó tới nay, những chiếc chiếu hoa Tà Niên cung ứng cho thị trường đều phải có hoa văn chữ “Thọ” màu đỏ in ở giữa. Cũng truyền rằng: Ở lần dùng thuyền đi biển đưa nghĩa quân ra Phú Quốc, bỗng nhiên gặp sóng lừng gió lớn, Nguyễn Trung Trực đã đứng ở mũi thuyền, rút gươm, trừng mắt, chỉ thẳng lên trời. Ngay lập tức sóng yên, biển lặng, khiến cho từ đó đến nay, nhiều người dân trong vùng có tập tục đóng thuyền đi biển đều vẽ hai con mắt chỉ một màu trắng, không có tròng (lòng) đen! Và nữa, bài thơ tráng chí của nhà thơ Trương Gia Mô (dịch): “Theo việc binh nhung thuở trẻ trai/ Phong trần hăng hái tuốt gươm mài/ Anh hùng gặp phải hồi không đất/ Thù hận chang chang chống đội trời” cũng được cho chính là lời thơ của Nguyễn Trung Trực, đọc vang trên pháp trường, trước khi thọ tử! Để cho, từ đấy, cùng với chân dung của Nguyễn Trung Trực, khi hy sinh dù mới 30 tuổi nhưng luôn được thể hiện thành một bậc lão gia quắc thước với bộ râu dài, đồng dạng và đồng nhất mà được thờ phụng ở khắp nơi (Nguyễn Trung Trực chính là người được/có đền thờ nhiều nhất, trên toàn đất Nam Kỳ), làm tín điều cho sự thể: Một người anh hùng của sự nghiệp giữ đất thời “Nam Kỳ kháng Pháp” đã bất tử trong lòng dân tộc mà nhập hồn cùng non sông đất nước.
Khi bị hành hình, Nguyễn Trung Trực đòi được mở mắt, đứng hiên ngang giữa pháp trường, tuyên lời nói bất hủ cuối cùng: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam này thì mới hết người Nam đánh Tây!” Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, thuở nhỏ gọi là Chơn. Giữ chức Quản cơ, nên ông thường được gọi tắt là Quản Lịch hoặc Quản Chơn. Tên Nguyễn Trung Trực chỉ được dùng từ sau khi ông chỉ huy đánh chìm tàu chiến L’Espérance năm 1861, trong cuộc chiến tranh giữ đất Nam Kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Gốc người Bình Định (cụ thể nay là ở thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát , tỉnh Bình Định ), từ đời ông nội của Nguyễn Trung Trực, để tránh quân Tây Sơn nên đã di cư vào Nam, định cư ở thôn Bình Nhựt, tổng Bình Cách, huyện Thuận An, phủ Tân Bình, trấn Phiên An (nay thuộc xã Thạch Đức, huyện Bến Lức , tỉnh Long An ), sinh sống bằng nghề chài lưới. Năm 1838, Nguyễn Trung Trực được sinh ra ở đấy. Lớn lên, ông nối nghiệp nhà, theo nghề chài lưới trên sông Vàm Cỏ Đông, đồng thời đi học văn và đặc biệt là học võ tại Bảo Định, Định Tường. Năm 1858, ông đoạt giải thi võ tại Cát Tài, phủ lỵ Tân An. Cũng năm ấy, thực dân Pháp bắt đầu đến xâm lược, Nguyễn Trung Trực được các võ sinh trong miền tôn làm thủ lĩnh, tham gia chống Pháp. Đền thờ Nguyễn Trung Trực tại TP Phú Quốc và hiện vật trưng bày trong khu đền thờ (Ảnh: DUY NHÂN). Tháng 2-1859, thực dân Pháp nổ súng đánh thành Gia Định. Nguyễn Trung Trực sốt sắng chiêu mộ nghĩa dân, lập đạo nghĩa binh chống Pháp, đứng dưới cờ của Tướng Nguyễn Tri Phương, xây dựng và chiến đấu ở Đại đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa). Lúc đầu, do chưa được trọng dụng, ông lui về Tân An làm lễ tuyên thệ xuất quân, rồi lại đưa đoàn “dân dũng” của mình đến Kỳ Hòa, đứng dưới cờ của Trương Định, được phong là “Quản binh đạo”. Tháng 2-1861, Đại đồn Kỳ Hòa thất thủ. Nguyễn Trung Trực đưa lực lượng của mình rút trở về Tân An. Thực dân Pháp tiếp tục tấn công, đánh hạ thành Định Tường (tháng 4-1861) rồi thường xuyên cho tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động, kiểm soát giao thông trên sông và các làng ven sông trong vùng. Chiếc tiểu hạm L’Espérance được phái đến án ngữ vàm Nhật Tảo (nay thuộc xã Nhựt Tân, huyện Tân Trụ , tỉnh Long An ) trong binh tình đó. Trưa 10-12-1861, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân dưới quyền quyết định tấn công tàu Hy Vọng. Tránh bị địch nghi ngờ khi tiếp cận, ông cho giả trang lực lượng chiến đấu thành một đám cưới đi thuyền ghé vào tàu “trình giấy”. Áp sát được mục tiêu, ông chỉ huy nghĩa quân trèo, nhảy cả lên tàu, chém giết. Địch không kịp trở tay đề phòng, bị diệt 17 tên Pháp, 20 cộng sự Việt, chỉ 2 lính Pháp và 6 lính Ta-gan (lính Philippines đánh thuê) chạy thoát. Tàu địch bị chiếm, bị nghĩa quân nổi lửa, đốt cháy. L’Espérance chìm nghỉm dưới sông Vàm Cỏ Đông . Chiến công rất lớn này của Nguyễn Trung Trực đã vẻ vang vào trong thơ của danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt (dịch): “Lửa bừng Nhật Tảo inh trời đất”, kèm (và đối) với câu ca ngợi chiến công lớn thứ 2 của ông (dịch): “Kiếm bạt Kiên Giang rợn quỷ thần”. Sau chiến công Nhật Tảo, Nguyễn Trung Trực được phong chức Quản cơ, cùng Trương Định tiếp tục nhiều trận oanh liệt đánh giặc giữ đất. Sau khi Hàng ước 1862 được triều đình Huế ký với Pháp, ông cùng Trương Định kháng mệnh triều đình – điều động ra khỏi 3 tỉnh miền Đông đã nhường cho Pháp, vẫn cứ ở lại chiến trường quyết liệt sự nghiệp Nam Kỳ kháng Pháp. Nhưng đến khi Trương Định hy sinh (năm 1864) và Pháp lăm le đánh chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây thì ông nhận chức “Hà Tiên thành thủ úy” của vua Tự Đức ban, đưa lực lượng về miền Tây giữ thành. Chưa kịp tới nơi thì ngày 24-6-1867 thành đã bị Pháp chiếm mất. Nguyễn Trung Trực quyết định lập mật khu ở Sân Chim ( huyện An Biên , tỉnh Kiên Giang) và Hòn Chông ( huyện Kiên Lương , tỉnh Kiên Giang), tổ chức kháng chiến giữ đất miền Tây. 4 giờ sáng 16-6-1868, Nguyễn Trung Trực bất ngờ dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành , tỉnh Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang (nay là khu vực trụ sở UBND tỉnh Kiên Giang ), tiêu diệt cả chủ tỉnh Rạch Giá lẫn 5 sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 súng các loại và làm chủ tình hình được đến 5 ngày. Đây chính là chiến công đã đi vào trong câu thơ bất hủ của Huỳnh Mẫn Đạt (dịch): “Kiếm bạt Kiên Giang rợn quỷ thần!”. Nhưng về phía Pháp thì cùng với việc gọi đây là “một sự kiện bi thảm”, một lực lượng quân tướng lớn đã được điều động từ Vĩnh Long tới, phản kích. Bắt đầu từ ngày 21-6-1868 đã nổ ra những trận đánh không cân sức giữa lực lượng của Nguyễn Trung Trực và Pháp. Cuối cùng, trước sức ép quá lớn của địch, Nguyễn Trung Trực phải lui quân về Hòn Chông, rồi từ đó đưa vợ con cùng nghĩa quân xuống thuyền, vượt biển ra đảo Phú Quốc, lập căn cứ ở Gành Dầu và Cửa Cạn, cố thủ. Người Pháp tiếp tục đưa lực lượng lớn ra Phú Quốc, truy kích. Tiếp tục những trận đánh không cân sức để giữ đất trên đảo “ngọc”, đến ngày 19-9-1868 vợ tử trận, con nhỏ chết vì khát sữa, nghĩa quân và súng đạn tổn thất, hao mòn nhiều, lại thêm việc giặc lùng bắt mẹ của ông, đưa ra đảo làm con tin, đồng thời tàn sát dân đảo để làm áp lực dụ hàng, Nguyễn Trung Trực đã quyết định nộp mình cho địch. Không mua chuộc được Nguyễn Trung Trực, người Pháp quyết định đưa ông về pháp trường Rạch Giá, hành hình vào ngày 27-10-1868 (tức ngày 12 tháng 9 năm Mậu Thìn). 30 tuổi vào ngày hồn lìa khỏi xác ấy, ở chợ Rạch Giá, trước sự thương tiếc đớn đau của đồng bào kéo đến pháp trường rất đông để tiễn ông về trời, trong đó dân làng Tà Niên – có nghề dệt chiếu hoa nổi tiếng – đã đem chiếu rải khắp pháp trường làm chỗ lót chân cho người anh hùng thọ tử. Nguyễn Trung Trực đã đòi được mở mắt, đứng hiên ngang giữa pháp trường, tuyên lời nói lẫm liệt bất hủ cuối cùng: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam này thì mới hết người Nam đánh Tây!”. Những điều linh diệu đã hiện ra, ngay sau đấy. Truyền rằng: Khi bị chém đầu, máu của Nguyễn Trung Trực từ cổ phun ra đã đọng ngay lại thành hình chữ “Thọ” trên những chiếc chiếu hoa đặc sản của dân làng Tà Niên cung tiến tại pháp trường, khiến cho từ đó tới nay, những chiếc chiếu hoa Tà Niên cung ứng cho thị trường đều phải có hoa văn chữ “Thọ” màu đỏ in ở giữa. Cũng truyền rằng: Ở lần dùng thuyền đi biển đưa nghĩa quân ra Phú Quốc, bỗng nhiên gặp sóng lừng gió lớn, Nguyễn Trung Trực đã đứng ở mũi thuyền, rút gươm, trừng mắt, chỉ thẳng lên trời. Ngay lập tức sóng yên, biển lặng, khiến cho từ đó đến nay, nhiều người dân trong vùng có tập tục đóng thuyền đi biển đều vẽ hai con mắt chỉ một màu trắng, không có tròng (lòng) đen! Và nữa, bài thơ tráng chí của nhà thơ Trương Gia Mô (dịch): “Theo việc binh nhung thuở trẻ trai/ Phong trần hăng hái tuốt gươm mài/ Anh hùng gặp phải hồi không đất/ Thù hận chang chang chống đội trời” cũng được cho chính là lời thơ của Nguyễn Trung Trực, đọc vang trên pháp trường, trước khi thọ tử! Để cho, từ đấy, cùng với chân dung của Nguyễn Trung Trực, khi hy sinh dù mới 30 tuổi nhưng luôn được thể hiện thành một bậc lão gia quắc thước với bộ râu dài, đồng dạng và đồng nhất mà được thờ phụng ở khắp nơi (Nguyễn Trung Trực chính là người được/có đền thờ nhiều nhất, trên toàn đất Nam Kỳ), làm tín điều cho sự thể: Một người anh hùng của sự nghiệp giữ đất thời “Nam Kỳ kháng Pháp” đã bất tử trong lòng dân tộc mà nhập hồn cùng non sông đất nước.
Sở dĩ người Nhật mê nhạc Trịnh đến vậy vì họ tìm thấy sự giao cảm từ giai điệu tới tâm hồn. Văn hóa Nhật gắn với “đạo”, tức là nhìn nhận vạn vật trong cuộc sống với sự nghiền ngẫm, suy tưởng, thiền tịnh của cái tâm an nhiên (như trà đạo, thơ Haiku, bonsai, nghệ thuật vườn cảnh…). Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tranh của họa sĩ Lê Sa Long. Hôm nay 1.4, giới nghệ sĩ và khán giả tưởng niệm 22 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn – huyền thoại âm nhạc Việt Nam. Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ Việt Nam hiếm hoi có sự nổi tiếng và sức ảnh hưởng vươn tầm thế giới. Được biết, khoảng 2 triệu băng đĩa nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã được bán tại Nhật Bản – một con số kỷ lục mà chưa nhạc sĩ Việt nào đạt được. Không những vậy, ông cũng là nhạc sĩ Việt được người Nhật yêu thích nhất. Họ viết cả lời Nhật cho những ca khúc của ông để ca sĩ của họ được biểu diễn, điển hình như ca khúc Diễm xưa. Rất nhiều ca sĩ nổi tiếng ở Nhật đã hát lại ca khúc này như Tokiko Kato, Yoshimi Tendo, Aya Shimazu… Nhạc Trịnh Công Sơn còn thường xuyên được hát trong Kohaku Uta Gassen – chương trình Âm nhạc Đêm giao thừa thường niên của đài truyền hình quốc gia Nhật Bản NHK trước hàng triệu khán giả và hàng loạt sân khấu lớn nhỏ khác. Bản thân ca sĩ Khánh Ly cũng là một trong số ca sĩ Việt Nam đầu tiên được hát tại Nhật nhờ nhạc Trịnh. Các trường đại học âm nhạc, văn hóa của Nhật, Trung và Việt Nam cũng liên tục thực hiện các đề tài, luận văn cao học, luận án tiến sĩ về nhạc Trịnh. Có thể nói, Trịnh Công Sơn là tác giả hiếm hoi được nghiên cứu đầy đủ dưới nhiều bình diện như âm nhạc, văn hóa, ngôn ngữ, văn học… Ở mảng nào, ông cũng có đóng góp và gây dựng tầm ảnh hưởng to lớn. Sở dĩ người Nhật yêu thích Trịnh Công Sơn đến như vậy vì âm hưởng chất nhạc, nội dung, tinh thần của nhạc Trịnh rất đậm hồn Đông phương và gắn chặt với cả một thời kỳ lịch sử, văn hóa, thể hiện triết lý Á Đông đậm đặc. Sở dĩ người Nhật mê nhạc Trịnh đến vậy vì họ tìm thấy sự giao cảm từ giai điệu tới tâm hồn. Văn hóa Nhật gắn với “đạo”, tức là nhìn nhận vạn vật trong cuộc sống với sự nghiền ngẫm, suy tưởng, thiền tịnh của cái tâm an nhiên (như trà đạo, thơ Haiku, bonsai, nghệ thuật vườn cảnh…). Vì vậy, người Nhật muốn nghe những thứ nhạc mang giai điệu mộc mạc, bằng phẳng, giản đơn, không trúc trắc, lên xuống, phức tạp như nhạc Trịnh để thiền tịnh tâm hồn, suy ngẫm nhân sinh. Với nhạc Trịnh, chỉ cần thanh âm cất lên cũng mở ra không gian “đạo” đúng chất Nhật. Phần ca từ sâu sắc, giàu triết lý, đặc biệt thấm nhuần tư tưởng Phật giáo nguyên thủy và tính hiện sinh chủ nghĩa trong nhạc Trịnh cũng rất hợp với tính cách, văn hóa, gu thưởng thức của người Nhật giai đoạn bấy giờ. Trịnh Công Sơn cũng được báo chí và cộng đồng quốc tế nhắc đến như “Bob Dylan của Việt Nam” (BBC), “Nhạc sĩ được yêu mến nhất tại Việt Nam” (The Washington Post)… Tại Việt Nam, hiếm có nhạc sĩ nào sáng tác nhiều như Trịnh Công Sơn, với 600 ca khúc. Trong đó, có tới 236 ca khúc được phổ biến rộng rãi. Người dân Việt Nam không ai là không biết nhạc Trịnh vì nó len lỏi vào từng ngõ ngách, tầng lớp dân chúng. Ca sĩ Việt hầu như đều từng hát nhạc Trịnh. Nhạc Trịnh năm nào cũng được hoặc mở lên ở mọi sân khấu, dưới nhiều hình thức khác nhau. Đây là loại nhạc duy nhất dung hòa được từ bác học tới bình dân, khiến ca sĩ mọi thế hệ, dòng nhạc đều hát được. Khác với nhiều nhạc sĩ khác, ngoài giai điệu đẹp, nhạc Trịnh Công Sơn nổi bật hơn hẳn ở phần ca từ. Ca từ trong nhạc của ông đậm chất thơ, đa dạng về từ vựng, độc đáo về ngữ pháp, phong phú về thanh điệu và ẩn chứa nhiều mã nghệ thuật khác nhau. Nói cách khác, nếu tách bỏ phần nhạc, thì phần lời của nhạc Trịnh thực sự đã làm nên những bài thơ xuất sắc, có đóng góp không nhỏ vào nền thi ca Việt Nam và làm giàu đẹp tiếng Việt. Nhạc sĩ Văn Cao từng nói: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người của thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ… Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra”. (Nguồn: Nguoilaodong). Trong ca từ nhạc Trịnh thể hiện đầy đủ mọi nghệ thuật ngôn ngữ tiếng Việt, từ việc sử dụng từ láy, từ tượng thanh, tượng hình, từ lạ hóa tới điệp ngữ, điệp vần, hài thanh, câu hỏi tu từ, câu đặc biệt, ẩn dụ, hoán dụ… Tất cả đều đạt tới trình độ cao. Chẳng hạn, có một nghiên cứu từng chỉ ra trong 139 ca khúc nhạc Trịnh thì có 210 câu hỏi tu từ, mỗi câu là một hình thức tu từ khác nhau với dụng ý nghệ thuật riêng. Trịnh Công Sơn sử dụng rất nhiều ẩn dụ lạ hóa, độc đáo. Trong ca khúc Diễm xưa, đoạn “mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ” vừa chỉ chiếc tháp cổ kính, lại vừa ẩn ý về tháp cổ trắng ngần của người con gái vướng phải bụi trần. Hay, trong ca khúc “Chiều một mình qua phố”, từ “nắng khuya” dùng để chỉ ánh trăng, hoặc ánh đèn đường. Ở nước ngoài, người ta gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam. Tại Việt Nam, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ hiếm hoi tiếp thu và thể hiện tinh thần hiện sinh chủ nghĩa một cách sớm nhất qua các sáng tác của mình như Để gió cuốn đi, Ngẫu nhiên … Trong nhạc của ông còn tiếp thu sâu sắc triết học Phật giáo nguyên thủy, từ vô thường, sự sống, cái chết tới an nhiên, tự tại. Tinh thần Phật giáo được thể hiện rõ nhất qua Cát bụi, Một cõi đi về … Đây đều là những thứ tư tưởng lớn, mang tầm vóc nhân loại. Bởi vậy, người ta mới nói, nhạc Trịnh là cả một mã văn hóa.
The reason why Japanese people love Trinh's music so much is because they find sympathy from the melody to the soul. Japanese culture is associated with "religion", which means looking at all things in life with contemplation, contemplation, and meditation of a peaceful mind (such as tea ceremony, Haiku poetry, bonsai, landscape garden art...). Musician Trinh Cong Son. Painting by artist Le Sa ​​Long. Today, April 1, artists and audiences commemorate the 22nd anniversary of the death of musician Trinh Cong Son - a Vietnamese music legend. Trinh Cong Son is a rare Vietnamese musician whose popularity and influence reach the world. It is known that about 2 million music tapes and records by musician Trinh Cong Son have been sold in Japan - a record number that no Vietnamese musician has ever achieved. Not only that, he is also the Vietnamese musician most loved by Japanese people. They even wrote Japanese lyrics for his songs so that their singers could perform them, typically the old Diem song. Many famous singers in Japan have covered this song such as Tokiko Kato, Yoshimi Tendo, Aya Shimazu... Trinh Cong Son's music is also regularly sung in Kohaku Uta Gassen - the annual New Year's Eve Music program of Japanese national television station NHK in front of millions of audiences and a series of other large and small stages. Singer Khanh Ly herself is also one of the first Vietnamese singers to sing in Japan thanks to Trinh's music. Universities of music and culture in Japan, China and Vietnam also continuously carry out topics, master's theses and doctoral theses on Trinh's music. It can be said that Trinh Cong Son is a rare author who has been fully researched in many aspects such as music, culture, language, literature... In every field, he has contributed and created great influence. big. The reason why Japanese people love Trinh Cong Son so much is because the musical sound, content, and spirit of Trinh's music is very deep in the Eastern soul and closely tied to an entire period of history and culture, expressing Asian philosophy. Dense winter. The reason why Japanese people love Trinh's music so much is because they find sympathy from the melody to the soul. Japanese culture is associated with "religion", which means looking at all things in life with contemplation, contemplation, and meditation of a peaceful mind (such as tea ceremony, Haiku poetry, bonsai, landscape garden art...). Therefore, Japanese people want to listen to music with rustic, flat, simple melodies, without ups and downs, or complexity like Trinh's music to meditate on the soul and contemplate life. With Trinh's music, just the sound of singing opens up a truly Japanese "religious" space. The lyrics are profound, rich in philosophy, especially imbued with primitive Buddhist thought and existentialism in Trinh's music, which also fits very well with the personality, culture, and taste of Japanese people at that time. Trinh Cong Son is also mentioned by the press and the international community as "Vietnam's Bob Dylan" (BBC), "The most beloved musician in Vietnam" (The Washington Post)... In Vietnam, there are few musicians who compose as much as Trinh Cong Son, with 600 songs. Of these, there are up to 236 widely popular songs. There is no one in Vietnam who does not know Trinh's music because it permeates every corner and class of people. Almost all Vietnamese singers have sung Trinh's music. Trinh's music is played every year on every stage, in many different forms. This is the only type of music that harmonizes from the scholarly to the popular, making it possible for singers of all generations and musical genres to sing. Unlike many other musicians, in addition to beautiful melodies, Trinh Cong Son's music stands out more in its lyrics. The lyrics in his music are poetic, diverse in vocabulary, unique in grammar, rich in tone and contain many different artistic codes. In other words, if you remove the music, the lyrics of Trinh's music really create excellent poems, making a significant contribution to Vietnamese poetry and enriching the Vietnamese language. Musician Van Cao once said: "I call Trinh Cong Son a man of poetry (Chantre) because in Son, music and poetry are so intertwined that it is difficult to determine which is main and which is secondary... In Son's music, we do not see any trace of music following the Western scholarly structure. Son writes innocently as if the musical and poetic emotions flow out on their own. (Source: Nguoilaodong). In the lyrics of Trinh's music, he fully demonstrates all the arts of the Vietnamese language, from the use of repeated words, onomatopoeia, onomatopoeia, strange words to alliteration, alliteration, rhyme, rhetorical questions, and sentences. especially, metaphor, metonymy... All have reached a high level. For example, a study once showed that in 139 Trinh songs, there were 210 rhetorical questions, each sentence was a different rhetorical form with its own artistic intention. Trinh Cong Son uses many strange and unique metaphors. In the old Diem song, the line "rain still rains on the floor of the ancient tower" both refers to the ancient tower and also implies the white ancient tower of a girl caught in the dust. Or, in the song "Afternoon Alone Through the Streets", the word "late sunlight" refers to moonlight, or streetlight. Abroad, people call Trinh Cong Son the Bob Dylan of Vietnam. In Vietnam, Trinh Cong Son is a rare musician who absorbed and expressed the spirit of existentialism as early as possible through his compositions such as Let the wind blow it away, Randomly … In his music, he also deeply absorbed the original Buddhist philosophy, from impermanence, life, death to peace and freedom. The spirit of Buddhism is most clearly expressed through Dust and sand, A world to return to … These are all great ideas of human stature. That's why people say that Trinh's music is a cultural code.
Cơn bão dữ dội đã quét qua các khu vực miền Nam và Trung Tây Mỹ vào tối 31/3 (theo giờ Mỹ ), khiến ít nhất 22 người chết và hàng chục người bị thương. Theo các quan chức, ít nhất 5 người đã thiệt mạng ở Arkansas, khi các nhân viên cứu hộ sàng lọc các mảnh vỡ để tìm thêm các nạn nhân. Các cơn lốc xoáy đã xé toạc mái và tường của nhiều tòa nhà ở Arkansas, lật đổ các phương tiện giao thông, quật đổ cây cối và đường dây điện ở các khu vực rộng lớn ở phía đông và đông bắc bang. Cảnh hoang tàn sau khi cơn bão quét qua Mỹ khiến hàng chục người thương vong. Đợt thời tiết khắc nghiệt của mùa xuân quét qua phần lớn nước Mỹ, đe dọa khu vực từ Texas đến Great Lakes với giông bão và lốc xoáy. Trong số 22 người thiệt mạng, thống đốc bang Arkansas Sarah Huckabee Sanders hôm thứ Bảy cho biết có 5 người được xác nhận đã chết tại bang này. Bốn trong số các trường hợp tử vong ở Arkansas đã được báo cáo ở Wynne, cách Little Rock khoảng 160 km về phía đông. Một người đã thiệt mạng và hơn 50 người phải nhập viện ở North Little Rock, phát ngôn viên Madeline Roberts của Hạt Pulaski nói với tờ Washington Post. Tổng thống Mỹ Joe Biden đã nói chuyện với Huckabee Sanders và các thị trưởng của Little Rock và Wynne. Ông cũng đã nói chuyện với Quản trị viên Cơ quan Quản lý Khẩn cấp Liên bang (FEMA) Deanne Criswell. 22 người thiệt mạng do cơn bão dữ dội với gió và mưa lớn. Huckabee Sanders cho biết ông Biden và Bộ trưởng An ninh Nội địa Alejandro Mayorkas, trong các cuộc điện đàm đã đề nghị chính phủ liên bang hỗ trợ cho địa phương. Tại hạt Sullivan (Indiana), cảnh sát trưởng Jason Bobbitt cho biết trên Facebook rằng tình trạng khẩn cấp đã được ban bố cho các khu vực bị ảnh hưởng. Thời tiết hỗn loạn đợt này xảy ra cách một tuần sau khi một loạt giông bão khác gây ra lốc xoáy chết người tàn phá thị trấn Rolling Fork của bang Mississippi, phá hủy nhiều ngôi nhà và khiến 26 người chết.
The fierce storm swept across the Southern and Midwestern regions of the United States on the evening of March 31 (local time). America ), leaving at least 22 people dead and dozens injured. At least five people were killed in Arkansas, according to officials, as rescue workers sifted through debris to find more victims. The tornado ripped off the roofs and walls of many buildings in Arkansas, toppled vehicles, and downed trees and power lines in large areas of the eastern and northeastern parts of the state. Desolate scene after the storm swept across the United States, causing dozens of casualties. A wave of severe spring weather swept across much of the United States, threatening areas from Texas to the Great Lakes with thunderstorms and tornadoes. Of the 22 people killed, Arkansas governor Sarah Huckabee Sanders said on Saturday that five people were confirmed dead in the state. Four of the deaths in Arkansas were reported in Wynne, about 100 miles east of Little Rock. One person was killed and more than 50 people were hospitalized in North Little Rock, Pulaski County spokeswoman Madeline Roberts told the newspaper. Washington Post. US President Joe Biden spoke with Huckabee Sanders and the mayors of Little Rock and Wynne. He also spoke with Federal Emergency Management Agency (FEMA) Administrator Deanne Criswell. 22 people died due to the fierce storm with heavy winds and rain. Huckabee Sanders said Mr. Biden and Secretary of Homeland Security Alejandro Mayorkas, in phone calls, asked the federal government for local assistance. In Sullivan County (Indiana), Sheriff Jason Bobbitt said on Facebook that a state of emergency had been declared for the affected areas. The chaotic weather episode comes a week after another series of deadly thunderstorms unleashed deadly tornadoes that devastated the Mississippi town of Rolling Fork, destroying homes and leaving 26 people dead.
TRAPPIST - 1 - Ảnh: NASA. Các nhà khoa học NASA đã dùng siêu kính viễn vọng James Webb để kiểm tra lại TRAPPIST-1b, một trong những hành tinh được cho là giống Trái Đất được tìm thấy trước đó bằng những công cụ kém sắc nét hơn. Theo NASA, khác với Kính viễn vọng không gian hồng ngoại Spitzer, Kính viễn vọng không gian James Webb (do NASA điều hành chính, phối hợp với ESA và CSA là cơ quan vũ trụ của châu Âu và Canada ) thực sự có thể nắm bắt được ánh sáng từ phía hành tinh tiềm năng này. Dư liệu quang phổ khẳng định kích thước giống Trái Đất của nó, nhưng kèm theo một tin gây thất vọng. Hình ảnh từ máy ảnh hồng ngoại trung bình (MIRI) của James Webb, một thiết bị cảm ứng nhiệt siêu nhạy, cho thấy hành tinh này phải nóng thiêu đốt – khoảng 232 độ C, khiến hy vọng về sự sống ngự trị trên nó gần như tắt ngấm. Chưa hết, các nhà khoa học còn nhận thấy nó có thể là một khối đá trơ trụi đã bị mất đi bầu khí quyển. Trước đó TRAPPIST-1b cùng 6 hành tinh khác cùng thuộc hệ TRAPPIST-1 cách chúng ta 378 ngàn tỉ năm ánh sáng. TRAPPIST-1 là tên một sao lùn đỏ và nhỏ hơn nhiều so với Mặt Trời, được xác định là sao lùn loại M, loại sao phổ biến nhất dải Ngân Hà . Cả 7 hành tinh của hệ này đều được cho là có thể có nước lỏng, dù một số cái có quá nhiều đến nỗi tạo thành hành tinh đại dương khó sống. Có nhiều luồng ý kiến, có người cho rằng sự sống có khả năng tồi tại cao hơn ở những thế giới gần sao mẹ như TRAPPIST-1b. Chúng cũng có kích thước xấp xỉ Trái Đất. Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại cho rằng sự sống có tiềm năng hơn ở các thế giới xa mặt trời, mát mẻ, khí hậu có thể là ôn đới. Nhưng dù gì đi nữa ít nhất trong thế hệ này bạn không thể đặt chân lên đó – một khoảng cách quá xa, ngoài tầm với của tất cả các tàu vũ trụ hiện nay.
TRAPPIST - 1 - Photo: NASA. NASA scientists used the James Webb super telescope to re-examine TRAPPIST-1b, one of the Earth-like planets previously found with less sharp tools. According to NASA, different from the Spitzer Infrared Space Telescope, the James Webb Space Telescope (mainly operated by NASA, in collaboration with ESA and CSA is the European space agency and Canada ) could actually capture the light from this potential planet's side. Spectroscopic data confirmed its Earth-like size, but with disappointing news. Images from James Webb's Mid-Infrared Imager (MIRI), an ultra-sensitive heat-sensing device, show that the planet must be scorching hot - about 232 degrees Celsius, making hope of life reign on it almost extinguished. Furthermore, scientists also found that it could be a bare rock that has lost its atmosphere. Previously, TRAPPIST-1b and 6 other planets belonging to the TRAPPIST-1 system were 378 trillion light years away from us. TRAPPIST-1 is the name of a red dwarf star much smaller than the Sun, identified as an M-type dwarf, the most common type of star. Galaxy . All seven planets in this system are thought to possibly have liquid water, although some have so much that they would constitute inhospitable ocean planets. There are many opinions, some say that life is more likely to exist in worlds closer to the parent star like TRAPPIST-1b. They are also approximately the size of Earth. However, some studies suggest that life has more potential on worlds that are far from the sun, cool, and probably have temperate climates. But no matter what, at least in this generation you cannot set foot there - the distance is too far, beyond the reach of all current spacecraft.
Picasso tại Paris năm 1904. Ảnh: Museé National Picasso-Paris. Cuốn sách của Annie Cohen-Solal là bức chân dung Picasso với tư cách là một kẻ bị ruồng bỏ về văn hóa. Đó cũng là một bản cáo trạng đối với văn hóa bài ngoại. Kỷ niệm nửa thế kỷ ngày mất của Pablo Picasso (ngày 8 tháng 4 năm 1973), một số ấn phẩm về danh họa được thực hiện. Và một tác phẩm quan trọng đã xuất bản là cuốn sách Picasso the Foreigner: An Artist in France, 1900-1973 của Annie Cohen-Solal, một tác phẩm dày về dung lượng (600 trang). Tác phẩm là bức chân dung của Picasso – họa sĩ tiên phong nổi bật của thế kỷ XX – với tư cách là một kẻ bị ruồng bỏ về văn hóa, một kẻ bị coi thường. Đó vừa là một bản cáo trạng đối với nền văn hóa bài ngoại. Tác phẩm bắt đầu với nghệ sĩ người Tây Ban Nha 19 tuổi, tràn đầy tham vọng trong chuyến đi đầu tiên đến Paris từ Barcelona và tiếp tục sự nghiệp kéo dài bảy thập kỷ của mình. Hầu hết câu chuyện trong sách, toàn bộ hoặc từng phần, đã được kể, với những nhân vật (nghệ sĩ khác, đại lý nghệ thuật, vợ, người tình), những địa điểm ( Tây Ban Nha , Paris, miền Nam nước Pháp ), quá trình tương tác, sáng tạo với những thay đổi giữa việc phá vỡ khuôn thước… Điểm khác biệt của cuốn sách chính là bộ lọc “người ngoài cuộc” mà Cohen-Solal áp dụng. Như để báo hiệu rằng tác giả đang thử nghiệm lĩnh vực mới, Cohen-Solal tự giới thiệu mình ở những trang mở đầu. Chúng ta thấy nữ tác giả đang ngồi trong tòa nhà trống rỗng, lạnh lẽo ở Paris, nơi lưu giữ tài liệu lưu trữ của Sở cảnh sát thành phố, một thùng tài liệu trên bàn trước mặt bà. Giấy tờ của Picasso năm 1935. Cohen-Solal viết: “Tôi vừa chạm trán với một kẻ tình nghi – một ‘người nước ngoài’, đến Paris lần đầu tiên vào ngày 25 tháng 10 năm 1900, chỉ để rồi vài tháng sau anh ta bị cảnh sát lần ra dấu vết. Hồ sơ vụ án của anh ấy sẽ tăng lên theo từng năm trong suốt quãng đời còn lại của anh ấy”. Kẻ tình nghi này là Picasso. Ông bị nghi ngờ chỉ vì không phải người Pháp. Ông sinh ra ở Málaga, theo học nghệ thuật chính thức ở Barcelona và Madrid – nhưng, thực sự, việc ông là người di cư từ bất cứ đâu cũng sẽ tự động bị coi là một mối đe dọa xã hội và văn hóa. Theo lời kể của Cohen-Solal, tư tưởng bài ngoại của người Pháp là nhân tố chính tạo nên tiểu sử của Picasso, và chính việc bà lần theo dấu vết đó đã khiến cuốn sách của bà trở nên đặc biệt. Bà trích dẫn các ví dụ, bắt đầu với sự quấy rối của cảnh sát và tiếp tục với điều kiện sống tồi tệ mà Picasso đã trải qua trong những năm đầu tiên ở Paris khi ông sống trong một ngôi nhà xiêu vẹo ở Montmartre được gọi là Bateau-Lavoir. Nơi này đã được lãng mạn hóa, là nơi sinh của Chủ nghĩa Lập thể – chính Picasso đã bày tỏ nỗi nhớ về thời gian ở đó – nhưng đối với Cohen-Solal, nó gợi ý một nguyên mẫu “đáng thương… đầy bọ chét và khốn khổ” của những khu ổ chuột. Là một công dân nước ngoài, Picasso bị loại khỏi các đặc quyền và sự bảo vệ gắn liền với quyền công dân Pháp. Hoạt động của Picasso bị gạt khỏi đời sống văn hóa Pháp. Cuộc cách mạng theo chủ nghĩa lập thể từng bị coi là một hành vi phạm tội không thể tha thứ. Căn cứ vào những tác phẩm của ông, Picasso bị quy kết là “phần tử nổi loạn”, nguy hiểm. Tác giả nhấn mạnh vào việc các cơ sở nghệ thuật chính thức từ chối tranh của Picasso và nói rộng ra là từ chối bất cứ điều gì Picasso đã làm. Theo Cohen-Solal, trong nhiều thập kỷ, các viện bảo tàng quốc gia hàng đầu của Pháp đã từ chối triển lãm hoặc sưu tầm về ông. Khi Louvre được tặng Les Demoiselles d’Avignon như một món quà vào năm 1929, nó đã bị từ chối. Thay vào đó, bức tranh đã được chuyển đến Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York, cũng như một kho tác phẩm vô giá của người khai sinh trường phái Lập thể. Bìa cuốn sách của Annie Cohen-Solal. Ảnh: Nyt. Làn sóng chỉ thay đổi ở Pháp sau Thế chiến thứ hai, khi Picasso, lúc đó là một nhân vật thu hút, bắt đầu tặng các tác phẩm cho các bảo tàng nhỏ của Pháp. Sự hào phóng của Picasso đã gieo mầm vào công chúng, tăng lượng khán giả, truyền bá thương hiệu của họa sĩ. Cohen-Solal – người đã viết tiểu sử của Sartre và Leo Castelli – chỉ ra một số điểm “khó ưa” trong tính cách của Picasso, nhưng quan điểm của tác giả về Picasso là tích cực, thậm chí là hoan nghênh. Ngay cả khi họa sĩ rõ ràng là có vấn đề, Cohen-Solal vẫn làm giảm nhẹ vấn đề ấy. Có phải ông là một kẻ cơ hội? Gần như chắc chắn đó là lý do trong thời kỳ Đức chiếm đóng Pháp, ông đã kết thân với Cocteau, có liên hệ với Đức Quốc xã để được bảo vệ. Và có lẽ đó là lý do tại sao, sau chiến tranh, ông rẽ sang một hướng khác và gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Cohen-Solal gợi ý rằng những động thái có vẻ mâu thuẫn như vậy – mà một số nhà sử học nhận thấy được phản ánh qua sự dao động giữa các giai đoạn cấp tiến và “cổ điển” trong nghệ thuật của ông – có thể được giải thích bằng tính dễ bị tổn thương hiện sinh mà thân phận “người nước ngoài” đã thấm nhuần trong ông. Picasso nắm bắt được thực tế và áp lực khác biệt của chính mình. Thay vì cố gắng né tránh hoặc hạ thấp nó, ông đã biến nó thành sức mạnh của mình, biến nó thành con người của mình. Vào năm 1959, chính phủ Pháp trao quyền công dân cho Picasso, ông thậm chí không phản hồi đề nghị này.
Picasso in Paris in 1904. Photo: Museé National Picasso-Paris. Annie Cohen-Solal's book is a portrait Picasso as a cultural outcast. It is also an indictment of a culture of xenophobia. To commemorate the half-century anniversary of Pablo Picasso's death (April 8, 1973), a number of publications about the artist were made. And an important published work is the book Picasso the Foreigner: An Artist in France, 1900-1973 by Annie Cohen-Solal, a large work (600 pages). The work is a portrait of Picasso - the outstanding avant-garde painter of the twentieth century - as a cultural outcast, a despised person. It is both an indictment of a culture of xenophobia. The work begins with the 19-year-old, ambitious Spanish artist on his first trip to Paris from Barcelona and continues into his seven-decade career. Most of the stories in the book, in whole or in part, are told, with characters (other artists, art dealers, wives, lovers), locations ( Spain , Paris, Southern part of the country France ), the process of interaction and creativity with changes between breaking the mold... What differentiates the book is the “outsider” filter that Cohen-Solal applies. As if to signal that the author is testing new territory, Cohen-Solal introduces himself in the opening pages. We see the author sitting in the cold, empty building in Paris that houses the archives of the city's Police Department, a box of documents on the table in front of her. Picasso's papers of 1935. “I recently encountered a suspect – a ‘foreigner’ who first arrived in Paris on October 25, 1900, only to have him tracked down by the police a few months later,” Cohen-Solal writes. patch. His case file will grow every year for the rest of his life.” This suspect is Picasso. He was suspected just because he was not French. He was born in Málaga, studied art formally in Barcelona and Madrid – but, really, the fact that he was a migrant from anywhere would automatically be seen as a social and cultural threat. In Cohen-Solal's telling, French xenophobia is a key factor in Picasso's biography, and it is her tracing of it that makes her book so special. She cites examples, starting with police harassment and continuing with the poor living conditions Picasso experienced during his first years in Paris when he lived in a ramshackle house in Montmartre called is Bateau-Lavoir. The place has been romanticized as the birthplace of Cubism – Picasso himself expressed nostalgia for his time there – but for Cohen-Solal, it suggests a “pitiful… flea-ridden” archetype and misery” of the slums. As a foreign citizen, Picasso was excluded from the privileges and protections associated with French citizenship. Picasso's activities were excluded from French cultural life. The Cubist revolution was once considered an unforgivable offense. Based on his works, Picasso was accused of being a "rebel" and dangerous. The author emphasizes the official art establishment's rejection of Picasso's paintings and, by extension, rejection of anything Picasso did. According to Cohen-Solal, for decades, France's leading national museums refused to exhibit or collect on him. When the Louvre was donated Les Demoiselles d’Avignon as a gift in 1929, it was rejected. Instead, the painting went to the Museum of Modern Art in New York, as did a priceless trove of works by the founder of Cubism. Book cover by Annie Cohen-Solal. Photo: Nyt. The tide only turned in France after World War II, when Picasso, then a charismatic figure, began donating works to small French museums. Picasso's generosity planted seeds in the public, increased his audience, and spread the artist's brand. Cohen-Solal – who wrote biographies of Sartre and Leo Castelli – points out some “unpleasant” aspects of Picasso's personality, but the author's view of Picasso is positive, even welcoming. Even when the artist clearly has a problem, Cohen-Solal downplays it. Is he an opportunist? Almost certainly that is why, during the German occupation of France, he became friends with the Nazi-affiliated Cocteau for protection. And perhaps that's why, after the war, he turned in a different direction and joined the French Communist Party. Cohen-Solal suggests that such seemingly contradictory moves – which some historians see as reflected in oscillations between radical and “classical” phases in his art – may explained by the existential vulnerability that his status as a “foreigner” instilled in him. Picasso captured the realities and pressures of his own differences. Instead of trying to avoid or downplay it, he turned it into his strength, made it who he was. In 1959, the French government granted Picasso citizenship, he did not even respond to this request.
Các dự án với tổng nguồn vốn vay nước ngoài lên đến 2,8 tỷ USD và sự hỗ trợ của nhiều đối tác quốc tế được kỳ vọng sẽ giúp Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững và thực hiện được mục tiêu liên kết vùng. Đẩy nhanh các dự án giao thông hạ tầng ĐBSCL. Ảnh: VGP. Ngày sau khi quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long được công bố, các tỉnh/thành trong vùng và các Bộ ngành liên quan đã đề xuất 16 dự án giao thông trọng điểm. Trong đó, có 2 dự án thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), 14 dự án thuộc các địa phương. Tổng nguồn vốn vay nước ngoài lên đến 2,8 tỷ USD (tương đương khoảng 66.282 tỷ đồng) và vốn đối ứng trên 28 nghìn tỷ đồng. Sau sự kiện công bố quy hoạch vùng vào tháng 6/2022, Bộ Kế hoạch và Đầu Tư (Bộ KH&ĐT) đã phối hợp với 6 ngân hàng đối tác phát triển quốc tế triển khai thực hiện nhiều dự án giao thông kết nối liên tỉnh, liên vùng vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ứng phó với biến đổi khí hậu. Để thực hiện đồng loạt các dự án này, Bộ KH&ĐT đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ áp dụng cơ chế cấp phát 90% và cho vay lại, 10% đối với dự án của địa phương. Bên cạnh đó, ủy quyền cho các tỉnh, thành là cơ quan chủ quản các dự án quốc lộ, cao tốc; quản lý các dự án xây dựng cầu kết nối giữa 2 địa phương thuộc các tỉnh lộ là dự án liên vùng và cấp phát 100% vốn vay ODA. Tại cuộc họp Ban chỉ đạo các dự án phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH (Gọi tắt là Mekong DPO), ngày 1/4, Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương cho biết, thời gian qua, 6 ngân hàng phát triển quốc tế đã tổ chức 10 chuyến công tác, khảo sát trên địa bàn các tỉnh, thành vùng vùng Đồng bằng sông Cửu Long để hình thành 16 đề xuất dự án giao thông trọng điểm. Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương: “Đây là lần đầu tiên Việt Nam áp dụng cơ chế mới là phối hợp ngay từ đầu giữa các đối tác phát triển với các địa phương”. Ảnh: VGP. Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho rằng, các dự án phát triển bền vững vùng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã góp phần hiện thực hóa quy hoạch vùng, trong đó, mục tiêu liên kết vùng, thích ứng với biến đổi khí hậu là quan trọng. Đồng thời, các dự án giao thông trọng điểm này sẽ góp phần tạo động lực phát triển cho các địa phương. Với ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của các dự án đối với sự phát triển chung của vùng vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Thứ trưởng Trần Quốc Phương đề nghị các bên liên quan nỗ lực để các dự án được triển khai trong thời gian sớm nhất. Cũng trong cuộc họp, lãnh đạo UBND các tỉnh/thành phố và các đối tác cùng nhìn lại bức tranh tổng thể của toàn bộ 16 đề xuất dự án, trao đổi về các vướng mắc, khó khăn, thách thức trong quá trình chuẩn bị và đề ra giải pháp tháo gỡ. Qua đó huy động các nguồn vốn viện trợ không hoàn lại, các khoản hỗ trợ kỹ thuật để giúp trực tiếp các dự án ở các địa phương. Lãnh đạo 13 tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có những chia sẻ về vướng mắc, khó khăn, thách thức trong quá trình chuẩn bị đề xuất dự án và mong muốn được tháo gỡ. Nhìn tổng thể, Bộ KH&ĐT đánh giá, các dự án có sự trùng lặp, một số dự án chưa cấp thiết, thiếu sự kết nối giao thông ngang trong nội địa. Bên cạnh đó, với một số dự án nâng cấp đê, kè, kênh thủy lợi, hồ chứa nước ngọt, Bộ KH&ĐT yêu cầu cần bổ sung thuyết minh tính kết nối, phối hợp tổng thể toàn vùng, đặc biệt là các công trình giữa Trung ương và địa phương. Một số địa phương cũng đề xuất thay đổi, bổ sung hạng mục dự án. Ông James Deane, Đại diện Đại sứ quán Australia tại Việt Nam cho biết, hiện nay Australia có khoảng ngân sách khoảng 232 triệu đô la Úc dành cho mối liên hệ hợp tác giữa quốc gia này và các nước tiểu vùng sông Mekong, nhất là trong lĩnh vực liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu. Riêng tại Việt Nam, trong giai đoạn 2023 – 2027, Chính phủ Australia sẽ dành nguồn hỗ trợ khoảng 15 triệu đô la Australia để nước ta thực hiện Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long .
Projects with total foreign loans of up to 2.8 billion USD and support from many international partners are expected to help Mekong Delta sustainable development and achieving the goal of regional integration. Accelerate transport infrastructure projects in the Mekong Delta. Photo: VGP. The day after the Mekong Delta region plan was announced, provinces/cities in the region and relevant ministries and branches proposed 16 key transportation projects. Of these, there are 2 projects belonging to the Ministry of Agriculture and Rural Development (MARD), 14 projects belonging to localities. Total foreign loan capital is up to 2.8 billion USD (equivalent to about 66,282 billion VND) and counterpart capital is over 28 trillion VND. After the regional planning announcement event in June 2022, the Ministry of Planning and Investment (MPI) coordinated with 6 international development partner banks to implement many inter-provincial transportation projects. , inter-regionally in the Mekong Delta, responding to climate change. To simultaneously implement these projects, the Ministry of Planning and Investment has proposed to the Prime Minister to apply the mechanism of 90% allocation and on-lending, 10% for local projects. In addition, authorize provinces and cities to be the managing agency of national highway and expressway projects; Managing bridge construction projects connecting two localities on provincial roads is an inter-regional project and allocates 100% ODA loans. At the meeting of the Steering Committee for sustainable development projects in the Mekong Delta adapting to climate change (referred to as Mekong DPO), on April 1, Deputy Minister of Planning and Investment Tran Quoc Phuong said that recently, 6 banks developed International Development Corporation organized 10 business trips and surveys in provinces and cities in the Mekong Delta region to form 16 proposed key transportation projects. Deputy Minister of Planning and Investment Tran Quoc Phuong: "This is the first time Vietnam has applied a new mechanism of coordination from the beginning between development partners and localities." Photo: VGP. Deputy Minister Tran Quoc Phuong said that sustainable development projects in the Mekong Delta region have contributed to realizing regional planning, in which the goal of regional linkage and adaptation to climate change is important. important. At the same time, these key transportation projects will contribute to creating development momentum for localities. With the meaning, role and importance of the projects for the overall development of the Mekong Delta region, Deputy Minister Tran Quoc Phuong requested relevant parties to make efforts to have the projects implemented in the future. soonest. Also during the meeting, leaders of the People's Committees of provinces/cities and partners looked back at the overall picture of all 16 project proposals, discussing problems, difficulties and challenges in the preparation process. and propose solutions. Thereby mobilizing non-refundable aid capital and technical assistance to directly help projects in localities. Leaders of 13 provinces and cities in the Mekong Delta shared about the problems, difficulties and challenges in the process of preparing project proposals and wished to have them resolved. Overall, the Ministry of Planning and Investment assesses that projects have duplication, some projects are not urgent, and there is a lack of horizontal traffic connection in the interior. In addition, with a number of projects to upgrade dykes, embankments, irrigation canals, and freshwater reservoirs, the Ministry of Planning and Investment requires additional explanations about connectivity and overall coordination of the entire region, especially the projects. between central and local levels. Some localities also proposed changes and additions to project items. Mr. James Deane, Representative of the Australian Embassy in Vietnam said that Australia currently has a budget of about 232 million Australian dollars for cooperation between this country and countries in the Mekong sub-region, especially in the field of climate change adaptation. . Particularly in Vietnam, in the period 2023 - 2027, the Australian Government will provide support of about 15 million Australian dollars for our country to implement the Project of 1 million hectares specializing in high-quality rice cultivation associated with green growth in the Delta. Mekong River.
Ngày 2/4/2023, tại thành phố Almaty, Kazakhstan, kỳ họp lần thứ 26 của Ban Chấp hành Liên hiệp các Câu lạc bộ và Hội UNESCO châu Á – Thái Bình Dương AFUCA đã diễn ra với sự tham gia của 13 nước thành viên; đại diện tổ chức UNESCO, đại diện lãnh đạo Liên hiệp các Câu lạc bộ, Trung tâm, Hội UNESCO Thế giới (WFUCA). Cuộc họp đã nghe báo cáo của các quốc gia thành viên AFUCA giai đoạn 2021-2022, tổng kết, đánh giá các hoạt động của AFUCA giai đoạn 2021-2022, thông qua sửa đổi bổ sung Điều lệ AFUCA, tiến hành bầu các vị trí lãnh đạo của AFUCA nhiệm kỳ mới, và thảo luận một số nội dung liên quan đến công tác chuẩn bị tổ chức Đại hội Thế giới lần thứ 10 của Liên hiệp các Câu lạc bộ, Trung tâm, Hội UNESCO Thế giới. Tại cuộc họp, báo cáo của đoàn Việt Nam được đánh giá cao, gây ấn tượng mạnh với nhiều chương trình, hoạt động ý nghĩa, thiết thực trên các lĩnh vực văn hóa, khoa học, giáo dục và thông tin truyền thông, là các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của UNESCO. (Từ trái qua phải) Ban lãnh đạo mới của AFUCA Kazakhstan (Nguyên Chủ tịch), Nepal (Phó Chủ tịch), Hàn Quốc (Tân Chủ tịch), Việt Nam (Phó Chủ tịch), Nhật Bản (Tổng Thư ký). Trong khuôn khổ cuộc họp, ông Trần Văn Mạnh – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Ngày Nay đã được tín nhiệm bầu vào vị trí Phó Chủ tịch Liên hiệp các Câu lạc bộ và Hội UNESCO châu Á – Thái Bình Dương AFUCA. Việc Việt Nam được giao đảm nhiệm chức vụ này cho thấy vị thế và uy tín ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế, thể hiện sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong phong trào UNESCO phi chính phủ. Trong 27 năm là thành viên chính thức của AFUCA, Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam luôn được đánh giá là một trong những Hiệp hội quốc gia hoạt động mạnh và đa dạng nhất khu vực, với nhiều đóng góp thực chất và hiệu quả cho phong trào UNESCO phi chính phủ. Việt Nam cũng đã từng đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch AFUCA từ năm 1999 đến năm 2004. Việt Nam với cương vị là Phó Chủ tịch AFUCA, sẽ tiếp tục đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển của Phong trào UNESCO phi chính phủ thế giới và khu vực, qua đó góp phần thúc đẩy các mục tiêu và lý tưởng cao đẹp của tổ chức UNESCO.
On April 2, 2023, in the city of Almaty, Kazakhstan, the 26th meeting of the Executive Committee of the Asia-Pacific Federation of UNESCO Clubs and Associations AFUCA took place with the participation of 13 member countries. pellets; representatives of UNESCO, representatives of leaders of the World Union of UNESCO Clubs, Centers and Associations (WFUCA). The meeting listened to reports of AFUCA member countries for the 2021-2022 period, summarized and evaluated AFUCA's activities for the 2021-2022 period, approved amendments and supplements to the AFUCA Charter, and elected officials. leadership position of AFUCA in the new term, and discussed a number of contents related to the preparations for organizing the 10th World Congress of the World Union of UNESCO Clubs, Centers and Associations. At the meeting, the report of the Vietnamese delegation was highly appreciated, making a strong impression with many meaningful and practical programs and activities in the fields of culture, science, education and communication. areas under UNESCO's jurisdiction. (From left to right) New leadership of AFUCA Kazakhstan (Former President), Nepal (Vice President), Korea (New President), Vietnam (Vice President), Japan (Secretary General). Within the framework of the meeting, Mr. Tran Van Manh - Vice President and General Secretary of the Vietnam Union of UNESCO Associations, Editor-in-Chief of Today Magazine was elected to the position of Vice President of the Union of UNESCO Clubs. and UNESCO Asia-Pacific Association AFUCA. The fact that Vietnam was assigned to take on this position shows Vietnam's increasingly high position and prestige in the international arena, demonstrating the international community's recognition of Vietnam's efforts and achievements in the field of movement. non-governmental UNESCO movement. During 27 years of being an official member of AFUCA, the Vietnam Union of UNESCO Associations has always been considered one of the strongest and most diverse national associations in the region, with many substantive and effective contributions to the cause. non-governmental UNESCO movement. Vietnam also held the position of Vice President of AFUCA from 1999 to 2004. Vietnam As Vice President of AFUCA, I will continue to contribute more to the development of the world and regional non-governmental UNESCO Movement, thereby contributing to promoting the noble goals and ideals of the organization. UNESCO organization.
Lần đầu tiên, mục tiêu hàng đầu của các cuộc săn tìm sự sống ngoài hành tinh được phơi bày trước mắt người Trái Đất thông qua dữ liệu từ tàu vũ trụ của Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) . Bản đồ được tạo ra bởi nhóm nghiên cứu từ Đại học New York Abu Dhabi (NYUAD) và Trung tâm Khoa học vũ trụ UAE, dựa trên dữ liệu của tàu quỹ đạo Emirates Mars Mission (EMM), còn được gọi là tàu Hy Vọng. “Hy vọng rằng công cụ tiếp cận này sẽ biến nó thành một công cụ tuyệt vời cho các nhà nghiên cứu và cả sinh viên để tìm hiểu thêm về Sao Hỏa và giới thiệu những khả năng mà ngành khoa học vũ trụ UAE có thể mang lại” – trưởng nhóm khoa học Dimitra Atri từ NYUAD nói. Bản đồ Sao Hỏa hứa hẹn cung cấp nhiều cơ sở thú vị cho các nghiên cứu khoa học về hành tinh được giới khoa học vũ trụ quan trọng hàng đầu – Ảnh: NYUAD. Bản đồ này, một dạng “atlas Sao Hỏa”, được kỳ vọng sẽ giúp giải mã cả điều bí ẩn vì sao Sao Hỏa từ một hành tinh xanh giống Trái Đất trở nên khô cằn như hiện nay. Trước đó, các bằng chứng khoa học đã củng cố giả thuyết rằng hành tinh nằm trong vùng sự sống Goldilocks của hệ Mặt Trời này được sinh ra để sống, với sông, hồ, đại dương như Trái Đất. Thậm chí có thể nó đã từng có sự sống. Sự sống này có thể đã tuyệt chủng hoặc ẩn nấp đâu đó. Sự hiện diện của một bản đồ chi tiết sẽ giúp định hướng cho nhiều sứ mệnh tương lai, đưa ra cái nhìn tổng quan để tìm hiểu những cấu trúc phù hợp với mục tiêu của từng sứ mệnh. Để tạo ra bản đồ, nhóm đã thu thập hơn 3.000 hình ảnh quan sát từ hệ thống hình ảnh hiện đại EXI trên tàu EMM với khoảng thời gian tương đương 2 năm Trái Đất và ghép chúng lại để tạo một bản đồ hỗn hợp. Bản đồ cho thấy rõ ràng các chỏm băng cực, núi và núi lửa đã ngừng hoạt động, tàn dư của sông hồ và thung lũng cổ đại cách đây khoảng 3,5 tỉ năm, mà các nhà khoa học tin chắc rằng đã từng tràn ngập nước. EMM vẫn sẽ tiếp tục thực hiện mục tiêu đầy tham vọng của cơ quan vũ trụ UAE là cung cấp một bức tranh toàn cầu về khí hậu Sao Hỏa, với sự thay đổi theo mùa được phản ánh thật chi tiết.
For the first time, the prime target of the hunt for alien life is exposed to Earth's eyes through data from Earth's spacecraft. United Arab Emirates (UAE) . The map was created by a team from New York University Abu Dhabi (NYUAD) and the UAE Space Science Center, based on data from the Emirates Mars Mission (EMM) orbiter, also known as the Hope spacecraft. . “Hopefully this outreach tool will make it a great tool for researchers and students alike to learn more about Mars and showcase the possibilities that UAE space science can bring again” – said chief scientist Dimitra Atri from NYUAD. The Mars map promises to provide many interesting bases for scientific research on the planet that is of top importance to space scientists - Photo: NYUAD. This map, a kind of "atlas of Mars", is expected to help decode the mystery of why Mars went from a green planet like Earth to becoming as dry as it is today. Previously, scientific evidence had supported the hypothesis that this planet located in the Goldilocks zone of life of the solar system was born to live, with rivers, lakes, and oceans like Earth. It may even have had life. This life may be extinct or hidden somewhere. The presence of a detailed map will help guide many future missions, providing an overview to understand the structures suitable for each mission's goals. To create the map, the team collected more than 3,000 observation images from the modern EXI imaging system on board the EMM ship over a period equivalent to 2 years. Earth and combine them to create a composite map. The map clearly shows polar ice caps, dormant mountains and volcanoes, remnants of ancient rivers, lakes and valleys some 3.5 billion years ago, which scientists are confident once overflowed. drown. EMM will continue to deliver on the UAE space agency's ambitious goal of providing a global picture of the Martian climate, with seasonal changes reflected in great detail.
Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung nằm giữa khu vực Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, có nhiều tiềm năng, thế mạnh nổi trội. Được ví như “ngọn hải đăng”, có vai trò dẫn dắt sự phát triển của các tỉnh, thành phố miền Trung, và góp phần quan trọng vào sự phát triển đất nước, nhưng thời gian qua, vùng Trung Trung bộ hay còn gọi là Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung dường như chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Do đó, để đạt mục tiêu đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045, Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ là vùng phát triển nhanh, bền vững, mạnh về kinh tế biển, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt yêu cầu tiểu vùng Trung Trung bộ cần phát huy hơn nữa vai trò động lực, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ. Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) sẽ là trung tâm lọc, hóa dầu và năng lượng quốc gia. Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung nằm giữa khu vực Bắc Trung bộ và duyên hải Trung Bộ, có nhiều tiềm năng, thế mạnh nổi trội. Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định vùng này trở thành khu vực phát triển năng động, với tốc độ nhanh, bền vững, là vùng kinh tế động lực. Sau 18 năm triển khai Nghị quyết trước yêu cầu của tình hình mới, vùng cần có những bước đi với tư duy đổi mới và các giải pháp đột phá mạnh mẽ hơn. Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung được thành lập tại Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ gồm 5 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế , Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Sau 18 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận số 25-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, vùng kinh tế này đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể, giai đoạn 2001-2019 tốc độ tăng GRDP bình quân toàn vùng luôn duy trì ở mức tăng trưởng cao (10,25%/năm). Giai đoạn 2011-2019, có sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng đáng kể so với thời kỳ trước, song vẫn cao hơn mức tăng trưởng trung bình chung của cả nước (6,2%/năm). Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung trở thành khu vực phát triển năng động, với tốc độ nhanh, bền vững, là vùng kinh tế động lực. Sau 18 năm triển khai Nghị quyết trước yêu cầu của tình hình mới, vùng cần có những bước đi với tư duy đổi mới và các giải pháp đột phá mạnh mẽ hơn. Năm 2022, GRDP của Đà Nẵng xếp thứ 3/63 về tốc độ tăng trưởng và 17/63 về quy mô so với các tỉnh, thành phố trong cả nước. So với các tỉnh Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ, Đà Nẵng xếp thứ 2/14 địa phương về tốc độ phát triển (sau Khánh Hòa) và xếp thứ ba về quy mô (sau Thanh Hóa, Nghệ An). Cũng trong năm 2022, tốc độ tăng trưởng GRDP của Quảng Nam đạt 8,08%; tổng thu ngân sách đạt hơn 34.100 tỷ đồng, GRDP bình quân đầu người ước đạt 3.907 USD/người. Đứng sau Đà Nẵng, Quảng Nam, tỉnh Bình Định trong năm 2022 có tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,57%… Vùng có tài nguyên khoáng sản khá phong phú, hàng chục di tích lịch sử, văn hóa, nhiều bãi biển đẹp, ba di sản văn hóa thế giới, một khu dự trữ sinh quyển; có 4 sân bay, 4 khu kinh tế ven biển, một khu công nghệ cao và 19 khu công nghiệp nằm ngoài các khu kinh tế. Vùng có chiều dài đường bờ biển khoảng 600 km, là cửa ngõ ra biển, là bệ đỡ, cầu nối trong giao lưu kinh tế, văn hóa với quốc tế cho các tỉnh Tây Nguyên, kết nối tuyến hành lang kinh tế đông-tây. Đặc biệt, vùng có hệ thống cảng biển khá dày, hình thành con đường huyết mạch trên biển thông thương ra thế giới. Theo đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung có điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh, đa dạng ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: xuất, nhập khẩu, du lịch, nghề cá, dầu khí, vận tải, cảng biển, dịch vụ cảng, kinh tế đảo và vận tải biển, ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển. Tuy nhiên, do nhiều tiềm năng, lợi thế chưa được phát huy mạnh mẽ, đúng hướng, cho nên kinh tế vùng phát triển chưa nhanh, chưa thật sự bền vững, vai trò động lực còn mờ nhạt. Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định hướng đi mới cho cả vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ, trong đó có Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung, là tập trung khơi dậy, đánh thức mạnh mẽ các tiềm năng, lợi thế về biển; đồng thời Nghị quyết cũng chỉ ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp triển khai cụ thể. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp mang tính đột phá mà Nghị quyết xác định nhằm phát huy thế mạnh từ biển là nhanh chóng đổi mới cơ cấu kinh tế. Đối với lĩnh vực trọng tâm là công nghiệp, Nghị quyết yêu cầu phải tạo chuyển biến mạnh mẽ theo hướng hiện đại với những sản phẩm có thế mạnh, có thương hiệu và tham gia hiệu quả vào chuỗi sản xuất của khu vực và toàn cầu. Với nhiều lợi thế từ sân bay Chu Lai, cảng biển nước sâu Kỳ Hà, tỉnh Quảng Nam tích cực phát triển các ngành công nghiệp hướng tới xuất khẩu. Sau khi xây dựng thành công Khu công nghiệp Điện Nam-Điện Ngọc ( thị xã Điện Bàn ), hiện, toàn tỉnh có 10 khu công nghiệp, thu hút 225 dự án đầu tư. Năm 2022, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 100.405 tỷ đồng, tăng 17,31% so với năm 2021. Thế nhưng, so với tiềm năng thì kết quả thu hút đầu tư của tỉnh Quảng Nam còn hạn chế, do hạ tầng kinh tế-xã hội chưa đồng bộ, chưa bảo đảm liên thông, kết nối liên vùng; một số ngành, lĩnh vực đầu tư chưa chọn lọc. Đồng chí Lê Trí Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho biết, để thực hiện đạt mục tiêu của Nghị quyết số 26-NQ/TW, tỉnh sẽ ưu tiên đầu tư các khu công nghiệp sinh thái, tập trung thu hút các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, sử dụng tiết kiệm đất, năng lượng, tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách và giải quyết việc làm cho người lao động. Về cơ chế, địa phương sẽ thí điểm việc khuyến khích hợp tác liên kết sản xuất theo cụm ngành công nghiệp phụ trợ và công nghiệp cơ khí tại Khu Kinh tế mở Chu Lai; tổ chức kết nối, tạo cơ hội hợp tác đầu tư giữa các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh với THACO Industries về công nghiệp cơ khí hỗ trợ. Tại Quảng Ngãi, Khu kinh tế Dung Quất đã phát huy thế mạnh của trung tâm lọc hóa dầu, năng lượng quốc gia, cùng với cảng nước sâu Dung Quất, sân bay Chu Lai, trở thành đầu mối vận chuyển hàng hóa và giao thương quốc tế quan trọng trong khu vực miền trung, Tây Nguyên. Tuy nhiên, sự phát triển này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng do những trở ngại lớn về hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật-xã hội; nhất là hạ tầng giao thông chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển, chưa hình thành tuyến container tại cảng Dung Quất và vấn đề giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để thu hút các nhà đầu tư chiến lược. Theo lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi , để mở rộng và xây dựng trung tâm lọc, hóa dầu và năng lượng quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất thành Khu kinh tế chuyên biệt, xanh, thông minh và phát triển bền vững trong tương lai thì phải nhanh chóng xây dựng cơ chế giải quyết những vướng mắc đang đặt ra. Nghị quyết số 26-NQ/TW cũng xác định Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ sớm trở thành khu vực trọng điểm du lịch của cả nước với các trung tâm du lịch biển, du lịch sinh thái mang tầm khu vực và quốc tế. Đà Nẵng đang tiên phong trong lĩnh vực này, hiện là điểm sáng trên bản đồ du lịch của Việt Nam và quốc tế với những sản phẩm, thương hiệu nổi tiếng thế giới. Việc cơ cấu lại ngành du lịch theo hướng chuyên sâu, nghỉ dưỡng cao cấp, từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất… đã tạo cho thành phố sức hấp dẫn. Năm 2022, doanh thu từ du lịch của Đà Nẵng đạt 20.809 tỷ đồng. Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung có điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh, đa dạng ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: xuất, nhập khẩu, du lịch, nghề cá, dầu khí, vận tải, cảng biển, dịch vụ cảng, kinh tế đảo và vận tải biển, ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển. Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đồng hành cùng Quảng Nam, Đà Nẵng; tỉnh Quảng Ngãi cũng đang phát huy mạnh mẽ tiềm năng du lịch biển. Hiện, huyện đảo Lý Sơn là một điểm đến du lịch hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước. Năm 2022, du lịch chiếm gần 50% tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế của huyện. Nhưng dù có những nét khởi sắc ấn tượng, du lịch Lý Sơn cũng chỉ đang trong giai đoạn tự phát, sơ khai. Khó khăn lớn nhất hiện nay của Lý Sơn chính là hạ tầng kỹ thuật và loại hình dịch vụ còn yếu. Theo đồng chí Nguyễn Minh Trí, Bí thư Huyện ủy Lý Sơn, Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định phát triển huyện đảo Lý Sơn trở thành trung tâm du lịch biển. Thực hiện mục tiêu này, cần quy hoạch tổng thể phát triển Lý Sơn theo hướng biến huyện đảo từng bước trở thành một trung tâm du lịch, tích hợp vào quy hoạch tổng thể Khu kinh tế Dung Quất. Trước mắt, xây dựng quy hoạch huyện Lý Sơn tỷ lệ 1/2000 và quy hoạch nâng cấp huyện Lý Sơn từ đô thị loại 5 lên loại 4, tiến tới thành phố giàu mạnh trong tương lai; đồng thời đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư đủ năng lực để hiện thực hóa quy hoạch. Ngoài việc phát huy mạnh mẽ hai thế mạnh mũi nhọn, các địa phương trong Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung đang tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng áp dụng khoa học- công nghệ hiện đại gắn với thích ứng biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường biển. Nhiều địa phương đã có bứt phá, như Quảng Nam, Bình Định vươn lên đứng đầu khu vực về nuôi trồng thủy sản và đánh bắt cá xa bờ…
Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung nằm giữa khu vực Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, có nhiều tiềm năng, thế mạnh nổi trội. Được ví như “ngọn hải đăng”, có vai trò dẫn dắt sự phát triển của các tỉnh, thành phố miền Trung, và góp phần quan trọng vào sự phát triển đất nước, nhưng thời gian qua, vùng Trung Trung bộ hay còn gọi là Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung dường như chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Do đó, để đạt mục tiêu đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045, Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ là vùng phát triển nhanh, bền vững, mạnh về kinh tế biển, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt yêu cầu tiểu vùng Trung Trung bộ cần phát huy hơn nữa vai trò động lực, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ. Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) sẽ là trung tâm lọc, hóa dầu và năng lượng quốc gia. Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung nằm giữa khu vực Bắc Trung bộ và duyên hải Trung Bộ, có nhiều tiềm năng, thế mạnh nổi trội. Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định vùng này trở thành khu vực phát triển năng động, với tốc độ nhanh, bền vững, là vùng kinh tế động lực. Sau 18 năm triển khai Nghị quyết trước yêu cầu của tình hình mới, vùng cần có những bước đi với tư duy đổi mới và các giải pháp đột phá mạnh mẽ hơn. Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung được thành lập tại Quyết định số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ gồm 5 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế , Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Sau 18 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận số 25-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ, vùng kinh tế này đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể, giai đoạn 2001-2019 tốc độ tăng GRDP bình quân toàn vùng luôn duy trì ở mức tăng trưởng cao (10,25%/năm). Giai đoạn 2011-2019, có sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng đáng kể so với thời kỳ trước, song vẫn cao hơn mức tăng trưởng trung bình chung của cả nước (6,2%/năm). Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung trở thành khu vực phát triển năng động, với tốc độ nhanh, bền vững, là vùng kinh tế động lực. Sau 18 năm triển khai Nghị quyết trước yêu cầu của tình hình mới, vùng cần có những bước đi với tư duy đổi mới và các giải pháp đột phá mạnh mẽ hơn. Năm 2022, GRDP của Đà Nẵng xếp thứ 3/63 về tốc độ tăng trưởng và 17/63 về quy mô so với các tỉnh, thành phố trong cả nước. So với các tỉnh Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ, Đà Nẵng xếp thứ 2/14 địa phương về tốc độ phát triển (sau Khánh Hòa) và xếp thứ ba về quy mô (sau Thanh Hóa, Nghệ An). Cũng trong năm 2022, tốc độ tăng trưởng GRDP của Quảng Nam đạt 8,08%; tổng thu ngân sách đạt hơn 34.100 tỷ đồng, GRDP bình quân đầu người ước đạt 3.907 USD/người. Đứng sau Đà Nẵng, Quảng Nam, tỉnh Bình Định trong năm 2022 có tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,57%… Vùng có tài nguyên khoáng sản khá phong phú, hàng chục di tích lịch sử, văn hóa, nhiều bãi biển đẹp, ba di sản văn hóa thế giới, một khu dự trữ sinh quyển; có 4 sân bay, 4 khu kinh tế ven biển, một khu công nghệ cao và 19 khu công nghiệp nằm ngoài các khu kinh tế. Vùng có chiều dài đường bờ biển khoảng 600 km, là cửa ngõ ra biển, là bệ đỡ, cầu nối trong giao lưu kinh tế, văn hóa với quốc tế cho các tỉnh Tây Nguyên, kết nối tuyến hành lang kinh tế đông-tây. Đặc biệt, vùng có hệ thống cảng biển khá dày, hình thành con đường huyết mạch trên biển thông thương ra thế giới. Theo đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung có điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh, đa dạng ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: xuất, nhập khẩu, du lịch, nghề cá, dầu khí, vận tải, cảng biển, dịch vụ cảng, kinh tế đảo và vận tải biển, ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển. Tuy nhiên, do nhiều tiềm năng, lợi thế chưa được phát huy mạnh mẽ, đúng hướng, cho nên kinh tế vùng phát triển chưa nhanh, chưa thật sự bền vững, vai trò động lực còn mờ nhạt. Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định hướng đi mới cho cả vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ, trong đó có Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung, là tập trung khơi dậy, đánh thức mạnh mẽ các tiềm năng, lợi thế về biển; đồng thời Nghị quyết cũng chỉ ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp triển khai cụ thể. Một trong những nhiệm vụ, giải pháp mang tính đột phá mà Nghị quyết xác định nhằm phát huy thế mạnh từ biển là nhanh chóng đổi mới cơ cấu kinh tế. Đối với lĩnh vực trọng tâm là công nghiệp, Nghị quyết yêu cầu phải tạo chuyển biến mạnh mẽ theo hướng hiện đại với những sản phẩm có thế mạnh, có thương hiệu và tham gia hiệu quả vào chuỗi sản xuất của khu vực và toàn cầu. Với nhiều lợi thế từ sân bay Chu Lai, cảng biển nước sâu Kỳ Hà, tỉnh Quảng Nam tích cực phát triển các ngành công nghiệp hướng tới xuất khẩu. Sau khi xây dựng thành công Khu công nghiệp Điện Nam-Điện Ngọc ( thị xã Điện Bàn ), hiện, toàn tỉnh có 10 khu công nghiệp, thu hút 225 dự án đầu tư. Năm 2022, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 100.405 tỷ đồng, tăng 17,31% so với năm 2021. Thế nhưng, so với tiềm năng thì kết quả thu hút đầu tư của tỉnh Quảng Nam còn hạn chế, do hạ tầng kinh tế-xã hội chưa đồng bộ, chưa bảo đảm liên thông, kết nối liên vùng; một số ngành, lĩnh vực đầu tư chưa chọn lọc. Đồng chí Lê Trí Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho biết, để thực hiện đạt mục tiêu của Nghị quyết số 26-NQ/TW, tỉnh sẽ ưu tiên đầu tư các khu công nghiệp sinh thái, tập trung thu hút các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, sử dụng tiết kiệm đất, năng lượng, tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách và giải quyết việc làm cho người lao động. Về cơ chế, địa phương sẽ thí điểm việc khuyến khích hợp tác liên kết sản xuất theo cụm ngành công nghiệp phụ trợ và công nghiệp cơ khí tại Khu Kinh tế mở Chu Lai; tổ chức kết nối, tạo cơ hội hợp tác đầu tư giữa các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh với THACO Industries về công nghiệp cơ khí hỗ trợ. Tại Quảng Ngãi, Khu kinh tế Dung Quất đã phát huy thế mạnh của trung tâm lọc hóa dầu, năng lượng quốc gia, cùng với cảng nước sâu Dung Quất, sân bay Chu Lai, trở thành đầu mối vận chuyển hàng hóa và giao thương quốc tế quan trọng trong khu vực miền trung, Tây Nguyên. Tuy nhiên, sự phát triển này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng do những trở ngại lớn về hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật-xã hội; nhất là hạ tầng giao thông chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển, chưa hình thành tuyến container tại cảng Dung Quất và vấn đề giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch để thu hút các nhà đầu tư chiến lược. Theo lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi , để mở rộng và xây dựng trung tâm lọc, hóa dầu và năng lượng quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất thành Khu kinh tế chuyên biệt, xanh, thông minh và phát triển bền vững trong tương lai thì phải nhanh chóng xây dựng cơ chế giải quyết những vướng mắc đang đặt ra. Nghị quyết số 26-NQ/TW cũng xác định Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ sớm trở thành khu vực trọng điểm du lịch của cả nước với các trung tâm du lịch biển, du lịch sinh thái mang tầm khu vực và quốc tế. Đà Nẵng đang tiên phong trong lĩnh vực này, hiện là điểm sáng trên bản đồ du lịch của Việt Nam và quốc tế với những sản phẩm, thương hiệu nổi tiếng thế giới. Việc cơ cấu lại ngành du lịch theo hướng chuyên sâu, nghỉ dưỡng cao cấp, từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất… đã tạo cho thành phố sức hấp dẫn. Năm 2022, doanh thu từ du lịch của Đà Nẵng đạt 20.809 tỷ đồng. Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung có điều kiện thuận lợi để trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh, đa dạng ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: xuất, nhập khẩu, du lịch, nghề cá, dầu khí, vận tải, cảng biển, dịch vụ cảng, kinh tế đảo và vận tải biển, ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển. Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đồng hành cùng Quảng Nam, Đà Nẵng; tỉnh Quảng Ngãi cũng đang phát huy mạnh mẽ tiềm năng du lịch biển. Hiện, huyện đảo Lý Sơn là một điểm đến du lịch hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước. Năm 2022, du lịch chiếm gần 50% tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế của huyện. Nhưng dù có những nét khởi sắc ấn tượng, du lịch Lý Sơn cũng chỉ đang trong giai đoạn tự phát, sơ khai. Khó khăn lớn nhất hiện nay của Lý Sơn chính là hạ tầng kỹ thuật và loại hình dịch vụ còn yếu. Theo đồng chí Nguyễn Minh Trí, Bí thư Huyện ủy Lý Sơn, Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định phát triển huyện đảo Lý Sơn trở thành trung tâm du lịch biển. Thực hiện mục tiêu này, cần quy hoạch tổng thể phát triển Lý Sơn theo hướng biến huyện đảo từng bước trở thành một trung tâm du lịch, tích hợp vào quy hoạch tổng thể Khu kinh tế Dung Quất. Trước mắt, xây dựng quy hoạch huyện Lý Sơn tỷ lệ 1/2000 và quy hoạch nâng cấp huyện Lý Sơn từ đô thị loại 5 lên loại 4, tiến tới thành phố giàu mạnh trong tương lai; đồng thời đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư đủ năng lực để hiện thực hóa quy hoạch. Ngoài việc phát huy mạnh mẽ hai thế mạnh mũi nhọn, các địa phương trong Vùng Kinh tế trọng điểm miền trung đang tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng áp dụng khoa học- công nghệ hiện đại gắn với thích ứng biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường biển. Nhiều địa phương đã có bứt phá, như Quảng Nam, Bình Định vươn lên đứng đầu khu vực về nuôi trồng thủy sản và đánh bắt cá xa bờ…
Bộ sưu tập bát, đĩa gốm hoa lam ngự dụng thời Lê sơ gồm hai bát và năm đĩa thuộc thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI. Đây là một trong những bảo vật quốc gia được Thủ tướng công nhận vào tháng 1/2023, do Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long – Hà Nội bảo quản. Các bảo vật khác nhau về kích thước, bố cục hoa văn nhưng đề tài và kỹ thuật trang trí hoa văn trên trong bộ sưu tập là giống nhau, bao gồm đồ án hoa văn đôi rồng bay lượn và nối đuôi nhau theo chiều kim đồng hồ, đồ án rồng cuộn, đồ án cánh sen, đồ án hoa liên tiền (hay còn được gọi là hoa chanh), đồ án hồi văn. Hoa văn được vẽ bằng bút lông, vẽ trực tiếp trên cốt gốm khi cốt đã khô. Cách vẽ rồng ở tư thế bay lượn, đầu ngẩng cao, miệng nhả ngọc, thân uốn nhiều khúc, đuôi duỗi thẳng, vây dương cao, chân đạp mây. Hình tượng rồng trên các bát đĩa thể hiện sống động, hình khối uyển chuyển, tư thế vận động mạnh mẽ. Bộ sưu tập bát, đĩa gốm hoa lam ngự dụng thời Lê sơ thuộc thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI được công nhận bảo vật quốc gia đợt 11. Trong hồ sơ công nhận bảo vật quốc gia, Cục Di sản văn hóa (Bộ VHTTDL) đánh giá các hình vẽ rồng chân 5 móng vuốt sắc nhọn là biểu tượng dành cho hoàng đế. Tại Lam Kinh (Thanh Hóa), khu lăng tẩm và thái miếu triều hậu Lê, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy một số mảnh bát đĩa vẽ hình rồng 5 móng nhưng đều bị vỡ, không đủ để phục hồi. Bộ sưu tập bát, đĩa đồ gốm hoa lam ngự dụng, thời Lê sơ được phát hiện trong các hố khai quật tại Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu, Ba Đình , Hà Nội thuộc khu trung tâm của Hoàng thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê. Đồ án rồng cuộn dùng để trang trí trong lòng đĩa hoặc bát. Theo Cục Di sản Văn hóa, bộ sưu tập là minh chứng cho trình độ phát triển cao của kỹ nghệ sản xuất gốm sứ Đại Việt thời Lê sơ. Kỹ thuật sản xuất gốm men trắng vẽ lam xuất hiện từ lâu, đạt trình độ khá cao cuối thời Trần, đến thời Lê sơ “phát triển vượt bậc” với nhiều dòng men, kiểu dáng mới. Nhiệt độ và kỹ thuật nung đốt sản phẩm đạt và vượt tiêu chuẩn của đồ gốm men thông thường. Qua chất liệu, hoa văn và chữ Hán trên bộ bát đĩa, Cục Di sản văn hóa cho rằng sản phẩm do quan xưởng triều đình, gồm các nghệ nhân giỏi nhất nước chuyên sản xuất vật phẩm cho hoàng gia nhà Lê sơ sản xuất. Hoa văn tỉ mỉ và tinh xảo cho thấy trình độ và óc thẩm mỹ của thợ gốm. Đồ án hoa liên tiền hay còn được gọi là hoa chanh được xếp thành một băng chạy dài dùng để trang trí ở cả mặt trong và mặt ngoài của mép miệng bát. “Đồ án hoa văn trang trí của bộ sưu tập minh chứng cho tính cao quý của các hiện vật này. Các sản phẩm đều có hình vẽ rồng 5 móng, một biểu trưng dành riêng cho nhà vua. Đồ án trang trí hình rồng có chân 5 ngón với 5 móng sắc nhọn mang tính biểu trưng cho quyền lực của nhà vua và phản ánh sự chi phối mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo thời Lê sơ, phản ánh giá trị văn hóa tiêu biểu của thời Lê sơ”, Cục Di sản văn hóa nêu.
The collection of blue and white ceramic bowls and plates used during the early Le period includes two bowls and five plates belonging to the 15th - early 16th centuries. This is one of the national treasures recognized by the Prime Minister in January 2023, preserved by the Thang Long - Hanoi Heritage Conservation Center. The treasures differ in size and pattern layout, but the themes and decoration techniques in the collection are the same, including the pattern of two dragons flying and following each other clockwise. lake, coiled dragon project, lotus petal project, lotus flower project (also known as lemon flower), essay project. Patterns are drawn with a brush, drawn directly on the ceramic core when the core has dried. How to draw a dragon in a flying position, head held high, mouth releasing pearls, body curved in many turns, tail straight, fins high, feet kicking clouds. The dragon image on the dishes is vivid, with flexible shapes and strong movement postures. The collection of blue and white ceramic bowls and plates used during the Early Le Dynasty in the 15th - early 16th centuries was recognized as a national treasure in the 11th round. In the dossier for recognition of national treasures, the Department of Cultural Heritage (Ministry of Culture, Sports and Tourism) evaluated the drawings of dragons with five sharp claws as a symbol for the emperor. At Lam Kinh (Thanh Hoa), a mausoleum and temple area of ​​the late Le dynasty, archaeologists also found a number of pieces of bowls and plates depicting a five-clawed dragon, but they were all broken, not enough to restore. A collection of royal blue and white ceramic bowls and plates of the Early Le Dynasty was discovered in excavation pits at the archaeological relic site 18 Hoang Dieu, Ba Dinh , Hanoi Located in the central area of ​​Thang Long Imperial Citadel during the Ly, Tran, and Le dynasties. Scrolled dragon designs are used to decorate the inside of a plate or bowl. According to the Department of Cultural Heritage, the collection is evidence of the high level of development of Dai Viet ceramic production industry during the Early Le Dynasty. The technique of producing blue-and-white glazed ceramics appeared a long time ago and reached a fairly high level at the end of the Tran Dynasty. By the early Le Dynasty, it had "developed dramatically" with many new glaze lines and designs. The product's temperature and firing technique meet and exceed the standards of conventional glazed ceramics. Through the materials, patterns and Chinese characters on the dishes, the Department of Cultural Heritage believes that the product was made by royal workshops, including the country's best artisans specializing in producing items for the royal family of the early Le Dynasty. Meticulous and sophisticated patterns show the level and aesthetic sense of the potter. The lotus flower project, also known as lemon flower, is arranged in a long strip used to decorate both the inside and outside of the rim of the bowl. “The collection's decorative patterns demonstrate the nobility of these objects. All products have a drawing of a 5-clawed dragon, a symbol dedicated to the king. The decorative design of a dragon with 5-toed feet and 5 sharp claws symbolizes the power of the king and reflects the strong influence of Confucian ideology during the early Le Dynasty, reflecting typical cultural values. of the early Le period", the Department of Cultural Heritage stated.
Được đề cử giải thưởng Yamamoto Shugoro Prize và xếp thứ 10 giải thưởng KONOMYS, Ratman – Bản sao chép lỗi là một tác phẩm đặc sắc của Shusuke Michio. Khi trên nền thể tài trinh thám, từ vụ án về cái chết một người con gái, tác giả đã đưa tới cho độc giả câu chuyện có cấu trúc đặc biệt: vừa là truyện lồng truyện với sự đan xen chồng chéo giữa quá khứ và thực tại, vừa là sự đa dạng góc độ được lấy cảm hứng từ bức họa “Ratman” nổi tiếng. Sự thật chỉ có một nhưng qua khúc xạ của những điểm nhìn khác nhau, sự thật lại bị bóp méo để rồi, ai cũng là nạn nhân và hung thủ trong chính bi kịch của bản thân. Ratman – Bản sao chép lỗi , tác phẩm của Shusuke Michio. Cựu tay trống một ban nhạc rock tử nạn trong nhà kho một studio âm nhạc. Cái chết của cô không chỉ làm dấy lên nghi vấn của tất cả những người liên quan rằng, đây là tai nạn hay án mạng. Mà còn khiến vòng “xoáy tăm tối” của tay guitar trong ban thêm hun hút trước xung đột quá khứ, hiện thực, hoài nghi, khẳng định vẫn âm thầm cuộn trào trong nội tâm anh ta để rồi ác ý trở thành bi kịch dối lừa khó thể quay đầu. Ratman – Bản sao chép lỗi , ngay tựa đề tác phẩm gói trọn tư tưởng, nội dung tác phẩm, tác giả Shusuke Michio đã hé lộ việc ông chịu ảnh hưởng, lấy cảm hứng sáng tác nên câu chuyện, từ bức họa Ratman nổi tiếng. Mà ở đó, nếu bức họa Ratman với hai hàng, hàng động vật, hàng con người khởi đầu từ con chuột và nhà sư: “Ở phía hàng động vật này, ta có thể thấy con chuột. Còn ở hàng mặt người, ta có thể thấy khuôn mặt một nhà sư. Thế nhưng hai hình này chỉ là một thôi.” Thì trong tiểu thuyết Ratman – Bản sao chép lỗi , cũng có hai dòng sự kiện, hai mạch truyện cùng song hành tồn tại, đan xen, quyện hòa với nhau. Một bên, chiều quá khứ Himekawa với ám ảnh về cái chết của người chị ruột và một chiều hiện tại Himekawa với nỗi hoài nghi, giằng co về cái chết của cô gái tên Hikari, hiện đang là người yêu anh. Để rồi, từ điểm nhìn của Himekawa, hai mạch truyện với các cá nhân những tưởng xa lạ, bỗng có mối tương quan mật thiết với nhau và tiếp tục nhấn chìm Himekawa vào vòng “xoáy tăm tối”. Bởi những điều mắt nhìn tai nghe, đều hướng Himekawa tới kết luận, hai cái chết anh thấy của hai người phụ nữ đã và từng thân thiết với anh, đều là những án mạng mà hung thủ, lại từ những người anh yêu thương nhất. Ratman – Bản sao chép lỗi , phần lớn được kể dưới điểm nhìn Himekawa. Vì thế, theo dõi hai vụ án, độc giả rất dễ bị cuốn theo dòng suy tưởng hòa trộn giữa kí ức, thực tại từ một cá nhân vốn đã chìm sâu vào phức cảm đứng trước bức họa Ratman. Khi ẩn ức, đau thương, nghi ngờ quá khứ trở thành nỗi ám ảnh làm ánh nhìn người trong cuộc không thể sáng suốt suy xét mà lẫn lộn thật giả, mà tự cho bản thân là đúng, mà tự chịu đựng, tự hành động chẳng sẻ chia với ai. Từ đó, tự đẩy bản thân vào thứ khổ đau, bi kịch mang tính truyền đời mà tự cho rằng, đó là chân lí. Tuy nhiên, điểm nhìn chính đặt vào Himekawa song không có nghĩa, xuyên suốt tác phẩm, Ratman – Bản sao chép lỗ i chỉ được kể dưới điểm nhìn của tay guitar đấy. Bởi cái chết của người con gái Hiraki ở hiện tại, không chỉ Himekawa có suy tưởng riêng mà những thành viên khác trong ban nhạc cũng có suy nghĩ của riêng họ. Và sự ra đi của chị gái Himekawa ngày trước, đâu phải mình Himekawa có kết luận, chính những người còn ở lại trong gia đình anh, cũng có đáp án cho chính họ. Câu chuyện chỉ có một, tiểu thuyết của tác giả Shusuke Michio cũng chỉ có một, song sự đa dạng hình thức kể, mỗi nhân vật nhìn nhận sự việc trong nội tâm theo chiều hướng riêng làm cho điểm nhìn lẫn cấu trúc tác phẩm Ratman – Bản sao chép lỗi trở nên hết sức phức tạp. Không phải sự phức tạp đến từ hành trình truy tìm hung thủ, vì xuyên suốt toàn bộ cuốn sách hơn 300 trang, dường như không một người nào, thật sự cố gắng điều tra để tìm tung tích kẻ phạm tội. Mà câu chuyện trở nên phức tạp, khi họ tự mặc định hung thủ, tiếp xúc với nhau hàng ngày song chẳng thể giao tiếp hay thấu hiểu lẫn nhau. Kể cả người yêu, bạn bè hay người trong gia đình. Tất thảy, làm bức tranh Ratman càng lúc, càng khúc xạ tới vô tận và xa rời hiện thực, còn con người, như mãi luẩn quẩn trong “chân lí” tự suy diễn rồi day dứt, khổ đau khôn thoát. Như đã nói, Ratman – Bản sao chép lỗi có một khía cạnh rất đặc biệt và cũng là điểm chung rất kì lạ giữa các nhân vật của Shusuke Michio, bất kể bạn bè, người yêu hay người thân: Họ ít nói, ít chia sẻ. Những cuộc đối thoại giữa họ thường chứa đựng rất ít thông tin. Họ giấu suy nghĩ vào nội tâm. Và lời nói, chỉ nhằm thể hiện một phần quyết định, kết quả còn nguyên nhân, mặc nhiên không được nhắc đến. Quá nhiều câu thoại bị bỏ lửng sau dấu “…” Sau cái chết đột ngột của chị gái và cái chết bệnh của người cha, thứ xuất hiện trong ngôi nhà Himekawa là khoảng không, hố đen im lặng vô tận giữa anh và người mẹ luôn u uất. Nghi ngờ cái thai của cô bạn gái nhưng việc Himekawa làm chỉ là lặng im, đưa tiền cho cô phá thai. Himekawa với Kei, em gái Hikari phát sinh quan hệ, cũng là hành động chìm trong im lặng mặc cho anh vẫn nghĩ, hai người thấu hiếu nhau đến thế…. Người ta ngỡ như đã thấu triệt mọi chuyện, cũng như tỏ rõ tâm hồn những người xung quanh. Bởi thế, người ta cho bản thân cái quyền được giống người khác và cái quyền được phép hi sinh vì người khác, mà lấy làm tự mãn. Sự tự mãn như một dạng “AQ” rằng đấy là chân lí, hay đấy là đánh đổi cho sự thanh thản của một kẻ đang gắng sức chuộc lại tội lỗi đã qua. “Bởi vì, bắt chước là cách thức tạo nên cá tính bản thân.” Người ta “bắt chước” trên chính những lầm lạc mà khiến sai lầm nối tiếp sai lầm trong khi họ không thể tự ý thức được, bản thân mỗi lúc một lạc lối. “Sai lầm là gì? Ai sẽ là người phán xét? Mong ước điều gì, phải trả giá ra sao để con người ta có thể sống một cuộc đời mà không phạm lỗi lầm? […] Nếu điều sai trái và sự đúng đắn mang gương mặt giống nhau như đúc thì ai có thể phân biệt được chúng?” Sai lầm là một phần của cuộc sống. Nhưng thiếu sự giao tiếp, người ta đối thoại với nhau mà như độc thoại rồi mãi lảng tránh vào vùng độc thoại nội tâm thì lại càng là bi kịch của những cá nhân, sống trên cuộc đời, đã luôn cô độc biết bao. Từ cô độc mà khao khát giao hòa, kiếm tìm lòng đồng cảm trên sự hi sinh, hiến dâng chính mình tới bất lực, vô vọng. Tuy nhiên, lòng hi sinh tới quên mình đó, đặt sai hoàn cảnh, sai con người, không đơn thuần chỉ là vô nghĩa nữa, mà đó sẽ trở thành gánh nặng, cho những người xung quanh và cho cả, cá nhân phải nhận lấy sự hi sinh tới ích kỉ đó. Ratman – Bản sao chép lỗi là một cuốn tiểu thuyết ngập tràn cái chết lẫn bi kịch tới nặng nề, ngột ngạt. Bi kịch gia đình mang tính truyền đời với sự bạo lực thể xác tới bạo lực tinh thần. Bi kịch tình yêu khi họ yêu nhau mà lại chẳng thể thấu hiểu lẫn nhau. Và bi kịch cá nhân, sự sụp đổ của ý thức khi họ cay đắng nhận ra, sự ngộ nhận tới vị kỉ đã đẩy bi kịch tới chẳng thể vãn hồi. Bởi vốn dĩ, trọn vẹn quãng thời gian trôi qua, đâu thể quay lại. Đánh đổi cho “sự thật” bằng bao “sai lầm” nối tiếp, sao mà đắng cay, đớn đau và nghiệt ngã. Lấy cội rễ từ lí thuyết “Nghệ thuật đánh lừa Ratman”, bằng cách triển khai nội dung cốt truyện khá đặc biệt, mở đầu câu chuyện bằng một đoạn truyện tai nạn thang máy ở một công ti sản xuất thang máy ngỡ như không liên quan; mỗi chương truyện, đều bắt đầu từ một đoạn nhạc của ban nhạc Himekawa chơi guitar: Sundowner; tác giả Shusuke Michio như đang dùng “nghệ thuật đánh lừa” đó đối với từng độc giả trên từng trang sách Ratman – Bản sao chép lỗi . Rằng độc giả đã quen với thể loại trinh thám, hẳn không khó nhận định được hung thủ. Nhưng cốt lõi của Ratman – Bản sao chép lỗi đâu phải hung thủ khi xuyên suốt tác phẩm, Shusuke Michio không hề tập trung vào quá trình điều tra, phá án. Mà hơn cả, từ hình ảnh “con chuột” hay “nhà sư”, thật hay giả, có nghĩa hay vô nghĩa… ông đi sâu vào góc khuất nội tâm sâu kín nhất của mỗi cá nhân. Để khắc họa lên, bản diện con người phức tạp với chuỗi bi kịch trong sự rạn vỡ mối quan hệ giữa người với người, sự vụn vỡ lòng tin lẫn “cái tôi” cá nhân “sao chép” mà chính họ, có lẽ đã chẳng thể tự ý thức.
Được đề cử giải thưởng Yamamoto Shugoro Prize và xếp thứ 10 giải thưởng KONOMYS, Ratman – Bản sao chép lỗi là một tác phẩm đặc sắc của Shusuke Michio. Khi trên nền thể tài trinh thám, từ vụ án về cái chết một người con gái, tác giả đã đưa tới cho độc giả câu chuyện có cấu trúc đặc biệt: vừa là truyện lồng truyện với sự đan xen chồng chéo giữa quá khứ và thực tại, vừa là sự đa dạng góc độ được lấy cảm hứng từ bức họa “Ratman” nổi tiếng. Sự thật chỉ có một nhưng qua khúc xạ của những điểm nhìn khác nhau, sự thật lại bị bóp méo để rồi, ai cũng là nạn nhân và hung thủ trong chính bi kịch của bản thân. Ratman – Bản sao chép lỗi , tác phẩm của Shusuke Michio. Cựu tay trống một ban nhạc rock tử nạn trong nhà kho một studio âm nhạc. Cái chết của cô không chỉ làm dấy lên nghi vấn của tất cả những người liên quan rằng, đây là tai nạn hay án mạng. Mà còn khiến vòng “xoáy tăm tối” của tay guitar trong ban thêm hun hút trước xung đột quá khứ, hiện thực, hoài nghi, khẳng định vẫn âm thầm cuộn trào trong nội tâm anh ta để rồi ác ý trở thành bi kịch dối lừa khó thể quay đầu. Ratman – Bản sao chép lỗi , ngay tựa đề tác phẩm gói trọn tư tưởng, nội dung tác phẩm, tác giả Shusuke Michio đã hé lộ việc ông chịu ảnh hưởng, lấy cảm hứng sáng tác nên câu chuyện, từ bức họa Ratman nổi tiếng. Mà ở đó, nếu bức họa Ratman với hai hàng, hàng động vật, hàng con người khởi đầu từ con chuột và nhà sư: “Ở phía hàng động vật này, ta có thể thấy con chuột. Còn ở hàng mặt người, ta có thể thấy khuôn mặt một nhà sư. Thế nhưng hai hình này chỉ là một thôi.” Thì trong tiểu thuyết Ratman – Bản sao chép lỗi , cũng có hai dòng sự kiện, hai mạch truyện cùng song hành tồn tại, đan xen, quyện hòa với nhau. Một bên, chiều quá khứ Himekawa với ám ảnh về cái chết của người chị ruột và một chiều hiện tại Himekawa với nỗi hoài nghi, giằng co về cái chết của cô gái tên Hikari, hiện đang là người yêu anh. Để rồi, từ điểm nhìn của Himekawa, hai mạch truyện với các cá nhân những tưởng xa lạ, bỗng có mối tương quan mật thiết với nhau và tiếp tục nhấn chìm Himekawa vào vòng “xoáy tăm tối”. Bởi những điều mắt nhìn tai nghe, đều hướng Himekawa tới kết luận, hai cái chết anh thấy của hai người phụ nữ đã và từng thân thiết với anh, đều là những án mạng mà hung thủ, lại từ những người anh yêu thương nhất. Ratman – Bản sao chép lỗi , phần lớn được kể dưới điểm nhìn Himekawa. Vì thế, theo dõi hai vụ án, độc giả rất dễ bị cuốn theo dòng suy tưởng hòa trộn giữa kí ức, thực tại từ một cá nhân vốn đã chìm sâu vào phức cảm đứng trước bức họa Ratman. Khi ẩn ức, đau thương, nghi ngờ quá khứ trở thành nỗi ám ảnh làm ánh nhìn người trong cuộc không thể sáng suốt suy xét mà lẫn lộn thật giả, mà tự cho bản thân là đúng, mà tự chịu đựng, tự hành động chẳng sẻ chia với ai. Từ đó, tự đẩy bản thân vào thứ khổ đau, bi kịch mang tính truyền đời mà tự cho rằng, đó là chân lí. Tuy nhiên, điểm nhìn chính đặt vào Himekawa song không có nghĩa, xuyên suốt tác phẩm, Ratman – Bản sao chép lỗ i chỉ được kể dưới điểm nhìn của tay guitar đấy. Bởi cái chết của người con gái Hiraki ở hiện tại, không chỉ Himekawa có suy tưởng riêng mà những thành viên khác trong ban nhạc cũng có suy nghĩ của riêng họ. Và sự ra đi của chị gái Himekawa ngày trước, đâu phải mình Himekawa có kết luận, chính những người còn ở lại trong gia đình anh, cũng có đáp án cho chính họ. Câu chuyện chỉ có một, tiểu thuyết của tác giả Shusuke Michio cũng chỉ có một, song sự đa dạng hình thức kể, mỗi nhân vật nhìn nhận sự việc trong nội tâm theo chiều hướng riêng làm cho điểm nhìn lẫn cấu trúc tác phẩm Ratman – Bản sao chép lỗi trở nên hết sức phức tạp. Không phải sự phức tạp đến từ hành trình truy tìm hung thủ, vì xuyên suốt toàn bộ cuốn sách hơn 300 trang, dường như không một người nào, thật sự cố gắng điều tra để tìm tung tích kẻ phạm tội. Mà câu chuyện trở nên phức tạp, khi họ tự mặc định hung thủ, tiếp xúc với nhau hàng ngày song chẳng thể giao tiếp hay thấu hiểu lẫn nhau. Kể cả người yêu, bạn bè hay người trong gia đình. Tất thảy, làm bức tranh Ratman càng lúc, càng khúc xạ tới vô tận và xa rời hiện thực, còn con người, như mãi luẩn quẩn trong “chân lí” tự suy diễn rồi day dứt, khổ đau khôn thoát. Như đã nói, Ratman – Bản sao chép lỗi có một khía cạnh rất đặc biệt và cũng là điểm chung rất kì lạ giữa các nhân vật của Shusuke Michio, bất kể bạn bè, người yêu hay người thân: Họ ít nói, ít chia sẻ. Những cuộc đối thoại giữa họ thường chứa đựng rất ít thông tin. Họ giấu suy nghĩ vào nội tâm. Và lời nói, chỉ nhằm thể hiện một phần quyết định, kết quả còn nguyên nhân, mặc nhiên không được nhắc đến. Quá nhiều câu thoại bị bỏ lửng sau dấu “…” Sau cái chết đột ngột của chị gái và cái chết bệnh của người cha, thứ xuất hiện trong ngôi nhà Himekawa là khoảng không, hố đen im lặng vô tận giữa anh và người mẹ luôn u uất. Nghi ngờ cái thai của cô bạn gái nhưng việc Himekawa làm chỉ là lặng im, đưa tiền cho cô phá thai. Himekawa với Kei, em gái Hikari phát sinh quan hệ, cũng là hành động chìm trong im lặng mặc cho anh vẫn nghĩ, hai người thấu hiếu nhau đến thế…. Người ta ngỡ như đã thấu triệt mọi chuyện, cũng như tỏ rõ tâm hồn những người xung quanh. Bởi thế, người ta cho bản thân cái quyền được giống người khác và cái quyền được phép hi sinh vì người khác, mà lấy làm tự mãn. Sự tự mãn như một dạng “AQ” rằng đấy là chân lí, hay đấy là đánh đổi cho sự thanh thản của một kẻ đang gắng sức chuộc lại tội lỗi đã qua. “Bởi vì, bắt chước là cách thức tạo nên cá tính bản thân.” Người ta “bắt chước” trên chính những lầm lạc mà khiến sai lầm nối tiếp sai lầm trong khi họ không thể tự ý thức được, bản thân mỗi lúc một lạc lối. “Sai lầm là gì? Ai sẽ là người phán xét? Mong ước điều gì, phải trả giá ra sao để con người ta có thể sống một cuộc đời mà không phạm lỗi lầm? […] Nếu điều sai trái và sự đúng đắn mang gương mặt giống nhau như đúc thì ai có thể phân biệt được chúng?” Sai lầm là một phần của cuộc sống. Nhưng thiếu sự giao tiếp, người ta đối thoại với nhau mà như độc thoại rồi mãi lảng tránh vào vùng độc thoại nội tâm thì lại càng là bi kịch của những cá nhân, sống trên cuộc đời, đã luôn cô độc biết bao. Từ cô độc mà khao khát giao hòa, kiếm tìm lòng đồng cảm trên sự hi sinh, hiến dâng chính mình tới bất lực, vô vọng. Tuy nhiên, lòng hi sinh tới quên mình đó, đặt sai hoàn cảnh, sai con người, không đơn thuần chỉ là vô nghĩa nữa, mà đó sẽ trở thành gánh nặng, cho những người xung quanh và cho cả, cá nhân phải nhận lấy sự hi sinh tới ích kỉ đó. Ratman – Bản sao chép lỗi là một cuốn tiểu thuyết ngập tràn cái chết lẫn bi kịch tới nặng nề, ngột ngạt. Bi kịch gia đình mang tính truyền đời với sự bạo lực thể xác tới bạo lực tinh thần. Bi kịch tình yêu khi họ yêu nhau mà lại chẳng thể thấu hiểu lẫn nhau. Và bi kịch cá nhân, sự sụp đổ của ý thức khi họ cay đắng nhận ra, sự ngộ nhận tới vị kỉ đã đẩy bi kịch tới chẳng thể vãn hồi. Bởi vốn dĩ, trọn vẹn quãng thời gian trôi qua, đâu thể quay lại. Đánh đổi cho “sự thật” bằng bao “sai lầm” nối tiếp, sao mà đắng cay, đớn đau và nghiệt ngã. Lấy cội rễ từ lí thuyết “Nghệ thuật đánh lừa Ratman”, bằng cách triển khai nội dung cốt truyện khá đặc biệt, mở đầu câu chuyện bằng một đoạn truyện tai nạn thang máy ở một công ti sản xuất thang máy ngỡ như không liên quan; mỗi chương truyện, đều bắt đầu từ một đoạn nhạc của ban nhạc Himekawa chơi guitar: Sundowner; tác giả Shusuke Michio như đang dùng “nghệ thuật đánh lừa” đó đối với từng độc giả trên từng trang sách Ratman – Bản sao chép lỗi . Rằng độc giả đã quen với thể loại trinh thám, hẳn không khó nhận định được hung thủ. Nhưng cốt lõi của Ratman – Bản sao chép lỗi đâu phải hung thủ khi xuyên suốt tác phẩm, Shusuke Michio không hề tập trung vào quá trình điều tra, phá án. Mà hơn cả, từ hình ảnh “con chuột” hay “nhà sư”, thật hay giả, có nghĩa hay vô nghĩa… ông đi sâu vào góc khuất nội tâm sâu kín nhất của mỗi cá nhân. Để khắc họa lên, bản diện con người phức tạp với chuỗi bi kịch trong sự rạn vỡ mối quan hệ giữa người với người, sự vụn vỡ lòng tin lẫn “cái tôi” cá nhân “sao chép” mà chính họ, có lẽ đã chẳng thể tự ý thức.
Từ khi được đưa vào vận hành, siêu công trình thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé ( tỉnh Kiên Giang ) đã mang lại hiệu quả tích cực trọng việc điều tiết nguồn nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất ở ĐBSCL. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những bất cập cần sớm được khắc phục. Theo tìm hiểu dự án cống Cái Lớn – Cái Bé được triển khai tại huyện Châu Thành (Kiên Giang) do Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 10 (Bộ NN-PTNT) làm chủ đầu tư, với tổng kinh phí xây dựng hơn 3.300 tỉ đồng. Trong đó, cống Cái Lớn có tổng chiều rộng thông nước là 455m, gồm 11 khoang, mỗi khoang rộng 40m và khoang âu thuyền rộng 15m. Cống Cái Bé tổng chiều rộng thông nước 85m, gồm 2 khoang, mỗi khoang rộng 35m và 1 khoang âu thuyền rộng 15m. Tháng 1.2022, công trình đã được bàn giao cho Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam vận hành thử nghiệm. Khi đó, hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé đề ra mục tiêu góp phần cấp nước ngọt trong mùa mưa cho vùng sản xuất mặn-ngọt của các huyện An Minh , An Biên (Kiên Giang) với những năm mưa ít, và tiêu thoát nước cho vùng dự án trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Ngoài ra cống còn có nhiệm vụ kết hợp tuyến đê biển Tây tạo thành cụm công trình chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng chống thiên tai, giảm ngập úng khi mặt đất hạ thấp và giảm thiệt hại do hạn mặn vào mùa khô cho các mô hình sản xuất trong vùng. Sau 1 năm đưa vào vận hành, siêu cống Cái Lớn – Cái Bé đã phát huy được nhiều hiệu quả. Mục tiêu của dự án này là kiểm soát được nguồn nước mặn, lợ và ngọt để tạo điều kiện sản xuất ổn định đối với các mô hình sản xuất theo hệ sinh thái ngọt, mặn – lợ, ngọt – lợ luân phiên cho vùng hưởng lợi với diện tích tự nhiên 384.120ha của các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau và Bạc Liêu. Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp, thủy sản là 346.24ha. Một nông dân ở huyện Vĩnh Thuận cho biết: “Từ khi đưa vào vận hành, cống Cái Lớn – Cái Bé đã giúp việc kiểm soát nguồn nước phục vụ sản xuất trở nên linh hoạt, kịp thời hơn. Không còn tình trạng thừa hay thiếu nước phục vụ sản xuất, nuôi trồng thủy sản”. Theo ông, vào những tháng mùa khô trước đó, tình trạng thiếu nước sản xuất thường xuyên xảy ra, bà con nông dân không chủ động được nên gặp nhiều khó khăn trong việc sản xuất nông nghiệp. “Khoảng 1 năm trở lại đây, nhờ chủ động được nguồn nước nên việc sản xuất rất thuận lợi, trúng mùa liên tục, đời sống của người dân cũng ổn định hơn trước”, ông phấn khởi. Từ mùa khô năm 2021-2022 đến nay, khu vực thượng nguồn cống Cái Lớn – Cái Bé không phải đắp đập tạm để kiểm soát mặn như những năm trước đó. Chính vì vậy, tỉnh đã tiết kiệm được hàng chục tỉ đồng, vừa giảm ô nhiễm môi trường, vừa không ảnh hưởng đến giao thông thủy do việc đắp đập tạm. Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang xác định, từ khi đưa vào vận hành cống Cái Lớn – Cái Bé đến nay, các mô hình sản xuất độc canh trong vùng hưởng lợi của dự án đã phát huy hiệu quả. Vùng nuôi tôm nước lợ ở các huyện An Biên, An Minh, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận và Gò Quao, theo dự kiến thả nuôi trên diện tích khoảng 67.370ha. Diện tích tôm càng xanh thả nuôi ghép trong các mô hình nuôi tôm nước lợ dự kiến đạt khoảng 36.500ha. Bên cạnh những thuận lợi đã mang lại thì siêu công trình cống Cái Lớn – Cái Bé vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, cần sớm được tháo gỡ để phát huy toàn diện thế mạnh của siêu cống đúng với mục tiêu đề ra. Ông Lê Hữu Toàn, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang cho biết tỉnh Kiên Giang có 247.000ha nằm trong vùng dự án cống Cái Lớn – Cái Bé, chiếm khoảng 64% diện tích vùng hưởng lợi. Sau một năm vận hành thử nghiệm công trình cống Cái Lớn – Cái Bé, thời vụ sản xuất của các địa phương nằm trong vùng dự án hiện địa phương chưa ghi nhận những thay đổi đáng kể về cơ cấu cây trồng, vật nuôi kể từ sau khi công trình được đưa vào vận hành thử nghiệm. Hệ thống cống Cái Lớn – Cái Bé còn tồn tại nhiều hạn chế cần sớm được khắc phục. Theo đại diện Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam, đơn vị vận hành dự án Cái Lớn – Cái Bé đánh giá, qua thời gian vận hành từ đầu năm 2022 đến nay, các mục tiêu của dự án cơ bản đã được đáp ứng. Song, bên cạnh các kết quả tích cực đạt được thì việc vận hành dự án Cái Lớn – Cái Bé đã làm trầm trọng hơn tình hình ngập ở vùng hạ lưu dự án (khu vực từ cống ra cửa biển tây). Hiện đơn vị này đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để trao đổi, thống nhất kế hoạch vận hành. Trong quá trình vận hành, Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam đã làm việc với các địa phương và nhận thấy còn một số mâu thuẫn về nhu cầu ngọt – mặn đối với các địa phương liên quan đến 2 hệ thống là Cái Lớn – Cái Bé và khu vực tuyến Quản Lộ – Phụng Hiệp thuộc các huyện Long Mỹ ( Hậu Giang ), Hồng Dân ( Bạc Liêu ) và Gò Quao (Kiên Giang). Nguyên do nhu cầu nước vào mùa khô hằng năm giữa các địa phương là không đồng nhất, ví như ở các huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) và Gò Quao (Kiên Giang) thì cần mặn, ngược lại ở huyện Long Mỹ (Hậu Giang) lại cần ngọt. Đó là vấn đề cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc vận hành các công trình thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé. Theo Phó cục trưởng Cục Trồng trọt Lê Thanh Tùng, trong nhiều năm qua, các công trình đã được chú trọng đầu tư để ứng phó biến đổi khí hậu. Đây là biện pháp cho thấy mức độ hiệu quả của nó rất nhanh và có giá trị tức thời để phục vụ cho sản xuất. Ở góc độ sinh kế lâu dài, ông Tùng chỉ ra rằng, khi xây dựng một công trình, phải nghĩ đến giải pháp phi công trình, tức là phải tập trung cho việc thích ứng với sự thay đổi khi có công trình. Riêng đối với lĩnh vực trồng trọt, khi ngăn mặn vào vùng sản xuất của cây trồng, vùng đó cũng không có nước, ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Do đó, chúng ta phải xem lại thời gian ngăn mặn để có thời gian bố trí mùa vụ, thậm chí cây trồng như thế nào cho phù hợp. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đánh giá cống Cái Lớn – Cái Bé đã vận hành nhưng trong vùng dự án là cả một hệ thống sản xuất đan xen nhau nên cần phải có sự tính toán, thống nhất. Để cống Cái Lớn – Cái Bé phát huy hiệu quả, đáp ứng đầy đủ các nhiệm vụ đề ra, Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang đã kiến nghị Bộ NN-PTNT xem xét đầu tư xây dựng 10 cống từ cống Xẻo Rô đến đê biển tây, tức là phía hạ lưu sông Cái Lớn để kiểm soát mặn. Theo đề xuất, tổng mức đầu tư 10 cống nói trên là 900 tỉ đồng. Ngoài ra, sở còn kiến nghị Bộ NN-PTNT chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng cải tạo, nâng cấp công âu thuyền Tắc Thủ và các cống trên tuyến đê biển tây thuộc tỉnh Cà Mau , để hoàn chỉnh, khép kín toàn tuyến đê biển tây Kiên Giang – Cà Mau. Tỉnh Kiên Giang cũng kiến nghị Bộ NN-PTNT tiếp tục hỗ trợ triển khai nhân rộng 5 mô hình thí điểm đạt hiệu quả cao như: mô hình tôm – lúa ở huyện U Minh Thượng và huyện Gò Quao, mô hình cây ăn trái ở các huyện Giồng Riềng, Gò Quao và U Minh Thượng, mô hình khóm – cau – dừa ở huyện Châu Thành, mô hình khóm – tôm ở huyện Gò Quao và mô hình cánh đồng mẫu lớn ở các huyện Giồng Riềng, An Biên. Những địa phương trong vùng hưởng lợi của dự án cống Cái Lớn – Cái Bé như Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau đều mong muốn Bộ NN-PTNT giao đơn vị chức năng phối hợp với Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam ban hành quy chế phối hợp, quy trình vận hành chính thức đối với cống Cái Lớn – Cái Bé trong thời gian tới; đồng thời giao đơn vị chức năng tiếp tục theo dõi, để có những đề xuất điều chỉnh phù hợp.
Từ khi được đưa vào vận hành, siêu công trình thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé ( tỉnh Kiên Giang ) đã mang lại hiệu quả tích cực trọng việc điều tiết nguồn nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất ở ĐBSCL. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những bất cập cần sớm được khắc phục. Theo tìm hiểu dự án cống Cái Lớn – Cái Bé được triển khai tại huyện Châu Thành (Kiên Giang) do Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 10 (Bộ NN-PTNT) làm chủ đầu tư, với tổng kinh phí xây dựng hơn 3.300 tỉ đồng. Trong đó, cống Cái Lớn có tổng chiều rộng thông nước là 455m, gồm 11 khoang, mỗi khoang rộng 40m và khoang âu thuyền rộng 15m. Cống Cái Bé tổng chiều rộng thông nước 85m, gồm 2 khoang, mỗi khoang rộng 35m và 1 khoang âu thuyền rộng 15m. Tháng 1.2022, công trình đã được bàn giao cho Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam vận hành thử nghiệm. Khi đó, hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé đề ra mục tiêu góp phần cấp nước ngọt trong mùa mưa cho vùng sản xuất mặn-ngọt của các huyện An Minh , An Biên (Kiên Giang) với những năm mưa ít, và tiêu thoát nước cho vùng dự án trong điều kiện biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Ngoài ra cống còn có nhiệm vụ kết hợp tuyến đê biển Tây tạo thành cụm công trình chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng chống thiên tai, giảm ngập úng khi mặt đất hạ thấp và giảm thiệt hại do hạn mặn vào mùa khô cho các mô hình sản xuất trong vùng. Sau 1 năm đưa vào vận hành, siêu cống Cái Lớn – Cái Bé đã phát huy được nhiều hiệu quả. Mục tiêu của dự án này là kiểm soát được nguồn nước mặn, lợ và ngọt để tạo điều kiện sản xuất ổn định đối với các mô hình sản xuất theo hệ sinh thái ngọt, mặn – lợ, ngọt – lợ luân phiên cho vùng hưởng lợi với diện tích tự nhiên 384.120ha của các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Cà Mau và Bạc Liêu. Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp, thủy sản là 346.24ha. Một nông dân ở huyện Vĩnh Thuận cho biết: “Từ khi đưa vào vận hành, cống Cái Lớn – Cái Bé đã giúp việc kiểm soát nguồn nước phục vụ sản xuất trở nên linh hoạt, kịp thời hơn. Không còn tình trạng thừa hay thiếu nước phục vụ sản xuất, nuôi trồng thủy sản”. Theo ông, vào những tháng mùa khô trước đó, tình trạng thiếu nước sản xuất thường xuyên xảy ra, bà con nông dân không chủ động được nên gặp nhiều khó khăn trong việc sản xuất nông nghiệp. “Khoảng 1 năm trở lại đây, nhờ chủ động được nguồn nước nên việc sản xuất rất thuận lợi, trúng mùa liên tục, đời sống của người dân cũng ổn định hơn trước”, ông phấn khởi. Từ mùa khô năm 2021-2022 đến nay, khu vực thượng nguồn cống Cái Lớn – Cái Bé không phải đắp đập tạm để kiểm soát mặn như những năm trước đó. Chính vì vậy, tỉnh đã tiết kiệm được hàng chục tỉ đồng, vừa giảm ô nhiễm môi trường, vừa không ảnh hưởng đến giao thông thủy do việc đắp đập tạm. Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang xác định, từ khi đưa vào vận hành cống Cái Lớn – Cái Bé đến nay, các mô hình sản xuất độc canh trong vùng hưởng lợi của dự án đã phát huy hiệu quả. Vùng nuôi tôm nước lợ ở các huyện An Biên, An Minh, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận và Gò Quao, theo dự kiến thả nuôi trên diện tích khoảng 67.370ha. Diện tích tôm càng xanh thả nuôi ghép trong các mô hình nuôi tôm nước lợ dự kiến đạt khoảng 36.500ha. Bên cạnh những thuận lợi đã mang lại thì siêu công trình cống Cái Lớn – Cái Bé vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, cần sớm được tháo gỡ để phát huy toàn diện thế mạnh của siêu cống đúng với mục tiêu đề ra. Ông Lê Hữu Toàn, Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang cho biết tỉnh Kiên Giang có 247.000ha nằm trong vùng dự án cống Cái Lớn – Cái Bé, chiếm khoảng 64% diện tích vùng hưởng lợi. Sau một năm vận hành thử nghiệm công trình cống Cái Lớn – Cái Bé, thời vụ sản xuất của các địa phương nằm trong vùng dự án hiện địa phương chưa ghi nhận những thay đổi đáng kể về cơ cấu cây trồng, vật nuôi kể từ sau khi công trình được đưa vào vận hành thử nghiệm. Hệ thống cống Cái Lớn – Cái Bé còn tồn tại nhiều hạn chế cần sớm được khắc phục. Theo đại diện Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam, đơn vị vận hành dự án Cái Lớn – Cái Bé đánh giá, qua thời gian vận hành từ đầu năm 2022 đến nay, các mục tiêu của dự án cơ bản đã được đáp ứng. Song, bên cạnh các kết quả tích cực đạt được thì việc vận hành dự án Cái Lớn – Cái Bé đã làm trầm trọng hơn tình hình ngập ở vùng hạ lưu dự án (khu vực từ cống ra cửa biển tây). Hiện đơn vị này đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để trao đổi, thống nhất kế hoạch vận hành. Trong quá trình vận hành, Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam đã làm việc với các địa phương và nhận thấy còn một số mâu thuẫn về nhu cầu ngọt – mặn đối với các địa phương liên quan đến 2 hệ thống là Cái Lớn – Cái Bé và khu vực tuyến Quản Lộ – Phụng Hiệp thuộc các huyện Long Mỹ ( Hậu Giang ), Hồng Dân ( Bạc Liêu ) và Gò Quao (Kiên Giang). Nguyên do nhu cầu nước vào mùa khô hằng năm giữa các địa phương là không đồng nhất, ví như ở các huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) và Gò Quao (Kiên Giang) thì cần mặn, ngược lại ở huyện Long Mỹ (Hậu Giang) lại cần ngọt. Đó là vấn đề cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong việc vận hành các công trình thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé. Theo Phó cục trưởng Cục Trồng trọt Lê Thanh Tùng, trong nhiều năm qua, các công trình đã được chú trọng đầu tư để ứng phó biến đổi khí hậu. Đây là biện pháp cho thấy mức độ hiệu quả của nó rất nhanh và có giá trị tức thời để phục vụ cho sản xuất. Ở góc độ sinh kế lâu dài, ông Tùng chỉ ra rằng, khi xây dựng một công trình, phải nghĩ đến giải pháp phi công trình, tức là phải tập trung cho việc thích ứng với sự thay đổi khi có công trình. Riêng đối với lĩnh vực trồng trọt, khi ngăn mặn vào vùng sản xuất của cây trồng, vùng đó cũng không có nước, ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Do đó, chúng ta phải xem lại thời gian ngăn mặn để có thời gian bố trí mùa vụ, thậm chí cây trồng như thế nào cho phù hợp. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam đánh giá cống Cái Lớn – Cái Bé đã vận hành nhưng trong vùng dự án là cả một hệ thống sản xuất đan xen nhau nên cần phải có sự tính toán, thống nhất. Để cống Cái Lớn – Cái Bé phát huy hiệu quả, đáp ứng đầy đủ các nhiệm vụ đề ra, Sở NN-PTNT tỉnh Kiên Giang đã kiến nghị Bộ NN-PTNT xem xét đầu tư xây dựng 10 cống từ cống Xẻo Rô đến đê biển tây, tức là phía hạ lưu sông Cái Lớn để kiểm soát mặn. Theo đề xuất, tổng mức đầu tư 10 cống nói trên là 900 tỉ đồng. Ngoài ra, sở còn kiến nghị Bộ NN-PTNT chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng cải tạo, nâng cấp công âu thuyền Tắc Thủ và các cống trên tuyến đê biển tây thuộc tỉnh Cà Mau , để hoàn chỉnh, khép kín toàn tuyến đê biển tây Kiên Giang – Cà Mau. Tỉnh Kiên Giang cũng kiến nghị Bộ NN-PTNT tiếp tục hỗ trợ triển khai nhân rộng 5 mô hình thí điểm đạt hiệu quả cao như: mô hình tôm – lúa ở huyện U Minh Thượng và huyện Gò Quao, mô hình cây ăn trái ở các huyện Giồng Riềng, Gò Quao và U Minh Thượng, mô hình khóm – cau – dừa ở huyện Châu Thành, mô hình khóm – tôm ở huyện Gò Quao và mô hình cánh đồng mẫu lớn ở các huyện Giồng Riềng, An Biên. Những địa phương trong vùng hưởng lợi của dự án cống Cái Lớn – Cái Bé như Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau đều mong muốn Bộ NN-PTNT giao đơn vị chức năng phối hợp với Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi miền Nam ban hành quy chế phối hợp, quy trình vận hành chính thức đối với cống Cái Lớn – Cái Bé trong thời gian tới; đồng thời giao đơn vị chức năng tiếp tục theo dõi, để có những đề xuất điều chỉnh phù hợp.
Bầu vú mẹ là một biểu tượng như thế. Hoạt động đầu tiên mang tính bản năng của đứa trẻ khi sinh ra là khóc rồi bú. Thế nên ‘Kinh Thánh’ có câu ‘Khởi thủy là vú mẹ’ là có ý giáo dục con người biết ghi ơn người mẹ. Xét về sinh học thì khóc là đòi hỏi, bú là thỏa mãn nhu cầu. Ngạn ngữ Việt thật sâu sắc ‘Con có khóc mẹ mới cho bú’ là triết lý về cặp phạm trù đòi hỏi và thỏa mãn ấy. Là những biểu tượng nguyên thủy gắn liền với văn minh buổi đầu của con người, cổ mẫu (mẫu gốc) luôn lưu giữ quá trình phát triển của văn hóa nhân loại. Vì được gieo trồng ở miền thượng nguồn xa xưa nên cổ mẫu đậm đà chất thơ của cái nguyên sơ trong trẻo, rất giàu có về ý nghĩa bởi được bồi đắp phù sa văn hóa theo thời gian, là một điểm tựa tinh thần nên thiêng liêng trong cảm xúc tiếp nhận. Bầu vú mẹ là một biểu tượng như thế. Hoạt động đầu tiên mang tính bản năng của đứa trẻ khi sinh ra là khóc rồi bú. Thế nên “Kinh Thánh” có câu “Khởi thủy là vú mẹ” là có ý giáo dục con người biết ghi ơn người mẹ . Xét về sinh học thì khóc là đòi hỏi, bú là thỏa mãn nhu cầu. Ngạn ngữ Việt thật sâu sắc “Con có khóc mẹ mới cho bú” là triết lý về cặp phạm trù đòi hỏi và thỏa mãn ấy. Bìa cuốn “Lịch sử vú”. Biểu tượng bầu vú mẹ được xem như là nguồn cội của sức mạnh nuôi dưỡng và ban phát có từ thời văn minh Hy Lạp – La Mã. Đến văn minh Ai Cập cổ đại bầu vú thêm một nét nghĩa biểu tượng của nữ tính. Bằng chứng là khảo cổ học khai quật được những tấm bia đá khắc nhiều hình tượng những bầu vú được dùng để biểu thị cho phái nữ, tính nữ. Vương miện của Nữ thần Ai Cập được tạo dáng giống như một bầu vú căng tròn vừa mạnh mẽ phồn thực vừa nguyên sơ tinh khiết. Người ta cũng khẳng định rất nhiều tác phẩm nghệ thuật thời nguyên thủy Hy Lạp lấy bầu vú làm đối tượng mô tả với cảm hứng ca ngợi cái đẹp cùng những đường cong huyền diệu mà tiêu biểu là tác phẩm “Aphrodite ở đảo Ismailos” hiện lưu giữ trong bảo tàng Musee du Louvre ở Paris (Pháp). Nghệ thuật Phục hưng Ý càng cho thấy hầu hết các họa sĩ đều say mê với hình tượng bầu ngực tràn trề sức sống, nhất là khi miêu tả nữ thần Vệ nữ. Người Việt ta cũng lấy bầu vú là một tiêu chí để đánh giá cái đẹp: “Lưng chữ cụ, vú chữ tâm”. Thành ngữ “Thắt đáy lưng ong” không tả vú nhưng cách dùng ẩn dụ làm người đọc hình dung về dáng hình cao ráo, cái mông rắn mẩy và bộ ngực căng tròn. Trước đây phụ nữ một số dân tộc Tây Nguyên có tập quán không mặc áo với quan niệm cái đẹp phải “khoe” ra… Cái đẹp đi liền với tình yêu. Thời trung cổ, một số dân tộc châu Âu có tập quán làm những chiếc bánh tình yêu có hình giống bộ ngực thiếu nữ để tặng bạn trai. Trong tâm thức nhân loại, bầu vú là điểm tựa tinh thần, là chỗ vịn vững chắc. Không chỉ ở Tây Nguyên Việt Nam và vùng Đông Nam Á mà còn nhiều nơi trên thế giới, ở tấm gỗ cạnh cầu thang lên xuống nhà sàn thường đẽo hình hai bầu vú để bám tay vào đó mỗi lúc lên xuống. Bầu vú còn là biểu trưng cho sức sống mãnh liệt, và khả năng sinh sôi nẩy nở, duy trì nòi giống. Ở phương diện này hình tượng gắn liền với tín ngưỡng phồn thực rất sinh động. Đến Bảo tàng Điêu khắc Chăm (Đà Nẵng), du khách bắt gặp nhiều những tượng nữ thần Uma, Laskmi, Tara với bầu ngực tròn. Chung quanh Đài thờ Tháp Mẫm (Bình Định), Trà Kiệu (Quảng Nam) là một chuỗi hình vú nằm giữa hai lớp hoa lá cách điệu tinh tế. Đi vào truyền thuyết bầu vú thể hiện một quan niệm mỹ học về tình yêu giàu triết lý. Ở huyện Trinh Phong (tỉnh Quý Châu, Trung Quốc ) có ngọn núi tên Núi Đôi bởi hai đỉnh của nó giống như hai bầu vú. Truyện kể ngày xưa có cặp vợ chồng mãi mới sinh hạ được đứa con trai nên rất chiều chuộng. Càng lớn đứa bé càng hư hỏng nên quan trên bắt đi tù. Cậu ta xin quan được uống những giọt sữa mẹ lần cuối. Nhưng khi bú thì cậu ta lại cắn vú mẹ như một sự trả hận vì cho rằng cha mẹ không cứu được con. Quan lập tức cho xử trảm. Đau đớn vô cùng, người mẹ khóc nước mắt chảy thành máu. Bà chết, thân thể hóa thành cặp núi đôi, nước mắt biến thành hồ nước có tên gọi hồ Mẹ. Từ đó, nếu ai đó có nỗi phiền muộn đến rửa mặt bằng nước hồ sẽ được vơi bớt. Trẻ nào hư, uống nước hồ cũng trở nên ngoan ngoãn. Truyện là cả một bài học về lối dạy dỗ con cái, về tình thương cha mẹ, về báo ơn đền nghĩa bậc sinh thành… Ở tỉnh Hà Giang nước ta ( huyện Quản Bạ ) cũng có Núi Đôi hình bầu ngực thiếu nữ. Truyền thuyết kể xưa có một chàng trai người Mông tuấn tú, có tài thổi đàn môi. Chàng thổi hay đến mức một nàng tiên trên thượng giới tên là Hoa Đào bị mê hoặc bèn tìm cách ở lại hạ giới. Họ nên vợ nên chồng và sinh được một bé trai kháu khỉnh. Ngọc Hoàng vô cùng giận dữ, sai người đi bắt nàng về. Thương chồng, thương con thơ thiếu sữa mẹ, nàng để lại đôi nhũ hoa của mình. Đứa con nhờ đó lớn lên khỏe mạnh còn hai bầu vú biến thành hai quả núi được gọi là Núi Đôi hay núi Cô Tiên. Nhờ thế mà vùng đất này có khí hậu mát mẻ, hoa quả thơm ngon, rau trái xanh tươi, lúa ngô tươi tốt. Nước mắt khóc thương chồng con của nàng đã biến thành dòng sông Miện xanh trong quấn quýt rẻo đất phía sau cổng trời huyền thoại. Truyện thật hay, toát ra một ý nghĩa: nghệ thuật đích thực có sức cảm hóa, chinh phục cả người tiên. Tình thương người mẹ là vô cùng, có thể làm thay đổi cả tự nhiên… Truyền thuyết về cây vú sữa của Việt Nam cũng có cái lõi hình tượng một cậu bé được mẹ cưng chiều nên rất nghịch và ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi, đi mãi không về. Ở nhà người mẹ buồn nhớ con mà chết hóa thành một cây xanh có quả tròn như bầu vú mẹ, bên trong có sữa. Một hôm, vừa đói vừa rét, cậu mới tìm về nhưng chỉ còn biết ôm lấy cây mà khóc. Một quả to rơi vào tay cậu. Vội vàng, cậu cắn một miếng rồi phải nhả ra vì chát quá. Bỗng cây rung cành lá thì thào: “ Ăn ba lần mới biết trái ngon/ Con có lớn khôn mới hay lòng mẹ “. Cậu òa lên khóc. Mẹ đã không còn nữa. Nước mắt hối hận rơi xuống gốc cây. Cây xòa cành ôm cậu, cành lá như tay mẹ ngày trước vẫn âu yếm vỗ về. Từ đó, trái cây trở nên thơm ngon nhưng trước khi ăn phải làm mềm quả, chẳng khác đứa trẻ vân vê bầu vú mẹ. Cây được gọi là cây vú sữa. Núi Đôi (Quảng Châu – Trung Quốc). Thơ Hồ Xuân Hương có câu cực hay tả bầu vú thiếu nữ: “Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm”. Gò là khoảnh đất nổi cao lên giữa nơi bằng phẳng. Bồng đảo là tên gọi khác của núi Bồng Lai nơi các vị tiên luyện thuốc trường sinh. Bà Chúa thơ Nôm đã nâng vị thế người thiếu nữ lên tầm vũ trụ, hơn thế, là chốn thiên đường… Và còn một nét nghĩa gốc nguyên thủy không nên bỏ qua: Ai lên/đến được gò ấy, sẽ… trường sinh! Trong tiểu thuyết không thể không nhắc đến “Báu vật của đời” được dịch từ nguyên tác tiếng Trung “Phong nhũ phì đồn”, nghĩa đen là “Vú to mông nở” ca ngợi vẻ đẹp phồn thực của người phụ nữ. Lấy bầu vú là một hình tượng mẫu gốc của nguyên lý Mẹ, Mạc Ngôn làm toát ra những phẩm tính huyền diệu về tất cả những gì to lớn, bao bọc, nuôi dưỡng, chở che và sưởi ấm cả những trái tim bất hạnh… Cũng dựa vào nguyên lý này trong “Mẫu thượng ngàn”, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh hết lời ca ngợi vẻ đẹp của các nhân vật nữ là biểu tượng của sự tái sinh mạnh mẽ và vẻ đẹp phồn thực nồng nàn. Nếu ai đó được “nằm khoanh lòng mẹ” sẽ có thể “nghe nghìn muôn năm sau”. Thì ra người mẹ còn là điểm tựa cội nguồn để con người trở về với xa xưa lịch sử. Trong thơ hiện đại, hình tượng “bầu vú lụa”, “chũm cau căng đứt”… là những hình tượng rất gợi trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng được biết đến nhiều nhất là bài hát “Khúc hát ru người mẹ trẻ”, nhạc Phạm Tuyên, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ . Bản thân hình tượng đã đậm chất thơ, được chắp thêm cánh nhạc của nhạc sĩ tài năng nên càng bay cao bay xa vào bầu trời văn hóa để đậu vào trái tim mọi độc giả, vì ai cũng có mẹ sinh ra, ai cũng lớn lên từ vú mẹ: “ Đôi làn môi con/ Nghiêng về vú mẹ/ Như cây lúa nhỏ/ Nghiêng về phù sa/ Như hương hoa thơm/ Nghiêng về ngọn gió/ Đôi làn môi con/ Ngậm đầu vú mẹ/ Như búp hoa huệ /Ngậm tia nắng trời…/ Sữa mẹ trắng trong/ Con ơi hãy uống/ Sữa mẹ trắng trong/ Con ơi hãy uống/ Rồi mai khôn lớn/ Con ơi hãy nghĩ/ Hãy nghĩ những điều trắng trong “. Viết riêng về hình tượng vú, năm 1997, nhà văn Mỹ Marilyn Yalom (1932-2019) đã cho xuất bản cuốn sách nổi tiếng có tên “Lịch sử vú”. Với cảm hứng chống căn bệnh ung thư vú và đấu tranh vì nữ quyền, bằng vốn hiểu biết sâu sắc về khoa học, chính trị, lịch sử văn hóa… tác giả trình bày thật hấp dẫn quá trình phát triển của hình tượng để tất cả cùng nhau thấu hiểu hơn về người phụ nữ với sứ mệnh cao cả khai sinh ra loài người nhưng lại phải gánh chịu những thiệt thòi lớn.
Bầu vú mẹ là một biểu tượng như thế. Hoạt động đầu tiên mang tính bản năng của đứa trẻ khi sinh ra là khóc rồi bú. Thế nên ‘Kinh Thánh’ có câu ‘Khởi thủy là vú mẹ’ là có ý giáo dục con người biết ghi ơn người mẹ. Xét về sinh học thì khóc là đòi hỏi, bú là thỏa mãn nhu cầu. Ngạn ngữ Việt thật sâu sắc ‘Con có khóc mẹ mới cho bú’ là triết lý về cặp phạm trù đòi hỏi và thỏa mãn ấy. Là những biểu tượng nguyên thủy gắn liền với văn minh buổi đầu của con người, cổ mẫu (mẫu gốc) luôn lưu giữ quá trình phát triển của văn hóa nhân loại. Vì được gieo trồng ở miền thượng nguồn xa xưa nên cổ mẫu đậm đà chất thơ của cái nguyên sơ trong trẻo, rất giàu có về ý nghĩa bởi được bồi đắp phù sa văn hóa theo thời gian, là một điểm tựa tinh thần nên thiêng liêng trong cảm xúc tiếp nhận. Bầu vú mẹ là một biểu tượng như thế. Hoạt động đầu tiên mang tính bản năng của đứa trẻ khi sinh ra là khóc rồi bú. Thế nên “Kinh Thánh” có câu “Khởi thủy là vú mẹ” là có ý giáo dục con người biết ghi ơn người mẹ . Xét về sinh học thì khóc là đòi hỏi, bú là thỏa mãn nhu cầu. Ngạn ngữ Việt thật sâu sắc “Con có khóc mẹ mới cho bú” là triết lý về cặp phạm trù đòi hỏi và thỏa mãn ấy. Bìa cuốn “Lịch sử vú”. Biểu tượng bầu vú mẹ được xem như là nguồn cội của sức mạnh nuôi dưỡng và ban phát có từ thời văn minh Hy Lạp – La Mã. Đến văn minh Ai Cập cổ đại bầu vú thêm một nét nghĩa biểu tượng của nữ tính. Bằng chứng là khảo cổ học khai quật được những tấm bia đá khắc nhiều hình tượng những bầu vú được dùng để biểu thị cho phái nữ, tính nữ. Vương miện của Nữ thần Ai Cập được tạo dáng giống như một bầu vú căng tròn vừa mạnh mẽ phồn thực vừa nguyên sơ tinh khiết. Người ta cũng khẳng định rất nhiều tác phẩm nghệ thuật thời nguyên thủy Hy Lạp lấy bầu vú làm đối tượng mô tả với cảm hứng ca ngợi cái đẹp cùng những đường cong huyền diệu mà tiêu biểu là tác phẩm “Aphrodite ở đảo Ismailos” hiện lưu giữ trong bảo tàng Musee du Louvre ở Paris (Pháp). Nghệ thuật Phục hưng Ý càng cho thấy hầu hết các họa sĩ đều say mê với hình tượng bầu ngực tràn trề sức sống, nhất là khi miêu tả nữ thần Vệ nữ. Người Việt ta cũng lấy bầu vú là một tiêu chí để đánh giá cái đẹp: “Lưng chữ cụ, vú chữ tâm”. Thành ngữ “Thắt đáy lưng ong” không tả vú nhưng cách dùng ẩn dụ làm người đọc hình dung về dáng hình cao ráo, cái mông rắn mẩy và bộ ngực căng tròn. Trước đây phụ nữ một số dân tộc Tây Nguyên có tập quán không mặc áo với quan niệm cái đẹp phải “khoe” ra… Cái đẹp đi liền với tình yêu. Thời trung cổ, một số dân tộc châu Âu có tập quán làm những chiếc bánh tình yêu có hình giống bộ ngực thiếu nữ để tặng bạn trai. Trong tâm thức nhân loại, bầu vú là điểm tựa tinh thần, là chỗ vịn vững chắc. Không chỉ ở Tây Nguyên Việt Nam và vùng Đông Nam Á mà còn nhiều nơi trên thế giới, ở tấm gỗ cạnh cầu thang lên xuống nhà sàn thường đẽo hình hai bầu vú để bám tay vào đó mỗi lúc lên xuống. Bầu vú còn là biểu trưng cho sức sống mãnh liệt, và khả năng sinh sôi nẩy nở, duy trì nòi giống. Ở phương diện này hình tượng gắn liền với tín ngưỡng phồn thực rất sinh động. Đến Bảo tàng Điêu khắc Chăm (Đà Nẵng), du khách bắt gặp nhiều những tượng nữ thần Uma, Laskmi, Tara với bầu ngực tròn. Chung quanh Đài thờ Tháp Mẫm (Bình Định), Trà Kiệu (Quảng Nam) là một chuỗi hình vú nằm giữa hai lớp hoa lá cách điệu tinh tế. Đi vào truyền thuyết bầu vú thể hiện một quan niệm mỹ học về tình yêu giàu triết lý. Ở huyện Trinh Phong (tỉnh Quý Châu, Trung Quốc ) có ngọn núi tên Núi Đôi bởi hai đỉnh của nó giống như hai bầu vú. Truyện kể ngày xưa có cặp vợ chồng mãi mới sinh hạ được đứa con trai nên rất chiều chuộng. Càng lớn đứa bé càng hư hỏng nên quan trên bắt đi tù. Cậu ta xin quan được uống những giọt sữa mẹ lần cuối. Nhưng khi bú thì cậu ta lại cắn vú mẹ như một sự trả hận vì cho rằng cha mẹ không cứu được con. Quan lập tức cho xử trảm. Đau đớn vô cùng, người mẹ khóc nước mắt chảy thành máu. Bà chết, thân thể hóa thành cặp núi đôi, nước mắt biến thành hồ nước có tên gọi hồ Mẹ. Từ đó, nếu ai đó có nỗi phiền muộn đến rửa mặt bằng nước hồ sẽ được vơi bớt. Trẻ nào hư, uống nước hồ cũng trở nên ngoan ngoãn. Truyện là cả một bài học về lối dạy dỗ con cái, về tình thương cha mẹ, về báo ơn đền nghĩa bậc sinh thành… Ở tỉnh Hà Giang nước ta ( huyện Quản Bạ ) cũng có Núi Đôi hình bầu ngực thiếu nữ. Truyền thuyết kể xưa có một chàng trai người Mông tuấn tú, có tài thổi đàn môi. Chàng thổi hay đến mức một nàng tiên trên thượng giới tên là Hoa Đào bị mê hoặc bèn tìm cách ở lại hạ giới. Họ nên vợ nên chồng và sinh được một bé trai kháu khỉnh. Ngọc Hoàng vô cùng giận dữ, sai người đi bắt nàng về. Thương chồng, thương con thơ thiếu sữa mẹ, nàng để lại đôi nhũ hoa của mình. Đứa con nhờ đó lớn lên khỏe mạnh còn hai bầu vú biến thành hai quả núi được gọi là Núi Đôi hay núi Cô Tiên. Nhờ thế mà vùng đất này có khí hậu mát mẻ, hoa quả thơm ngon, rau trái xanh tươi, lúa ngô tươi tốt. Nước mắt khóc thương chồng con của nàng đã biến thành dòng sông Miện xanh trong quấn quýt rẻo đất phía sau cổng trời huyền thoại. Truyện thật hay, toát ra một ý nghĩa: nghệ thuật đích thực có sức cảm hóa, chinh phục cả người tiên. Tình thương người mẹ là vô cùng, có thể làm thay đổi cả tự nhiên… Truyền thuyết về cây vú sữa của Việt Nam cũng có cái lõi hình tượng một cậu bé được mẹ cưng chiều nên rất nghịch và ham chơi. Một lần, bị mẹ mắng, cậu vùng vằng bỏ đi, đi mãi không về. Ở nhà người mẹ buồn nhớ con mà chết hóa thành một cây xanh có quả tròn như bầu vú mẹ, bên trong có sữa. Một hôm, vừa đói vừa rét, cậu mới tìm về nhưng chỉ còn biết ôm lấy cây mà khóc. Một quả to rơi vào tay cậu. Vội vàng, cậu cắn một miếng rồi phải nhả ra vì chát quá. Bỗng cây rung cành lá thì thào: “ Ăn ba lần mới biết trái ngon/ Con có lớn khôn mới hay lòng mẹ “. Cậu òa lên khóc. Mẹ đã không còn nữa. Nước mắt hối hận rơi xuống gốc cây. Cây xòa cành ôm cậu, cành lá như tay mẹ ngày trước vẫn âu yếm vỗ về. Từ đó, trái cây trở nên thơm ngon nhưng trước khi ăn phải làm mềm quả, chẳng khác đứa trẻ vân vê bầu vú mẹ. Cây được gọi là cây vú sữa. Núi Đôi (Quảng Châu – Trung Quốc). Thơ Hồ Xuân Hương có câu cực hay tả bầu vú thiếu nữ: “Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm”. Gò là khoảnh đất nổi cao lên giữa nơi bằng phẳng. Bồng đảo là tên gọi khác của núi Bồng Lai nơi các vị tiên luyện thuốc trường sinh. Bà Chúa thơ Nôm đã nâng vị thế người thiếu nữ lên tầm vũ trụ, hơn thế, là chốn thiên đường… Và còn một nét nghĩa gốc nguyên thủy không nên bỏ qua: Ai lên/đến được gò ấy, sẽ… trường sinh! Trong tiểu thuyết không thể không nhắc đến “Báu vật của đời” được dịch từ nguyên tác tiếng Trung “Phong nhũ phì đồn”, nghĩa đen là “Vú to mông nở” ca ngợi vẻ đẹp phồn thực của người phụ nữ. Lấy bầu vú là một hình tượng mẫu gốc của nguyên lý Mẹ, Mạc Ngôn làm toát ra những phẩm tính huyền diệu về tất cả những gì to lớn, bao bọc, nuôi dưỡng, chở che và sưởi ấm cả những trái tim bất hạnh… Cũng dựa vào nguyên lý này trong “Mẫu thượng ngàn”, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh hết lời ca ngợi vẻ đẹp của các nhân vật nữ là biểu tượng của sự tái sinh mạnh mẽ và vẻ đẹp phồn thực nồng nàn. Nếu ai đó được “nằm khoanh lòng mẹ” sẽ có thể “nghe nghìn muôn năm sau”. Thì ra người mẹ còn là điểm tựa cội nguồn để con người trở về với xa xưa lịch sử. Trong thơ hiện đại, hình tượng “bầu vú lụa”, “chũm cau căng đứt”… là những hình tượng rất gợi trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng được biết đến nhiều nhất là bài hát “Khúc hát ru người mẹ trẻ”, nhạc Phạm Tuyên, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ . Bản thân hình tượng đã đậm chất thơ, được chắp thêm cánh nhạc của nhạc sĩ tài năng nên càng bay cao bay xa vào bầu trời văn hóa để đậu vào trái tim mọi độc giả, vì ai cũng có mẹ sinh ra, ai cũng lớn lên từ vú mẹ: “ Đôi làn môi con/ Nghiêng về vú mẹ/ Như cây lúa nhỏ/ Nghiêng về phù sa/ Như hương hoa thơm/ Nghiêng về ngọn gió/ Đôi làn môi con/ Ngậm đầu vú mẹ/ Như búp hoa huệ /Ngậm tia nắng trời…/ Sữa mẹ trắng trong/ Con ơi hãy uống/ Sữa mẹ trắng trong/ Con ơi hãy uống/ Rồi mai khôn lớn/ Con ơi hãy nghĩ/ Hãy nghĩ những điều trắng trong “. Viết riêng về hình tượng vú, năm 1997, nhà văn Mỹ Marilyn Yalom (1932-2019) đã cho xuất bản cuốn sách nổi tiếng có tên “Lịch sử vú”. Với cảm hứng chống căn bệnh ung thư vú và đấu tranh vì nữ quyền, bằng vốn hiểu biết sâu sắc về khoa học, chính trị, lịch sử văn hóa… tác giả trình bày thật hấp dẫn quá trình phát triển của hình tượng để tất cả cùng nhau thấu hiểu hơn về người phụ nữ với sứ mệnh cao cả khai sinh ra loài người nhưng lại phải gánh chịu những thiệt thòi lớn.
Lễ hội đền Bà Triệu ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa năm 2023. Thanh Hóa là một trong những vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử dân tộc, gắn liền với nhiều nhân vật lẫy lừng như: Khương Công Phụ, Triệu Thị Trinh, Lê Hoàn, Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng… Trong tâm thức dân gian xứ Thanh, Bà Triệu anh hùng luôn có vị thế riêng biệt, gần gũi và linh thiêng, với những câu chuyện kỳ lạ không bao giờ dứt… Năm nay kỷ niệm 1775 năm ngày mất Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh. Chúng tôi về tham dự Lễ hội đền Bà Triệu ở huyện Triệu Sơn , tỉnh Thanh Hóa diễn ra vào ngày bà hy sinh (22/2 âm lịch). Đây cũng là dịp Lễ hội đền Bà Triệu đón nhận bằng “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Không chỉ người xứ Thanh mà đông đảo người Việt trong nước lẫn ngoài nước quy tụ về đây bằng tất cả lòng thành kính, tự hào về Vua Bà. Bên cạnh các bộ sử chính thống ghi chép đơn sơ, mà xưa nhất là từ thế kỷ IV-V, thì trong dân gian lưu truyền rất nhiều câu chuyện truyền thuyết về Bà Triệu. Đó là nguồn tư liệu quan trọng để hậu thế dựng lại cuộc đời và sự nghiệp Bà Triệu ngày càng hoàn chỉnh hơn bằng các loại hình văn hóa, khoa học khác nhau. Triệu Thị Trinh sinh ngày 2/10/226 (năm Bính Ngọ) tại vùng núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc xã Định Tiến, huyện Yên Định , tỉnh Thanh Hóa. Ngoài tên gọi là Triệu nữ, Triệu Ẩu trong sách xưa, về sau bà được tôn vinh với nhiều danh xưng như Triệu Trinh Nương, Triệu Quốc Trinh, Vua Bà, Bà Vương, Nữ Vương, Nhụy Kiều Tướng Quân, Lệ Hải Bà Vương… Tương truyền, khi sinh ra nữ nhi họ Triệu có tướng mạo kỳ lạ. Lớn lên, người bà cao to, dung nhan xinh đẹp, say mê học võ, sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Căm giận trước sự tàn bạo của quân Đông Ngô cướp nước, Triệu Thị Trinh và anh trai Triệu Quốc Đạt quyết tâm dựng cờ khởi nghĩa. Sau một thời gian bí mật vận động, chuẩn bị lực lượng, tích trữ lương thảo, hai anh em họ Triệu cùng nghĩa quân rời quê nhà Quan Yên vượt sông Chu đến vùng núi Nưa nơi có vị thế vô cùng hiểm yếu (nay nằm ở địa phận hai huyện Nông Cống và Triệu Sơn) để lập căn cứ, chiêu mộ thêm binh lực, luyện tập võ nghệ, triển khai binh pháp, mở rộng địa bàn hoạt động xuống miền đồng bằng, dựng cờ khởi nghĩa. Đó là năm 246, bà Triệu Thị Trinh cùng anh trai khởi binh. Từ căn cứ Ngàn Nưa, nghĩa quân đã tấn công chiếm thành Tư Phố. Nhanh chóng giành thắng lợi, nghĩa quân vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền để xây dựng thêm căn cứ địa, vì địa hình tự nhiên nơi đây thuận lợi cho thế “công” lẫn “thủ”. Ba anh em họ Lý là Lý Hoằng Công, Lý Mỹ Công và Lý Thành Công là tướng thuộc quyền đã giúp họ Triệu chỉ huy xây dựng ở Bồ Điền một hệ thống đồn lũy vững chắc để phòng ngự. Người anh Triệu Quốc Đạt lâm bệnh mất ở Bồ Điền. Nghĩa quân tôn Triệu Thị Trinh làm thủ lĩnh toàn quyền, với danh xưng Nhụy Kiều tướng quân (Vị tướng yêu kiều như nhụy hoa). Ra trận, bà thường đi guốc ngà, mặc áo giáp vàng, chít khăn vàng, cưỡi voi trắng oai phong lẫm liệt. Kẻ thù nhìn thấy bà là khiếp vía. Tương truyền trong quân Đông Ngô có câu: “ Hoành qua đương hổ dị/ Đối diện Bà vương nan ” (Múa giáo đánh cọp dễ/ Đối mặt Vua Bà thì thực khó). Ở trong dân gian nước ta thì truyền tụng nhiều thơ ca, câu đối về Vua Bà như: Ru con con ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi. Muốn coi, lên núi mà coi, Có bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng. Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu ngày càng lớn mạnh. Thứ sử Giao Châu bị giết. Tình hình nguy cấp, nhà Ngô liền cử viên tướng giỏi Lục Dận, cháu của danh tướng Lục Tốn, sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, mang theo 8.000 quân để đàn áp cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Mặc dù dũng cảm chống trả nhưng do yếu thế trước sức mạnh tấn công của kẻ thù, cuối cùng căn cứ Bồ Điền bị tàn phá, nghĩa quân tan vỡ. Ngày 22/2/248 (năm Mậu Thìn), Bà Triệu lên núi Tùng bên dòng sông Âu, quì xuống vái trời đất rằng “Sinh vi tướng, tử vi thần” (Sống làm tướng, chết làm thần) rồi rút gươm tự vẫn lúc mới 22 tuổi. Ba vị tướng anh em họ Lý đã tìm thấy thi thể và lo chu toàn mộ phần nữ chủ soái ở đỉnh núi. Sức cùng lực kiệt, cả ba ông cũng đã tuẫn tiết dưới chân núi Tùng để giữ trọn khí tiết, lời thề trung thành với Vua Bà. Trong sách “Đại Nam quốc sử diễn ca” có đoạn “Bà Triệu Ẩu đánh Ngô”: Binh qua trải bấy nhiêu ngày, Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần. Anh hùng chán mặt phong trần, Nữ nhi lại cũng có lần cung đao. Cửu Chân có ả Triệu Kiều, Vú dài ba thước tài cao muôn người. Gặp cơn thảo muội cơ trời, Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang. Đầu voi phất ngọn cờ vàng, Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha. Chông gai một cuộc quan hà, Dù khi chiến tử còn là hiển linh. Theo các nhà nghiên cứu, hình tượng những phụ nữ khổng lồ, vú dài, hành động phi thường… là huyền thoại về bà Mẹ – Đất, về sau hình tượng này được khoác cho bất kỳ người phụ nữ nào đặc biệt. Bà Triệu là một nhân vật đặc biệt xuất chúng như vậy! Thanh Hóa có nhiều di tích lịch sử, văn hóa được nhân dân dựng lên để thờ phụng những người có công với nước. Riêng Bà Triệu có tới ba đền thờ đều hoành tráng. Đầu tiên là đền thờ trên núi Quan Yên quê hương sinh trưởng ra bà, nay thuộc xã Định Tiến, huyện Yên Định. Đền thờ này trước đây nằm bên bờ sông bị sạt lở và chiến tranh tàn phá nên nhân dân đã đưa bà lên núi thờ thành hoàng làng từ năm 1990-1991. Vào ngày giỗ bà hàng năm, người dân tổ chức rước kiệu từ nhà văn hóa làng lên đền thờ. Đến năm 2011, Khu Di tích lịch sử đền Trúc và đền thờ Bà Triệu được công nhận Di tích Lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hiện nay tỉnh Thanh Hóa đã có chủ trương quy hoạch khu đất tại đây để xây dựng đền thờ Bà Triệu cho xứng tầm vóc của bà và mong mỏi của nhân dân quê hương. Thứ hai là đền Nưa, tên chữ là Na Sơn Từ, dân gian gọi Đền Đức Vua Bà, ở dưới chân Núi Nưa nay thuộc xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn. Núi Nưa – Đền Nưa – Am Tiên là khu di tích, thắng cảnh nổi tiếng gắn liền với việc dựng cờ khởi nghĩa Bà Triệu. Đền có từ xưa nhưng do chiến tranh, bị phá hủy và đã phục dựng lại nhiều lần. Ngày 27/3/2009, địa chỉ này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp quốc gia. Đến ngày 4/7/2016, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị Khu Di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Am Tiên, nhằm nâng cấp điểm du lịch văn hóa và tâm linh quan trọng này. Cuối cùng là đền thờ Bà Triệu ở thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc nơi Vua Bà quyên sinh vì nước. Tương truyền, khi mới khởi dựng nơi đây chỉ có 3 gian gỗ lợp bằng tranh, bên trong có một bệ thờ Bà Triệu. Đến thời tiền Lý (549-602), vua Lý Nam Đế trong một lần kéo quân vào Nam chinh phạt quân Lâm Ấp đã nghỉ tại làng Bình Lâm (nay là xã Yến Sơn, huyện Hà Trung ) và đến đền cầu xin Vua Bà hiển linh giúp đánh thắng giặc. Ngày ca khúc khải hoàn chiến thắng trở về, vua Lý Nam Đế đã phong Bà làm thần với mỹ danh “Bật chính anh liệt hùng tài Trinh nhất phu nhân” và cấp tiền cho dân làng sửa sang ngôi đền. Ngoài những nét kiến trúc độc đáo, đền Bà Triệu còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm cùng kho tàng các sự tích, truyền thuyết, huyền thoại, thơ ca, câu đối… Vào năm 2014, Khu Di tích lịch sử văn hóa kiến trúc nghệ thuật đền Bà Triệu ở Hậu Lộc được công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt. Và sáng 11/3/2023, tại Lễ kỷ niệm 1.775 năm ngày mất của Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh, lại được đón nhận danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia cho Lễ hội đền Bà Triệu. Dịp này, đông đảo du khách đã tìm về chiêm bái, tưởng nhớ Vua Bà và chứng kiến một trong những nghi thức long trọng và quan trọng bậc nhất của di sản này: Lễ rước kiệu hay còn gọi là rước bóng. Đây là nghi lễ đặc sắc thể hiện rõ nhất “tính thiêng” hay quan niệm dân gian về sức mạnh của vị Thần đã được các triều đại phong kiến suy tôn và thờ phụng như Bà Triệu anh hùng.
Lễ hội đền Bà Triệu ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa năm 2023. Thanh Hóa là một trong những vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử dân tộc, gắn liền với nhiều nhân vật lẫy lừng như: Khương Công Phụ, Triệu Thị Trinh, Lê Hoàn, Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng… Trong tâm thức dân gian xứ Thanh, Bà Triệu anh hùng luôn có vị thế riêng biệt, gần gũi và linh thiêng, với những câu chuyện kỳ lạ không bao giờ dứt… Năm nay kỷ niệm 1775 năm ngày mất Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh. Chúng tôi về tham dự Lễ hội đền Bà Triệu ở huyện Triệu Sơn , tỉnh Thanh Hóa diễn ra vào ngày bà hy sinh (22/2 âm lịch). Đây cũng là dịp Lễ hội đền Bà Triệu đón nhận bằng “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia” của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Không chỉ người xứ Thanh mà đông đảo người Việt trong nước lẫn ngoài nước quy tụ về đây bằng tất cả lòng thành kính, tự hào về Vua Bà. Bên cạnh các bộ sử chính thống ghi chép đơn sơ, mà xưa nhất là từ thế kỷ IV-V, thì trong dân gian lưu truyền rất nhiều câu chuyện truyền thuyết về Bà Triệu. Đó là nguồn tư liệu quan trọng để hậu thế dựng lại cuộc đời và sự nghiệp Bà Triệu ngày càng hoàn chỉnh hơn bằng các loại hình văn hóa, khoa học khác nhau. Triệu Thị Trinh sinh ngày 2/10/226 (năm Bính Ngọ) tại vùng núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay thuộc xã Định Tiến, huyện Yên Định , tỉnh Thanh Hóa. Ngoài tên gọi là Triệu nữ, Triệu Ẩu trong sách xưa, về sau bà được tôn vinh với nhiều danh xưng như Triệu Trinh Nương, Triệu Quốc Trinh, Vua Bà, Bà Vương, Nữ Vương, Nhụy Kiều Tướng Quân, Lệ Hải Bà Vương… Tương truyền, khi sinh ra nữ nhi họ Triệu có tướng mạo kỳ lạ. Lớn lên, người bà cao to, dung nhan xinh đẹp, say mê học võ, sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Căm giận trước sự tàn bạo của quân Đông Ngô cướp nước, Triệu Thị Trinh và anh trai Triệu Quốc Đạt quyết tâm dựng cờ khởi nghĩa. Sau một thời gian bí mật vận động, chuẩn bị lực lượng, tích trữ lương thảo, hai anh em họ Triệu cùng nghĩa quân rời quê nhà Quan Yên vượt sông Chu đến vùng núi Nưa nơi có vị thế vô cùng hiểm yếu (nay nằm ở địa phận hai huyện Nông Cống và Triệu Sơn) để lập căn cứ, chiêu mộ thêm binh lực, luyện tập võ nghệ, triển khai binh pháp, mở rộng địa bàn hoạt động xuống miền đồng bằng, dựng cờ khởi nghĩa. Đó là năm 246, bà Triệu Thị Trinh cùng anh trai khởi binh. Từ căn cứ Ngàn Nưa, nghĩa quân đã tấn công chiếm thành Tư Phố. Nhanh chóng giành thắng lợi, nghĩa quân vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền để xây dựng thêm căn cứ địa, vì địa hình tự nhiên nơi đây thuận lợi cho thế “công” lẫn “thủ”. Ba anh em họ Lý là Lý Hoằng Công, Lý Mỹ Công và Lý Thành Công là tướng thuộc quyền đã giúp họ Triệu chỉ huy xây dựng ở Bồ Điền một hệ thống đồn lũy vững chắc để phòng ngự. Người anh Triệu Quốc Đạt lâm bệnh mất ở Bồ Điền. Nghĩa quân tôn Triệu Thị Trinh làm thủ lĩnh toàn quyền, với danh xưng Nhụy Kiều tướng quân (Vị tướng yêu kiều như nhụy hoa). Ra trận, bà thường đi guốc ngà, mặc áo giáp vàng, chít khăn vàng, cưỡi voi trắng oai phong lẫm liệt. Kẻ thù nhìn thấy bà là khiếp vía. Tương truyền trong quân Đông Ngô có câu: “ Hoành qua đương hổ dị/ Đối diện Bà vương nan ” (Múa giáo đánh cọp dễ/ Đối mặt Vua Bà thì thực khó). Ở trong dân gian nước ta thì truyền tụng nhiều thơ ca, câu đối về Vua Bà như: Ru con con ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi. Muốn coi, lên núi mà coi, Có bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng. Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu ngày càng lớn mạnh. Thứ sử Giao Châu bị giết. Tình hình nguy cấp, nhà Ngô liền cử viên tướng giỏi Lục Dận, cháu của danh tướng Lục Tốn, sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, mang theo 8.000 quân để đàn áp cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Mặc dù dũng cảm chống trả nhưng do yếu thế trước sức mạnh tấn công của kẻ thù, cuối cùng căn cứ Bồ Điền bị tàn phá, nghĩa quân tan vỡ. Ngày 22/2/248 (năm Mậu Thìn), Bà Triệu lên núi Tùng bên dòng sông Âu, quì xuống vái trời đất rằng “Sinh vi tướng, tử vi thần” (Sống làm tướng, chết làm thần) rồi rút gươm tự vẫn lúc mới 22 tuổi. Ba vị tướng anh em họ Lý đã tìm thấy thi thể và lo chu toàn mộ phần nữ chủ soái ở đỉnh núi. Sức cùng lực kiệt, cả ba ông cũng đã tuẫn tiết dưới chân núi Tùng để giữ trọn khí tiết, lời thề trung thành với Vua Bà. Trong sách “Đại Nam quốc sử diễn ca” có đoạn “Bà Triệu Ẩu đánh Ngô”: Binh qua trải bấy nhiêu ngày, Mới sai Lục Dận sang thay phiên thần. Anh hùng chán mặt phong trần, Nữ nhi lại cũng có lần cung đao. Cửu Chân có ả Triệu Kiều, Vú dài ba thước tài cao muôn người. Gặp cơn thảo muội cơ trời, Đem thân bồ liễu theo loài bồng tang. Đầu voi phất ngọn cờ vàng, Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha. Chông gai một cuộc quan hà, Dù khi chiến tử còn là hiển linh. Theo các nhà nghiên cứu, hình tượng những phụ nữ khổng lồ, vú dài, hành động phi thường… là huyền thoại về bà Mẹ – Đất, về sau hình tượng này được khoác cho bất kỳ người phụ nữ nào đặc biệt. Bà Triệu là một nhân vật đặc biệt xuất chúng như vậy! Thanh Hóa có nhiều di tích lịch sử, văn hóa được nhân dân dựng lên để thờ phụng những người có công với nước. Riêng Bà Triệu có tới ba đền thờ đều hoành tráng. Đầu tiên là đền thờ trên núi Quan Yên quê hương sinh trưởng ra bà, nay thuộc xã Định Tiến, huyện Yên Định. Đền thờ này trước đây nằm bên bờ sông bị sạt lở và chiến tranh tàn phá nên nhân dân đã đưa bà lên núi thờ thành hoàng làng từ năm 1990-1991. Vào ngày giỗ bà hàng năm, người dân tổ chức rước kiệu từ nhà văn hóa làng lên đền thờ. Đến năm 2011, Khu Di tích lịch sử đền Trúc và đền thờ Bà Triệu được công nhận Di tích Lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hiện nay tỉnh Thanh Hóa đã có chủ trương quy hoạch khu đất tại đây để xây dựng đền thờ Bà Triệu cho xứng tầm vóc của bà và mong mỏi của nhân dân quê hương. Thứ hai là đền Nưa, tên chữ là Na Sơn Từ, dân gian gọi Đền Đức Vua Bà, ở dưới chân Núi Nưa nay thuộc xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn. Núi Nưa – Đền Nưa – Am Tiên là khu di tích, thắng cảnh nổi tiếng gắn liền với việc dựng cờ khởi nghĩa Bà Triệu. Đền có từ xưa nhưng do chiến tranh, bị phá hủy và đã phục dựng lại nhiều lần. Ngày 27/3/2009, địa chỉ này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp quốc gia. Đến ngày 4/7/2016, Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị Khu Di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Am Tiên, nhằm nâng cấp điểm du lịch văn hóa và tâm linh quan trọng này. Cuối cùng là đền thờ Bà Triệu ở thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc nơi Vua Bà quyên sinh vì nước. Tương truyền, khi mới khởi dựng nơi đây chỉ có 3 gian gỗ lợp bằng tranh, bên trong có một bệ thờ Bà Triệu. Đến thời tiền Lý (549-602), vua Lý Nam Đế trong một lần kéo quân vào Nam chinh phạt quân Lâm Ấp đã nghỉ tại làng Bình Lâm (nay là xã Yến Sơn, huyện Hà Trung ) và đến đền cầu xin Vua Bà hiển linh giúp đánh thắng giặc. Ngày ca khúc khải hoàn chiến thắng trở về, vua Lý Nam Đế đã phong Bà làm thần với mỹ danh “Bật chính anh liệt hùng tài Trinh nhất phu nhân” và cấp tiền cho dân làng sửa sang ngôi đền. Ngoài những nét kiến trúc độc đáo, đền Bà Triệu còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm cùng kho tàng các sự tích, truyền thuyết, huyền thoại, thơ ca, câu đối… Vào năm 2014, Khu Di tích lịch sử văn hóa kiến trúc nghệ thuật đền Bà Triệu ở Hậu Lộc được công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt. Và sáng 11/3/2023, tại Lễ kỷ niệm 1.775 năm ngày mất của Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh, lại được đón nhận danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia cho Lễ hội đền Bà Triệu. Dịp này, đông đảo du khách đã tìm về chiêm bái, tưởng nhớ Vua Bà và chứng kiến một trong những nghi thức long trọng và quan trọng bậc nhất của di sản này: Lễ rước kiệu hay còn gọi là rước bóng. Đây là nghi lễ đặc sắc thể hiện rõ nhất “tính thiêng” hay quan niệm dân gian về sức mạnh của vị Thần đã được các triều đại phong kiến suy tôn và thờ phụng như Bà Triệu anh hùng.
Ngày 3/4, Cơ quan hàng không và vũ trụ Mỹ (NASA) đã thông báo tên của các phi hành gia sẽ bay quanh Mặt trăng vào năm 2024, mở đầu cho việc đưa con người trở lại bề mặt mặt trăng lần đầu tiên sau nửa thế kỷ. Trái đất nhìn từ Mặt trăng. Ảnh minh họa: NASA. Theo tuyên bố của NASA, phi hành đoàn tham gia sứ mệnh mang tên Artemis II này sẽ bao gồm ba người Mỹ và một người Canada. Ba phi hành gia của NASA – Reid Wiseman, Victor Glover và Christina Koch – đều đã có kinh nghiệm làm việc trên Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS) trong khi Jeremy Hansen của Cơ quan vũ trụ Canada sẽ thực hiện chuyến bay vào vũ trụ đầu tiên của mình. Đáng chú ý, phi hành gia Koch, 44 tuổi, một kỹ sư điện đã tham gia chuyến đi bộ ngoài không gian toàn nữ đầu tiên khi ở trên ISS, sẽ là người phụ nữ đầu tiên bay quanh Mặt trăng. Theo công bố của NASA, Reid Wiseman, 47 tuổi, một phi công của Hải quân Mỹ, người trước đây từng là phi hành gia trưởng của NASA, được bổ nhiệm làm chỉ huy sứ mệnh Artemis II, dự kiến diễn ra vào tháng 11 năm 2024 với phi hành đoàn bay vòng quanh Mặt trăng nhưng không hạ cánh trên đó. Trong khi đó, Glover, 46 tuổi, cũng là phi công hải quân và là người Mỹ gốc Phi đầu tiên làm thành viên phi hành đoàn trên ISS, sẽ là phi công của chuyến bay. Koch, người phụ nữ duy nhất trong phi hành đoàn Artemis II, và Hansen, một phi công 47 tuổi trong lực lượng vũ trang Canada, sẽ đóng vai trò là chuyên gia thực hiện nhiệm vụ. Nhiệm vụ Artemis II kéo dài 10 ngày sẽ thử nghiệm hệ thống phóng tên lửa trong không gian của NASA cũng như các hệ thống hỗ trợ sự sống trên tàu vũ trụ Orion. Là một phần của chương trình Artemis, NASA đặt mục tiêu đưa các phi hành gia lên Mặt trăng vào năm 2025 – hơn 5 thập kỷ sau khi các sứ mệnh Apollo lịch sử kết thúc vào năm 1972. Bên cạnh việc đưa người phụ nữ đầu tiên và người da màu đầu tiên lên Mặt trăng, NASA hy vọng sẽ thiết lập sự hiện diện lâu dài của con người trên bề mặt Mặt trăng và cuối cùng là khởi động một chuyến hành trình tới Sao Hỏa – được kỳ vọng tiến hành vào năm 2040.
On April 3, the US Aeronautics and Space Administration (NASA) announced the names of astronauts who will fly around the Moon in 2024, opening the way for humans to return to the lunar surface for the first time. after half a century. Earth seen from the Moon. Illustration photo: NASA. According to NASA's statement, the crew participating in this mission named Artemis II will include three Americans and one Canadian. Three NASA astronauts – Reid Wiseman, Victor Glover and Christina Koch – all have experience working on the International Space Station (ISS) while Jeremy Hansen of the Canadian Space Agency will perform the space flight your first. Notably, astronaut Koch, 44, an electrical engineer who participated in the first all-female spacewalk while on the ISS, will be the first woman to orbit the Moon. According to NASA's announcement, Reid Wiseman, 47, a US Navy pilot who previously served as NASA's chief astronaut, was appointed commander of the Artemis II mission, scheduled to take place in November. 2024 with a crew orbiting the Moon but not landing on it. Meanwhile, Glover, 46, also a naval aviator and the first African American to serve as a crew member on the ISS, will be the flight's pilot. Koch, the only woman on the Artemis II crew, and Hansen, a 47-year-old pilot in the Canadian armed forces, will serve as mission specialists. The 10-day Artemis II mission will test NASA's space rocket launch system as well as life support systems on the Orion spacecraft. As part of the Artemis program, NASA aims to send astronauts to the Moon by 2025 – more than five decades after the historic Apollo missions ended in 1972. Besides sending the first woman and first person of color to the Moon, NASA hopes to establish a permanent human presence on the lunar surface and eventually launch a journey to Mars – expected to launch in 2040.
Những bức tranh bất tử của danh họa, nhà bác học Leonardo da Vinci – chịu được độ ẩm, khó nhăn và khó bị ố vàng hơn cả một số tranh hiện đại – là nhờ vào một công thức đặc biệt khiến giới khoa học hàng thế kỷ sau mới giải mã được. Theo Science Alert, nghiên cứu tập trung vào việc dư lượng protein cao bất thường và khó hiểu đã được tìm thấy trong một số kiệt tác của Da Vinci và đôi khi cả trong tranh của danh họa cùng thời Sandro Botticelli. Nhóm tác giả đứng đầu bởi tiến sĩ Ophelie Ranquet từ Viện Cơ học và kỹ thuật quy trình cơ khí thuộc Viện Công nghệ Karrlsruhe ( Đức ) đã phân tích lại một số tranh của danh họa Da Vinci và tìm ra nguồn gốc của protein đó: Lòng đỏ trứng. Kiệt tác Mona Lisa và danh họa Leonardo da Vinci (Ảnh tư liệu). Việc một thức ăn xuất hiện trong sơn dầu tưởng chừng như kỳ quái, nhưng các phân tích cho thấy đó là chủ ý của danh họa. Theo bài công bố trên Nature Communication, nguyên nhân khá đơn giản: Lòng đỏ trứng được sử dụng như một chất bảo quản tranh. Và lại là chất bảo quản ưu việt đến khó ngờ. Với một lượng dù rất nhỏ lòng đỏ trứng, tính chất sơn dầu thay đổi đáng kinh ngạc. Chất chống oxy hóa này giúp làm chậm quá trình đóng rắn của sơn dầu, giúp các họa sĩ dễ sử dụng chúng hơn. Hơn hết, nó giúp các bức tranh khó bị ố vàng, khó nhăn và chịu được độ ẩm tốt hơn hẳn tranh vẽ bằng sơn dầu thông thường. Vì protein trứng ức chế nước hấp thụ vào sơn trong môi trường ẩm ướt. Vì vậy, công thức đơn giản đến mức bất ngờ này vô tình đã trở thành báu vật cho thế giới vì giúp bảo quản được các tác phẩm nghệ thuật vô giá tốt hơn mong đợi cho đến ngày nay.
Immortal paintings of famous artists and scholars Leonardo da Vinci - resistant to humidity, harder to wrinkle and harder to stain than some modern paintings - thanks to a special formula that took scientists centuries to decipher. According to Science Alert, The study focused on unusually high protein residues found in some of Da Vinci's masterpieces and occasionally in paintings by contemporary artist Sandro Botticelli. The author group is headed by Dr. Ophelie Ranquet from the Institute of Mechanics and Mechanical Process Engineering at Karlsruhe Institute of Technology ( Virtue ) reanalyzed some of Da Vinci's paintings and found the source of that protein: Egg yolk. Masterpiece Mona Lisa and famous artist Leonardo da Vinci (Documentary photo). The fact that a food appears in oil paint seems strange, but analysis shows that it was the artist's intention. According to the above publication Nature Communication, The reason is quite simple: Egg yolks are used as a preservative. And it is an incredibly superior preservative. With even a very small amount of egg yolk, the properties of oil paint change dramatically. This antioxidant helps slow down the curing process of oil paints, making them easier for artists to use. Above all, it helps paintings to be difficult to yellow, difficult to wrinkle, and to withstand moisture better than paintings painted with regular oil paint. Because egg protein inhibits water absorption into the paint in humid environments. Therefore, this surprisingly simple formula accidentally became a treasure for the world because it helps preserve priceless works of art better than expected to this day.
Chiều 3/4, UBND tỉnh Vĩnh Long tổ chức lễ công bố di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ‘Nghề làm tàu hũ ky xã Mỹ Hòa, thị xã Bình Minh’. Xã Mỹ Hòa nằm bên sông Hậu hiền hòa. Xưa nay, người dân Mỹ Hòa sống chủ yếu bằng ruộng vườn, số ít mưu sinh bằng nghề chài lưới trên sông. Năm 1912, ông Châu Xường cùng vợ và 2 con trai bắt đầu làm nghề tàu hũ ky. Dần dần người trong xóm theo nghề làm tàu hũ ky và sản phẩm được bán ra khắp nơi. Từ đó, hình thành nên làng nghề truyền thống làm nghề tàu hũ ky tại Mỹ Hòa. Làng nghề tàu hũ ky ở xã Mỹ Hòa, Vĩnh Long. Bí thư thị xã Bình Minh Trương Đặng Vĩnh Phúc thăm làng nghề tàu hũ ky Mỹ Hòa. Ngày 4/8/2022, “Nghề làm tàu hũ ky xã Mỹ Hòa, thị xã Bình Minh” được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Hiện nay có khoảng 30 hộ làm nghề tàu hũ ky tại xã Mỹ Hòa, thị xã Bình Minh . Lễ đón nhận quyết định Nghề làm tàu hũ ky xã Mỹ Hòa, thị xã Bình Minh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. “Trải qua hàng trăm năm với biết bao đổi thay, làng nghề vẫn giữ cái hồn cốt gắn với kinh nghiệm đã có từ lâu. Nghề làm tàu hũ ky là một di sản có đầy đủ các tiêu chí mang tính đại diện, thể hiện bản sắc của địa phương; phản ánh sự đa dạng văn hóa, sự sáng tạo của con người; minh chứng cho tình yêu, sự trân trọng giá trị lao động, ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa và tinh thần đoàn kết, tương trợ trong lao động của người dân tỉnh Vĩnh Long”, lãnh đạo UBND tỉnh Vĩnh Long nói.
On the afternoon of April 3, People's Committee Vinh Long province Organized a ceremony to announce the national intangible cultural heritage 'Tofu making profession in My Hoa commune, Binh Minh town'. My Hoa commune is located on the gentle Hau river. In the past, My Hoa people lived mainly on fields and gardens, with a few making a living by fishing on the river. In 1912, Mr. Chau Xuong, his wife and two sons started making tofu kettle. Gradually, people in the neighborhood took up the profession of making tofu and the products were sold everywhere. From there, a traditional tofu craft village was formed in My Hoa. Tofu craft village in My Hoa commune, Vinh Long. Secretary of Binh Minh town Truong Dang Vinh Phuc visited My Hoa tofu craft village. On August 4, 2022, "Tofu making profession in My Hoa commune, Binh Minh town" was registered by the Ministry of Culture, Sports and Tourism on the National Intangible Cultural Heritage List. Currently, there are about 30 households making tofu kettle in My Hoa commune, Binh Minh town . Ceremony to receive the decision that the tofu making profession in My Hoa commune, Binh Minh town is a national intangible cultural heritage. “After hundreds of years and many changes, the craft village still retains the soul associated with long-standing experience. The craft of making tofu is a heritage that has all the representative criteria, expressing local identity; reflects cultural diversity and human creativity; demonstrates the love, appreciation for the value of labor, awareness of preserving cultural identity and spirit of solidarity and mutual support in labor of the people of Vinh Long province," said the leader of the People's Committee of Vinh Long province.
Đến năm 2030 Tuyên Quang là tỉnh phát triển khá, toàn diện, bao trùm và bền vững trong vùng Trung du và miền núi Bắc bộ. Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã ký Quyết định số 325/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tỉnh Tuyên Quang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch tỉnh Tuyên Quang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030 Tuyên Quang là tỉnh phát triển khá, toàn diện, bao trùm và bền vững trong vùng Trung du và miền núi Bắc bộ; kinh tế phát triển xanh và năng động, nhanh và bền vững trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Không gian kinh tế – xã hội được tổ chức, phát triển hài hòa, hợp lý gắn với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; bảo đảm môi trường, sinh thái. Xây dựng Tuyên Quang là tỉnh điển hình về phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững, ứng dụng công nghệ cao và trung tâm sản xuất, chế biến gỗ của vùng Trung du và miền núi Bắc bộ. Về mục tiêu kinh tế, phấn đấu đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân thời kỳ 2021-2030 phấn đấu đạt trên 9,5%. Cơ cấu kinh tế: Ngành công nghiệp – xây dựng chiếm 42,8%; ngành dịch vụ chiếm 40,8%; ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 13,2%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp chiếm 3,2%. GRDP bình quân đầu người đạt trên 130 triệu đồng/người/năm. Định hướng đến năm 2050, Tuyên Quang là tỉnh phát triển, thu nhập cao của vùng Trung du và miên núi Bắc bộ, có môi trường xã hội văn minh, hiện đại, sáng tạo, dân chủ. Các khu công nghiệp, cụm công nghiệp phát triển xanh, công nghiệp sinh thái, thông minh; dịch vụ phát triển đa dạng, hiện đại; sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu. Kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại và kết nối; hệ thống đô thị thông minh, xanh và bền vững. Di tích, di sản văn hóa, lịch sử được bảo tồn, phát huy. Người dân có cuộc sống tốt, mức sống cao. Quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Theo định hướng, Tuyên Quang tập trung phát triển ba trụ cột kinh tế gồm: Công nghiệp chế biến, chế tạo và năng lượng theo định hướng kinh tế tuần hoàn và tăng trưởng xanh; phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ, đặc sản và kinh tế lâm nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới. Hình thành bốn cực tăng trưởng bao gồm: Cực tăng trưởng công nghiệp, dịch vụ, du lịch và đô thị tại thành phố Tuyên Quang và phía Nam huyện Yên Sơn; cực tăng trưởng công nghiệp, đô thị, du lịch tại huyện Sơn Dương ; cực tăng trưởng du lịch, nông nghiệp hàng hóa đặc sản, chất lượng cao tại huyện Na Hang và Lâm Bình ; cực tăng trưởng công nghiệp và nông, lâm nghiệp tại khu vực huyện Hàm Yên, Chiêm Hóa. Cụ thể, về công nghiệp phát triển theo mô hình kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh, ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, tạo ra các sản phẩm có giá trị cao và chất lượng cao, trong đó tập trung phát triển Tuyên Quang trở thành vệ tinh của vùng về chuỗi liên kết sản xuất điện tử, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô; phát triển công nghiệp chế tạo công nghệ cao tại thành phố Tuyên Quang và huyện Yên Sơn ; phát triển công nghiệp chế biến sâu khoáng sản, dệt may, da giày, chế biến nông sản, công nghiệp phụ trợ tập trung tại huyện Sơn Dương; công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, dược liệu, gỗ, lâm sản tại huyện Hàm Yên , Chiêm Hóa ; phát triển thủy điện, năng lượng tái tạo tại các khu vực có tiềm năng trên địa bàn tỉnh; tập trung phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, trọng tâm là thu hút đầu tư các dự án công nghiệp chế biến, chế tạo. Du lịch phát triển bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế quan trọng của địa phương, gắn với phát huy giá trị di sản, di tích lịch sử, văn hóa và bản sắc văn hóa các dân tộc của tỉnh; nâng cao chất lượng các tuyến du lịch, phát triển các sản phẩm du lịch chủ đạo. Thu hút, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du lịch cấp quốc gia; khu, điểm du lịch và hạ tầng phục vụ du lịch trên địa bàn tỉnh. Chủ động tổ chức xúc tiến, quảng bá du lịch Tuyên Quang đến thị trường trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết hoạt động du lịch trong tỉnh với các địa phương trong vùng và cả nước. Xây dựng, hoàn thiện tiêu chí, trình cấp có thẩm quyền xem xét, công nhận Khu du lịch Tân Trào trở thành khu du lịch quốc gia; xây dựng Khu du lịch suối khoáng Mỹ Lâm là khu du lịch nghỉ dưỡng sinh thái cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế; phát triển Khu du lịch sinh thái Na Hang – Lâm Bình cơ bản đáp ứng các tiêu chí khu du lịch sinh thái quốc gia. Duy trì và nâng tầm Lễ hội Thành Tuyên trở thành lễ hội có quy mô, thương hiệu quốc tế. Nông nghiệp phát triển theo hướng nông nghiệp hàng hóa, sản xuất an toàn, hữu cơ, đặc sản; hình thành các vùng chuyên canh với quy mô thích hợp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông, lâm nghiệp; phát triển chuỗi giá trị các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh…
By 2030, Tuyen Quang will be a well-developed, comprehensive, inclusive and sustainable province in the Northern Midlands and Mountains region. Deputy Prime Minister Tran Hong Ha signed Decision Không. 325/QD-TTg approving the Tuyen Quang Provincial Planning for the period 2021-2030, with a vision to 2050. Zoning Tuyen Quang province The period 2021-2030, with a vision to 2050, determines the general goal that by 2030, Tuyen Quang will be a well-developed, comprehensive, inclusive and sustainable province in the Northern Midlands and Mountainous region; Economic development is green and dynamic, fast and sustainable on the basis of promoting the application of science, technology and innovation to improve productivity, quality, efficiency and competitiveness. The socio-economic space is organized and developed harmoniously and reasonably in association with promoting economic restructuring; Ensuring the environment and ecology. Build Tuyen Quang as a typical province in sustainable forestry economic development, high technology application and wood production and processing center of the Northern Midlands and Mountains region. Regarding economic goals, by 2030, the average economic growth rate (GRDP) in the period 2021-2030 strives to reach over 9.5%. Economic structure: Industry - construction accounts for 42.8%; service industry accounts for 40.8%; Agriculture, forestry and fisheries accounted for 13.2%; Product tax minus subsidies accounts for 3.2%. The average GRDP per capita reached over 130 million VND/person/year. Oriented to 2050, Tuyen Quang is a developed, high-income province of the Northern Midlands and Mountains region, with a civilized, modern, creative and democratic social environment. Industrial parks and industrial clusters develop green, ecological and smart industries; Diverse and modern development services; Agricultural production applies high technology and adapts to climate change. Synchronous, modern and connected infrastructure; smart, green and sustainable urban system. Monuments, cultural and historical heritage are preserved and promoted. People have a good life and a high standard of living. National defense, political security and social order and safety are guaranteed. According to orientation, Tuyen Quang focuses on developing three economic pillars including: Processing, manufacturing and energy industries following the direction of circular economy and green growth; develop tourism to become an important economic sector of the province; agriculture applying high technology, organic, specialty and sustainable forestry economy, building new rural areas. Forming four growth poles includes: Industry, service, tourism and urban growth poles in Tuyen Quang city and the south of Yen Son district; extreme industrial, urban and tourism growth in Vietnam Son Duong district ; Extremely growing tourism, agricultural and high-quality specialty goods in the district Na Hang and Lam Binh ; Extreme growth of industry, agriculture and forestry in Ham Yen district, Champa. Specifically, about industry developing according to the circular economic model, green growth, applying high technology, being environmentally friendly, creating high-value and high-quality products, focusing on developing Tuyen Quang to become satellite of the region in the chain of electronic production links, supporting industries, and automobile manufacturing and assembly industries; develop high-tech manufacturing industry in Tuyen Quang city and Yen Son district ; develop the deep processing industry of minerals, textiles, garments, footwear, agricultural product processing, and supporting industries concentrated in Son Duong district; agricultural product processing industry, food, medicinal materials, wood, and forest products in the district Ham Yen , Champa ; develop hydropower and renewable energy in potential areas in the province; Focus on developing industrial parks and industrial clusters, with a focus on attracting investment in processing and manufacturing industry projects. Tourism sustainable development, truly becoming an important local economic sector, associated with promoting the values ​​of heritage, historical and cultural relics and cultural identities of the province's ethnic groups; Improve the quality of tourist routes and develop key tourism products. Attract and invest in building infrastructure of national tourist areas; tourist areas, attractions and infrastructure serving tourism in the province. Actively organize and promote Tuyen Quang tourism to domestic and international markets. Promote cooperation and linkage of tourism activities in the province with localities in the region and the whole country. Develop and complete criteria and submit to competent authorities for consideration and recognition of Tan Trao tourist area as a national tourist area; build My Lam mineral spring tourist area as a high-class eco-tourism resort meeting international standards; Developing Na Hang - Lam Binh eco-tourism area to basically meet the criteria of national eco-tourism area. Maintain and enhance Thanh Tuyen Festival to become a festival of international scale and brand. Agriculture develop towards commodity agriculture, safe, organic and specialty production; Form specialized farming areas with appropriate scale; Promote the application of high technology in agricultural and forestry production; Developing the value chain of the province's key agricultural products...
Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, các kiến trúc điện, miếu ở Lam Kinh đã bị phá hủy hoàn toàn, nhưng từ nền móng cũ qua nhiều lần khai quật, một cố đô Lam Kinh kỳ vĩ dưới triều Lê gần 600 năm trước đang dần hiện hữu. Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Lam Kinh ( huyện Thọ Xuân , tỉnh Thanh Hóa ) được biết đến là vùng đất thiêng, quê hương của người Anh hùng dân tộc Lê Lợi – nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (mùa Xuân Mậu Tuất năm 1418) đã đi vào sử sách. Ông Vũ Đình Sỹ, Trưởng ban Quản lý di tích lịch sử Lam Kinh, cho biết di tích Lam Kinh đã được các nhà nghiên cứu người Pháp và Việt Nam tiến hành khảo sát và khai quật khảo cổ học. Đặc biệt từ năm 1996 đến nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với tỉnh Thanh Hóa tiến hành nhiều đợt điều tra, thám sát và khai quật khảo cổ học. Công việc nghiên cứu được thực hiện một cách thận trọng với các bước điều tra, khảo sát, thám sát và khai quật trên diện rộng. Chính điện Lam Kinh được phục dựng trên nền móng cũ. Qua tài liệu khai quật cho thấy, mặt bằng tổng thể của di tích Lam Kinh đã được phác dựng khá đầy đủ, với nhiều đơn nguyên kiến trúc bao gồm tòa Chính Điện, các tòa Thái Miếu, các điện thờ ở Tây Thất, tòa Tả Vu và Hữu Vu, sân rồng, các công trình kiến trúc hình chữ Công, chữ nhật ở khu Đông Trù…. và hệ thủy Lam Kinh bao gồm đập nước cổ, hồ Như Áng, kênh dẫn nước, hồ Tây và sông Ngọc. Đặc biệt, qua diễn biến địa tầng các khu vực thám sát và khai quật, đã biết đến quá trình tồn tại của Lam Kinh suốt từ thế kỷ 15-18 với hai lớp kiến trúc thời Lê sơ (15-16) và Lê trung hưng (17-18) nằm kế tiếp nhau. Nằm dưới hai lớp kiến trúc là tầng văn hóa thời Trần, niên đại cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15, chứa đựng các tàn tích vật chất như: đồ gốm sứ, tiền đồng, xương răng động vật, rìu bôn đá, ngói lợp kiến trúc đã phần nào phản ánh những ghi chép của sử thành văn và bia Vĩnh Lăng về vùng đất này khi tổ tiên của Lê Thái Tổ đến đây lập trại, khi Lam Sơn chưa trở thành Lam Kinh với vị trí là “kinh đô thứ hai” của nước Đại Việt thời Lê. Đường vào lăng mộ vua Lê Thái Tổ và lăng mộ vua Lê Thái Tổ. “Qua 7 đợt khai quật, các nhà sử học đã biết tới một “cố đô Lam Kinh hiển hiện trong lòng đất” với các mặt bằng của các công trình đồ sộ, quy mô to lớn và bề thế, được thể hiện qua các bó móng, nền, gia cố và chân tảng, hệ thống thoát nước, hàng hiên bao quanh… Trong số đó, đáng kể nhất là tòa Chính Điện với mặt bằng hình chữ Công (I), có niên đại Lê Sơ là loại mặt bằng mới xuất hiện lần đầu tiên và 9 tòa Thái Miếu xếp thành hình vòng cung rất “đặc biệt” trong diễn biến chung của các loại hình kiến trúc Việt Nam”- ông Vũ Đình Sỹ cho hay. Cũng theo ông Sỹ, sự bề thế của Lam Kinh còn được thể hiện qua sự góp mặt của các loại vật liệu và trang trí kiến trúc cực kỳ phong phú như gạch bậc tam cấp, đầu rồng trang trí bờ nóc, phù điêu, gạch ốp trang trí, thành bậc tạo hình sóc trang trí hoa lá…. đặc biệt là các thành bậc lối lên trước thềm Chính Điện và Thái Miếu trang trí rồng và mây hiện còn trên bề mặt di tích mà khi quan sát nhận thấy sự giống nhau giữa chúng với với các thành bậc ở điện Kính Thiên (Thăng Long – Hà Nội), cho thấy phần nào sự hoành tráng của kiến trúc nơi đây. Với những cứ liệu, dấu tích được tìm thấy qua 7 lần khai quật, các nhà nghiên cứu đã phần nào phác thảo được một cố đô Lam Kinh bề thế, uy nghi của triều Lê. Đây cũng là cơ sở quan trọng để Lam Kinh từng bước được nhà nước, tỉnh Thanh Hóa quan tâm trùng tu, tôn tạo, phục dựng lại những công trình điện, miếu đã từng tồn tại hàng trăm năm trước. Đặc biệt là việc phục dựng lại Chính điện Lam Kinh, một công trình kỳ vĩ với 138 cột chính, từ những nền móng còn sót lại. Lam Kinh nhìn từ trên cao. Theo ông Vũ Đình Sỹ, từ những vết tích công trình còn sót lại và phát lộ thông qua những đợt khai quật khảo cổ học, là cứ liệu rất quan trọng xác lập căn cứ, cơ sở để tổ chức trùng tu tôn tạo, phục dựng lại các công trình, kiến trúc. “Từ năm 1995 trở lại đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Bộ VH-TT-DL, tỉnh Thanh Hóa đã bố trí nguồn kinh phí rất lớn cho việc phục dựng lại Lam Kinh. Việc trùng tu này được các nhà khoa học, nhà chuyên môn và nhân dân đánh giá rất cao. Và cho đến ngày hôm nay, diện mạo Lam Kinh xưa đang dần được trả lại, đem lại những giá trị lớn cho chúng ta và cũng để tôn vinh một triều đại huy hoàng trong lịch sử của dân tộc”- ông chia sẻ. Trưởng ban Quản lý di tích lịch sử Lam Kinh cũng cho biết đến thời điểm này Lam Kinh đã phục dựng lại được sông Ngọc, cầu Bạch, hồ Tây, hồ Như Áng, nghi môn, sân rồng, Chính điện Lam Kinh và 5 Tòa thái Miếu, các khu lăng mộ cũng đã được trùng tu, tôn tạo. “Hiện, tại Lam Kinh đang còn 4 tòa Thái Miếu (gồm tòa 1,2,8,9) và tòa Tả Vu, Hữu Vu, đền thờ bà Hàng Dầu (trên đỉnh núi Lam Sơn) chưa được phục dựng. Những công trình này hiện đã được tỉnh Thanh Hóa quan tâm, giao vốn để chuẩn bị cho việc phục dựng. Hy vọng với những công trình còn lại khi được phục dựng, diện mạo Lam Kinh sẽ hoàn chỉnh, bế thế hơn để trả lại giá trị cổ xưa vốn có của nó”- ông Sỹ thông tin. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (Lê Thái Tổ), lập nên vương triều Hậu Lê, đóng đô ở Thăng Long, lấy niên hiệu Thuận Thiên. Cùng với việc xây dựng Đông Kinh (Thăng Long) là kinh đô đất nước, năm 1433 vùng đất Lam Sơn cũng được đổi thành Tây Kinh (còn gọi là Lam Kinh), là kinh đô thứ hai của nhà Lê Sơ. Năm 1433, Lê Thái Tổ băng hà, được đưa về quê hương Lam Kinh an táng tại Vĩnh Lăng. Từ đây, Lam Kinh trở thành khu Sơn lăng. Các đời vua sau đó tiếp tục cho xây dựng điện Lam Kinh. Qua thời gian, điện Lam Kinh dần dần được mở rộng về quy mô là nơi an nghỉ vĩnh hằng của gia tộc, các vua, thái hoàng, thái hậu triều Lê Sơ. Theo Đại Việt sử kí toàn thư: Điện Lam Kinh được xây dựng vào năm 1433. Năm 1434, điện Lam Kinh bị cháy nhưng không rõ nguyên nhân. Năm 1448, vua Lê Nhân Tông xuống chiếu cho làm lại điện miếu ở Lam Kinh. Gần 6 thế kỷ đã trôi qua, với nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử đất nước, sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự vô thức của con người, Lam Kinh đã bị xuống cấp nghiêm trọng và trở thành phế tích. Mặc dù đài điện, miếu không còn nhưng với không gian cảnh quan và phế tích là những nền móng di tích, điện đài, lăng mộ, cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, tỉnh Thanh Hóa nhiều hạng mục di tích đã được nghiên cứu, bảo tồn nguyên trạng, chống xuống cấp, nhiều hạng mục di tích đã được phục dựng, phục hồi, tu bổ, dần dần tái hiện phần nào diện mạo trước đây của Lam Kinh. (Còn tiếp)
Through many historical events, the palaces and temples in Lam Kinh were completely destroyed, but from the old foundation through many excavations, a magnificent ancient capital of Lam Kinh under the Le dynasty nearly 600 years ago emerged. is gradually appearing. Lam Kinh Special National Historical Relic Area ( Tho Xuan district , Thanh Hoa province ) is known as the sacred land, hometown of national hero Le Loi - where the Lam Son uprising (Spring Mau Tuat year 1418) began and entered the history books. Mr. Vu Dinh Sy, Head of the Lam Kinh Historical Relics Management Board, said that Lam Kinh relics have been surveyed and archaeologically excavated by French and Vietnamese researchers. Especially since 1996, the Vietnam Museum of History and the Vietnam Institute of Archeology have coordinated with Thanh Hoa province to conduct many archaeological investigations, explorations and excavations. Research work is carried out carefully with extensive investigation, survey, exploration and excavation steps. Lam Kinh main palace was restored on the old foundation. Through excavation documents, it can be seen that the overall ground of the Lam Kinh relic has been completely sketched out, with many architectural units including the Main Palace, Thai Mieu buildings, shrines in Tay That, and Thai Temple. Ta Vu and Huu Vu, dragon yard, Cong-shaped and rectangular architectural works in Dong Tru area... and Lam Kinh water system includes ancient dam, Nhu Ang lake, water canal, West lake and Ngoc river. In particular, through the stratigraphic evolution of the exploration and excavation areas, we know the existence of Lam Kinh from the 15th to 18th centuries with two layers of architecture from the Early Le (15th to 16th) and Middle Le periods. hung (17-18) are located next to each other. Underneath the two architectural layers is the cultural layer of the Tran Dynasty, dating from the late 14th to early 15th centuries, containing material remains such as ceramics, bronze coins, animal tooth bones, stone axes, and tiles. The architectural roof partly reflects written historical records and Vinh Lang stele about this land when Le Thai To's ancestors came here to set up camp, when Lam Son had not yet become Lam Kinh with its position as the "capital". second" of Dai Viet during the Le dynasty. Path to King Le Thai To's tomb and King Le Thai To's tomb. "Through 7 excavations, historians have learned of an "ancient capital of Lam Kinh appearing underground" with floor plans of massive, large-scale and majestic works, shown through the foundation bundle, foundation, reinforcement and footing, drainage system, surrounding veranda... Among them, the most notable is the Chinh Dien building with a Cong-shaped plan (I), dating back to the Early Le Dynasty. The new certificate appeared for the first time and 9 Thai Mieu buildings arranged in an arc shape are very "special" in the general evolution of Vietnamese architectural forms" - Mr. Vu Dinh Sy said. According to Mr. Sy, the grandeur of Lam Kinh is also shown through the presence of extremely rich materials and architectural decorations such as brick steps, dragon heads decorating the roof, reliefs, and bricks. Decorative panels, squirrel-shaped steps decorated with flowers and leaves... Especially the steps leading up to the steps of the Main Palace and Thai Mieu decorated with dragons and clouds still exist on the surface of the monument. When observed, we can see the similarity between them and the steps at Kinh Thien Palace (Thang Long). – Hanoi), showing some of the grandeur of the architecture here. With the evidence and traces found through 7 excavations, researchers have partly sketched out a majestic and majestic ancient capital of Lam Kinh of the Le Dynasty. This is also an important basis for Lam Kinh to gradually receive attention from the state and Thanh Hoa province to restore, embellish and restore electrical works and temples that existed hundreds of years ago. Especially the reconstruction of Lam Kinh Main Palace, a magnificent structure with 138 main columns, from the remaining foundations. Lam Kinh viewed from above. According to Mr. Vu Dinh Sy, from the remaining construction traces and revealed through archaeological excavations, there is very important data to establish the basis and basis for organizing restoration, embellishment, and restoration. Rebuild buildings and structures. “From 1995 onwards, with the attention of the Party, the State, and the Ministry of Culture, Sports and Tourism, Thanh Hoa province has allocated a huge budget for the restoration of Lam Kinh. This restoration is highly appreciated by scientists, experts and people. And until today, the old appearance of Lam Kinh is gradually being returned, bringing great values ​​to us and also honoring a glorious dynasty in the nation's history" - he shared. Head of the Lam Kinh Historical Relics Management Board also said that up to this point, Lam Kinh has restored Ngoc River, Bach Bridge, West Lake, Nhu Ang Lake, Nghi Mon, Dragon Court, Lam Kinh Main Palace and 5 Courts. Thai Temple and mausoleums have also been restored and embellished. “Currently, at Lam Kinh, there are still 4 Thai Mieu temples (including buildings 1,2,8,9) and Ta Vu, Huu Vu, and the temple of Mrs. Hang Dau (on top of Lam Son mountain) that have not been restored. These works have now received attention and capital from Thanh Hoa province to prepare for restoration. Hopefully, when the remaining works are restored, Lam Kinh's appearance will be more complete and intact to return its inherent ancient value" - Mr. Sy informed. In 1428, Le Loi ascended the throne as emperor (Le Thai To), established the Later Le dynasty, established the capital in Thang Long, and took the reign name Thuan Thien. Along with the construction of Dong Kinh (Thang Long) as the country's capital, in 1433 Lam Son land was also changed to Tay Kinh (also known as Lam Kinh), the second capital of the Early Le Dynasty. In 1433, Le Thai To died and was brought back to his hometown of Lam Kinh to be buried in Vinh Lang. From here, Lam Kinh becomes the Son Lang area. Subsequent kings continued to build Lam Kinh Palace. Over time, Lam Kinh Palace gradually expanded in scale as the eternal resting place of the family, kings, queens, and queen mothers of the Early Le Dynasty. According to Dai Viet Complete History: Lam Kinh Palace was built in 1433. In 1434, Lam Kinh Palace caught fire but the cause is unknown. In 1448, King Le Nhan Tong decreed to rebuild the temple in Lam Kinh. Nearly 6 centuries have passed, with many ups and downs in the country's history, the harshness of nature and the ignorance of people, Lam Kinh has been seriously degraded and become a ruin. Although the palace and temple no longer exist, the landscape and ruins are the foundations of monuments, monuments, and mausoleums. With the attention of the Party, State, and Thanh Hoa province, many relic items have been restored. Researched, preserved in their original state, prevented from degradation, many relic items have been restored, restored, and repaired, gradually recreating somewhat of the previous appearance of Lam Kinh. (To be continued)
Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Sonexay Siphandone, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mê Công quốc tế lần thứ 4, được tổ chức tại thủ đô Viêng Chăn của Lào ngày 5/4. Đây là diễn đàn khu vực quan trọng thúc đẩy hợp tác hòa bình và cùng có lợi nhằm phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công. Đổi mới và hợp tác nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững của lưu vực sông Mekong. (Ảnh: Báo Chính phủ). Gồm bốn nước thành viên là Campuchia , Lào , Thái Lan và Việt Nam , Ủy hội sông Mê Công quốc tế là cơ chế hợp tác Mê Công lâu đời nhất và là cơ chế duy nhất hoạt động dựa trên một hiệp định quốc tế (Hiệp định Mê Công năm 1995), nhằm tạo khuôn khổ hợp tác phát triển bền vững, sử dụng, bảo vệ, quản lý tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong khu vực. Đạt được nhiều thành tựu và mở ra các cơ hội hợp tác quan trọng trong khu vực, song những năm gần đây Ủy hội gặp nhiều thách thức trước tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, gia tăng dân số, hoạt động khai thác, sử dụng thiếu bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực. Hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mê Công quốc tế được tổ chức từ năm 2010, theo cơ chế luân phiên bốn năm một lần tại bốn nước thành viên. Đây là sự kiện quy tụ các nhà lãnh đạo cấp cao bốn nước tham dự, nhằm thảo luận, xây dựng các chính sách và giải quyết thách thức mà các quốc gia lưu vực sông Mê Công đang đối mặt. Đến nay, ba kỳ hội nghị cấp cao đã được tổ chức, tại Thái Lan (năm 2010), Việt Nam (năm 2014) và Campuchia (năm 2018). Với vị trí là quốc gia ở hạ nguồn sông Mê Công và phải chịu tác động ngày càng nghiêm trọng do các hoạt động ở thượng nguồn trong bối cảnh biến đổi khí hậu, Việt Nam luôn xác định tầm quan trọng của hợp tác trong Ủy hội sông Mê Công quốc tế và là thành viên tích cực, có trách nhiệm, thúc đẩy hợp tác với các nước trong Ủy hội cũng như với các đối tác quốc tế trong thực hiện Hiệp định Mê Công năm 1995, nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan của sông Mê Công, qua đó góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Với cam kết chính trị cao, Việt Nam đã thể hiện vai trò tích cực và xây dựng trong tham gia các hoạt động của Ủy hội ở tất cả các cấp, diễn đàn và trên tất cả các lĩnh vực hợp tác, thông qua các sáng kiến, vận động, thúc đẩy và đóng góp về tài chính, thông tin số liệu, chuyên gia… Việt Nam cũng là quốc gia thành viên đi đầu trong nỗ lực nâng cao hình ảnh, vị thế và tầm quan trọng của hợp tác trong Ủy hội sông Mê Công quốc tế; luôn đề cao tinh thần đoàn kết hợp tác giữa các quốc gia sông Mê Công, đóng góp vào ổn định và hợp tác khu vực. Hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mê Công quốc tế lần thứ 4 được tổ chức tại Lào ngày 5/4, với chủ đề “Đổi mới và hợp tác nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững của lưu vực sông Mê Công”. Việt Nam tham dự hội nghị lần này trong bối cảnh đất nước tiếp tục hội nhập quốc tế sâu rộng; chính trị, an ninh, quốc phòng được củng cố; kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt 8,02% năm 2022, mức cao nhất trong 11 năm qua và đứng hàng đầu khu vực. Tháng 3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Tham dự hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các nhà lãnh đạo các nước thảo luận, kiểm điểm kết quả hoạt động và xác định các lĩnh vực ưu tiên cho hợp tác của Ủy hội trong giai đoạn tiếp theo, đặc biệt là bảo đảm an ninh nguồn nước, năng lượng và lương thực. Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mê Công quốc tế lần thứ 4 khẳng định trách nhiệm, sự quan tâm và cam kết ở cấp cao của Việt Nam đối với hợp tác trong khuôn khổ Ủy hội, góp phần tăng cường vai trò của Ủy hội, cũng như củng cố sự đoàn kết và hợp tác giữa các nước thành viên vì lợi ích chung. Việc Thủ tướng tham dự hội nghị cũng nêu bật mối quan tâm đặc biệt của Việt Nam đối với sự ổn định và phát triển bền vững của lưu vực sông Mê Công, cũng như bảo đảm an ninh nguồn nước và cuộc sống của người dân ở lưu vực. Đồng thời, gửi thông điệp khẳng định nỗ lực tham gia, đóng góp của Việt Nam tại Ủy hội, cũng như trong việc sử dụng hiệu quả và quản lý bền vững nguồn nước sông Mê Công vì lợi ích của người dân ở lưu vực sông Mê Công, trong đó có đồng bằng sông Cửu Long. Chúc chuyến công tác của Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mê Công quốc tế lần thứ 4 thành công tốt đẹp, tiếp tục khẳng định cam kết và đóng góp của Việt Nam tăng cường hợp tác giữa các thành viên Ủy hội cũng như với các đối tác vì sự phát triển bền vững của lưu vực sông Mê Công, góp phần vào ổn định và hợp tác của khu vực và thế giới.
At the invitation of Prime Minister of the Lao People's Democratic Republic Sonexay Siphandone, Prime Minister Pham Minh Chinh attended the 4th International Mekong River Commission Summit, held in the capital Vieng Blanket of Laos on April 5. This is an important regional forum promoting peaceful and mutually beneficial cooperation for sustainable development of the Mekong River basin. Innovation and cooperation to ensure water security and sustainable development of the Mekong River basin. (Photo: Government Newspaper). Consists of four member countries namely Cambodia , Laos , Thailand and Vietnam , the International Mekong River Commission is the oldest Mekong cooperation mechanism and the only mechanism operating based on an international agreement (1995 Mekong Agreement), to create a framework for development cooperation sustainable use, protection, and management of water resources and related resources in the region. Achieving many achievements and opening up important cooperation opportunities in the region, in recent years the Commission has encountered many challenges due to the negative impacts of climate change, environmental pollution, and population growth. , exploitation and unsustainable use of water resources and related resources in the basin. The International Mekong River Commission Summit has been held since 2010, on a rotating basis every four years in four member countries. This is an event that brings together senior leaders from four countries to discuss, develop policies and solve challenges facing the Mekong River basin countries. To date, three high-level conferences have been held, in Thailand (2010), Vietnam (2014) and Cambodia (2018). As a country downstream of the Mekong River and subject to increasingly serious impacts due to upstream activities in the context of climate change, Vietnam always determines the importance of cooperation within the MRC. International Mekong River and is an active and responsible member, promoting cooperation with countries in the MRC as well as with international partners in implementing the 1995 Mekong Agreement, in order to enhance the effectiveness of using the Mekong River. utilize water resources and related resources of the Mekong River, thereby contributing to the socio-economic development of the country, especially the Mekong Delta. With high political commitment, Vietnam has shown an active and constructive role in participating in the activities of the Commission at all levels, forums and in all areas of cooperation, through initiatives. Opinions, advocacy, promotion and contributions in terms of finance, data information, experts... Vietnam is also a leading member country in efforts to enhance the image, position and importance of cooperation in the International Mekong River Commission; always uphold the spirit of solidarity and cooperation among Mekong countries, contributing to regional stability and cooperation. The 4th International Mekong River Commission Summit was held in Laos on April 5, with the theme "Innovation and cooperation to ensure water security and sustainable development of the river basin." Mekong”. Vietnam participates in this conference in the context of the country continuing to deeply integrate internationally; politics, security, and defense are strengthened; Economic growth is stable, reaching 8.02% in 2022, the highest level in the past 11 years and ranking first in the region. In March 2022, the Prime Minister approved the Mekong Delta region planning for the period 2021-2030, with a vision to 2050. Attending the conference, Prime Minister Pham Minh Chinh and leaders of countries discussed and reviewed operational results and identified priority areas for cooperation of the Commission in the next period, especially security. ensure water, energy and food security. Prime Minister Pham Minh Chinh attended the 4th International Mekong River Commission Summit, affirming Vietnam's high-level responsibility, interest and commitment to cooperation within the framework of the Commission, contributing to strengthen the role of the Commission, as well as strengthen solidarity and cooperation among member countries for common benefits. The Prime Minister's attendance at the conference also highlights Vietnam's special concern for the stability and sustainable development of the Mekong River basin, as well as ensuring water security and the lives of people in the Mekong River Basin. basin. At the same time, send a message affirming Vietnam's efforts to participate and contribute to the Commission, as well as in the effective use and sustainable management of Mekong River water resources for the benefit of people in the river basin. Mekong, including the Mekong Delta. Wishing Prime Minister Pham Minh Chinh's business trip to attend the 4th International Mekong River Commission Summit a great success, continuing to affirm Vietnam's commitment and contribution to strengthening cooperation among its members. members as well as with partners for the sustainable development of the Mekong River basin, contributing to stability and cooperation in the region and the world.
PGS-TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam cho rằng muốn khắc phục được tình trạng của khảo cổ học Việt Nam hiện nay có lẽ phải bắt đầu từ việc nghiên cứu, xây dựng chính sách hợp lý. * Phóng viên: Hoạt động khảo cổ học diễn ra ở nhiều địa phương với các phát hiện mới đa dạng có giá trị cao. Theo ông, đó được xem là những thành tựu lớn của khảo cổ Việt Nam? – PGS-TS Tống Trung Tín : Tính trong khoảng mấy năm trở lại đây, ngành khảo cổ Việt Nam theo yêu cầu của Nhà nước đã tập trung nghiên cứu 5 khu vực lớn. Một là tập trung nghiên cứu phát hiện di chỉ đồ đá cũ ở An Khê, Gia Lai. Việc phát hiện các di chỉ khảo cổ tại An Khê cho thấy thời điểm sớm nhất của lịch sử Việt Nam khoảng 800.000 năm cách ngày nay. Phát hiện này cũng góp thêm một địa điểm Đá cũ quan trọng, đưa Việt Nam vào bản đồ sơ kỳ đá cũ trong bản đồ phân bố sự phát triển loài người trên toàn thế giới sớm hơn lên rất nhiều. Đây là phát hiện lớn, mang tính quốc tế, góp phần vào nghiên cứu về thời đại đồ đá cũ của Việt Nam, khu vực và thế giới. Hai là, Di sản thế giới Hoàng Thành Thăng Long tiếp tục được nghiên cứu sâu về toàn bộ di tích, từ địa tầng, kiến trúc, các loại hình di vật…giúp mọi người hiểu sâu sắc hơn về giá trị nổi bật toàn cầu của kinh đô Thăng Long cũng như hiểu rõ thêm cấu trúc tổng thể của Kinh đô này. Ba là, nghiên cứu hệ thống di tích của văn hóa Óc Eo tại khu vực tỉnh An Giang và tỉnh Kiên Giang. Các nhà khoa học đã phát hiện hệ thống di tích di vật mới rất phong phú, đa dạng góp phần làm rõ giá trị của Óc Eo vốn đã được phát hiện hàng trăm năm trước, góp nguồn tư liệu có giá trị xác thực cao xây dựng hồ sơ Di sản thế giới. Bốn là, nghiên cứu quy mô lớn về di sản Thế giới thành nhà Hồ . Lần đầu tiên tìm ra một hệ thống di tích kiến trúc dày đặc ở kinh đô Tây Đô của vương triều Hồ. làm xuất lộ nhiều dấu tích kiến trúc quan trọng của kinh đô, như dấu tích con đường Hoàng Gia, cụm kiến trúc nền Vua, cụm kiến trúc con Rồng, dấu tích được dân gian truyền gọi là Đông Thái miếu và Tây Thái miếu. Cũng như kinh đô Thăng Long, những phát hiện này làm hiểu sâu sắc hơn giá trị nổi bật toàn cầu của Di sản thế giới Thành nhà Hồ, góp tư liệu tốt để phát huy giá trị khu Di sản. Thứ năm, tập trung nghiên cứu Quần thể di tích Yên Tử , Đông Triều, Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn – Kiếp Bạc – Thanh Mai. Các phát hiện mới cho thấy ở đây tồn tại dày đặc những di tích kiến trúc rất đa dạng thuộc về Phật giáo của phái Trúc Lâm thời Trần, Lê, Nguyễn… Nơi đây cũng lưu giữ những dấu tích về quê hương, đền thờ miếu mạo lăng tẩm của vương triều Trần nhiều nhất. Quần thể này đang xây dựng hồ sơ Di sản Thế giới đệ trình UNESCO năm 2023. Khai quật di tích khảo cổ Vòng thành đá trắng tại Bà Rịa- Vũng Tàu. *Với sự sự phong phú của các tầng văn hóa, khảo cổ Việt Nam rất được quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm như có những cuộc khai quật bị bỏ dở, những nghiên cứu chưa được tiến hành “dứt điểm” do thiếu nhân lực và kinh phí đầu tư. Sự hạn chế của các phòng thí nghiệm, thiếu trang thiết bị nghiên cứu cũng khiến cho công tác nghiên cứu, đánh giá di chỉ gặp nhiều khó khăn. Theo ông, đó có phải là khó khăn lớn nhất đối với ngành khảo cổ hiện nay? -Tất cả những gì thuộc về cơ sở vật chất phục vụ cho công việc chuyên môn đều thiếu trầm trọng. Kinh phí cũng thiếu trầm trọng, chỉ một vài di tích tầm cỡ di sản thế giới có kinh phí khai quật tạm ổn, còn kinh phí để bảo quản, bảo tồn và phát triển thì nhiều vấn đề phải bàn. Nhưng nhân lực của ngành hiện đang thiếu mới là vấn đề trầm trọng hơn. *Thực trạng nguồn nhân lực ngành hiện nay đang thiếu ở mức nào, thưa ông? -Cách đây khoảng 5 năm, Hội Khảo cổ học Việt Nam đã có cuộc thống kê sơ bộ, kết quả cho thấy cả nước có khoảng trên 90 nhà khảo cổ học trong biên chế, đủ sức khỏe để tác nghiệp được. Đến năm nay, số lượng đã giảm đi không ít (ví dụ Viện Khảo cổ học từ 38 đã xuống 30 cán bộ khảo cổ học). Lý do là nhiều năm qua không có biên chế để tuyển dụng cán bộ khảo cổ hoặc nếu có tuyển thì cũng cực kỳ ít ỏi, các cơ quan đào tạo cũng cho biết vì đầu ra như vậy nên đầu vào rất hạn chế. Nhiều sinh viên học ngành này rất say mê, rất thích, nhưng khi tốt nghiệp lại không có việc, họ đi làm việc khác cả. Khi thực hiện dự án Hoàng thành Thăng Long, chúng tôi đã từng đào tạo thực tiễn cho nhiều sinh viên tốt nghiệp, họ làm việc rất giỏi, rất thành thạo nhưng chờ mãi không có việc nên họ ra đi. Có tới hàng mấy chục cán bộ khảo cổ giỏi ở Hoàng Thành Thăng Long phải tìm việc khác. Họ ra đi mà tôi buồn thương vô hạn vì không có cách gì để có thể giữ họ lại được. Buồn lắm! Trong khi đó, nhân lực của ngành để theo dõi khảo cổ học ở các tỉnh càng đặc biệt thiếu. Trước đây, tỉnh nào cũng có 1-2 cán bộ học ngành khảo cổ học ra theo dõi công tác khảo cổ của tỉnh, nhưng bây giờ hầu như không có. Nếu có cũng chỉ vài địa phương, đủ đếm trên đầu ngón tay. Cả nước hiện chỉ còn khoảng 70-80 cán bộ làm công tác khảo cổ, con số này như là “hạt cát” giữa “sa mạc” nghiên cứu khảo cổ học. Viện Khảo cổ học có khoảng 30 người, Bộ môn Khảo cổ học, khoa Lịch sử của Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội có 07 người, Bảo tàng lịch sử Quốc gia có khoảng chục người, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ có 06 người. Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TPHCM có một số nữa. Nhẩm tính ra là thấy lực lượng khảo cổ học ít như thế nào rồi. Ở ta, nhân lực ít, tiền ít, trang thiết bị kém như vậy nên nhiều khi việc thực hiện những nhiệm vụ được giao bị hạn chế hiệu quả rất nhiều. Khai quật di tích Nền chùa tại Kiên Giang. *Nhưng bài toán dù khó mấy cũng phải có lời giải…? -Muốn khắc phục được có lẽ phải bắt đầu từ việc nghiên cứu, xây dựng chính sách hợp lý. Trong trường hợp này, tôi nghĩ cần có sự so sánh giữa quốc tế với Việt Nam để tính đến câu chuyện phát triển dù là tương đối trên các phương diện công việc, con người, kinh phí, trang thiết bị… Vấn đề lớn nhất là con người. Hiện nay đang có chủ trương tinh giản bộ máy, tinh giản biên chế là rất đúng, nhưng có những ngành quá ít người lại quá nhiều việc như khảo cổ học. Nếu tiếp tục tinh giản, cào bằng như một số ngành nghề khác, thì sẽ làm cho ngành này tiếp tục suy yếu nữa. *Kinh phí đầu tư cho công tác khảo cổ hiện được phân bổ như thế nào, thưa ông? -Kinh phí ngành khảo cổ được Nhà nước đầu tư theo ngân sách khoa học công nghệ. Số này rất ít, ví dụ viện Khảo cổ học đầu ngành, cả năm gồm cả đề tài cấp Viện và cấp Bộ chỉ có từ 2 đến 7 tỉ đồng (phổ cập là 2 tỉ đồng, 7 tỉ đồng là khi may mắn có thêm nhiệm vụ trọng điểm). Vậy, các cơ quan khác hẳn còn ít nữa. Nguồn thứ hai, đối với các di sản Thế giới hoặc các chương trình nghiên cứu của địa phương, do khuyến nghị của UNESCO và Luật Di sản văn hóa thì phải đầu tư nghiên cứu phát huy. Nguồn kinh phí này sẽ tùy từng địa phương chi cho việc nghiên cứu trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và có thể sẽ không đều. Riêng ở công trình khảo cổ Hoàng Thành Thăng Long, nguồn kinh phí thường xuyên hằng năm hiện tại tương đối đủ. Tôi đã nói điều này nhiều lần ở các cuộc họp liên quan và công luận rằng nghề Khảo cổ học Việt Nam, công việc của chúng tôi thì rất vinh quang, hấp dẫn, anh em vào nghề rất say mê, nhưng phát triển thì còn nhiều vấn đề. Tôi đã kiến nghị tạo cơ chế tốt để ngành có vừa đủ nhân lực, vừa có đủ nguồn kinh phí vừa phải (không dám nói nguồn kinh phí lớn) đủ để các nhà khảo cổ học có điều kiện tối thiểu làm việc. Có thể nghiên cứu tạo điều kiện để Hội Khảo cổ học có cơ hội thu hút nhân lực được đào tạo mà không cần tuyển dụng biên chế để họ có công ăn việc làm. Cần phải làm sao để cấp trên có liên quan lắng nghe trực tiếp được ý kiến phản ánh của anh em chuyên môn và các nhà quản lý chuyên môn khảo cổ học. Gạch hoa tai tại di tích đền An Dương Vương. Nếu so sánh Việt Nam với một số nước trong khu vực thì độ chênh nhân lực thật khủng khiếp. Nhật Bản hiện có 8.000 nhà khảo cổ học, Hàn Quốc có 7000 nhà khảo cổ học. Trung Quốc lớn nhất, có trên 10.000 nhà khảo cổ học, mỗi tỉnh có một viện khảo cổ học, các cơ quan bảo tàng cũng có đơn vị khảo cổ của họ. Đối với quốc tế, nguồn kinh phí cho khảo cổ do nhà nước cấp, nhưng riêng hẳn ra. Ví dụ, Tổng cục Văn hóa Hàn Quốc là nơi quản và cấp kinh phí cho công tác khảo cổ lên tỉ USD/năm (đó là con số khổng lồ), nhờ đó họ mới khai quật được tàu đắm một cách quy mô và hoành tráng.
PGS-TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam cho rằng muốn khắc phục được tình trạng của khảo cổ học Việt Nam hiện nay có lẽ phải bắt đầu từ việc nghiên cứu, xây dựng chính sách hợp lý. * Phóng viên: Hoạt động khảo cổ học diễn ra ở nhiều địa phương với các phát hiện mới đa dạng có giá trị cao. Theo ông, đó được xem là những thành tựu lớn của khảo cổ Việt Nam? – PGS-TS Tống Trung Tín : Tính trong khoảng mấy năm trở lại đây, ngành khảo cổ Việt Nam theo yêu cầu của Nhà nước đã tập trung nghiên cứu 5 khu vực lớn. Một là tập trung nghiên cứu phát hiện di chỉ đồ đá cũ ở An Khê, Gia Lai. Việc phát hiện các di chỉ khảo cổ tại An Khê cho thấy thời điểm sớm nhất của lịch sử Việt Nam khoảng 800.000 năm cách ngày nay. Phát hiện này cũng góp thêm một địa điểm Đá cũ quan trọng, đưa Việt Nam vào bản đồ sơ kỳ đá cũ trong bản đồ phân bố sự phát triển loài người trên toàn thế giới sớm hơn lên rất nhiều. Đây là phát hiện lớn, mang tính quốc tế, góp phần vào nghiên cứu về thời đại đồ đá cũ của Việt Nam, khu vực và thế giới. Hai là, Di sản thế giới Hoàng Thành Thăng Long tiếp tục được nghiên cứu sâu về toàn bộ di tích, từ địa tầng, kiến trúc, các loại hình di vật…giúp mọi người hiểu sâu sắc hơn về giá trị nổi bật toàn cầu của kinh đô Thăng Long cũng như hiểu rõ thêm cấu trúc tổng thể của Kinh đô này. Ba là, nghiên cứu hệ thống di tích của văn hóa Óc Eo tại khu vực tỉnh An Giang và tỉnh Kiên Giang. Các nhà khoa học đã phát hiện hệ thống di tích di vật mới rất phong phú, đa dạng góp phần làm rõ giá trị của Óc Eo vốn đã được phát hiện hàng trăm năm trước, góp nguồn tư liệu có giá trị xác thực cao xây dựng hồ sơ Di sản thế giới. Bốn là, nghiên cứu quy mô lớn về di sản Thế giới thành nhà Hồ . Lần đầu tiên tìm ra một hệ thống di tích kiến trúc dày đặc ở kinh đô Tây Đô của vương triều Hồ. làm xuất lộ nhiều dấu tích kiến trúc quan trọng của kinh đô, như dấu tích con đường Hoàng Gia, cụm kiến trúc nền Vua, cụm kiến trúc con Rồng, dấu tích được dân gian truyền gọi là Đông Thái miếu và Tây Thái miếu. Cũng như kinh đô Thăng Long, những phát hiện này làm hiểu sâu sắc hơn giá trị nổi bật toàn cầu của Di sản thế giới Thành nhà Hồ, góp tư liệu tốt để phát huy giá trị khu Di sản. Thứ năm, tập trung nghiên cứu Quần thể di tích Yên Tử , Đông Triều, Vĩnh Nghiêm, Côn Sơn – Kiếp Bạc – Thanh Mai. Các phát hiện mới cho thấy ở đây tồn tại dày đặc những di tích kiến trúc rất đa dạng thuộc về Phật giáo của phái Trúc Lâm thời Trần, Lê, Nguyễn… Nơi đây cũng lưu giữ những dấu tích về quê hương, đền thờ miếu mạo lăng tẩm của vương triều Trần nhiều nhất. Quần thể này đang xây dựng hồ sơ Di sản Thế giới đệ trình UNESCO năm 2023. Khai quật di tích khảo cổ Vòng thành đá trắng tại Bà Rịa- Vũng Tàu. *Với sự sự phong phú của các tầng văn hóa, khảo cổ Việt Nam rất được quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm như có những cuộc khai quật bị bỏ dở, những nghiên cứu chưa được tiến hành “dứt điểm” do thiếu nhân lực và kinh phí đầu tư. Sự hạn chế của các phòng thí nghiệm, thiếu trang thiết bị nghiên cứu cũng khiến cho công tác nghiên cứu, đánh giá di chỉ gặp nhiều khó khăn. Theo ông, đó có phải là khó khăn lớn nhất đối với ngành khảo cổ hiện nay? -Tất cả những gì thuộc về cơ sở vật chất phục vụ cho công việc chuyên môn đều thiếu trầm trọng. Kinh phí cũng thiếu trầm trọng, chỉ một vài di tích tầm cỡ di sản thế giới có kinh phí khai quật tạm ổn, còn kinh phí để bảo quản, bảo tồn và phát triển thì nhiều vấn đề phải bàn. Nhưng nhân lực của ngành hiện đang thiếu mới là vấn đề trầm trọng hơn. *Thực trạng nguồn nhân lực ngành hiện nay đang thiếu ở mức nào, thưa ông? -Cách đây khoảng 5 năm, Hội Khảo cổ học Việt Nam đã có cuộc thống kê sơ bộ, kết quả cho thấy cả nước có khoảng trên 90 nhà khảo cổ học trong biên chế, đủ sức khỏe để tác nghiệp được. Đến năm nay, số lượng đã giảm đi không ít (ví dụ Viện Khảo cổ học từ 38 đã xuống 30 cán bộ khảo cổ học). Lý do là nhiều năm qua không có biên chế để tuyển dụng cán bộ khảo cổ hoặc nếu có tuyển thì cũng cực kỳ ít ỏi, các cơ quan đào tạo cũng cho biết vì đầu ra như vậy nên đầu vào rất hạn chế. Nhiều sinh viên học ngành này rất say mê, rất thích, nhưng khi tốt nghiệp lại không có việc, họ đi làm việc khác cả. Khi thực hiện dự án Hoàng thành Thăng Long, chúng tôi đã từng đào tạo thực tiễn cho nhiều sinh viên tốt nghiệp, họ làm việc rất giỏi, rất thành thạo nhưng chờ mãi không có việc nên họ ra đi. Có tới hàng mấy chục cán bộ khảo cổ giỏi ở Hoàng Thành Thăng Long phải tìm việc khác. Họ ra đi mà tôi buồn thương vô hạn vì không có cách gì để có thể giữ họ lại được. Buồn lắm! Trong khi đó, nhân lực của ngành để theo dõi khảo cổ học ở các tỉnh càng đặc biệt thiếu. Trước đây, tỉnh nào cũng có 1-2 cán bộ học ngành khảo cổ học ra theo dõi công tác khảo cổ của tỉnh, nhưng bây giờ hầu như không có. Nếu có cũng chỉ vài địa phương, đủ đếm trên đầu ngón tay. Cả nước hiện chỉ còn khoảng 70-80 cán bộ làm công tác khảo cổ, con số này như là “hạt cát” giữa “sa mạc” nghiên cứu khảo cổ học. Viện Khảo cổ học có khoảng 30 người, Bộ môn Khảo cổ học, khoa Lịch sử của Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội có 07 người, Bảo tàng lịch sử Quốc gia có khoảng chục người, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ có 06 người. Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TPHCM có một số nữa. Nhẩm tính ra là thấy lực lượng khảo cổ học ít như thế nào rồi. Ở ta, nhân lực ít, tiền ít, trang thiết bị kém như vậy nên nhiều khi việc thực hiện những nhiệm vụ được giao bị hạn chế hiệu quả rất nhiều. Khai quật di tích Nền chùa tại Kiên Giang. *Nhưng bài toán dù khó mấy cũng phải có lời giải…? -Muốn khắc phục được có lẽ phải bắt đầu từ việc nghiên cứu, xây dựng chính sách hợp lý. Trong trường hợp này, tôi nghĩ cần có sự so sánh giữa quốc tế với Việt Nam để tính đến câu chuyện phát triển dù là tương đối trên các phương diện công việc, con người, kinh phí, trang thiết bị… Vấn đề lớn nhất là con người. Hiện nay đang có chủ trương tinh giản bộ máy, tinh giản biên chế là rất đúng, nhưng có những ngành quá ít người lại quá nhiều việc như khảo cổ học. Nếu tiếp tục tinh giản, cào bằng như một số ngành nghề khác, thì sẽ làm cho ngành này tiếp tục suy yếu nữa. *Kinh phí đầu tư cho công tác khảo cổ hiện được phân bổ như thế nào, thưa ông? -Kinh phí ngành khảo cổ được Nhà nước đầu tư theo ngân sách khoa học công nghệ. Số này rất ít, ví dụ viện Khảo cổ học đầu ngành, cả năm gồm cả đề tài cấp Viện và cấp Bộ chỉ có từ 2 đến 7 tỉ đồng (phổ cập là 2 tỉ đồng, 7 tỉ đồng là khi may mắn có thêm nhiệm vụ trọng điểm). Vậy, các cơ quan khác hẳn còn ít nữa. Nguồn thứ hai, đối với các di sản Thế giới hoặc các chương trình nghiên cứu của địa phương, do khuyến nghị của UNESCO và Luật Di sản văn hóa thì phải đầu tư nghiên cứu phát huy. Nguồn kinh phí này sẽ tùy từng địa phương chi cho việc nghiên cứu trong ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và có thể sẽ không đều. Riêng ở công trình khảo cổ Hoàng Thành Thăng Long, nguồn kinh phí thường xuyên hằng năm hiện tại tương đối đủ. Tôi đã nói điều này nhiều lần ở các cuộc họp liên quan và công luận rằng nghề Khảo cổ học Việt Nam, công việc của chúng tôi thì rất vinh quang, hấp dẫn, anh em vào nghề rất say mê, nhưng phát triển thì còn nhiều vấn đề. Tôi đã kiến nghị tạo cơ chế tốt để ngành có vừa đủ nhân lực, vừa có đủ nguồn kinh phí vừa phải (không dám nói nguồn kinh phí lớn) đủ để các nhà khảo cổ học có điều kiện tối thiểu làm việc. Có thể nghiên cứu tạo điều kiện để Hội Khảo cổ học có cơ hội thu hút nhân lực được đào tạo mà không cần tuyển dụng biên chế để họ có công ăn việc làm. Cần phải làm sao để cấp trên có liên quan lắng nghe trực tiếp được ý kiến phản ánh của anh em chuyên môn và các nhà quản lý chuyên môn khảo cổ học. Gạch hoa tai tại di tích đền An Dương Vương. Nếu so sánh Việt Nam với một số nước trong khu vực thì độ chênh nhân lực thật khủng khiếp. Nhật Bản hiện có 8.000 nhà khảo cổ học, Hàn Quốc có 7000 nhà khảo cổ học. Trung Quốc lớn nhất, có trên 10.000 nhà khảo cổ học, mỗi tỉnh có một viện khảo cổ học, các cơ quan bảo tàng cũng có đơn vị khảo cổ của họ. Đối với quốc tế, nguồn kinh phí cho khảo cổ do nhà nước cấp, nhưng riêng hẳn ra. Ví dụ, Tổng cục Văn hóa Hàn Quốc là nơi quản và cấp kinh phí cho công tác khảo cổ lên tỉ USD/năm (đó là con số khổng lồ), nhờ đó họ mới khai quật được tàu đắm một cách quy mô và hoành tráng.
‘Sơmă nghĩa là lễ cúng, kơcham nghĩa là cái sân. Sơmă Kơcham là lễ cúng sân’. Đây là lễ cúng lớn trong năm, một nét văn hóa rất Bahnar của các làng đồng bào dân tộc thiểu số nơi đầu nguồn dòng suối Hway (xã Đăk Tơ Pang, huyện Kông Chro , tỉnh Gia Lai ). Lễ cúng Sơmă Kơcham của người Bahnar tại làng Prăng, xã Đăk Tơ Pang, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Dòng suối Hway chảy uốn lượn, ôm trọn các ngôi làng Bahnar truyền thống. Giữa khoảng sân trống của ngôi nhà Rông lớn, cả trăm người con của làng Prăng chia thành nhiều nhóm đang tất bật chuẩn bị cho lễ Sơmă Kơcham. Những cụ già tỉ mỉ chẻ tre, chuốt nan. Thanh niên sửa soạn, chặt và trang trí lên thân cây tre để dựng cây nêu. Bếp lửa được đốt lên giữa khoảng sân rộng để nướng và hầm nấu phần thịt ngon nhất dành cho lễ cúng. Bộ cồng chiêng được lau sạch và thử lại âm. Phụ nữ chuẩn bị những bộ trang phục truyền thống cho mình và các em nhỏ. Không khí lễ hội ngập tràn muôn nơi. Già Đinh Văn Luông, thành viên Hội đồng già làng Prăng kể, mỗi năm, người Bahnar ở làng Prăng sẽ tổ chức lễ cúng bên trong nhà Rông và sân nhà Rông. Đây là hai nghi thức lớn của làng nhằm tưởng nhớ đến những người trong làng đã mất, cầu nguyện Yàng cho bà con một năm khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Lễ cúng sân còn có ý nghĩa bảo vệ cảnh quan môi trường, giữ gìn nguồn nước sạch cho dân làng. Đội xoang nữ của làng Prăng vui hội Sơmă Kơcham. Gần 12 giờ, những phần việc cho nghi lễ cũng dần xong. Hai cây nêu được dựng ngay trước công trình nước sạch cũng nằm trong sân nhà Rông. Bà con bắt đầu đem những ghè rượu đã được ủ thơm nức đến góp lễ, nối thành một hàng dài, hai ghè rượu to được buộc dưới chân mỗi cây nêu, hai xiên thịt nướng, ba nồi thịt hầm cũng được bày xung quanh. Xong đâu đấy, Hội đồng già làng gồm 9 thành viên đứng xung quanh cây nêu, chuẩn bị nghi thức cúng. Đội cồng chiêng “nhí” và thanh niên vào hàng ngũ chỉnh tề. Các già làng bắt đầu đọc bài cúng cũng là lúc tiếng trống, chiêng nổi lên rộn rã, trầm hùng vang vọng. 5 già sẽ đảm nhận nhiệm vụ dâng lễ cúng lên Yàng, 4 già còn lại sẽ khấn nguyện, mời lễ những người đã khuất. Trong lúc đó, đội chiêng và đội xoang diễn tấu xung quanh sân của nhà Rông. Lễ cúng kết thúc, Hội đồng già làng cùng nhấp những ngụm rượu đầu tiên trong hàng dài ghè mà dân làng đem đến góp lễ. Theo sau, bà con thực hiện nghi thức tương tự, mang theo ước vọng về một năm mới, mùa vụ mới thuận lợi, an lành. Mỗi hộ dân còn được chia một xâu thịt heo từ lễ cúng đem về để lấy may. Đội chiêng Nhí cũng góp vui trong lễ Sơmă Kơcham. Phần hội lúc này mới bắt đầu và kéo dài đến hết ngày hôm sau. Buổi tối, bà con cùng nhau đánh chiêng, múa xoang và hát dân ca mãi đến khi ánh trăng tàn… Sau lễ cúng này, bà con trong làng yên tâm lên rẫy, sẵn sàng cho một mùa vụ mới mang theo niềm tin no ấm, đủ đầy. Qua từng năm tháng, các ngôi làng Bahnar dần đổi thay. Tuy nhiên những nghi lễ truyền thống đặc sắc vẫn đang được gìn giữ và lưu truyền. Dưới bóng mát của ngôi nhà Rông sừng sững giữa buôn làng, chứng kiến những em nhỏ hòa mình vào từng nhịp chiêng, điệu xoang mới thấy được công tác bảo tồn nét văn hóa đặc sắc này đang đi đúng hướng. Hình ảnh vui tươi, dí dỏm của nhân vật pơtual (người tấu hề) của hai cậu bé Đinh Minh (11 tuổi) và Đinh Vệ (8 tuổi) khiến người xem không khỏi thích thú khi vừa đánh chũm chọe vừa tấu hề bằng khuôn mặt giàu biểu cảm. Với làng Prăng, tình yêu, niềm tự hào với văn hóa truyền thống được cả cộng đồng làng gìn giữ và truyền dạy qua bao đời. Người dân trong làng mỗi người một tay góp sức cho lễ Sơmă Kơcham. Đặc biệt, qua từng nghi thức cúng của lễ Sơmă Kơcham là dịp để người dân trong làng thắt chặt hơn tinh thần đoàn kết, đùm bọc nhau. Chính quyền địa phương thông qua các lễ cúng để tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong công tác phát triển kinh tế – văn hóa, xã hội của làng. Anh Đinh Văn Diu – Thôn trưởng Prăng vui mừng, ngoài lễ cúng trong và ngoài nhà Rông, cứ 2 năm một lần, làng tổ chức đâm trâu. Ngoài ra, mỗi gia đình, dòng họ còn gìn giữ một số lễ cúng khác như pơ thi, cúng trăng… Qua mỗi lễ cúng, bà con càng thêm đoàn kết, lớp trẻ càng biết nhiều hơn về văn hóa truyền thống của dân tộc. Nhờ đó, các nghi thức lễ cúng cho đến hoạt động đan lát, dệt thổ cẩm, cồng chiêng… độc đáo của người Bahnar vẫn được truyền dạy, giữ gìn từ thế hệ này sang thế hệ khác. Rời Prăng để lại những âm thanh trầm hùng của cồng, chiêng phía sau lưng, dọc con đường bê tông uốn lượn theo con suối Hway, nếp làng Bahnar đang đổi thay qua từng mùa lễ Sơmă Kơcham.
'Soma means worshiping ceremony, kocham means yard. Sama Kocham is a ceremony to worship the yard. This is the biggest worshiping ceremony of the year, a very Bahnar cultural feature of ethnic minority villages at the source of the Hway stream (Dak To Pang commune, Kong Chro district , Gia Lai province ). Soma Kocham worshiping ceremony of the Bahnar people in Prang village, Dak To Pang commune, Kong Chro district, Gia Lai province. The Hway stream flows windingly, embracing traditional Bahnar villages. In the middle of the empty yard of the big Rong house, hundreds of children of Prang village divided into many groups are busy preparing for the Soma Kocham ceremony. The old people meticulously split bamboo and sharpen bamboo. Young people prepare, cut and decorate bamboo stalks to build a bamboo tree. A fire is lit in the middle of the large yard to grill and stew the best meat for the offering. The gong set is cleaned and the sound is tested again. Women prepare traditional costumes for themselves and their children. The festive atmosphere pervades everywhere. Elder Dinh Van Luong, a member of the Council of Prang Village Elders, said that every year, the Bahnar people in Prang village will hold worshiping ceremonies inside the Rong house and Rong house yard. These are two major rituals of the village to remember the people in the village who have passed away and pray to Yang for a healthy year with good weather and good harvests. The yard worshiping ceremony also has the meaning of protecting the environmental landscape and preserving clean water sources for the villagers. The women's team of Prang village enjoys the Soma Kocham festival. Nearly 12 o'clock, the work for the ceremony was gradually completed. Two bamboo trees were built right in front of the clean water project, also located in the yard of the Rong house. People began to bring jars of fragrant brewed wine to the ceremony, forming a long line, two large jars of wine were tied at the foot of each bamboo tree, two skewers of grilled meat, and three pots of stewed meat were also displayed around. Somewhere along the way, the Village Elders Council consisting of 9 members stood around the tree, preparing the worshiping ritual. Wear "kid" gongs and young people in neat ranks. The village elders began to read the offerings, which was also when the sounds of drums and gongs resounded loudly and loudly. 5 elders will take on the task of offering offerings to Yang, the remaining 4 elders will pray and invite offerings to the deceased. Meanwhile, the gong team and sinus team performed around the yard of the Rong house. At the end of the worshiping ceremony, the Council of Village Elders took the first sips of wine in the long line of tea that the villagers brought to contribute to the offering. Following, people perform the same ritual, bringing with them wishes for a new year and a new, favorable and peaceful season. Each household is also given a string of pork from the offering ceremony to bring home for good luck. The Nhi gong team also contributed to the Soma Kocham ceremony. The festival has just begun and lasts until the end of the next day. In the evening, people together play gongs, dance and sing folk songs until the moonlight fades... After this worshiping ceremony, people in the village can safely go to the fields, ready for a new crop season, bringing with them the belief of prosperity. , full enough. Over the years, Bahnar villages gradually changed. However, unique traditional rituals are still being preserved and passed down. Under the shade of the Rong house standing tall in the middle of the village, witnessing the children immersing themselves in every rhythm of gongs and sinus rhythms, we can see that the work of preserving this unique culture is on the right track. The playful and witty image of the pootual character (clown performer) of two boys Dinh Minh (11 years old) and Dinh Ve (8 years old) makes viewers excited as they play the cymbal and clown with their molds. expressive face. In Prang village, love and pride in traditional culture are preserved and taught by the whole village community through many generations. Everyone in the village contributed to the Soma Kocham ceremony. In particular, through each worshiping ritual of the Soma Kocham ceremony, it is an opportunity for the people in the village to strengthen the spirit of solidarity and support for each other. Local authorities, through worshiping ceremonies, propagate the guidelines and policies of the Party and State in the economic, cultural and social development of the village. Mr. Dinh Van Diu - Chief of Prang village is happy that, in addition to the worshiping ceremony inside and outside the Rong house, every 2 years, the village organizes buffalo stabbing. In addition, each family and clan also preserves a number of other worshiping ceremonies such as po thi, moon worshiping... Through each worshiping ceremony, people become more united, and young people know more about the traditional culture of the nation. . Thanks to that, the unique rituals of worshiping, weaving, brocade weaving, gongs... of the Bahnar people are still taught and preserved from generation to generation. Leaving Prang, leaving behind the majestic sounds of gongs and gongs behind, along the winding concrete road along the Hway stream, Bahnar village's customs are changing through each Soma Kocham festival season.
Không phải ngẫu nhiên mà có thời người ta coi Hải Phòng là một tâm điểm của thơ ca, kể từ hồi kháng chiến 1946 đến những năm 1990 của thế kỷ trước. Mà đặc biệt hơn, giữa thời điểm đó, đất nước ta, ở miền Bắc, bước đầu bắt tay vào xây dựng một xã hội mới, một cuộc sống mới, mà quê hương, nửa nước vẫn trong bom đạn của chiến cuộc. Giới văn học nghệ thuật, nhất là thơ ca trở thành một công cụ hữu hiệu nhất cho việc tuyên truyền bởi nó có chất xúc tác mạnh, truyền cảm nhanh tới công chúng cần lao. Hải Phòng , thành phố Cảng, thành phố của những người lao động đã xuất hiện một loạt tên tuổi nối tiếp nhau hình thành trên văn đàn, nổi bật nhất là “ trường thơ Hải Phòng ”, tuy không thành văn nhưng nó tự nhiên như nhiên từ trong cuộc sống lam lũ tất bật với không khí hối hả của sức ép một nửa chiến tranh, một nửa hòa bình mà người thợ, người lính là nhân vật trung tâm. Thơ ca với thợ thuyền, thợ thuyền với thơ ca hòa quyện vào nhau chất chứa nhiều sức ép, nhiều cảm xúc mà tâm hồn thiếu lãng mạn sẽ không thể tồn tại! Lãng mạn với niềm đam mê đầy thi hứng đòi hỏi người thơ nhập cuộc hoàn toàn tự nguyện vào cuộc sông đã và đang theo công cuộc lớn lao chung, ấy là Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước . Thơ văn đất Cảng có chung với mọi nơi ta hay gọi là phong trào, nhưng tự nó, nó có một sức sống riêng, khác các nơi khác. Người Hải Phòng không còn là xứ sở nông thôn chân lấm tay bùn, con trâu cái cày truyền thống mà bây giờ là nhịp sống mới náo nhiệt của tiếng bước chân, tiếng hát, tiếng reo vui của những tốp công nhân, những cô gái chàng trai áo thợ xen lẫn tiếng gõ tiếng va đập luôn luôn vang động. Rồi tiếng còi tầu, tiếng còi nhà máy, tiếng kẻng xí nghiệp, nhất là sự nhộn nhịp nơi bến cảng của Hải Phòng non trẻ, mới mẻ đầy sức sống mà các tên tuổi thường xuyên xuất hiện trên văn đàn, trên mặt báo như Trần Huyền Trân, Nguyên Hồng, Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Hưng, Thanh Tùng, Thi Hoàng, Đào Cảng, Đào Trọng Khánh… Họ đồng hành cùng nhân dân. Họ là những cây bút chủ lực của phong trào bước ra từ các cơ quan ban ngành đoàn thể, đơn vị, xí nghiệp, tạo nên một không gian đầy sức sống mà chỉ có nơi đây mới có, được toàn dân nô nức đón nhận. Thơ văn Hải Phòng, trong đó, “ Trường thơ Hải Phòng ” được giữ nhịp chầm chậm dần dần đến năm 1975 thì nguội. Không nguội hẳn nhưng vẫn còn âm ấm với các tên tuổi các nhà văn nhà thơ như Nguyên Hồng, Đào Trọng Khánh, Thanh Tùng, Thi Hoàng, Đào Cảng… Sau 1975, thời hậu chiến, mạch thơ văn chuyển động theo một quy luật mới: chậm hơn, đậm hơn, và cả nhanh hơn, vui vẻ hơn và cả buồn hơn, sâu lắng hơn, triết lý hơn. Thơ đương đại Hải Phòng trở nên chững lại một thời gian dài để tự mình tìm kiếm cho mình đường đi lối lại. Mỗi người thơ tự tìm tòi sáng tạo lối đi riêng, không còn theo lối cũ của người thơ cũ. Thơ Hải Phòng giai đoạn này vẫn trông vào sự đổi mới cả cách viết lẫn cách sống của lớp đàn anh, nhưng thực sự để tạo nên một “cú hích” mới cũng không khả quan mấy. Tuy nhiên, Hải Phòng vẫn tiếp tục vào cuộc sống thơ ca của mình với các tên tuổi thơ truyền thống đã quen thuộc như Đào Cảng, Kim Chuông, Thanh Tùng, Trịnh Hoài Giang… Một số tác giả trẻ 7x, 8X như Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh, Nguyễn Thị Thúy Ngoan mà trước 1975, thời chống Mỹ, Nguyễn Thị Hoài Thanh và Nguyễn Thị Thúy Ngoan ít được biết đến. Phải tới sau Đổi mới, đến suốt những năm của thập niên 90, sự xuất hiện của Nguyễn Thị Hoài Thanh, Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Tảo, Vũ Thị Huyền, Vũ Thúy Hồng mới tạo nên những gương mặt vừa đặc sắc vừa đạt nhiều thành công của thơ nữ đất Cảng. Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1988 cho tập thơ Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn, giải nhất thơ Tác phẩm tuổi xanh của báo Tiền phong trao cho chùm thơ của Vũ Thị Huyền, giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Bỉnh Khiêm của Vũ Thúy Hồng chính là những ghi nhận cho thành công của họ. Những năm thập niên 2000 đến nay, sự xuất hiện của thơ Phạm Vân Anh, Đỗ Khánh Phương, Nguyễn Thị Thúy Ngoan, cũng gây được chú ý, Giải thưởng của Ủy ban toàn quốc các Hội VHNT Việt Nam các năm 2005 trao cho Phạm Vân Anh, năm 2008 là Nguyễn Thị Thúy Ngoan… chính là sự nối dài cho những thành công của thơ nữ Hải Phòng. Các nhà thơ nữ Hải Phòng trong bàn tròn văn chương “Thơ nữ đất Cảng”. Đọc hết tuyển tập thơ Thúy Ngoan và tôi đọc lại lần nữa, rồi đọc thêm những bài mà tôi đánh dấu theo thói quen khi đọc thấy có ấn tượng. May mà đọc Thúy Ngoan bắt gặp một giọng thơ riêng, rất riêng, không lẫn vào lối viết phong trào, lối viết nhân dịp, lối viết chúc tụng mà cũng thật may nữa là không gặp cái thứ thơ than thân trách phận, mặc dù tác giả từ trẻ đã gặp nhiều chuyện không may. Thúy Ngoan đã rất tự tin khi làm tuyển tập không sắp xếp thứ tự theo thời gian, theo “hoàn cảnh” mà theo… ngẫu hứng. Tác giả nói, chọn theo cái ngẫu hứng của một “bà mẹ” với “đàn con” yêu thương, không “đứa” nào hơn “đứa” nào, không đứa nào kém đứa nào. Mỗi bài thơ cũng giống như mỗi đứa con được sinh ra với một hoàn cảnh riêng biệt và “nó” được sống giữa cuộc đời cũng không hề giống nhau. Các cụ ta có câu cha mẹ sinh con giời sinh tính. Mỗi bài thơ cũng mang theo nó một số phận mà cuộc sống luôn luôn sẵn lòng chờ đón. Ông già thời gian giữ nó hay không là quyền của ông già thời gian thôi. Có lẽ tôi lấy cảm hứng để viết một đôi lời cảm nhận của mình sau khi đọc tập thơ này, cũng xin lật trang theo cái sự bất ngờ ngẫu nhiên để chọn cho khách quan, tránh lối viết cảm nhận theo lối mòn bài bản xưa cũ. Ví dụ ngẫu nhiên một, trang 16, bài Nón không quai “Thà rằng đội nón không quai Còn hơn chằng buộc ngắn dài vấn vương…” “… Năm canh gió thổi bạt tình Viết câu thơ dại trách mình đa đoan…” “…Cầm bằng trăng khuyết sân đình Còn hơn trói buộc bóng hình vênh vao…” Ngẫu nhiên hai, trang 97, bài Xuân muộn . (kính hương linh anh) “Dùng dằng trời đất ngả nghiêng say Chén rượu mềm tay dốc cạn ngày Hương bưởi gửi ai mà ngan ngát Anh về cõi ấy… hết nợ vay!” Ngẫu nhiên ba, trang 27 bài Con đường (tặng anh) “Ngày mai ngược gió con đường ấy Vẫn những hàng cây xanh biếc cây Vẫn mùa vải chín rung rinh nắng Tu hú gọi hè trốn bóng mây Ngày mai ngược nắng con đường ấy Gió thổi ngang đầu bạt lá rơi Mấy năm xa cách – lòng xa cách Thăm thẳm chiều đong nỗi đong đầy Ngày mai mưa xối con đường ấy…” Ngẫu nhiên bốn, trang 191, bài Thời công nghiệp “Nhà quê ngõ dọc ngõ ngang Ngày xưa…trăng sáng khoai lang mời chào Nụ cười ấm dạ thanh tao Nước chè sóng sánh rót vào tình quê.” Ngẫu nhiên năm, trang 21 bái Cái bóng “Đũa có đôi, mâm có bát Em một mình chan nước mắt vào cơm Ngoài thềm gió lạnh mưa tuôn Em ngồi nuốt cả nỗi buồn tháng năm Anh ơi trăng khuyết lại rằm Em như sông cạn trăm năm chẳng đầy” Ngẫu nhiên sáu, trang 67, bài Giao thừa “… Cha khuất núi, mẹ về non Đời con ghềnh thác khuyết tròn ngổn ngang Phố phường mà chẳng quên làng Bờ tre ngọn lúa họ hang ở quê Giao thừa gió bấc tái tê Nhang thơm như gọi con về ngày xưa Chồng con theo bóng gió mưa Sang canh trống trải như thừa con ra” ( Đêm giao thừa 2019) Trích như thế cũng không thể chứa đựng hết sự khen chê nhưng dù sao tôi cũng gửi gắm hy vọng nó tác động được phần nào sự đồng hành chung của mọi người. Có những nhà thơ có in thơ thành tập, đọc được đôi bài thơ hay, hoàn hảo, có những nhà thơ trong tập thơ ta nhặt ra được nhiều những câu hay, rất hay. Lại có những nhà thơ đọc cả tập thấy thú vị, nhưng chọn ra đôi ba bài… rất khó. Đọc thơ Nguyễn Thị Thúy Ngoan có nhiều những bài hay. Có rất nhiều những câu thơ rất hay. Thơ Thúy Ngoan đặc sắc chất quê, tình vợ nghĩa chồng, tình làng nghĩa xóm, không đậm sắc màu dân ca dân dã như những nhà thơ miền quê khác, mà thơ chị lặn vào trong cõi lòng. Thơ Thúy Ngoan nặng lòng. Cũng viết về quê, về mẹ về cha về chồng nhưng không dân dã, tài hoa thi vị chất nông dân như thơ Đồng Đức Bốn. Thơ Thúy Ngoan thấm đượm vẻ đẹp hồn người nhà quê, chân chất, bình dị và tinh tế…
Không phải ngẫu nhiên mà có thời người ta coi Hải Phòng là một tâm điểm của thơ ca, kể từ hồi kháng chiến 1946 đến những năm 1990 của thế kỷ trước. Mà đặc biệt hơn, giữa thời điểm đó, đất nước ta, ở miền Bắc, bước đầu bắt tay vào xây dựng một xã hội mới, một cuộc sống mới, mà quê hương, nửa nước vẫn trong bom đạn của chiến cuộc. Giới văn học nghệ thuật, nhất là thơ ca trở thành một công cụ hữu hiệu nhất cho việc tuyên truyền bởi nó có chất xúc tác mạnh, truyền cảm nhanh tới công chúng cần lao. Hải Phòng , thành phố Cảng, thành phố của những người lao động đã xuất hiện một loạt tên tuổi nối tiếp nhau hình thành trên văn đàn, nổi bật nhất là “ trường thơ Hải Phòng ”, tuy không thành văn nhưng nó tự nhiên như nhiên từ trong cuộc sống lam lũ tất bật với không khí hối hả của sức ép một nửa chiến tranh, một nửa hòa bình mà người thợ, người lính là nhân vật trung tâm. Thơ ca với thợ thuyền, thợ thuyền với thơ ca hòa quyện vào nhau chất chứa nhiều sức ép, nhiều cảm xúc mà tâm hồn thiếu lãng mạn sẽ không thể tồn tại! Lãng mạn với niềm đam mê đầy thi hứng đòi hỏi người thơ nhập cuộc hoàn toàn tự nguyện vào cuộc sông đã và đang theo công cuộc lớn lao chung, ấy là Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước . Thơ văn đất Cảng có chung với mọi nơi ta hay gọi là phong trào, nhưng tự nó, nó có một sức sống riêng, khác các nơi khác. Người Hải Phòng không còn là xứ sở nông thôn chân lấm tay bùn, con trâu cái cày truyền thống mà bây giờ là nhịp sống mới náo nhiệt của tiếng bước chân, tiếng hát, tiếng reo vui của những tốp công nhân, những cô gái chàng trai áo thợ xen lẫn tiếng gõ tiếng va đập luôn luôn vang động. Rồi tiếng còi tầu, tiếng còi nhà máy, tiếng kẻng xí nghiệp, nhất là sự nhộn nhịp nơi bến cảng của Hải Phòng non trẻ, mới mẻ đầy sức sống mà các tên tuổi thường xuyên xuất hiện trên văn đàn, trên mặt báo như Trần Huyền Trân, Nguyên Hồng, Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Hưng, Thanh Tùng, Thi Hoàng, Đào Cảng, Đào Trọng Khánh… Họ đồng hành cùng nhân dân. Họ là những cây bút chủ lực của phong trào bước ra từ các cơ quan ban ngành đoàn thể, đơn vị, xí nghiệp, tạo nên một không gian đầy sức sống mà chỉ có nơi đây mới có, được toàn dân nô nức đón nhận. Thơ văn Hải Phòng, trong đó, “ Trường thơ Hải Phòng ” được giữ nhịp chầm chậm dần dần đến năm 1975 thì nguội. Không nguội hẳn nhưng vẫn còn âm ấm với các tên tuổi các nhà văn nhà thơ như Nguyên Hồng, Đào Trọng Khánh, Thanh Tùng, Thi Hoàng, Đào Cảng… Sau 1975, thời hậu chiến, mạch thơ văn chuyển động theo một quy luật mới: chậm hơn, đậm hơn, và cả nhanh hơn, vui vẻ hơn và cả buồn hơn, sâu lắng hơn, triết lý hơn. Thơ đương đại Hải Phòng trở nên chững lại một thời gian dài để tự mình tìm kiếm cho mình đường đi lối lại. Mỗi người thơ tự tìm tòi sáng tạo lối đi riêng, không còn theo lối cũ của người thơ cũ. Thơ Hải Phòng giai đoạn này vẫn trông vào sự đổi mới cả cách viết lẫn cách sống của lớp đàn anh, nhưng thực sự để tạo nên một “cú hích” mới cũng không khả quan mấy. Tuy nhiên, Hải Phòng vẫn tiếp tục vào cuộc sống thơ ca của mình với các tên tuổi thơ truyền thống đã quen thuộc như Đào Cảng, Kim Chuông, Thanh Tùng, Trịnh Hoài Giang… Một số tác giả trẻ 7x, 8X như Mai Văn Phấn, Vi Thùy Linh, Nguyễn Thị Thúy Ngoan mà trước 1975, thời chống Mỹ, Nguyễn Thị Hoài Thanh và Nguyễn Thị Thúy Ngoan ít được biết đến. Phải tới sau Đổi mới, đến suốt những năm của thập niên 90, sự xuất hiện của Nguyễn Thị Hoài Thanh, Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Tảo, Vũ Thị Huyền, Vũ Thúy Hồng mới tạo nên những gương mặt vừa đặc sắc vừa đạt nhiều thành công của thơ nữ đất Cảng. Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1988 cho tập thơ Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn, giải nhất thơ Tác phẩm tuổi xanh của báo Tiền phong trao cho chùm thơ của Vũ Thị Huyền, giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Bỉnh Khiêm của Vũ Thúy Hồng chính là những ghi nhận cho thành công của họ. Những năm thập niên 2000 đến nay, sự xuất hiện của thơ Phạm Vân Anh, Đỗ Khánh Phương, Nguyễn Thị Thúy Ngoan, cũng gây được chú ý, Giải thưởng của Ủy ban toàn quốc các Hội VHNT Việt Nam các năm 2005 trao cho Phạm Vân Anh, năm 2008 là Nguyễn Thị Thúy Ngoan… chính là sự nối dài cho những thành công của thơ nữ Hải Phòng. Các nhà thơ nữ Hải Phòng trong bàn tròn văn chương “Thơ nữ đất Cảng”. Đọc hết tuyển tập thơ Thúy Ngoan và tôi đọc lại lần nữa, rồi đọc thêm những bài mà tôi đánh dấu theo thói quen khi đọc thấy có ấn tượng. May mà đọc Thúy Ngoan bắt gặp một giọng thơ riêng, rất riêng, không lẫn vào lối viết phong trào, lối viết nhân dịp, lối viết chúc tụng mà cũng thật may nữa là không gặp cái thứ thơ than thân trách phận, mặc dù tác giả từ trẻ đã gặp nhiều chuyện không may. Thúy Ngoan đã rất tự tin khi làm tuyển tập không sắp xếp thứ tự theo thời gian, theo “hoàn cảnh” mà theo… ngẫu hứng. Tác giả nói, chọn theo cái ngẫu hứng của một “bà mẹ” với “đàn con” yêu thương, không “đứa” nào hơn “đứa” nào, không đứa nào kém đứa nào. Mỗi bài thơ cũng giống như mỗi đứa con được sinh ra với một hoàn cảnh riêng biệt và “nó” được sống giữa cuộc đời cũng không hề giống nhau. Các cụ ta có câu cha mẹ sinh con giời sinh tính. Mỗi bài thơ cũng mang theo nó một số phận mà cuộc sống luôn luôn sẵn lòng chờ đón. Ông già thời gian giữ nó hay không là quyền của ông già thời gian thôi. Có lẽ tôi lấy cảm hứng để viết một đôi lời cảm nhận của mình sau khi đọc tập thơ này, cũng xin lật trang theo cái sự bất ngờ ngẫu nhiên để chọn cho khách quan, tránh lối viết cảm nhận theo lối mòn bài bản xưa cũ. Ví dụ ngẫu nhiên một, trang 16, bài Nón không quai “Thà rằng đội nón không quai Còn hơn chằng buộc ngắn dài vấn vương…” “… Năm canh gió thổi bạt tình Viết câu thơ dại trách mình đa đoan…” “…Cầm bằng trăng khuyết sân đình Còn hơn trói buộc bóng hình vênh vao…” Ngẫu nhiên hai, trang 97, bài Xuân muộn . (kính hương linh anh) “Dùng dằng trời đất ngả nghiêng say Chén rượu mềm tay dốc cạn ngày Hương bưởi gửi ai mà ngan ngát Anh về cõi ấy… hết nợ vay!” Ngẫu nhiên ba, trang 27 bài Con đường (tặng anh) “Ngày mai ngược gió con đường ấy Vẫn những hàng cây xanh biếc cây Vẫn mùa vải chín rung rinh nắng Tu hú gọi hè trốn bóng mây Ngày mai ngược nắng con đường ấy Gió thổi ngang đầu bạt lá rơi Mấy năm xa cách – lòng xa cách Thăm thẳm chiều đong nỗi đong đầy Ngày mai mưa xối con đường ấy…” Ngẫu nhiên bốn, trang 191, bài Thời công nghiệp “Nhà quê ngõ dọc ngõ ngang Ngày xưa…trăng sáng khoai lang mời chào Nụ cười ấm dạ thanh tao Nước chè sóng sánh rót vào tình quê.” Ngẫu nhiên năm, trang 21 bái Cái bóng “Đũa có đôi, mâm có bát Em một mình chan nước mắt vào cơm Ngoài thềm gió lạnh mưa tuôn Em ngồi nuốt cả nỗi buồn tháng năm Anh ơi trăng khuyết lại rằm Em như sông cạn trăm năm chẳng đầy” Ngẫu nhiên sáu, trang 67, bài Giao thừa “… Cha khuất núi, mẹ về non Đời con ghềnh thác khuyết tròn ngổn ngang Phố phường mà chẳng quên làng Bờ tre ngọn lúa họ hang ở quê Giao thừa gió bấc tái tê Nhang thơm như gọi con về ngày xưa Chồng con theo bóng gió mưa Sang canh trống trải như thừa con ra” ( Đêm giao thừa 2019) Trích như thế cũng không thể chứa đựng hết sự khen chê nhưng dù sao tôi cũng gửi gắm hy vọng nó tác động được phần nào sự đồng hành chung của mọi người. Có những nhà thơ có in thơ thành tập, đọc được đôi bài thơ hay, hoàn hảo, có những nhà thơ trong tập thơ ta nhặt ra được nhiều những câu hay, rất hay. Lại có những nhà thơ đọc cả tập thấy thú vị, nhưng chọn ra đôi ba bài… rất khó. Đọc thơ Nguyễn Thị Thúy Ngoan có nhiều những bài hay. Có rất nhiều những câu thơ rất hay. Thơ Thúy Ngoan đặc sắc chất quê, tình vợ nghĩa chồng, tình làng nghĩa xóm, không đậm sắc màu dân ca dân dã như những nhà thơ miền quê khác, mà thơ chị lặn vào trong cõi lòng. Thơ Thúy Ngoan nặng lòng. Cũng viết về quê, về mẹ về cha về chồng nhưng không dân dã, tài hoa thi vị chất nông dân như thơ Đồng Đức Bốn. Thơ Thúy Ngoan thấm đượm vẻ đẹp hồn người nhà quê, chân chất, bình dị và tinh tế…
Một hành tinh to lớn đến nỗi vi phạm lằn ranh chia tách trạng thái hành tinh – sao lùn nâu vừa được phát hiện giữa 2 mặt trời khác, sở hữu hiện tượng giống Trái Đất nhưng thảm khốc hơn rất nhiều. Thế giới “quái vật” mang tên WHS 1256 b đúng là một hành tinh, vì nó có sao mẹ – không chỉ 1 mà đến 2 cái – tuy nhiên lại vượt xa giới hạn khối lượng của một hành tinh là 10-13 lần Sao Mộc. Theo Science Alert, hành tinh kỳ quái này nặng tới 20 lần Sao Mộc, tức 6.360 lần Trái Đất, sở hữu nhiệt độ nóng tới mức nhôm cũng phải tan chảy và có quỹ đạo tận 10.000 năm xung quanh hai ngôi sao mẹ. WHS 1256 b kỳ quặc, vượt lằn ranh lý thuyết thiên văn đã được quan sát chi tiết bởi James Webb – Ảnh: NASA/ESA/CSA. Nó được siêu kính viễn vọng không gian James Webb của NASA/ESA/CSA (các cơ quan vũ trụ Mỹ – châu Âu – Canada) phát hiện trong tình trạng bị bủa vây bởi các cơn bão cát. Nhưng không giống như bão cát Trái Đất, đó là những cơn bão cực mạnh, không bao giờ kết thúc. Bão cát thảm khốc đã khiến các đám mây cuộn xoáy đầy hạt silicat lưu thông khắp bầu khí quyển của hành tinh. Theo nhà vật lý thiên văn Paul Molliere từ Viện Thiên văn học Max Planck ( Đức ), đây là lần đầu tiên nhiều thứ được tiết lộ như vậy chỉ thông qua một dữ liệu quang phổ duy nhất. Tất cả là nhờ James Webb, có sức mạnh vượt trội so với các phương tiện quan sát tiền nhiệm. Đây cũng là lần đầu tiên một thế giới vượt quá giới hạn khối lượng hành tinh được khẳng định đúng là một hành tinh, chứ không phải sao lùn nâu – vật thể có thể coi như một ngôi sao cao cấp hoặc hành tinh thất bại vì quá nhỏ để tạo phản ứng nhiệt hạch của sao nhưng quá lớn để là hành tinh, và không có sao mẹ. Một khả năng được đưa ra là vật thể bí ẩn này được ra đời theo một cách “lai” giữa cách sao lùn nâu và hành tinh hình thành. Sao lùn nâu không có sao mẹ, hình thành từ sự sụp đổ trực tiếp từ đám mây khí bụi giữa các vì sao, nhưng lại thất bại nên không hẳn là sao. Trong khi đó hành tinh sinh ra từ đĩa khí bụi của các ngôi sao. WHS 1256 b có hẳn 2 ngôi sao mẹ, nên nó rất có thể được hình thành từ một đám mây khí bụi kết hợp của 2 ngôi sao đó, với cơ chế sụp đổ tương tự sao lùn nâu. Đây là một hành tinh rất trẻ, chỉ mới 150 triệu tuổi và còn rất nóng với bầu khí quyển đạt nhiệt độ khoảng 830 độ C, cộng với trọng lực thấp đã tạo cho nó một bầu trời hỗn loạn. Với quỹ đạo xa tận 10.000 năm Trái Đất, hành tinh này đủ xa để ánh sáng không bị trộn lẫn với các ngôi sao, tạo nên điều kiện tuyệt vời để các nhà khoa học thử nghiệm các phương pháp quan sát ngoại hành tinh. Nghiên cứu vừa được công bố trên The Astrophysical Journal Letters.
A planet so large that it violates the boundary separating planetary status - a brown dwarf has just been discovered between two other suns, possessing a phenomenon similar to Earth but much more catastrophic. The "monster" world called WHS 1256 b is indeed a planet, because it has a parent star - not just one but two - but far exceeds the mass limit of a planet by 10-13 times. Moc. According to Science Alert, This strange planet weighs up to 20 times Jupiter, or 6,360 times Earth, has temperatures so hot that even aluminum would melt, and has an orbit of 10,000 years around the two parent stars. The strange WHS 1256 b, which crosses the line of astronomical theory, was observed in detail by James Webb - Photo: NASA/ESA/CSA. It was discovered by the James Webb super space telescope of NASA/ESA/CSA (US - European - Canadian space agencies) while surrounded by sandstorms. But unlike Earth's sandstorms, these are extremely powerful storms that never end. Catastrophic sandstorms sent swirling clouds filled with silicate particles circulating throughout the planet's atmosphere. According to astrophysicist Paul Molliere from the Max Planck Institute for Astronomy ( Virtue ), this is the first time so much has been revealed through a single spectroscopic data. All thanks to James Webb, which has superior power compared to previous observation vehicles. This is also the first time that a world exceeding the planetary mass limit has been confirmed to be a planet, rather than a brown dwarf – an object that can be considered a high-class star or failed planet because too small to produce stellar fusion but too large to be a planet, and has no parent star. One possibility is that this mysterious object was born in a "hybrid" way between how brown dwarfs and planets form. Brown dwarfs do not have a parent star, forming from a direct collapse from an interstellar gas and dust cloud, but fail so they are not really stars. Meanwhile, planets are born from the gas and dust disks of stars. WHS 1256 b has two parent stars, so it was most likely formed from a cloud of gas and dust combining those two stars, with a collapse mechanism similar to a brown dwarf. This is a very young planet, only 150 million years old and still very hot with an atmosphere reaching temperatures of about 830 degrees Celsius, combined with low gravity giving it a chaotic sky. With an orbit as far away as 10,000 Earth years, this planet is far enough away that light does not mix with the stars, creating excellent conditions for scientists to test methods for observing exoplanets. The study was just published above The Astrophysical Journal Letters.
Còn nhớ, đã có lần tôi dược nghe nói rằng: ‘Hễ đã là người miền Tây thì ai ai cũng biết ca vọng cổ’, câu nói ấy đã hàm chứa hai tinh thần. Tinh thần thứ nhất có thể hiểu mảnh đất Tây Nam bộ là quê hương của điệu vọng cổ. Tinh thần thứ hai nói lên ‘vọng cổ’ là một điệu hát rất thịnh hành ở các tỉnh miền Tây Nam bộ. Còn nhớ, đã có lần tôi dược nghe nói rằng: “Hễ đã là người miền Tây thì ai ai cũng biết ca vọng cổ”, câu nói ấy đã hàm chứa hai tinh thần. Tinh thần thứ nhất có thể hiểu mảnh đất Tây Nam bộ là quê hương của điệu vọng cổ. Tinh thần thứ hai nói lên “vọng cổ” là một điệu hát rất thịnh hành ở các tỉnh miền Tây Nam bộ. Trong một lần cùng đoàn nhạc sĩ về Bạc Liêu công tác. Tôi đem thắc mắc: “Sao lại gọi là vọng cổ Bạc Liêu?”. Nghệ nhân ưu tú Đỗ Ngọc Ẩn ông Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Bạc Liêu nói: “Mời các anh các chị ra xe. Chúng ta sẽ đến một nơi cho câu trả lời”. Xe chạy vòng vòng qua mấy đường phố trong thành phố Bạc Liêu thì dừng lại trước một cổng lớn. Dòng chữ trên đầu cổng ghi rõ “Khu lưu niệm Đờn ca tài tử Nam bộ và Nhạc sĩ Cao Văn Lầu”. Ông Ẩn cho biết thêm: “Hôm nay là ngày khai mạc Liên hoan đờn ca tài tử Nam bộ tỉnh Bạc Liêu. Mời các anh chị vào dự”. Khu lưu niệm này nằm ngay trên đường Ninh Bình (tỉnh Ninh Bình là địa phương kết nghĩa với tỉnh Bạc Liêu từ hồi chống Mỹ) và có khuôn viên khá rộng, diện tích 1,2ha. Ông Ẩn tủm tỉm cười: “Khu lưu niệm được xây dựng năm 2008, “trên nền” đất của gia đình Nhạc sĩ Cao Văn Lầu”. Ông Nguyễn Văn Quang, Trưởng ban Quản lý di tích tỉnh Bạc Liêu dẫn chúng tôi vào trong khuôn viên, ông Quang chỉ tay vào một khu mộ có bốn ngôi mộ ốp đá và cho hay: “Khi tiến hành nâng cấp mộ phần, với sự đồng ý của gia đình, chúng tôi đã di bốc phần mộ hai cụ thân sinh của nhạc sĩ từ Long An về đây. Khu mộ này vốn là vườn nhà của nhạc sĩ Cao Văn Lầu”. Giờ chúng tôi mới ớ ra vì sao lại có chuyện Khu lưu niệm này xây dựng “trên nền” đất của gia đình người nhạc sĩ nhiều giai thoại. Đoàn công tác bên tượng đài nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu sinh năm 1890, ông vốn quê ở tỉnh Long An , chẳng hiểu duyên trời se thế nào mà chàng nhạc sĩ trẻ ấy “dạt” về Bạc Liêu và “mê mệt” cô gái Trần Thị Tấn, người Bạc Liêu”. Theo đó, sau khi nhận được “cái gật đầu” của cô Trần Thị Tấn, chàng nhạc sĩ trẻ Cao Văn Lầu dẫn cô về làm dâu con cha mẹ mình. Nhưng hiềm nỗi, đã ba năm chung nhà nhưng cô Tấn vẫn chưa có thai, điều này “trái” với mong muốn của cha mẹ chàng nhạc sĩ và họ đã nói: “Tam niên vô tử bất thành thê”. Câu nói ấy đã khiến chàng Lầu và cô Tấn phải chia ly. Nhưng thẳm sâu trong lòng cả anh Lầu lẫn cô Tấn đều “Không thể nguôi ngoai nhớ nhau”. Có lẽ nỗi nhớ nhau luôn dằn vặt trong lòng mà nên chàng nhạc sĩ trẻ Cao Văn Lầu đã “thổn thức” mà bật lên bài ca “Dạ cổ hoài lang” (Nghe tiếng trống đêm, nhớ chồng). Tên của bài hát như nói lên tình cảm của cô Tấn đối với chàng Lầu: “ Chàng hỡi chàng có hay/ Đêm thiếp nằm luống những sầu tây/ Biết bao thuở đó đây sum vầy/ Duyên sắt cầm đừng lạt phai/ Thiếp cũng nguyện cho chàng/ Nguyện cho chàng hai chữ bình an/ Mau trở lại gia đàng/ Cho én nhạn hiệp đôi “. Và như một “linh ứng” sau khi bài ca ra đời thì đôi trẻ được trở lại với nhau khi cô Tấn có thai. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và cô Tấn tuy phải chia ly nhưng họ thường “lén lút” qua lại. Ông bà sau này có với nhau 7 người con gồm 5 trai và 2 gái”. Lời bài “Dạ cổ hoài lang” được nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác năm 1920, dựa trên “nền” nhạc ngũ cung “xê xang xê cống”. Đây là điệu nhạc mà những tay đờn miền Tây hồi đó thường hay tự ngâm nga để nói thay lòng nhớ quê xa. Từ bài ca nói lên tâm trạng riêng, bài “Dạ cổ hoài lang” nhanh chóng lan rộng khắp miền Tây, dần lan tới tận Bắc. Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Mộng Long, con trai soạn giả cải lương nổi tiếng Quy Sắc (Nguyễn Phú Quý), thành viên trong đoàn chúng tôi, cho hay: “Năm 1934, cố nghệ sĩ Lư Hoa Nghĩa (thân phụ của cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga) đã chuyển bài “Dạ cổ hoài lang” thành bài “Vọng cổ”. Và đến năm 1936, cố nghệ sĩ Năm Nghĩa đã sửa thành 16 nhịp. Khoảng đầu năm 1951, cố nghệ sĩ Út Trà Ôn đã phát triển thành bài vọng cổ 32 nhịp, mà đa số nghệ sĩ cải lương hiện nay vẫn hát. Do xuất phát từ bài “Dạ cổ hoài lang” nên “Vọng cổ” cũng còn được gọi là “Vọng cổ Bạc Liêu”. Ông Long nói thêm: “Trong sân khấu cải lương. Một thể loại diễn ca kịch trường ra đời năm 1917, thì khi điệu Vọng cổ ra đời nó đã nhanh chóng trở thành “không thể thiếu” trong sân khấu cải lương. Và nói tới cải lương là nhắc tới câu vọng cổ làm say mê bao nhiêu triệu con tim Việt Nam, do tính chất mùi mẫn lúc trình diễn, cũng như tự do ngân dài mỗi đầu câu của người hát”. “Vậy còn đờn ca tài tử là gì?”. Tôi hỏi thêm sau khi đã “tường tận” về Vọng cổ. Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Mộng Long lại giảng giải: “Đờn ca tài tử có nguồn gốc từ nhã nhạc ngoài Trung, khởi nguồn từ Nhã nhạc cung đình Huế, có kết hợp với văn hóa dân gian từ trong đời sống nhân dân lao động. Khi “Mang gươm đi mở cõi”, những người dân di dời vào vùng đất phương Nam làm cuộc khẩn hoang vĩ đại, đã mang theo các nhạc cụ cùng những câu hát quê hương”. Một số hình ảnh biểu diễn đờn ca tài tử ở sân khấu liên hoan, khu du lịch và tại thôn ấp. Chúng tôi cùng ồ lên thích thú khi “tưởng tượng” ra trước mắt mình hình ảnh trong những đêm thanh vắng hay sau giờ lao động những người dân “ly quê” ấy lòng vẫn không “ly hương”, họ có thể một mình hoặc cũng có thể là một nhóm người cùng ngồi trong lán dựng tạm hay ngồi trên xuồng ghe lênh đênh trên mặt nước, người dân “ly quê” ấy đã trông về phía Bắc trong nỗi nhớ quê nhà, mà tự thân cất lên tiếng hát, tự thân tấu lên bản nhạc. Đó là những câu hát đượm buồn, nhớ nhung da diết. Đờn ca tài tử được hình thành từ đó, cách đây hơn trăm năm. Chữ “tài tử” ở đây là để chỉ về “tính nghiệp dư” và “tính tự do sáng tạo” của những người “nghệ sĩ nông dân”. Trong thực tế, “tài tử” cũng còn có nghĩa là tài năng và ngụ ý rằng những người này không dùng nghệ thuật để kiếm kế sinh nhai, mà chỉ để cho vui hoặc những lúc ngẫu hứng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là họ không phải là chuyên gia. Ngược lại, để trở thành một nghệ sĩ trong ý nghĩa xác thực nhất của từ này, họ phải thực hành trong một thời gian dài. Thực chất thì Đờn ca tài tử “Là loại âm nhạc thính phòng thường trình diễn trong phạm vi không gian tương đối nhỏ, như trong gia đình, tại đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, trong các lễ hội, hay sau khi thu hoạch mùa vụ và thường được biểu diễn vào những đêm trăng sáng ở xóm làng”. Ông Mộng Long bổ sung: “Ban nhạc đờn ca tài tử thường dùng 5 loại nhạc cụ nên còn gọi là ban ngũ tuyệt. Bao gồm: đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn kìm, đàn cò, và đàn tam. Phụ họa thêm là tiếng sáo thường là sáo bảy lỗ. Còn về trang phục, biểu diễn thì những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau nên chỉ mặc quần áo thường ngày. Khi nào diễn ở đình, miếu hoặc trên sân khấu họ mới mặc các trang phục biểu diễn”. Được biết, vài năm trở lại đây nhằm giữ gìn và phát huy “loại hình âm nhạc” có tính dân gian này và cũng để phục vụ nhu cầu phát triển du lịch nên những nhóm Đờn ca tài tử nhỏ lẻ đã liên kết lại thành những Câu lạc bộ Đờn ca tài tử ở các xã, huyện mang tính bán chuyện nghiệp. NSƯT Nguyễn Ngọc Ẩn cho hay: “Tại tỉnh Bạc Liêu thì các câu lạc bộ đờn ca tài tử đã hoạt động khá tích cực với hàng ngàn nghệ nhân dân gian. Hàng năm tỉnh còn tổ chức những cuộc liên hoan như cuộc liên hoan hôm nay các anh chị được tham dự đấy. Cách thức này đã “kích thích” các CLB hoạt động được thường xuyên và trở thành không thể thiếu trong đời sống văn hóa ở địa phương. Đồng thời qua đây phát hiện những tài năng và là cơ sở để tôn vinh những cá nhân xuất sắc”. Ông Ẩn mỉm cười: “Danh hiệu Nghệ nhân ưu tú mà tôi và nhiều nghệ nhân dân gian đã được trao và sẽ còn trao thêm cho nhiều người nữa đều xuất phát từ phong trào văn hóa quần chúng thông qua Câu lạc bộ đờn ca tài tử đấy”. Được biết, năm 2013, “Đờn ca tài tử” được UNESCO vinh danh là “Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”.
Còn nhớ, đã có lần tôi dược nghe nói rằng: ‘Hễ đã là người miền Tây thì ai ai cũng biết ca vọng cổ’, câu nói ấy đã hàm chứa hai tinh thần. Tinh thần thứ nhất có thể hiểu mảnh đất Tây Nam bộ là quê hương của điệu vọng cổ. Tinh thần thứ hai nói lên ‘vọng cổ’ là một điệu hát rất thịnh hành ở các tỉnh miền Tây Nam bộ. Còn nhớ, đã có lần tôi dược nghe nói rằng: “Hễ đã là người miền Tây thì ai ai cũng biết ca vọng cổ”, câu nói ấy đã hàm chứa hai tinh thần. Tinh thần thứ nhất có thể hiểu mảnh đất Tây Nam bộ là quê hương của điệu vọng cổ. Tinh thần thứ hai nói lên “vọng cổ” là một điệu hát rất thịnh hành ở các tỉnh miền Tây Nam bộ. Trong một lần cùng đoàn nhạc sĩ về Bạc Liêu công tác. Tôi đem thắc mắc: “Sao lại gọi là vọng cổ Bạc Liêu?”. Nghệ nhân ưu tú Đỗ Ngọc Ẩn ông Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Bạc Liêu nói: “Mời các anh các chị ra xe. Chúng ta sẽ đến một nơi cho câu trả lời”. Xe chạy vòng vòng qua mấy đường phố trong thành phố Bạc Liêu thì dừng lại trước một cổng lớn. Dòng chữ trên đầu cổng ghi rõ “Khu lưu niệm Đờn ca tài tử Nam bộ và Nhạc sĩ Cao Văn Lầu”. Ông Ẩn cho biết thêm: “Hôm nay là ngày khai mạc Liên hoan đờn ca tài tử Nam bộ tỉnh Bạc Liêu. Mời các anh chị vào dự”. Khu lưu niệm này nằm ngay trên đường Ninh Bình (tỉnh Ninh Bình là địa phương kết nghĩa với tỉnh Bạc Liêu từ hồi chống Mỹ) và có khuôn viên khá rộng, diện tích 1,2ha. Ông Ẩn tủm tỉm cười: “Khu lưu niệm được xây dựng năm 2008, “trên nền” đất của gia đình Nhạc sĩ Cao Văn Lầu”. Ông Nguyễn Văn Quang, Trưởng ban Quản lý di tích tỉnh Bạc Liêu dẫn chúng tôi vào trong khuôn viên, ông Quang chỉ tay vào một khu mộ có bốn ngôi mộ ốp đá và cho hay: “Khi tiến hành nâng cấp mộ phần, với sự đồng ý của gia đình, chúng tôi đã di bốc phần mộ hai cụ thân sinh của nhạc sĩ từ Long An về đây. Khu mộ này vốn là vườn nhà của nhạc sĩ Cao Văn Lầu”. Giờ chúng tôi mới ớ ra vì sao lại có chuyện Khu lưu niệm này xây dựng “trên nền” đất của gia đình người nhạc sĩ nhiều giai thoại. Đoàn công tác bên tượng đài nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu sinh năm 1890, ông vốn quê ở tỉnh Long An , chẳng hiểu duyên trời se thế nào mà chàng nhạc sĩ trẻ ấy “dạt” về Bạc Liêu và “mê mệt” cô gái Trần Thị Tấn, người Bạc Liêu”. Theo đó, sau khi nhận được “cái gật đầu” của cô Trần Thị Tấn, chàng nhạc sĩ trẻ Cao Văn Lầu dẫn cô về làm dâu con cha mẹ mình. Nhưng hiềm nỗi, đã ba năm chung nhà nhưng cô Tấn vẫn chưa có thai, điều này “trái” với mong muốn của cha mẹ chàng nhạc sĩ và họ đã nói: “Tam niên vô tử bất thành thê”. Câu nói ấy đã khiến chàng Lầu và cô Tấn phải chia ly. Nhưng thẳm sâu trong lòng cả anh Lầu lẫn cô Tấn đều “Không thể nguôi ngoai nhớ nhau”. Có lẽ nỗi nhớ nhau luôn dằn vặt trong lòng mà nên chàng nhạc sĩ trẻ Cao Văn Lầu đã “thổn thức” mà bật lên bài ca “Dạ cổ hoài lang” (Nghe tiếng trống đêm, nhớ chồng). Tên của bài hát như nói lên tình cảm của cô Tấn đối với chàng Lầu: “ Chàng hỡi chàng có hay/ Đêm thiếp nằm luống những sầu tây/ Biết bao thuở đó đây sum vầy/ Duyên sắt cầm đừng lạt phai/ Thiếp cũng nguyện cho chàng/ Nguyện cho chàng hai chữ bình an/ Mau trở lại gia đàng/ Cho én nhạn hiệp đôi “. Và như một “linh ứng” sau khi bài ca ra đời thì đôi trẻ được trở lại với nhau khi cô Tấn có thai. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu và cô Tấn tuy phải chia ly nhưng họ thường “lén lút” qua lại. Ông bà sau này có với nhau 7 người con gồm 5 trai và 2 gái”. Lời bài “Dạ cổ hoài lang” được nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác năm 1920, dựa trên “nền” nhạc ngũ cung “xê xang xê cống”. Đây là điệu nhạc mà những tay đờn miền Tây hồi đó thường hay tự ngâm nga để nói thay lòng nhớ quê xa. Từ bài ca nói lên tâm trạng riêng, bài “Dạ cổ hoài lang” nhanh chóng lan rộng khắp miền Tây, dần lan tới tận Bắc. Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Mộng Long, con trai soạn giả cải lương nổi tiếng Quy Sắc (Nguyễn Phú Quý), thành viên trong đoàn chúng tôi, cho hay: “Năm 1934, cố nghệ sĩ Lư Hoa Nghĩa (thân phụ của cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga) đã chuyển bài “Dạ cổ hoài lang” thành bài “Vọng cổ”. Và đến năm 1936, cố nghệ sĩ Năm Nghĩa đã sửa thành 16 nhịp. Khoảng đầu năm 1951, cố nghệ sĩ Út Trà Ôn đã phát triển thành bài vọng cổ 32 nhịp, mà đa số nghệ sĩ cải lương hiện nay vẫn hát. Do xuất phát từ bài “Dạ cổ hoài lang” nên “Vọng cổ” cũng còn được gọi là “Vọng cổ Bạc Liêu”. Ông Long nói thêm: “Trong sân khấu cải lương. Một thể loại diễn ca kịch trường ra đời năm 1917, thì khi điệu Vọng cổ ra đời nó đã nhanh chóng trở thành “không thể thiếu” trong sân khấu cải lương. Và nói tới cải lương là nhắc tới câu vọng cổ làm say mê bao nhiêu triệu con tim Việt Nam, do tính chất mùi mẫn lúc trình diễn, cũng như tự do ngân dài mỗi đầu câu của người hát”. “Vậy còn đờn ca tài tử là gì?”. Tôi hỏi thêm sau khi đã “tường tận” về Vọng cổ. Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Mộng Long lại giảng giải: “Đờn ca tài tử có nguồn gốc từ nhã nhạc ngoài Trung, khởi nguồn từ Nhã nhạc cung đình Huế, có kết hợp với văn hóa dân gian từ trong đời sống nhân dân lao động. Khi “Mang gươm đi mở cõi”, những người dân di dời vào vùng đất phương Nam làm cuộc khẩn hoang vĩ đại, đã mang theo các nhạc cụ cùng những câu hát quê hương”. Một số hình ảnh biểu diễn đờn ca tài tử ở sân khấu liên hoan, khu du lịch và tại thôn ấp. Chúng tôi cùng ồ lên thích thú khi “tưởng tượng” ra trước mắt mình hình ảnh trong những đêm thanh vắng hay sau giờ lao động những người dân “ly quê” ấy lòng vẫn không “ly hương”, họ có thể một mình hoặc cũng có thể là một nhóm người cùng ngồi trong lán dựng tạm hay ngồi trên xuồng ghe lênh đênh trên mặt nước, người dân “ly quê” ấy đã trông về phía Bắc trong nỗi nhớ quê nhà, mà tự thân cất lên tiếng hát, tự thân tấu lên bản nhạc. Đó là những câu hát đượm buồn, nhớ nhung da diết. Đờn ca tài tử được hình thành từ đó, cách đây hơn trăm năm. Chữ “tài tử” ở đây là để chỉ về “tính nghiệp dư” và “tính tự do sáng tạo” của những người “nghệ sĩ nông dân”. Trong thực tế, “tài tử” cũng còn có nghĩa là tài năng và ngụ ý rằng những người này không dùng nghệ thuật để kiếm kế sinh nhai, mà chỉ để cho vui hoặc những lúc ngẫu hứng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là họ không phải là chuyên gia. Ngược lại, để trở thành một nghệ sĩ trong ý nghĩa xác thực nhất của từ này, họ phải thực hành trong một thời gian dài. Thực chất thì Đờn ca tài tử “Là loại âm nhạc thính phòng thường trình diễn trong phạm vi không gian tương đối nhỏ, như trong gia đình, tại đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, trong các lễ hội, hay sau khi thu hoạch mùa vụ và thường được biểu diễn vào những đêm trăng sáng ở xóm làng”. Ông Mộng Long bổ sung: “Ban nhạc đờn ca tài tử thường dùng 5 loại nhạc cụ nên còn gọi là ban ngũ tuyệt. Bao gồm: đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn kìm, đàn cò, và đàn tam. Phụ họa thêm là tiếng sáo thường là sáo bảy lỗ. Còn về trang phục, biểu diễn thì những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau nên chỉ mặc quần áo thường ngày. Khi nào diễn ở đình, miếu hoặc trên sân khấu họ mới mặc các trang phục biểu diễn”. Được biết, vài năm trở lại đây nhằm giữ gìn và phát huy “loại hình âm nhạc” có tính dân gian này và cũng để phục vụ nhu cầu phát triển du lịch nên những nhóm Đờn ca tài tử nhỏ lẻ đã liên kết lại thành những Câu lạc bộ Đờn ca tài tử ở các xã, huyện mang tính bán chuyện nghiệp. NSƯT Nguyễn Ngọc Ẩn cho hay: “Tại tỉnh Bạc Liêu thì các câu lạc bộ đờn ca tài tử đã hoạt động khá tích cực với hàng ngàn nghệ nhân dân gian. Hàng năm tỉnh còn tổ chức những cuộc liên hoan như cuộc liên hoan hôm nay các anh chị được tham dự đấy. Cách thức này đã “kích thích” các CLB hoạt động được thường xuyên và trở thành không thể thiếu trong đời sống văn hóa ở địa phương. Đồng thời qua đây phát hiện những tài năng và là cơ sở để tôn vinh những cá nhân xuất sắc”. Ông Ẩn mỉm cười: “Danh hiệu Nghệ nhân ưu tú mà tôi và nhiều nghệ nhân dân gian đã được trao và sẽ còn trao thêm cho nhiều người nữa đều xuất phát từ phong trào văn hóa quần chúng thông qua Câu lạc bộ đờn ca tài tử đấy”. Được biết, năm 2013, “Đờn ca tài tử” được UNESCO vinh danh là “Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”.
Cuốn sách đúc kết nên những giá trị tinh túy nhất của vị tướng nổi danh Nguyễn Huy Hiệu mà không phải ai cũng được biết. Được biết nhà văn/dịch giả Khánh Phương vừa ra mắt cuốn sách thứ hai viết về tướng Nguyễn Huy Hiệu, tôi rất bất ngờ. Đã có rất nhiều nhà báo, nhà văn viết về cuộc đời binh nghiệp của Thượng tướng – Viện sĩ Nguyễn Huy Hiệu (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam; nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học quân sự Liên bang Nga). Chẳng hạn như nhà văn Lê Hoài Nam với hai cuốn sách Bến sông tuổi thơ và Những bước chân không mỏi của người anh hùng ; nhà văn Kiều Bích Hậu với cuốn Vị tướng 9 năm ở nhà con Rồng ; nhà báo Lục Hường có cuốn Vị tướng với an ninh môi trường , hồi ký Một thời Quảng Trị của đại tá Lê Hải Triều; Ngọn đèn trong bão lửa của nhà báo Phạm Xuân Trường, nhà văn Dương Thiên Lý với cuốn tiểu thuyết Vị tướng Thành Nam … Truyện ký Vị tướng với tình yêu nước Nga mà Khánh Phương xuất bản năm ngoái giúp tôi hiểu thêm về một vị tướng nổi tiếng với những câu chuyện liên quan đến binh nghiệp, chiến lược, chiến thuật. Những chi tiết không hề khô cứng, lặp lại mà được lồng ghép đan xen giữa đời chinh chiến và tình yêu một cách tinh tế. Với cuốn sách Vị tướng kết tinh tâm ngôn giữa đời thường , nhà văn/dịch giả Khánh Phương đồng thời cũng là một nhà báo đã tận dụng tốt cái nhìn tổng thể từ gần tới xa để đúc kết nên những giá trị tinh túy nhất của một vị tướng khác biệt. Những chi tiết ít ai đề cập lại được nhà văn khai thác triệt để, đẩy lên một cấp độ “đắt giá” khiến cho người từng đọc nhiều bài viết về tướng Hiệu không thấy tẻ nhạt. Cuốn sách Vị tướng kết tinh tâm ngôn giữa đời thường đã đúc kết nên những giá trị tinh túy nhất của một vị tướng khác biệt. Tôi vô cùng tâm đắc với tư duy của tướng Nguyễn Huy Hiệu trong nhân sinh quan và thế giới quan. Mỗi chủ đề trong cuốn sách là một khía cạnh độc lập nhưng xuyên suốt toát lên mục đích sống của ông. Với chủ đề đầu tiên Đọc sách và tặng sách , tướng Hiệu nhấn mạnh: “Tôi không có tài sản gì nhiều chỉ có những cuốn sách. Có thể những cuốn sách của tôi (do tôi viết hay do các nhà văn, nhà báo viết về mình) chưa hẳn là hay nhưng ở một chừng mực nào đó, có nhiều thông tin bổ ích khi cần thiết, người ta có thể tra cứu. Tôi mong mỗi người hãy tập cho mình thói quen trong ngày để đọc sách”. Trong chủ đề Thị phi , ông quan niệm nếu gặp thị phi hãy chọn cách im lặng, mặc cho “mũi tên đã bay ra khỏi cung”, không chạy theo thanh minh giải thích, không nhất định phải hơn thua. Đó không phải là hèn, là chấp nhận, chẳng phải để cho cái ác lên ngôi mà là tự nạp cho mình một năng lượng đủ tốt để thả lỏng bản thân, đối diện với phong ba bão táp. An trú bình tâm trong sâu thẳm để bão thị phi không thể chạm vào. Bàn về lối sống chân thành, tử tế, tướng Hiệu cho rằng, bất kể gian nan thế nào, bản thân nên giữ vững tấm lòng chân thành và tử tế. Bất kể cô độc ra sao, cũng nên duy trì nhân cách. Bất kể có thể chịu thiệt bao nhiêu, vẫn kiên định lan tỏa yêu thương. Có rất nhiều người mải mê tìm hạnh phúc ở chân trời xa lắc nhưng tướng Hiệu một lần nữa khẳng định, “Có trong tay những thứ tốt nhất, không biến ta thành người hạnh phúc nhất mà người hạnh phúc nhất là biết tạo ra điều tốt nhất từ những khía cạnh khiếm khuyết. Đừng trông chờ vào một người nào đó để có được hạnh phúc. Hạnh phúc là do nội tại. Ngày mai chưa tới, biết ra sao ngày sau mà lo lắng. Nắng không vì ta buồn, mà lại tắt. Mưa không vì ta chán, mà lại ngừng. Hoa không vì ta ủ rũ, mà ngưng nở. Hãy sống cho mình, vui vẻ, chẳng hơn thua”. Là một vị tướng với biết bao lo toan, bận rộn nhưng ông luôn xác định: “Gia đình là nơi thiêng liêng, giúp ta bình yên, không tính toán thiệt hơn, là nơi cuộc sống được nhen nhóm nhưng tình yêu không bao giờ kết thúc”. Từng ở cương vị cao cấp quan trọng trong hàng ngũ lãnh đạo của nhà nước, tướng Hiệu đúc kết: “Cuộc sống không ai gặp toàn thuận lợi, cũng chẳng ai mãi mãi khó khăn. Dẫu thế nào, cũng đừng bao giờ xem thường bất kỳ ai. Chân thành và thừa nhận khả năng của người khác, tránh rơi vào cạm bẫy của thói tự đại. Lắng nghe góp ý, lời khuyên, phản hồi từ người khác, phân biệt đúng sai để tìm ra khiếm khuyết, hoàn thiện bản thân. Làm việc nhiều hơn, nói về bản thân ít hơn!”. Thông điệp qua từng trang sách của Thượng tướng – Viện sĩ Nguyễn Huy Hiệu là luôn hướng mọi người tới lối sống thiện lành để tâm luôn được an lạc. Đặc biệt, ông bình thản nói về “cái chết” – là chủ đề mà nhiều người né tránh: “Đừng sống mà quên rằng, bất kể lúc nào cũng có thể ra đi! Cái chết, là sự kết thúc nhân duyên cõi trần. Chưa cần chết đi, đã biết rằng sẽ đến. Chưa cần già đi, đã biết rồi sẽ già. Sống tròn trách nhiệm, trọn đạo nghĩa tình. Dài hay ngắn không quan trọng. Quan trọng là đã sống ra sao. Suy ngẫm đến cái chết chính là tỉnh thức khỏi nỗi sợ hãi. Suy ngẫm về cái chết không làm cho ta chán nản hay sống không lành mạnh, mà là sống có mục đích, giúp cho thoát khỏi sự chênh vênh. Không phải là mong mỏi cái chết đến nhanh, mà là sống để không sợ cái chết bất ngờ!”. Thật thú vị khi được nghiền ngẫm để thẩm thấu luồng tư tưởng vừa hiện đại phổ cập nhưng lại rất minh triết tinh túy, chắt lọc từ bao đời của ông cha. Tất cả làm nên một nhân cách hết sức khiêm nhường của vị tướng anh hùng! Đại học Bách khoa Hà Nội
The book summarizes the most quintessential values ​​of the famous general Nguyen Huy Hieu that not everyone knows. Knowing that writer/translator Khanh Phuong had just released her second book about General Nguyen Huy Hieu, I was very surprised. Many journalists and writers have written about the military career of Senior Lieutenant General - Academician Nguyen Huy Hieu (former member of the Party Central Committee, former member of the Standing Committee of the Central Military Commission, former Deputy Minister of National Defense of Vietnam ; former Deputy Chief of the General Staff, Academician of the Academy of Military Sciences of the Russian Federation). For example, writer Le Hoai Nam with two books Riverbank of childhood and The tireless steps of the hero ; Writer Kieu Bich Hau with the book The general spent 9 years in the Dragon's house ; Journalist Luc Huong has the book General with environmental security , Memoir Once in Quang Tri of Colonel Le Hai Trieu; A lamp in a firestorm by journalist Pham Xuan Truong and writer Duong Thien Ly with the novel General Thanh Nam … Storybook General with love for Russia that Khanh Phuong published last year helped me understand more about a famous general with stories related to military career, strategy, and tactics. The details are not dry or repetitive but are subtly interwoven between war and love. With the book The general crystallizes his thoughts in everyday life , writer/translator Khanh Phuong who is also a journalist has made good use of the overall view from near to far to summarize the most quintessential values ​​of a different general. Details that few people mention are thoroughly exploited by the writer, pushed to a "expensive" level, making it boring for those who have read many articles about General Hieu. The book The General crystallizes the words of everyday life, summarizing the most quintessential values ​​of a different general. I am extremely interested in General Nguyen Huy Hieu's thinking in his outlook on life and the world. Each topic in the book is an independent but consistent aspect that exudes his life purpose. With the first topic Read books and give away books , General Hieu emphasized: "I don't have many assets, only books. Maybe my books (written by me or written by writers and journalists about me) are not necessarily good, but to a certain extent, there is a lot of useful information when needed, people can look it up. rescue. I hope everyone will practice the habit of reading books during the day." In topic Thirteen , he believes that if you encounter trouble, choose to stay silent, let "the arrow fly out of the bow", do not run to clarify and explain, it is not necessarily a win or loss. That is not cowardice, it is acceptance, it is not letting evil prevail, but it is charging yourself with good enough energy to relax yourself and face the storms. Rest calmly in the depths so that the storms of gossip cannot touch you. Discussing a sincere and kind lifestyle, General Hieu said that no matter how difficult it is, one should maintain a sincere and kind heart. No matter how lonely you are, you should maintain your dignity. No matter how much loss you may suffer, still steadfastly spread love. There are many people who are busy looking for happiness in the distant horizon, but General Hieu once again affirmed, "Having the best things at hand does not make us the happiest person, but the happiest person is knowing how to create things." the best from the defective aspects. Don't look to someone for happiness. Happiness is internal. Tomorrow hasn't come yet, so don't worry about what the next day will bring. The sun doesn't go out because I'm sad. The rain doesn't stop because I'm bored. Flowers do not stop blooming because of me. Live for yourself, be happy, don't win or lose." As a general with so many worries and busyness, he always affirmed: "Family is a sacred place, helps us feel at peace, does not calculate the pros and cons, is where life is rekindled but love is never end". Once in an important senior position in the state's leadership, General Hieu concluded: "No one's life is always favorable, nor is anyone's life forever difficult. No matter what, never look down on anyone. Be sincere and acknowledge the abilities of others, avoid falling into the trap of arrogance. Listen to suggestions, advice, and feedback from others, distinguish right from wrong to find flaws, and improve yourself. Work more, talk about yourself less!” The message through every page of the book of Lieutenant General - Academician Nguyen Huy Hieu is to always guide people to a good lifestyle to always have peace of mind. In particular, he calmly talked about "death" - a topic that many people avoid: "Don't live and forget that you can die at any time! Death is the end of earthly relationships. I don't need to die yet, I know it will come. You don't need to get old, you already know you'll get old. Live full of responsibility, full of morality and love. Long or short doesn't matter. What matters is how you lived. Contemplating death is awakening from fear. Contemplating death does not make us depressed or lead an unhealthy life, but rather makes us live with purpose, helping us escape from uncertainty. It's not about wishing for death to come quickly, it's about living without fear of sudden death! It's interesting to ponder to absorb the flow of ideas that are both modern and universal but very simple wisdom quintessence, distilled from many generations of our ancestors. All create a very humble personality of the heroic general! Hanoi Polytechnic University
Một nghiên cứu cho thấy một nhóm chlorofluorocarbons (CFC) gồm 5 hợp chất hữu cơ halogen oxi hóa đã tăng đáng kể trong bầu khí quyển của Trái Đất từ năm 2010-2020. Ảnh: express.co.uk. Một nghiên cứu đăng trên trang mạng abc.net.au ngày 4/4 cho thấy một nhóm chlorofluorocarbons (CFC) gồm 5 hợp chất hữu cơ halogen oxi hóa, trong đó có carbon, clo và flo, đã tăng đáng kể trong bầu khí quyển của Trái Đất từ năm 2010-2020. Nhóm CFC này làm suy giảm tầng ozone, gây mối đe dọa đối với khí hậu. Nghiên cứu trên cho biết CFC là khí nhà kính mạnh gấp hàng nghìn lần so với carbon dioxide (CO2). Kể từ những năm 1980, lượng khí thải CFC nói chung đã giảm xuống còn khoảng 5% so với mức cao nhất, và lỗ thủng tầng ozone ở Nam Cực vẫn đang trên đà phục hồi vào khoảng năm 2060. Vì vậy, tình trạng gia tăng CFC nói trên khiến các nhà khoa học bất ngờ. Tác giả chính của nghiên cứu trên, Tiến sĩ Luke Western tại Đại học Bristol ở Anh cùng Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ (NOAA) cho biết nhóm hợp chất CFC tăng tương đối nhanh trong khí quyển kể từ năm 2010. Trong nỗ lực khắc phục lỗ hổng ngày càng lớn trong tầng ozone, Nghị định thư Montreal năm 1987 đã cấm phát thải các khí dưới dạng aerosol (sol khí) làm suy giảm “lá chắn” ở tầng bình lưu này của Trái Đất kể từ năm 2010. Tuy nhiên, CFC vẫn được sử dụng để tạo thành các hợp chất khác hoặc dưới dạng phụ phẩm trong quá trình sản xuất. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là nguồn gốc của 3 loại khí nói trên trong CFC khiến nhóm hợp chất này tăng đáng kể trong bầu khí quyển. Tiến sĩ Western nhận định nhiều khả năng số lượng 3 loại khí này ngày càng tăng liên quan việc sử dụng chúng trong quá trình sản xuất các hóa chất khác, đặc biệt là hydrofluorocarbons (HFC). Hiện các nhà nghiên cứu chưa xác định được nguồn gốc của 2 loại khí còn lại trong nhóm này. HFC là các hợp chất hữu cơ chứa nguyên tử flo và hydro, được sử dụng chủ yếu trong làm lạnh và máy điều hòa không khí. HFC được cho là chất thay thế CFC, “thân thiện” với khí hậu và tầng ozone hơn. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Western, nghiên cứu mới cho thấy việc sử dụng HFC cũng có thể giải phóng CFC. Năm 2016, Bản sửa đổi Kigali trong khuôn khổ Nghị định thư Montreal, đã được các nước thành viên phê chuẩn nhằm giảm HFC. Nhà khoa học khí quyển Robyn Schofield tại Đại học Melbourne cho biết việc giảm HFC diễn ra rất chậm và chất này thường được thay thế bằng hydrofluoroolefin (HFO) – một loại chất làm lạnh mới hơn hiện được sử dụng rộng rãi trong các hệ thống điều hòa không khí, song nó cũng tiềm ẩn những tác động. Theo Tiến sĩ Schofield, HFO có thời gian tồn tại trong khí quyển rất ngắn, nhưng không có nghĩa là chất này không gây vấn đề gì bởi chúng bị cuốn trôi khỏi khí quyển và tạo thành axit trifluoroacetic, ảnh hưởng tới nước uống. Giáo sư Ian Rae tại Trường Hóa học thuộc Đại học Melbourne nhận định có khả năng hiện tượng gia tăng 3 loại khí trong nhóm hợp chất CFC là do năng lực quản lý các ngành công nghiệp còn hạn chế. Theo Giáo sư Rae, nghiên cứu trên có thể sẽ được đề cập tại cuộc họp Nghị định thư Montreal trong tương lai, sau đó, các nhà khoa học sẽ yêu cầu các quốc gia đánh giá kỹ lưỡng hơn các vấn đề liên quan. Giới khoa học dự báo tác động tổng thể đối với lỗ thủng tầng ozone ở Nam Cực sẽ không đáng kể nếu duy trì lượng khí thải như ở mức hiện tại. Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Western, vấn đề lớn hơn là khả năng CFC gây ấm lên toàn cầu, do đây là khí nhà kính mạnh, lượng phát thải các loại khí này năm 2020 tương đương tổng lượng khí thải CO2 của Thụy Sĩ. Vì vậy, việc giảm thiểu lượng khí thải này sẽ tác động lớn đến khí hậu, tương tự việc một quốc gia nhỏ đưa phát thải ròng carbon về mức 0. Trong khi đó, Tiến sĩ Schofield cho biết có những lựa chọn thay thế khả thi cho việc sử dụng HFC mà không tạo ra CFC và ít gây hiệu ứng nhà kính hơn. Chẳng hạn, có thể sử dụng CO2 làm chất làm lạnh cho các bộ trao đổi nhiệt nước trong điều hòa nhiệt độ. Tuy nhiên, một số biện pháp vẫn đặt ra thách thức và nhìn chung, các thiết bị bị loại bỏ vẫn là nguồn phát thải CFC lớn nhất thế giới.
A study shows that a group of chlorofluorocarbons (CFCs) consisting of five oxidizing halogenated organic compounds increased significantly in the Earth's atmosphere from 2010-2020. Photo: express.co.uk. A study published on abc.net.au on April 4 shows that a group of chlorofluorocarbons (CFCs) including five oxidizing halogenated organic compounds, including carbon, chlorine and fluorine, have increased significantly in the atmosphere. Earth's atmosphere from 2010-2020. This group of CFCs depletes the ozone layer, posing a threat to the climate. The above research shows that CFCs are thousands of times more powerful greenhouse gases than carbon dioxide (CO2). Since the 1980s, CFC emissions have generally fallen to about 5% of their peak, and the Antarctic ozone hole is still on track to recover around 2060. The above increase in CFCs surprised scientists. Lead author of the above study, Dr. Luke Western at the University of Bristol in Older brother together with the US National Oceanic and Atmospheric Administration (NOAA) said that the group of CFC compounds has increased relatively rapidly in the atmosphere since 2010. In an effort to overcome the growing hole in the ozone layer, the Montreal Protocol In 1987, emissions of gases in the form of aerosols (aerosols) that have reduced the Earth's stratospheric "shield" have been banned since 2010. However, CFCs are still used to form other compounds. or as a by-product during the production process. Researchers believe that this is the origin of the three gases mentioned above in CFCs, causing this group of compounds to increase significantly in the atmosphere. Dr. Western said it is likely that the increasing number of these three gases is related to their use in the production of other chemicals, especially hydrofluorocarbons (HFCs). Currently, researchers have not determined the origin of the remaining two gases in this group. HFCs are organic compounds containing fluorine and hydrogen atoms, used mainly in refrigeration and air conditioning. HFC is said to be a substitute for CFC, more "friendly" to the climate and the ozone layer. However, according to Dr. Western, new research shows that using HFCs can also release CFCs. In 2016, the Kigali Amendment under the Montreal Protocol, was ratified by member states to reduce HFCs. Atmospheric scientist Robyn Schofield at the University of Melbourne said the reduction of HFCs was very slow and they were often replaced by hydrofluoroolefins (HFO) – a newer type of refrigerant now widely used in systems. air conditioning, but it also has potential impacts. According to Dr. Schofield, HFO has a very short lifetime in the atmosphere, but that doesn't mean it doesn't cause problems because it washes out of the atmosphere and forms trifluoroacetic acid, which affects drinking water. Professor Ian Rae at the School of Chemistry at the University of Melbourne commented that it is possible that the increase in the three gases in the CFC compound group is due to limited management capacity of industries. According to Professor Rae, the above research may be mentioned at a future Montreal Protocol meeting, after which scientists will ask countries to more thoroughly evaluate related issues. Scientists predict that the overall impact on the ozone hole over Antarctica will be negligible if emissions are maintained at current levels. However, according to Dr. Western, the bigger problem is the ability of CFCs to cause global warming, because this is a strong greenhouse gas, the amount of emissions of these gases in 2020 is equivalent to the total CO2 emissions of Switzerland. Therefore, reducing these emissions will have a major impact on the climate, similar to a small country bringing its net carbon emissions to zero. Meanwhile, Dr. Schofield said there are viable alternatives to using HFCs that do not produce CFCs and have a lower greenhouse effect. For example, CO2 can be used as a refrigerant for water heat exchangers in air conditioning. However, some measures still pose challenges and overall, scrapped equipment remains the world's largest source of CFC emissions.
Cầu vượt sông dài nhất Việt Nam được xây dựng để kết nối trung tâm Thủ đô với các tỉnh phía Tây Bắc. Cụ thể, cầu Vĩnh Thịnh bắc qua sông Hồng, nối liền thị xã Sơn Tây (Hà Nội) với xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Tường ( Vĩnh Phúc ), là cây cầu vượt sông dài nhất Việt Nam với tổng chiều dài 5,4 km (phần cầu 4,4 km và đường dẫn hai đầu một km). Cầu rộng 16 m với bốn làn xe. Được khởi công từ tháng 12/2011 và khánh thành vào tháng 6/2014, cầu Vĩnh Thịnh kết nối hai trục hướng tâm quốc lộ 32 và quốc lộ 2, cao tốc Nội Bài – Lào Cai tạo thành một hệ thống giao thông hoàn chỉnh, kết nối trung tâm Thủ đô với các tỉnh phía Tây Bắc. Đây cũng là cầu kết nối chuỗi các đô thị vệ tinh, các khu công nghệ cao của Thủ đô. Tính đến nay, cầu Vĩnh Thịnh là cầu vượt sông có chiều dài lớn nhất Việt Nam. Cầu được thiết kế vĩnh cửu bằng bê tông cốt thép và bê tông cốt thép dự ứng lực; có chiều dài 5.487m (trong đó cầu dài 4.480m và đường hai đầu cầu dài 1.007m), mặt cầu rộng 16,5m gồm 4 làn xe chạy, tốc độ thiết kế 80km/h; với tổng mức đầu tư là 137 triệu USD. Cầu Vĩnh Thịnh trên Quốc lộ 2C bắc qua sông Hồng là huyết mạch giao thông nằm trên tuyến đường vành đai 5 thuộc Vùng Thủ đô Hà Nội. Đây là tuyến vành đai liên kết các đô thị vệ tinh xung quanh khu vực thành phố Hà Nội, kết nối mạng lưới giao thông từ các tỉnh Tây Bắc như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang với các tỉnh Hòa Bình, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định và ngược lại nên có vai trò hết sức quan trọng giảm tải cho giao thông nội đô Hà Nội và các vùng lân cận. Theo đó, cầu Vĩnh Thịnh có ý nghĩa rất quan trọng bởi cây cầu sẽ kết nối các đô thị vệ tinh, các khu công nghệ cao, các điểm du lịch, góp phần thúc đẩy giao thương hàng hóa giữa các tỉnh Tây Bắc với Thủ đô Hà Nội , các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ và cả nước; qua đó tạo động lực phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và thu hẹp khoảng cách phát triển của khu vực Tây Bắc so với mặt bằng chung của cả nước.
The longest river crossing bridge in Vietnam was built to connect the center of the Capital with the Northwest provinces. Specifically, Vinh Thinh bridge spans the Red River, connecting Son Tay town (Hanoi) with Vinh Thinh commune, Vinh Tuong district ( Vinh Phuc ), is the longest river crossing bridge in Vietnam with a total length of 5.4 km (4.4 km bridge part and 1 km path at both ends). The bridge is 16 m wide with four lanes. Started in December 2011 and inaugurated in June 2014, Vinh Thinh bridge connects two radial axes of National Highway 32 and National Highway 2, Noi Bai - Lao Cai Expressway, creating a complete transportation system. , connecting the center of the Capital with the Northwest provinces. This is also a bridge connecting a chain of satellite towns and high-tech zones of the Capital. Up to now, Vinh Thinh bridge is the longest river crossing bridge in Vietnam. The bridge is designed permanently with reinforced concrete and prestressed reinforced concrete; with a length of 5,487m (of which the bridge is 4,480m long and the road at both ends of the bridge is 1,007m long), the bridge deck is 16.5m wide with 4 lanes, design speed of 80km/h; with a total investment of 137 million USD. Vinh Thinh Bridge on National Highway 2C spanning the Red River is a traffic artery on ring road 5 in the Hanoi Capital Region. This is a belt route linking satellite urban areas around Hanoi city area, connecting the traffic network from Northwest provinces such as Lao Cai, Yen Bai, Ha Giang, Tuyen Quang with Hoa Binh provinces, Ha Nam, Thai Binh, Nam Dinh and vice versa should play a very important role in reducing traffic load in Hanoi inner city and surrounding areas. Accordingly, Vinh Thinh Bridge has a very important meaning because the bridge will connect satellite cities, high-tech parks, and tourist destinations, contributing to promoting trade in goods between the Northwest provinces and the capital. dollar Hanoi , the Northern Delta provinces and the whole country; thereby creating motivation for economic, cultural and social development and narrowing the development gap of the Northwest region compared to the general level of the country.
Ngày 4/4, tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam diễn ra lễ khai mạc Triển lãm gốm Nhật ‘Yakishime – Dáng hình của đất’. Triển lãm do Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam phối hợp cùng Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam thực hiện, hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Nhật Bản (1973- 2023). Đại biểu tham quan triển lãm. Ảnh: Phương Uyên/TTXVN phát. Theo Ban tổ chức, triển lãm gốm Nhật “Yakishime – Dáng hình của đất” trưng bày hơn 80 tác phẩm gốm Nhật Bản, được chia làm 3 phần. Trong đó, phần 1 trưng bày các trà cụ dùng trong trà đạo – nét văn hóa truyền thống quan trọng của Nhật Bản. Phần 2 trưng bày các dụng cụ ăn uống, một phần không thể thiếu trong đời sống thường ngày của người Nhật. Phần 3 là các tác phẩm nghệ thuật đa dạng được các nghệ sỹ gốm chế tác bằng phương pháp Yakishime. Đại diện Ban tổ chức cho biết, triển lãm lần này tập trung vào các sản phẩm gốm được chế tác bằng phương pháp Yakishime, một kỹ thuật làm gốm nung, đồ gốm không tráng men ở nhiệt độ cao. Tuy là một trong những phương pháp sản xuất gốm cơ bản nhất, Yakishime đã phát triển theo những hướng đặc biệt ở Nhật Bản. Triển lãm này giới thiệu một khía cạnh của văn hóa Nhật Bản qua việc nghiên cứu Yakishime từ những hình mẫu sớm nhất cho đến các tác phẩm đương đại. Đồ gốm Yakishime sớm nhất có niên đại từ thế kỷ thứ IV hoặc thứ V. Tuy nhiên, phải đến khoảng thế kỷ XII đến thế kỷ XVII, kỹ thuật này mới có chỗ đứng vững chắc và được sử dụng trong một công đoạn sản xuất quan trọng tại các trung tâm gốm lớn ở Nhật Bản, bao gồm: Bizen, Shigaraki và Tokoname. Triển lãm cũng trưng bày một loạt các sản phẩm gốm phi thực dụng được sáng tạo bởi các nghệ nhân gốm đương đại làm việc với gốm Yakishime. Phát biểu tại lễ khai mạc, Tiến sỹ Nguyễn Anh Minh, Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam nhấn mạnh: Văn hóa Nhật Bản nói chung, văn hóa gốm sứ Nhật Bản nói riêng luôn là chủ đề được quan tâm, thu hút sự chú ý của công chúng tại Việt Nam. Triển lãm gốm Nhật “Yakishime – Dáng hình của đất” với các hiện vật, gồm các sản phẩm gia dụng và tác phẩm nghệ thuật đương đại, sử dụng kỹ thuật làm gốm nung, đồ gốm không tráng men ở nhiệt độ cao đặc biệt của Nhật Bản… chắc chắn sẽ được đông đảo công chúng yêu nghệ thuật đón nhận. Bà Kamitani Naoko, Bí thư thứ Nhất, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam phát biểu. Ảnh: Phương Uyên/TTXVN phát. Ông Doi Katsuma Giám đốc Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam, cho biết: Năm 2023 đánh dấu kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam. Triển lãm lưu động “Yakishime – Dáng hình của đất” là sự kiện quy mô lớn đầu tiên của năm kỷ niệm này của Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam. Ban Tổ chức hy vọng, thông qua việc trải nghiệm những sản phẩm gốm Yakishime phong phú này, công chúng Việt Nam sẽ nhận thức được chiều sâu và sự đa dạng, cũng như hiểu rõ hơn về sự sáng tạo của văn hóa Nhật Bản. Triển lãm “Yakishime – Dáng hình của đất” mở cửa đón khách đến hết ngày 20/4, tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, số 66, phố Nguyễn Thái Học, quận Ba Đình , Hà Nội .
On April 4, at the Vietnam Fine Arts Museum, the opening ceremony of the Japanese ceramic exhibition 'Yakishime - Shape of the land' took place. The exhibition is organized by the Japanese Cultural Exchange Center in Vietnam in collaboration with the Vietnam Museum of Fine Arts, aiming to celebrate the 50th anniversary of establishing diplomatic relations. Vietnam – Japan (1973- 2023). Delegates visit the exhibition. Photo: Phuong Uyen/TTXVN broadcast. According to the Organizing Committee, the Japanese ceramic exhibition "Yakishime - Shape of the Earth" displays more than 80 Japanese ceramic works, divided into 3 parts. Part 1 displays tea tools used in the tea ceremony - an important traditional cultural feature of Japan. Part 2 displays eating utensils, an indispensable part of Japanese people's daily life. Part 3 is a variety of works of art crafted by ceramic artists using the Yakishime method. A representative of the Organizing Committee said that this exhibition focuses on ceramic products made using the Yakishime method, a technique for making ceramics fired and unglazed at high temperatures. Although it is one of the most basic methods of ceramic production, Yakishime has developed in special directions in Japan. This exhibition introduces an aspect of Japanese culture through the study of Yakishime from its earliest models to contemporary works. The earliest Yakishime pottery dates from the 4th or 5th centuries. However, it was not until the 12th to 17th centuries that this technique gained a foothold and was used in a production process. important at major ceramic centers in Japan, including: Bizen, Shigaraki and Tokoname. The exhibition also features a range of non-utilitarian ceramic products created by contemporary ceramic artists working with Yakishime ceramics. Speaking at the opening ceremony, Dr. Nguyen Anh Minh, Director of the Vietnam Museum of Fine Arts emphasized: Japanese culture in general, Japanese ceramic culture in particular is always a topic of interest, attracting attention. public attention in Vietnam. Japanese ceramic exhibition “Yakishime – The Shape of the Earth” with artifacts, including household products and contemporary artworks, using special high-temperature firing techniques, unglazed ceramics of Japan... will definitely be welcomed by a large art-loving public. Ms. Kamitani Naoko, First Secretary, Embassy of Japan in Vietnam spoke. Photo: Phuong Uyen/TTXVN broadcast. Mr. Doi Katsuma, Director of the Japan Cultural Exchange Center in Vietnam, said: 2023 marks the 50th anniversary of establishing diplomatic relations between Japan and Vietnam. The traveling exhibition "Yakishime - Shape of the Land" is the first large-scale event of this anniversary year of the Japan Cultural Exchange Center in Vietnam. The Organizing Committee hopes that, through experiencing these rich Yakishime ceramic products, the Vietnamese public will be aware of the depth and diversity, as well as better understand the creativity of Japanese culture. The exhibition "Yakishime - Shape of the Land" is open to visitors until April 20, at the Vietnam Fine Arts Museum, Không. 66, Nguyen Thai Hoc Street, Ba Dinh district , Hanoi .
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang tham dự Khóa họp lần thứ 52 của Hội đồng Nhân quyền LHQ. Ảnh: TTXVN phát Ngày 4/4 tại trụ sở Văn phòng Liên hợp quốc (LHQ) ở Geneva (Thụy Sĩ), Khóa họp thường kỳ lần thứ 52 của Hội đồng Nhân quyền LHQ (HĐNQ) đã kết thúc, hoàn thành chương trình đề ra từ đầu Khóa họp, với 43 nghị quyết được thông qua, trong đó có Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna do Việt Nam đề xuất, soạn thảo. HĐNQ hoàn thành chương trình Khóa họp 52 với khối lượng công việc nhiều và thời gian họp dài kỷ lục. Khóa họp diễn ra chủ yếu theo hình thức trực tiếp trong hơn 1 tháng – từ ngày 27/2 đến 4/4 – với những nội dung như: phiên họp cấp cao (từ 27/2-2/3); 9 phiên thảo luận chuyên đề (đánh giá 5 năm triển khai Chiến lược của LHQ về thanh niên và phương hướng cho thời gian tới, án tử hình, kỷ niệm 35 năm Tuyên ngôn về quyền phát triển, Quỹ tự nguyện nhằm triển khai các khuyến nghị theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR), quyền trẻ em trong môi trường số); hàng loạt phiên thảo luận, đối thoại với khoảng 45 Thủ tục đặc biệt và các cơ chế nhân quyền của LHQ; các phiên thảo luận, đối thoại về tình hình nhân quyền tại Afghanistan, Myanmar, Triều Tiên, Syria, Ethiopia, Venezuela… Tại Khóa họp, HĐNQ cũng đã xem xét, thảo luận hơn khoảng 80 báo cáo; tham vấn, xem xét thông qua 43 dự thảo nghị quyết chuyên đề; thông qua các báo cáo UPR của 14 quốc gia; và thông qua quyết định bổ nhiệm 10 nhân sự cho các Thủ tục đặc biệt. Đoàn Việt Nam do Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang dẫn đầu đã tham dự Khóa họp 52 HĐNQ trên cương vị thành viên HĐNQ nhiệm kỳ 2023-2025. Bên cạnh việc nêu bật các thành tựu của Việt Nam trong phát triển đất nước và bảo đảm quyền con người, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã đưa ra sáng kiến kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna bằng một văn kiện của HĐNQ. Triển khai sáng kiến này, Việt Nam đã nỗ lực xây dựng Nhóm nòng cốt với thành phần đa dạng đại diện cho tất cả các khu vực trên thế giới, đồng thời đẩy mạnh thương lượng, đàm phán liên quan đến dự thảo Nghị quyết về kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna. Ngày 3/4, Nghị quyết đã được HĐNQ thông qua theo hình thức đồng thuận, với 102 quốc gia (tính đến cuối giờ chiều 4/4/2023, giờ Geneva) tham gia đồng bảo trợ, trong đó có 14 nước đồng tác giả (gồm Việt Nam , Áo , Bangladesh , Bỉ , Bolivia , Brazil , Chile , Costa Rica , Fiji , Ấn Độ , Panama , Rumani , Nam Phi và Tây Ban Nha ). Kết quả này cho thấy các nước ghi nhận, đánh giá cao nỗ lực và thiện chí của Việt Nam trong thương lượng, đồng thời chứng tỏ nội dung Nghị quyết cân bằng, kịp thời đáp ứng sự quan tâm và ưu tiên chung của tất cả các nhóm nước về lễ kỷ niệm, cũng như đề cao tầm quan trọng của Tuyên ngôn và Tuyên bố nêu trên. Bên cạnh đó, đoàn Việt Nam còn tích cực phát biểu tại nhiều phiên họp, thảo luận về đảm bảo các quyền cụ thể như quyền nhà ở; quyền lương thực; quyền văn hóa; quyền phát triển; quyền trẻ em; quyền tiếp cận công bằng, bình đẳng, kịp thời, với giá cả hợp lý đối với vaccine ngừa COVID-19… Trong các phát biểu, Đoàn Việt Nam đề cao chủ trương nhất quán, nỗ lực và thành tựu trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; khẳng định Việt Nam cam kết phát triển bền vững vì lợi ích của nhân dân; nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết tình trạng bất bình đẳng, bảo vệ những người dễ bị tổn thương; kêu gọi giải quyết các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu; khẳng định cam kết của Việt Nam tăng cường hợp tác một cách xây dựng với các quốc gia, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ, HĐNQ và các cơ chế của HĐNQ nhằm thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền cho tất cả mọi người trên cơ sở tôn trọng Hiến chương LHQ, các điều ước quốc tế về quyền con người, bảo đảm chủ quyền quốc gia và các nguyên tắc khách quan, công bằng, đối thoại xây dựng và hợp tác. Cùng với các nước ASEAN, Đoàn Việt Nam đã có một số phát biểu chung về những chủ đề được các nước ASEAN cùng quan tâm, chia sẻ như quyền phát triển, hợp tác kỹ thuật và xây dựng năng lực về quyền con người, UPR. Liên quan đến chủ đề biến đổi khí hậu và quyền con người thuộc ưu tiên của nước ta và các quốc gia khác, Việt Nam cùng Bangladesh và Philippines – thuộc Nhóm nòng cốt về biến đổi khí hậu và quyền con người tại HĐNQ trong nhiều năm qua – đã soạn thảo và đưa ra Phát biểu chung về biến đổi khí hậu và quyền con người tại Khóa họp lần này, thu hút đông đảo các nước tham gia đồng bảo trợ. Ngoài ra, đoàn Việt Nam đã tích cực tiếp xúc, trao đổi, tham vấn với những đoàn đại biểu của các nước khác, đồng bảo trợ một số sáng kiến trên tinh thần đối thoại và hợp tác; thực hiện nhiệm vụ của thành viên HĐNQ trong tiến trình tham vấn, bỏ phiếu thông qua 43 dự thảo Nghị quyết của HĐNQ. Sự tham gia tích cực của đoàn Việt Nam tại Khóa họp 52 của HĐNQ thể hiện nỗ lực và trách nhiệm của Việt Nam với tư cách là thành viên của HĐNQ nhiệm kỳ 2023-2025; đồng thời truyển tải thông điệp mạnh mẽ về quan điểm, chính sách nhất quán, thành tựu của Việt Nam và quan điểm, thành tựu chung của ASEAN trong công tác thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người; qua đó góp phần cùng các nước đảm bảo hoạt động của HĐNQ phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ, các công ước quốc tế về quyền con người.
Deputy Prime Minister Tran Luu Quang attended the 52nd Session of the UN Human Rights Council. Photo: Broadcast by VNA On April 4, at the headquarters of the United Nations Office in Geneva (Switzerland), the 52nd regular session of the UN Human Rights Council (HDNQ) ended, completing the program set out at the beginning. The meeting, with 43 resolutions passed, including the Resolution commemorating the 75th anniversary of the Universal Declaration of Human Rights and the 30th anniversary of the Vienna Declaration and Program of Action proposed and drafted by Vietnam. The Council completed the 52nd Session program with a lot of work and a record-long meeting time. The meeting took place mainly in a face-to-face format for more than 1 month - from February 27 to April 4 - with contents such as: high-level meeting (from February 27 to March 2); 9 thematic discussion sessions (evaluation of 5 years of implementation of the UN Strategy on Youth and directions for the future, death penalty, 35th anniversary of the Declaration of the Right to Development, Voluntary Fund to implement the recommendations under the Universal Periodic Review (UPR), children's rights in the digital environment); a series of discussion sessions and dialogues with about 45 UN Special Procedures and human rights mechanisms; discussion sessions and dialogues on the human rights situation in Afghanistan, Myanmar, North Korea, Syria, Ethiopia, Venezuela... At the Session, the Council also reviewed and discussed more than about 80 reports; Consult and consider approving 43 draft thematic resolutions; through UPR reports of 14 countries; and approved the decision to appoint 10 personnel for Special Procedures. The Vietnamese delegation led by Deputy Prime Minister Tran Luu Quang attended the 52nd Session of the National Council as a member of the National Council for the 2023-2025 term. In addition to highlighting Vietnam's achievements in national development and ensuring human rights, Deputy Prime Minister Tran Luu Quang launched an initiative to celebrate the 75th anniversary of the Universal Declaration of Human Rights and the 30th anniversary of the Declaration of Human Rights. and the Vienna Action Program in a document of the Council of Nations. Implementing this initiative, Vietnam has made efforts to build a Core Group with diverse members representing all regions of the world, and at the same time promote negotiations and negotiations related to the draft Resolution on commemorating the 75th anniversary of the Universal Declaration of Human Rights and the 30th anniversary of the Vienna Declaration and Program of Action. On April 3, the Resolution was approved by the Council of Nations by consensus, with 102 countries (as of late afternoon April 4, 2023, Geneva time) participating in co-sponsorship, including 14 co-partnering countries. fake (incl Vietnam , Shirt , Bangladesh , Belgium , Bolivia , Brazil , Chile , Costa Rica , Fiji , India , Panama , Romania , South Africa and Spain ). This result shows that countries recognize and appreciate Vietnam's efforts and goodwill in negotiations, and also proves that the Resolution content is balanced and timely to meet the common concerns and priorities of all. country groups about the anniversary, as well as upholding the importance of the Declaration and Declaration mentioned above. In addition, the Vietnamese delegation also actively spoke at many meetings, discussing ensuring specific rights such as housing rights; food rights; cultural rights; right to development; children's rights; The right to fair, equitable, timely, and reasonably priced access to COVID-19 vaccines... In its speeches, the Vietnamese Delegation highlighted consistent policies, efforts and achievements in promoting and protecting human rights; affirming Vietnam's commitment to sustainable development for the benefit of the people; emphasizes the need to address inequality and protect the vulnerable; calls for addressing global challenges such as climate change; Affirming Vietnam's commitment to strengthen constructive cooperation with countries, the Office of the UN High Commissioner for Human Rights, the UN Security Council and its mechanisms to promote and protect human rights for all on the basis of human rights. respecting the UN Charter, international treaties on human rights, ensuring national sovereignty and principles of objectivity, fairness, constructive dialogue and cooperation. Together with ASEAN countries, the Vietnamese Delegation made a number of joint statements on topics of common concern and sharing among ASEAN countries such as the right to development, technical cooperation and capacity building on human rights, UPR. . Regarding the topic of climate change and human rights, which is a priority for our country and other countries, Vietnam, along with Bangladesh and the Philippines, have been part of the Core Group on climate change and human rights at the Council for many years. - drafted and issued a Joint Statement on climate change and human rights at this Session, attracting a large number of co-sponsoring countries. In addition, the Vietnamese delegation has actively contacted, exchanged and consulted with delegations from other countries, co-sponsored a number of initiatives in the spirit of dialogue and cooperation; Carry out the duties of members of the Council of People's Committee in the process of consultation and voting to approve 43 draft Resolutions of the Council of Nationalities. The active participation of the Vietnamese delegation at the 52nd Session of the Council of Nations demonstrates Vietnam's efforts and responsibility as a member of the Council of Nations for the 2023-2025 term; At the same time, convey a strong message about Vietnam's consistent views, policies, and achievements and ASEAN's common views and achievements in promoting and protecting human rights; Thereby contributing to other countries ensuring that the Council's activities are consistent with the basic principles of the UN Charter and international conventions on human rights.
Đọc ”Truyện buồn chẳng có thật đâu (thật đấy)” độc giả Việt sẽ được hiểu và làm bạn với những nền văn hóa khác, biết cách chữa lành các mối quan hệ trong đời sống. Truyện buồn chẳng có thật đâu (thật đấy) là cuốn sách kể về hành trình đến Mỹ của của cậu bé nhập cư Daniel 12 tuổi. Một cuốn tiểu thuyết mang màu sắc tự truyện của tác giả Daniel Nayeri. Cuốn sách được Nguyễn Thảo Nhi dịch và nhà xuất bản Kim Đồng phát hành. Daniel là người tị nạn gốc Iran sống tại Mỹ . Cậu hoàn toàn cô độc, bị bạn bè trêu chọc, bắt nạt, với họ “dân Iran đều là những người dối trá”. Mỗi đêm, cậu đều cố thức đến khi mắt nhức đỏ để có thể ngủ qua giờ chuông báo thức buổi sáng hôm sau. Cậu làm vậy chỉ để không phải lên chuyến xe buýt đến trường đầy trò bạo lực của đám học trò. Cậu không có đồ ăn nên vào giờ ăn trưa bèn lẩn vào thư viện, đi bộ la cà một mình sau khi tan học. Daniel chỉ có duy nhất một người bạn học khác lớp. Thi thoảng, bố cậu gọi điện thoại cho cậu từ Iran. Bằng tiếng Farsi, ông kể những truyền thuyết của người Ba Tư, về dòng dõi hoàng tộc của gia đình và gọi cậu là Khosrou theo tên một vị vua vĩ đại. Chị gái cậu làm mọi cách để giống một người Mỹ bình thường, nói tiếng Anh như mọi người, học Toán thật giỏi và mơ ước vào Harvard. Mẹ cậu, một bác sĩ giờ chỉ được làm lao công trong bệnh viện, một phụ nữ đạo Hồi đã cải đạo thành một tín đồ Cơ đốc. Mẹ đi bước nữa, như chị cậu nói, chỉ vì muốn cậu có một hình mẫu đàn ông. Dượng dạy cậu cách thực hiện các cú đá nhưng nói chuyện với mẹ cậu bằng nắm đấm. Và rồi cô giáo Miller giao cho Daniel bài tập đứng lên trước lớp kể về bản thân và gia đình. Daniel đong đếm từng mẩu vụn ký ức mà cậu giữ được khi là cậu bé Khosrou sống tại Isfaran (Iran) đến lúc trở thành dân tị nạn từ Du-bai qua Ý rồi đặt chân đến Oklahoma (Mỹ). Những ký ức của Daniel được kể ngẫu nhiên lộn xộn không theo thời gian, giống như cách nàng Scheherazade kể chuyện Ngàn lẻ một đêm vừa đẹp đẽ vừa bi thương. Dũng cảm đối diện và đối thoại với cậu bé Khosrou, Daniel lần tìm về với những giá trị cốt lõi của mỗi cá nhân, làm hòa với chính mình. Truyện buồn chẳng có thật đâu (thật đấy) là một tác phẩm văn học về bi kịch của con người giữa xã hội hiện đại, kiên cường tìm về và khẳng định giá trị cơ bản của gia đình, quê hương, văn hóa, ngôn ngữ. Bên cạnh đó, cuốn sách mở ra cánh cửa bước vào thế giới văn hóa Ba Tư, đạo Hồi, vùng Trung Đông bí ẩn và giàu màu sắc. Được nói ra, được lắng nghe là phép chữa lành cho mỗi người và cho các mối quan hệ. Daniel khẳng định: “Nếu bạn lắng nghe, tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện. Chúng ta sẽ biết nhau, hiểu nhau và rồi không còn là kẻ thù nữa”. Đọc Truyện buồn chẳng có thật đâu (thật đấy), độc giả sẽ được làm bạn với những nền văn hóa khác, không kém phần thú vị.
Reading "Sad stories are not real (really)" Vietnamese readers will understand and make friends with other cultures, and know how to heal relationships in life. Sad stories aren't real (really) is a book about the journey to America of 12-year-old immigrant boy Daniel. An autobiographical novel by author Daniel Nayeri. The book was translated by Nguyen Thao Nhi and published by Kim Dong publishing house. Daniel is a refugee of origin Iran live at America . He was completely alone, teased and bullied by his friends, to whom "Iranians are all liars". Every night, he tries to stay awake until his eyes are red so he can sleep past the alarm the next morning. He did this just so he wouldn't have to get on the bus to school full of violent games from the students. He didn't have any food, so at lunchtime he snuck into the library and walked around alone after school. Daniel only has one friend in a different class. Occasionally, his father calls him from Iran. In Farsi, he told Persian legends about the family's royal lineage and called him Khosrou after a great king. His sister did everything she could to be like a normal American, speak English like everyone else, study Math very well and dream of going to Harvard. His mother, a doctor who can now only work as a janitor in the hospital, is a Muslim woman who converted to a Christian. Mom moved on, like his sister said, just because she wanted him to have a male role model. His uncle taught him how to do kicks but spoke to his mother with his fists. And then teacher Miller gave Daniel the assignment to stand up in front of the class and tell about himself and his family. Daniel counted every scrap of memory he kept from being a boy named Khosrou living in Isfaran (Iran) to becoming a refugee from Dubai to Italy and then arriving in Oklahoma (USA). Daniel's memories are told randomly and without time, like the way Scheherazade tells a story A thousand and one nights both beautiful and tragic. Bravely facing and conversing with the boy Khosrou, Daniel finds his way back to the core values ​​of each individual, making peace with himself. Sad stories aren't real (really) is a literary work about human tragedy in modern society, resiliently finding and affirming the basic values ​​of family, homeland, culture, and language. Besides, the book opens the door to the mysterious and colorful world of Persian, Islamic, and Middle Eastern culture. Being spoken out and listened to is healing for each person and for relationships. “If you listen, I will tell you a story,” Daniel asserted. We will know each other, understand each other and then no longer be enemies." Read Sad stories are not real (really), Readers will be able to make friends with other, equally interesting cultures.
Cả triều đình chúa Nguyễn và nhân dân xứ Đàng Trong đều coi Nguyễn Hữu Tiến là một tài năng quân sự xuất chúng, công lao rất lớn trong việc giúp giữ đất để mở đất. Nguyễn Hữu Tiến hiệu là Thuận Nghĩa. Vì thế, khi phong tước, ông được phong là Thuận Nghĩa Hầu, gọi tắt thành (hầu tước) Thuận. Chữ “Thuận” này và chữ “Chiêu” (trong tước hiệu Chiêu Vũ Hầu của danh tướng Nguyễn Hữu Dật ở thế kỷ XVII) được nhắc đến trong bài thơ Hán ngữ cổ (dịch): “Trước hết lòng người “thuận”/ Sau ban đức hóa “chiêu”/ Cành lá dù rơi rụng/ Gốc rễ khó mà xiêu” ca ngợi 2 võ tướng – đại công thần đắc lực giúp các chúa Nguyễn giữ đất trong sự nghiệp Nam tiến – mở đất xứ Đàng Trong. Nguyễn Hữu Tiến là người làng Văn Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hoa (tức tỉnh Thanh Hóa bây giờ). Ông sinh năm Nhâm Dần (1602), kém Đào Duy Từ – khai quốc công thần nhà Nguyễn – 30 tuổi. Là đồng hương xứ Thanh, con đường đến với các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong của Nguyễn Hữu Tiến cũng phần nào giống Đào Duy Từ. Trước tiên là việc chuyển cư từ Thanh Hóa vào Bình Định . Ta chưa biết được lý do và động cơ của cuộc di cư này nhưng đã rõ địa danh Bồng Sơn chính là nơi Nguyễn Hữu Tiến từ xứ Đàng Ngoài tìm đến ở. Bấy giờ là năm 1631 – đúng vào năm mà Đào Duy Từ đã có vị thế đặc biệt cao ở triều đình chúa Nguyễn Phúc Nguyên và hoàn thành công việc đắp dựng tòa Lũy Thầy nổi tiếng, Nguyễn Hữu Tiến, lúc này ở tuổi 29, đã tìm đến ra mắt họ Đào. Gặp Nguyễn Hữu Tiến, Nội tán Đào Duy Từ biết đây là người đồng hương có chí lớn. Sau vài cuộc thử thách, họ Đào mừng rỡ thu nạp ngay Nguyễn Hữu Tiến dưới trướng, lại gả con gái rồi tiến cử với chúa Nguyễn. Đúng lúc ấy, chúa Nguyễn Phúc Nguyên vừa bắt đầu cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, giao chiến dữ dội lần thứ nhất – mở màn cho tất cả 7 lần chiến tranh – với chúa Trịnh Tráng từ xứ Đàng Ngoài vào tấn công. Vì vậy, chúa Nguyễn rất cần các võ quan, tướng lĩnh dưới cờ, để giữ đất mà mở đất. Do đó, Nguyễn Hữu Tiến được cử ngay làm đội trưởng, đứng đầu một “thuyền” (đơn vị thủy quân) có phiên hiệu là “Nội thủy dịch cần”. Liên tiếp sau đó, vừa tham chiến vừa thăng tiến, Nguyễn Hữu Tiến lần lượt trải qua các chức: Cai đội, chưởng cơ, rồi cuối cùng là chưởng dinh – tiết chế, trong quân ngũ xứ Đàng Trong. Lũy Thầy ở TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình ngày nay, với 3 lũy chính. Trong đó, lũy Trấn Ninh (Động Hải) từng được xây cao 6 m, dài 12 km. (Ảnh: HOÀNG PHÚC). Những chức vụ chỉ huy từ thấp đến cao rồi cao nhất mà Nguyễn Hữu Tiến có được là do ông đã tham gia hầu như tất cả các cuộc chiến tranh với xứ Đàng Ngoài. Sách “Đại Nam thực lục Tiền biên” chép: Ngay từ lần chiến tranh thứ hai, vào năm 1633, khi chúa Trịnh Tráng dẫn đại quân vào đánh cửa Nhật Lệ, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cử Nguyễn Mỹ Thắng làm đại tướng, Nguyễn Hữu Dật làm đốc chiến, còn Nguyễn Hữu Tiến thì chuyên trách việc đắp lũy thềm Trường Sa (tức Động Cát) để bảo vệ công trình Lũy Thầy mà cự lại. Một tuần sau ngày khởi chiến, quân xứ Đàng Trong chủ động phản công, xông từ các lũy ra đánh khiến quân xứ Đàng Ngoài chết quá nửa, phải rút chạy về. Ở lần chiến tranh thứ tư, vào năm 1648, khi chúa Trịnh Tráng sai các tướng quân thủy bộ vào đánh, chúa Nguyễn bấy giờ là Nguyễn Phúc Lan cử thế tử Nguyễn Phúc Tần ra chỉ huy kháng cự. Nguyễn Hữu Tiến được giao nhiệm vụ tiên phong, dẫn đạo tượng binh gồm 100 thớt voi xung trận. Trong đêm tối, Nguyễn Hữu Tiến đã dũng mãnh dùng voi – có Nguyễn Phúc Tần đem bộ binh theo sau yểm hộ – xông thẳng vào dinh quân Trịnh. Giáp chiến ác liệt một hồi, cuối cùng quân Trịnh đại bại, phải rút về Bắc. Bên quân Nguyễn, ngoài việc giết tại trận vô số quân Trịnh còn bắt sống được cả tướng lẫn quân là 3 vạn người xứ Đàng Ngoài. Sử nhà Nguyễn về sau gọi đây là “võ công đệ nhất” trong cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh. Bảy năm sau trận thắng ở cuộc chiến tranh lần thứ tư – năm 1648, sự nghiệp cầm quân đánh trận của Nguyễn Hữu Tiến lên đến đỉnh cao nhất. Ông được thế tử Nguyễn Phúc Tần – lúc này đã lên ngôi Chúa Hiền (Hiền Vương) – cử làm Tiết chế, tổng chỉ huy cuộc chiến tranh lần thứ năm, trong chiến cuộc 7 lần của 45 năm Trịnh – Nguyễn phân tranh. Lần chiến tranh thứ năm có hai đặc điểm: Kéo rất dài về mặt thời gian, đến tận 5 năm (1655 – 1660); là lần duy nhất quân chúa Nguyễn chủ động vượt sông Gianh đánh xứ Đàng Ngoài, ra đến tận vùng sông Lam. Mở đầu cuộc chiến tranh lần này, Nguyễn Hữu Tiến – có Nguyễn Hữu Dật theo giúp, làm đốc chiến – tung quân qua sông Nhật Lệ, tiến đến tận Đèo Ngang đánh chiếm gọn đất Bắc Bố Chính (Bắc Quảng Bình ngày nay). Mất vùng đất vẫn được dùng làm bàn đạp tấn công xứ Đàng Trong ở các lần chiến tranh trước, quân Trịnh lui về giữ Đèo Ngang, chặn đường đánh tiếp ra xứ Nghệ của quân Nguyễn. Nguyễn Hữu Tiến nhân đà thắng lợi đã đưa ngay quân phá phòng tuyến Đèo Ngang của quân Trịnh, tiến ra mạn Bắc Hoành Sơn đánh tiếp. Trong 2 năm 1657 – 1658, đều vào tháng 9 âm lịch, thời tiết lụt lội vì mưa nhiều, nhờ Nguyễn Hữu Dật giỏi xem thiên văn, địa lý nên Nguyễn Hữu Tiến đã khai thác thời cơ (thời tiết), đánh đuổi quân Trịnh ra đến tận sông Lam. Quân Nguyễn đã chiếm được đến 7 huyện Nam sông Lam (gồm: Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, Thanh Chương) của xứ Đàng Ngoài. Mất nhiều đất, kể cả dân cùng quân và tướng nữa, các chúa Trịnh dốc sức tìm mọi cách đánh lại. Lúc này, từ năm 1657, chúa Trịnh Tráng đã mất, con là Trịnh Tạc lên thay ngôi chúa. Trịnh Tạc cử thế tử là Trịnh Căn làm thống lĩnh, cùng với nhiều tướng giỏi như Lê Thì Hiến, Lê Sỹ Triệt, Đào Quang Nhiêu… đem đại binh vào lấy lại miền Nam xứ Nghệ (nay là Hà Tĩnh). Tướng lĩnh và quân đội Trịnh – Nguyễn còn quần thảo, đánh nhau dữ dội nhiều trận trong các năm 1658 và 1659 trên miền đất Nam sông Lam – Bắc Đèo Ngang hoang tàn. Đến năm 1660, vì thấy quân Trịnh quá mạnh và quyết chí lấy lại đất đã mất, Nguyễn Hữu Tiến đã chủ động xin Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần – lúc này đưa quân ra đóng ở Phù Lộ (Bắc Bố Chính – Bắc Quảng Bình) để yểm trợ – cho rút quân về. Tháng 10 năm Canh Tý (1660), sau trận đánh làm chết nhiều người ở Hoành Sơn (Đèo Ngang) giữa quân Nguyễn rút chạy và quân Trịnh đuổi theo, Nguyễn Hữu Tiến – cùng Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, đốc chiến Nguyễn Hữu Dật… – đưa được lực lượng còn lại về đến Nhật Lệ, yên vị như tình hình trước đó 5 năm. Có một chút tị hiềm giữa Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật – 2 danh tướng, đại công thần xứ Đàng Trong thời Nam tiến – mở đất. Trong cuộc rút quân cuối lần chiến tranh thứ năm (năm 1660), Nguyễn Hữu Tiến không những không cho biết kế hoạch lui binh mà còn một mình rút chạy, bỏ mặc Nguyễn Hữu Dật ở lại trận tiền. Nếu không nhanh trí, dùng mưu lừa địch mà đưa quân theo về, Nguyễn Hữu Dật đã bị bắt. Cho nên, đến lần chiến tranh thứ sáu (năm 1661 – 1662), quyền Tiết chế cầm quân chống lại lực lượng từ xứ Đàng Ngoài của chúa Trịnh Căn vào tấn công đã thuộc về Nguyễn Hữu Dật. Nguyễn Hữu Tiến chỉ được giao chỉ huy phòng ngự ở cửa Nhật Lệ mà thôi. Đến tháng 6 năm Giáp Thìn (1664), Nguyễn Hữu Tiến bắt đầu lâm bệnh nặng. Vào tháng 7 năm Bính Ngọ (1666), ông qua đời ở nơi đóng quân. Cả triều đình chúa Nguyễn và nhân dân xứ Đàng Trong đều coi Nguyễn Hữu Tiến là một tài năng quân sự xuất chúng, công lao rất lớn trong sự nghiệp giúp chúa Nguyễn giữ đất để mở đất xứ Đàng Trong. Cụ thể, trong lần chiến tranh thứ tư (năm 1648) và thứ năm (1655 – 1660), 3 vạn chiến tù quân Trịnh mà ông bắt được, kể cả tổ tiên của anh em nhà Tây Sơn mà ông đưa về từ xứ Nghệ, đều được chuyển hóa thành lực lượng lao động mở đất rất hữu ích ở các vùng từ Thuận Quảng vào tận Bình Định. Vì thế, ngay sau khi vừa mất, Nguyễn Hữu Tiến đã được triều đình truy tặng tước Quận công, giữ nguyên chức Tiết chế, gọi là Tiết chế Thuận Quận công. Đến đời trị vì của vua Gia Long, Nguyễn Hữu Tiến được xem là một Khai quốc công thần, được thờ phụng ở Thái Miếu. Vào thời Minh Mạng, ông còn được truy tặng tước Anh Quốc Công và được thờ ở Võ Miếu.
Cả triều đình chúa Nguyễn và nhân dân xứ Đàng Trong đều coi Nguyễn Hữu Tiến là một tài năng quân sự xuất chúng, công lao rất lớn trong việc giúp giữ đất để mở đất. Nguyễn Hữu Tiến hiệu là Thuận Nghĩa. Vì thế, khi phong tước, ông được phong là Thuận Nghĩa Hầu, gọi tắt thành (hầu tước) Thuận. Chữ “Thuận” này và chữ “Chiêu” (trong tước hiệu Chiêu Vũ Hầu của danh tướng Nguyễn Hữu Dật ở thế kỷ XVII) được nhắc đến trong bài thơ Hán ngữ cổ (dịch): “Trước hết lòng người “thuận”/ Sau ban đức hóa “chiêu”/ Cành lá dù rơi rụng/ Gốc rễ khó mà xiêu” ca ngợi 2 võ tướng – đại công thần đắc lực giúp các chúa Nguyễn giữ đất trong sự nghiệp Nam tiến – mở đất xứ Đàng Trong. Nguyễn Hữu Tiến là người làng Văn Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hoa (tức tỉnh Thanh Hóa bây giờ). Ông sinh năm Nhâm Dần (1602), kém Đào Duy Từ – khai quốc công thần nhà Nguyễn – 30 tuổi. Là đồng hương xứ Thanh, con đường đến với các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong của Nguyễn Hữu Tiến cũng phần nào giống Đào Duy Từ. Trước tiên là việc chuyển cư từ Thanh Hóa vào Bình Định . Ta chưa biết được lý do và động cơ của cuộc di cư này nhưng đã rõ địa danh Bồng Sơn chính là nơi Nguyễn Hữu Tiến từ xứ Đàng Ngoài tìm đến ở. Bấy giờ là năm 1631 – đúng vào năm mà Đào Duy Từ đã có vị thế đặc biệt cao ở triều đình chúa Nguyễn Phúc Nguyên và hoàn thành công việc đắp dựng tòa Lũy Thầy nổi tiếng, Nguyễn Hữu Tiến, lúc này ở tuổi 29, đã tìm đến ra mắt họ Đào. Gặp Nguyễn Hữu Tiến, Nội tán Đào Duy Từ biết đây là người đồng hương có chí lớn. Sau vài cuộc thử thách, họ Đào mừng rỡ thu nạp ngay Nguyễn Hữu Tiến dưới trướng, lại gả con gái rồi tiến cử với chúa Nguyễn. Đúng lúc ấy, chúa Nguyễn Phúc Nguyên vừa bắt đầu cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, giao chiến dữ dội lần thứ nhất – mở màn cho tất cả 7 lần chiến tranh – với chúa Trịnh Tráng từ xứ Đàng Ngoài vào tấn công. Vì vậy, chúa Nguyễn rất cần các võ quan, tướng lĩnh dưới cờ, để giữ đất mà mở đất. Do đó, Nguyễn Hữu Tiến được cử ngay làm đội trưởng, đứng đầu một “thuyền” (đơn vị thủy quân) có phiên hiệu là “Nội thủy dịch cần”. Liên tiếp sau đó, vừa tham chiến vừa thăng tiến, Nguyễn Hữu Tiến lần lượt trải qua các chức: Cai đội, chưởng cơ, rồi cuối cùng là chưởng dinh – tiết chế, trong quân ngũ xứ Đàng Trong. Lũy Thầy ở TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình ngày nay, với 3 lũy chính. Trong đó, lũy Trấn Ninh (Động Hải) từng được xây cao 6 m, dài 12 km. (Ảnh: HOÀNG PHÚC). Những chức vụ chỉ huy từ thấp đến cao rồi cao nhất mà Nguyễn Hữu Tiến có được là do ông đã tham gia hầu như tất cả các cuộc chiến tranh với xứ Đàng Ngoài. Sách “Đại Nam thực lục Tiền biên” chép: Ngay từ lần chiến tranh thứ hai, vào năm 1633, khi chúa Trịnh Tráng dẫn đại quân vào đánh cửa Nhật Lệ, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cử Nguyễn Mỹ Thắng làm đại tướng, Nguyễn Hữu Dật làm đốc chiến, còn Nguyễn Hữu Tiến thì chuyên trách việc đắp lũy thềm Trường Sa (tức Động Cát) để bảo vệ công trình Lũy Thầy mà cự lại. Một tuần sau ngày khởi chiến, quân xứ Đàng Trong chủ động phản công, xông từ các lũy ra đánh khiến quân xứ Đàng Ngoài chết quá nửa, phải rút chạy về. Ở lần chiến tranh thứ tư, vào năm 1648, khi chúa Trịnh Tráng sai các tướng quân thủy bộ vào đánh, chúa Nguyễn bấy giờ là Nguyễn Phúc Lan cử thế tử Nguyễn Phúc Tần ra chỉ huy kháng cự. Nguyễn Hữu Tiến được giao nhiệm vụ tiên phong, dẫn đạo tượng binh gồm 100 thớt voi xung trận. Trong đêm tối, Nguyễn Hữu Tiến đã dũng mãnh dùng voi – có Nguyễn Phúc Tần đem bộ binh theo sau yểm hộ – xông thẳng vào dinh quân Trịnh. Giáp chiến ác liệt một hồi, cuối cùng quân Trịnh đại bại, phải rút về Bắc. Bên quân Nguyễn, ngoài việc giết tại trận vô số quân Trịnh còn bắt sống được cả tướng lẫn quân là 3 vạn người xứ Đàng Ngoài. Sử nhà Nguyễn về sau gọi đây là “võ công đệ nhất” trong cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh. Bảy năm sau trận thắng ở cuộc chiến tranh lần thứ tư – năm 1648, sự nghiệp cầm quân đánh trận của Nguyễn Hữu Tiến lên đến đỉnh cao nhất. Ông được thế tử Nguyễn Phúc Tần – lúc này đã lên ngôi Chúa Hiền (Hiền Vương) – cử làm Tiết chế, tổng chỉ huy cuộc chiến tranh lần thứ năm, trong chiến cuộc 7 lần của 45 năm Trịnh – Nguyễn phân tranh. Lần chiến tranh thứ năm có hai đặc điểm: Kéo rất dài về mặt thời gian, đến tận 5 năm (1655 – 1660); là lần duy nhất quân chúa Nguyễn chủ động vượt sông Gianh đánh xứ Đàng Ngoài, ra đến tận vùng sông Lam. Mở đầu cuộc chiến tranh lần này, Nguyễn Hữu Tiến – có Nguyễn Hữu Dật theo giúp, làm đốc chiến – tung quân qua sông Nhật Lệ, tiến đến tận Đèo Ngang đánh chiếm gọn đất Bắc Bố Chính (Bắc Quảng Bình ngày nay). Mất vùng đất vẫn được dùng làm bàn đạp tấn công xứ Đàng Trong ở các lần chiến tranh trước, quân Trịnh lui về giữ Đèo Ngang, chặn đường đánh tiếp ra xứ Nghệ của quân Nguyễn. Nguyễn Hữu Tiến nhân đà thắng lợi đã đưa ngay quân phá phòng tuyến Đèo Ngang của quân Trịnh, tiến ra mạn Bắc Hoành Sơn đánh tiếp. Trong 2 năm 1657 – 1658, đều vào tháng 9 âm lịch, thời tiết lụt lội vì mưa nhiều, nhờ Nguyễn Hữu Dật giỏi xem thiên văn, địa lý nên Nguyễn Hữu Tiến đã khai thác thời cơ (thời tiết), đánh đuổi quân Trịnh ra đến tận sông Lam. Quân Nguyễn đã chiếm được đến 7 huyện Nam sông Lam (gồm: Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, Thanh Chương) của xứ Đàng Ngoài. Mất nhiều đất, kể cả dân cùng quân và tướng nữa, các chúa Trịnh dốc sức tìm mọi cách đánh lại. Lúc này, từ năm 1657, chúa Trịnh Tráng đã mất, con là Trịnh Tạc lên thay ngôi chúa. Trịnh Tạc cử thế tử là Trịnh Căn làm thống lĩnh, cùng với nhiều tướng giỏi như Lê Thì Hiến, Lê Sỹ Triệt, Đào Quang Nhiêu… đem đại binh vào lấy lại miền Nam xứ Nghệ (nay là Hà Tĩnh). Tướng lĩnh và quân đội Trịnh – Nguyễn còn quần thảo, đánh nhau dữ dội nhiều trận trong các năm 1658 và 1659 trên miền đất Nam sông Lam – Bắc Đèo Ngang hoang tàn. Đến năm 1660, vì thấy quân Trịnh quá mạnh và quyết chí lấy lại đất đã mất, Nguyễn Hữu Tiến đã chủ động xin Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần – lúc này đưa quân ra đóng ở Phù Lộ (Bắc Bố Chính – Bắc Quảng Bình) để yểm trợ – cho rút quân về. Tháng 10 năm Canh Tý (1660), sau trận đánh làm chết nhiều người ở Hoành Sơn (Đèo Ngang) giữa quân Nguyễn rút chạy và quân Trịnh đuổi theo, Nguyễn Hữu Tiến – cùng Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, đốc chiến Nguyễn Hữu Dật… – đưa được lực lượng còn lại về đến Nhật Lệ, yên vị như tình hình trước đó 5 năm. Có một chút tị hiềm giữa Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật – 2 danh tướng, đại công thần xứ Đàng Trong thời Nam tiến – mở đất. Trong cuộc rút quân cuối lần chiến tranh thứ năm (năm 1660), Nguyễn Hữu Tiến không những không cho biết kế hoạch lui binh mà còn một mình rút chạy, bỏ mặc Nguyễn Hữu Dật ở lại trận tiền. Nếu không nhanh trí, dùng mưu lừa địch mà đưa quân theo về, Nguyễn Hữu Dật đã bị bắt. Cho nên, đến lần chiến tranh thứ sáu (năm 1661 – 1662), quyền Tiết chế cầm quân chống lại lực lượng từ xứ Đàng Ngoài của chúa Trịnh Căn vào tấn công đã thuộc về Nguyễn Hữu Dật. Nguyễn Hữu Tiến chỉ được giao chỉ huy phòng ngự ở cửa Nhật Lệ mà thôi. Đến tháng 6 năm Giáp Thìn (1664), Nguyễn Hữu Tiến bắt đầu lâm bệnh nặng. Vào tháng 7 năm Bính Ngọ (1666), ông qua đời ở nơi đóng quân. Cả triều đình chúa Nguyễn và nhân dân xứ Đàng Trong đều coi Nguyễn Hữu Tiến là một tài năng quân sự xuất chúng, công lao rất lớn trong sự nghiệp giúp chúa Nguyễn giữ đất để mở đất xứ Đàng Trong. Cụ thể, trong lần chiến tranh thứ tư (năm 1648) và thứ năm (1655 – 1660), 3 vạn chiến tù quân Trịnh mà ông bắt được, kể cả tổ tiên của anh em nhà Tây Sơn mà ông đưa về từ xứ Nghệ, đều được chuyển hóa thành lực lượng lao động mở đất rất hữu ích ở các vùng từ Thuận Quảng vào tận Bình Định. Vì thế, ngay sau khi vừa mất, Nguyễn Hữu Tiến đã được triều đình truy tặng tước Quận công, giữ nguyên chức Tiết chế, gọi là Tiết chế Thuận Quận công. Đến đời trị vì của vua Gia Long, Nguyễn Hữu Tiến được xem là một Khai quốc công thần, được thờ phụng ở Thái Miếu. Vào thời Minh Mạng, ông còn được truy tặng tước Anh Quốc Công và được thờ ở Võ Miếu.
Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào Sonexay Siphandone, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị cấp cao Ủy hội sông Mê Công quốc tế lần thứ 4 tại Vientiane (Lào) vào ngày 5-4. Ủy hội sông Mê Công quốc tế (MRC) là một diễn đàn khu vực quan trọng để thúc đẩy hợp tác hòa bình và cùng có lợi nhằm phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công. Với 4 quốc gia thành viên là Campuchia , Lào , Thái Lan và Việt Nam , MRC là cơ chế hợp tác Mê Công lâu đời nhất và là cơ chế duy nhất hoạt động dựa trên một hiệp định quốc tế (Hiệp định Mê Công 1995) nhằm tạo khuôn khổ hợp tác phát triển bền vững, sử dụng, bảo vệ, quản lý tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan của khu vực. Thủ tướng Phạm Minh Chính lên đường dự Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế. Ảnh: dangcongsan.vn. Hội nghị cấp cao (HNCC) của MRC được tổ chức từ năm 2010, theo cơ chế luân phiên 4 năm một lần tại các quốc gia thành viên. Với chủ đề “Đổi mới và hợp tác nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững của lưu vực sông Mê Công”, HNCC MRC lần này tại Vientiane diễn ra trong bối cảnh mặc dù gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng góp phần thúc đẩy hợp tác lưu vực sông Mê Công như xây dựng các quy chế sử dụng nước, quản lý môi trường, nghề cá, liên kết giao thông thủy, mở rộng hợp tác với các đối tác trong và ngoài khu vực… song MRC đang gặp phải những thách thức không nhỏ từ các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường cho đến hoạt động khai thác và sử dụng thiếu bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực, cạnh tranh chiến lược nước lớn… Thực tế này đòi hỏi MRC phải tăng cường vai trò, nâng cao hiệu quả hoạt động, hợp tác, đồng thời thu hút hơn nữa sự quan tâm, ủng hộ từ các tổ chức quốc tế và khu vực, các đối tác đối thoại, các đối tác phát triển và cộng đồng các nhà tài trợ vì mục tiêu bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công. Với vị trí là một quốc gia ở hạ nguồn sông Mê Công, Việt Nam luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực Mê Công như là “không gian an ninh và phát triển” trực tiếp của mình. Vì vậy, Việt Nam luôn thể hiện vai trò của một quốc gia thành viên hết sức tích cực, chủ động, có trách nhiệm trong tham gia các hoạt động của MRC ở tất cả các cấp, từ cấp cao cho tới cấp bộ trưởng, ủy ban liên hợp, nhóm công tác… trong xây dựng, triển khai các văn bản pháp lý, chiến lược của MRC, hay chia sẻ thông tin, số liệu, đóng góp chuyên gia và kỹ thuật… Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự HNCC MRC lần thứ 4 vừa nhằm triển khai tích cực chủ trương, đường lối đối ngoại đã được Đại hội XIII của Đảng đề ra về “tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”, vừa thể hiện trách nhiệm, sự quan tâm và cam kết của Việt Nam ở cấp cao đối với hợp tác trong khuôn khổ MRC trên tinh thần Hiệp định Mê Công 1995, qua đó góp phần tăng cường vai trò của MRC cũng như sự đoàn kết, hợp tác giữa các quốc gia thành viên vì lợi ích chung. Cũng cần nhấn mạnh rằng, Việt Nam tham dự HNCC MRC lần thứ 4 khi đất nước ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng, tình hình chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, kinh tế tăng trưởng cao (đạt 8,02% trong năm 2022). Với thế và lực được nâng cao cùng kinh nghiệm phát triển và hội nhập quốc tế được tích lũy trong những năm qua, chúng ta có niềm tin chắc chắn rằng Việt Nam có điều kiện tốt hơn khi tham gia hợp tác MRC nói chung cũng như đóng góp vào thành công chung của HNCC MRC lần thứ 4 nói riêng, từ đó góp phần ứng phó hiệu quả các thách thức đối với sự ổn định và phát triển bền vững của lưu vực sông Mê Công, để dòng sông ấy mãi là mạch nguồn kết nối tự nhiên cuộc sống, giao lưu văn hóa và sự thịnh vượng của muôn triệu người dân như bao đời nay.
Receiving the invitation of Prime Minister of the Lao People's Democratic Republic Sonexay Siphandone, Prime Minister Pham Minh Chinh attended the 4th International Mekong River Commission Summit in Vientiane (Laos) on September 5 -4. The International Mekong River Commission (MRC) is an important regional forum to promote peaceful and mutually beneficial cooperation for sustainable development of the Mekong River basin. With 4 member countries namely Cambodia , Laos , Thailand and Vietnam , MRC is the oldest Mekong cooperation mechanism and the only mechanism operating based on an international agreement (1995 Mekong Agreement) to create a framework for cooperation in sustainable development, use, protection , managing water resources and related resources of the region. Prime Minister Pham Minh Chinh leaves to attend the International Mekong River Commission Summit. Photo: dangcongsan.vn. The MRC High Level Conference (HNCC) has been held since 2010, on a rotating basis every 4 years in member countries. With the theme "Innovation and cooperation to ensure water security and sustainable development of the Mekong River basin", this MRC HNCC in Vientiane takes place in a context where many important achievements have been achieved. important contribution to promoting cooperation in the Mekong River basin such as developing regulations on water use, environmental management, fisheries, water transportation links, expanding cooperation with partners inside and outside the region... However, the MRC is facing significant challenges from the negative impacts of climate change, environmental pollution to the unsustainable exploitation and use of water resources and related resources in the basin. , strategic competition with major countries... This reality requires the MRC to strengthen its role, improve operational efficiency and cooperation, and attract more attention and support from international and regional organizations, dialogue partners, development partners and the donor community for the purpose of ensuring stability and sustainable development of the Mekong River basin. As a country downstream of the Mekong River, Vietnam is always clearly aware of the importance of the Mekong region as its direct "security and development space". Therefore, Vietnam always plays the role of a very active, proactive and responsible member country in participating in MRC activities at all levels, from senior level to ministerial level. Joint committees, working groups... in developing and implementing legal documents and strategies of the MRC, or sharing information, data, expert and technical contributions... Prime Minister Pham Minh Chinh attended the 4th MRC Congress to actively implement the foreign policy and policy set out by the 13th Party Congress on "continuing to promote and improve the effectiveness of foreign policy work." foreign affairs and international integration", both demonstrating Vietnam's responsibility, interest and commitment at a high level to cooperation within the MRC framework in the spirit of the 1995 Mekong Agreement, thereby contributing to strengthening the role of The role of the MRC as well as solidarity and cooperation among member countries for common interests. It is also important to emphasize that Vietnam is attending the 4th MRC Congress when the country is increasingly deeply integrated internationally, the socio-political situation is stable, national defense and security are guaranteed, and the economy is growing. high (reaching 8.02% in 2022). With improved position and strength and experience in development and international integration accumulated over the years, we have a firm belief that Vietnam has better conditions when participating in MRC cooperation in general as well as contributing to the overall success of the 4th MRC Conference in particular, thereby contributing to effectively responding to challenges to the stability and sustainable development of the Mekong River basin, so that the river will always be a vital artery. The natural source of connection to the lives, cultural exchanges and prosperity of millions of people like ever before.
Những cuộc khai quật tại thành nhà Hồ (Thanh Hóa) đang dần lộ diện hình hài của một kinh đô, đặc biệt là việc tìm thấy chính điện thành nhà Hồ. Đây là dấu tích Chính điện cổ nhất trong lịch sử Kinh đô Việt Nam được phát hiện cho tới ngày hôm nay. Chỉ tồn tại trong 7 năm (1400-1407) và được xem là triều đại ngắn nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thế nhưng triều nhà Hồ đã để lại cho nhân loại một tòa thành đá độc đáo bậc nhất Đông Nam Á. Để làm cơ sở bảo tồn và củng cố thêm những giá trị lịch sử to lớn của Thành nhà Hồ, trong nhiều năm qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH-TT-DL) phối hợp với UBND tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện gần 20 cuộc khai quật, từ đó phát hiện thêm nhiều cứ liệu, dấu tích có ý nghĩa cực kỳ lớn cho nền khảo cổ học Việt Nam. Khai quật thành nhà Hồ. Kể từ khi Thành nhà Hồ được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới (năm 2011), tại đây đã diễn ra 10 cuộc khai quật> Nếu tính rộng ra thì từ năm 2004 đến thời điểm này đã có tổng cộng 20 đợt khai quật lớn nhỏ được thực hiện. Ông Trương Hoài Nam, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu lịch sử và Bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Thanh Hóa, cho biết các đợt khai quật đã phát hiện rất nhiều dấu tích quan trọng như: cụm kiến trúc trung tâm nền Vua; cụm kiến trúc phía Đông Nam thành Nội; dấu tích 4 hào thành; dấu tích con đường Hoàng Gia và dấu tích sân nền quảng trường Cửa Nam thời nhà Hồ; dấu tích đàn tế Nam Giao… “Hầu hết các đợt khai quật đều có những phát hiện rất quan trọng, minh chứng khẳng định sự nổi bật toàn cầu của di sản. Trong đó, dấu tích đường Hoàng gia là con đường gây ấn tượng lớn cho các chuyên gia Hội đồng di tích và di chỉ quốc tế (ICOMOS) khi đi kiểm tra tính xác thực của khu di sản” – ông Nam cho hay. Con đường Hoàng gia trong quá trình khai quật đã xuất lộ phía trước cổng Nam gồm 3 làn đường song song làn chính giữa, 2 làn bên. Làn đường chính giữa chạy xuyên qua cổng thành và chạy về phía Bắc và phía Nam. Đường được lát chủ yếu bởi các khối đá vôi có kích thước khá lớn có màu xám xanh với nhiều hình dáng khác nhau: hình chữ nhật, hình vuông, hình tam giác, hình thang, hình thoi… Các khối đá lát phần lớn đều được chế tác cẩn thận tạo mặt phẳng cho mặt đường, bề mặt các khối đá đều có dấu vết đục khá rõ tương tự như những khối đá sử dụng để xây thành. Con đường Hoàng gia trong quá trình khai quật đã xuất lộ. Theo ông Nguyễn Bá Linh, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di sản Thành nhà Hồ, ngoài những phát hiện quan trọng trên, các nhà khảo cổ học còn nghiên cứu nhiều vị trí khác quanh khu vực Thành nhà Hồ như: tiến hành cắt tường thành Đông Bắc để nghiên cứu kỹ thuật xây thành, nghiên cứu kỹ thuật đắp La Thành, nghiên cứu kỹ thuật khai thác và chế tác đá tại bãi đá An Tôn, di tích Xuân Đài và thăm dò vị trí đền Trần Khát Chân, dấu tích Cồn Ngục, Gò Mả… để tìm lời giải cho quá trình xây tòa thành đá này. “Thành Nhà Hồ được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397. Theo sách Đại Việt Sử Ký toàn thư, tòa thành đá này được xây dựng trong vòng 3 tháng. Qua các cuộc khai quật đã tìm thấy các công trường chế tác đá, hàng trăm viên bi đá lớn, nhỏ đã củng cố giả thiết người thợ khi xưa đã dùng chúng như con lăn để tời đá từ vùng khai thác (cách vị trí xây thành khoảng 5 km). Kết hợp với tời và đắp đất, người ta đã đưa những phiến đá hàng tấn lên cao để xây thành. Ngoài ra, các nhà sử học đã tìm thấy khoảng 300 địa danh trong cả nước góp gạch xây dựng kinh thành Tây Đô, từ đó phần nào minh chứng và lý giải cho câu hỏi lớn của lịch sử là tại sao Hồ Quý Ly có thể xây dựng kinh thành Tây Đô chỉ trong thời gian 3 tháng” – ông Linh nói. Giếng vua trong di tích khảo cổ Thành Nhà Hồ. Trong số 10 cuộc khai quật lớn nhỏ kể từ khi thành nhà Hồ là di sản thế giới thì cuộc khai quật từ năm 2020-2021 được đánh giá là cuộc khai quật có quy mô lớn nhất trong lịch sử khảo cổ Việt Nam với diện tích 25.000 m2. Đợt khai quật này đã phát hiện được 4 cụm dấu tích có niên đại thời Trần – Hồ; 2 cụm kiến trúc thời Lê sơ; 1 cụm kiến trúc thời Lê Trung Hưng với trên 20 đơn nguyên kiến trúc. PGS- TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam – người có tâm huyết, lăn lộn với di tích Thành nhà Hồ suốt 10 năm qua để đi tìm lời giải cho nhiều điều kỳ bí, chưa sáng tỏ – cũng khá bất ngờ trước những phát hiện được tìm thấy. Theo PGS-TS Tống Trung Tín, cuộc khai quật từ năm 2020-2021 đã thu được những kết quả cực kỳ quan trọng là đã xác định dấu tích kiến trúc độc đáo, có quy mô lớn vào loại nhất cho đến nay trong lịch sử nghiên cứu kiến trúc cổ Việt Nam ở khu vực trung tâm Thành Nhà Hồ (hay còn gọi là nền Vua). “Theo sự tính toán ban đầu cộng với địa danh nền Vua, các nhà khảo cổ nhận định đó có thể là dấu tích Chính điện của thành Tây Đô. Nếu đúng như vậy đây là dấu tích Chính điện cổ nhất trong lịch sử Kinh đô Việt Nam được phát hiện cho tới ngày hôm nay”- PGS-TS Tống Trung Tín khẳng định. GS-TS khoa học Lưu Trần Tiêu, Chủ tịch Hội đồng di sản Văn hóa Quốc gia, nhận định rằng việc phát hiện con đường Hoàng Gia cực kỳ quan trọng, nó là nền móng để từ đó những đợt khai quật tiếp theo đã phát lộ nhiều dấu tích có ý nghĩa rất lớn cho nền khảo cổ học. Từ những đợt khai quật này, trung tâm sẽ từng bước xây dựng kế hoạch phục dựng, khôi phục và bảo vệ cảnh quan, đa dạng hóa các giải pháp bảo tồn như trường hợp Nara (Nhật Bản). Nếu làm tốt và khoa học, dần dần chúng ta có thể hiểu được và khôi phục được một Kinh đô cổ nhất ở Đông Nam Á, từng bước biến di sản trở thành một trong những di sản văn hóa có giá trị nổi bật nhất của Việt Nam có sức thu hút mạnh mẽ đối với công chúng trong nước và thế giới nhằm bảo tồn và bảo vệ toàn vẹn khu di sản theo đúng các Công ước Quốc tế đối với một khu di sản thế giới tầm vóc như Thành nhà Hồ. Theo sử cũ ghi lại, vào những năm 1396-1398, nước ta đứng trước nguy cơ bị giặc ngoại xâm lược từ hai đầu đất nước. Phía Bắc, giặc Minh cho quân đánh chiếm xâm lược bờ cõi. Phía Nam, quân Chiêm Thành cũng có âm mưu thôn tính nước ta. Lúc này, Hồ Quý Ly đang là một tướng sĩ dưới triều nhà Trần, đã đứng ra dùng sách lược mềm mỏng ngoại giao để hoãn binh từ hai phía. Trong nước, ông đứng lên dẹp loạn những cuộc nổi dậy của các loạn thần, tham mưu cho vua tôi nhà Trần dời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa để đảm bảo an toàn lâu dài. Khi vào Thanh Hóa, Hồ Quý Ly đã cho xây dựng cung Bảo Thanh (tức Ly cung nhà Hồ, thuộc xã Hà Đông, huyện Hà Trung ngày nay) trên một diện tích lớn. Công trình được đầu tư xây dựng công phu giống như một thành Thăng Long thu nhỏ để đón vua Trần vào Thanh Hóa, chuẩn bị cho việc xây dựng kinh đô mới là thành Tây Đô (Thành nhà Hồ ngày nay). Vào năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất ngôi nhà Trần, thiết lập vương triều Hồ, đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt. Triều đại nhà Hồ diệt vong. Dù chỉ tồn tại có 7 năm và được xem là triều đại phong kiến ngắn nhất lịch sử Việt Nam, song nhà Hồ đã để lại những dấu ấn trong lịch sử, đặc biệt là cuộc cải cách toàn diện đất nước, được đánh giá có giá trị thực tiễn và đi trước thời đại. (Còn tiếp)
Những cuộc khai quật tại thành nhà Hồ (Thanh Hóa) đang dần lộ diện hình hài của một kinh đô, đặc biệt là việc tìm thấy chính điện thành nhà Hồ. Đây là dấu tích Chính điện cổ nhất trong lịch sử Kinh đô Việt Nam được phát hiện cho tới ngày hôm nay. Chỉ tồn tại trong 7 năm (1400-1407) và được xem là triều đại ngắn nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thế nhưng triều nhà Hồ đã để lại cho nhân loại một tòa thành đá độc đáo bậc nhất Đông Nam Á. Để làm cơ sở bảo tồn và củng cố thêm những giá trị lịch sử to lớn của Thành nhà Hồ, trong nhiều năm qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH-TT-DL) phối hợp với UBND tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện gần 20 cuộc khai quật, từ đó phát hiện thêm nhiều cứ liệu, dấu tích có ý nghĩa cực kỳ lớn cho nền khảo cổ học Việt Nam. Khai quật thành nhà Hồ. Kể từ khi Thành nhà Hồ được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới (năm 2011), tại đây đã diễn ra 10 cuộc khai quật> Nếu tính rộng ra thì từ năm 2004 đến thời điểm này đã có tổng cộng 20 đợt khai quật lớn nhỏ được thực hiện. Ông Trương Hoài Nam, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu lịch sử và Bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Thanh Hóa, cho biết các đợt khai quật đã phát hiện rất nhiều dấu tích quan trọng như: cụm kiến trúc trung tâm nền Vua; cụm kiến trúc phía Đông Nam thành Nội; dấu tích 4 hào thành; dấu tích con đường Hoàng Gia và dấu tích sân nền quảng trường Cửa Nam thời nhà Hồ; dấu tích đàn tế Nam Giao… “Hầu hết các đợt khai quật đều có những phát hiện rất quan trọng, minh chứng khẳng định sự nổi bật toàn cầu của di sản. Trong đó, dấu tích đường Hoàng gia là con đường gây ấn tượng lớn cho các chuyên gia Hội đồng di tích và di chỉ quốc tế (ICOMOS) khi đi kiểm tra tính xác thực của khu di sản” – ông Nam cho hay. Con đường Hoàng gia trong quá trình khai quật đã xuất lộ phía trước cổng Nam gồm 3 làn đường song song làn chính giữa, 2 làn bên. Làn đường chính giữa chạy xuyên qua cổng thành và chạy về phía Bắc và phía Nam. Đường được lát chủ yếu bởi các khối đá vôi có kích thước khá lớn có màu xám xanh với nhiều hình dáng khác nhau: hình chữ nhật, hình vuông, hình tam giác, hình thang, hình thoi… Các khối đá lát phần lớn đều được chế tác cẩn thận tạo mặt phẳng cho mặt đường, bề mặt các khối đá đều có dấu vết đục khá rõ tương tự như những khối đá sử dụng để xây thành. Con đường Hoàng gia trong quá trình khai quật đã xuất lộ. Theo ông Nguyễn Bá Linh, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di sản Thành nhà Hồ, ngoài những phát hiện quan trọng trên, các nhà khảo cổ học còn nghiên cứu nhiều vị trí khác quanh khu vực Thành nhà Hồ như: tiến hành cắt tường thành Đông Bắc để nghiên cứu kỹ thuật xây thành, nghiên cứu kỹ thuật đắp La Thành, nghiên cứu kỹ thuật khai thác và chế tác đá tại bãi đá An Tôn, di tích Xuân Đài và thăm dò vị trí đền Trần Khát Chân, dấu tích Cồn Ngục, Gò Mả… để tìm lời giải cho quá trình xây tòa thành đá này. “Thành Nhà Hồ được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397. Theo sách Đại Việt Sử Ký toàn thư, tòa thành đá này được xây dựng trong vòng 3 tháng. Qua các cuộc khai quật đã tìm thấy các công trường chế tác đá, hàng trăm viên bi đá lớn, nhỏ đã củng cố giả thiết người thợ khi xưa đã dùng chúng như con lăn để tời đá từ vùng khai thác (cách vị trí xây thành khoảng 5 km). Kết hợp với tời và đắp đất, người ta đã đưa những phiến đá hàng tấn lên cao để xây thành. Ngoài ra, các nhà sử học đã tìm thấy khoảng 300 địa danh trong cả nước góp gạch xây dựng kinh thành Tây Đô, từ đó phần nào minh chứng và lý giải cho câu hỏi lớn của lịch sử là tại sao Hồ Quý Ly có thể xây dựng kinh thành Tây Đô chỉ trong thời gian 3 tháng” – ông Linh nói. Giếng vua trong di tích khảo cổ Thành Nhà Hồ. Trong số 10 cuộc khai quật lớn nhỏ kể từ khi thành nhà Hồ là di sản thế giới thì cuộc khai quật từ năm 2020-2021 được đánh giá là cuộc khai quật có quy mô lớn nhất trong lịch sử khảo cổ Việt Nam với diện tích 25.000 m2. Đợt khai quật này đã phát hiện được 4 cụm dấu tích có niên đại thời Trần – Hồ; 2 cụm kiến trúc thời Lê sơ; 1 cụm kiến trúc thời Lê Trung Hưng với trên 20 đơn nguyên kiến trúc. PGS- TS Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam – người có tâm huyết, lăn lộn với di tích Thành nhà Hồ suốt 10 năm qua để đi tìm lời giải cho nhiều điều kỳ bí, chưa sáng tỏ – cũng khá bất ngờ trước những phát hiện được tìm thấy. Theo PGS-TS Tống Trung Tín, cuộc khai quật từ năm 2020-2021 đã thu được những kết quả cực kỳ quan trọng là đã xác định dấu tích kiến trúc độc đáo, có quy mô lớn vào loại nhất cho đến nay trong lịch sử nghiên cứu kiến trúc cổ Việt Nam ở khu vực trung tâm Thành Nhà Hồ (hay còn gọi là nền Vua). “Theo sự tính toán ban đầu cộng với địa danh nền Vua, các nhà khảo cổ nhận định đó có thể là dấu tích Chính điện của thành Tây Đô. Nếu đúng như vậy đây là dấu tích Chính điện cổ nhất trong lịch sử Kinh đô Việt Nam được phát hiện cho tới ngày hôm nay”- PGS-TS Tống Trung Tín khẳng định. GS-TS khoa học Lưu Trần Tiêu, Chủ tịch Hội đồng di sản Văn hóa Quốc gia, nhận định rằng việc phát hiện con đường Hoàng Gia cực kỳ quan trọng, nó là nền móng để từ đó những đợt khai quật tiếp theo đã phát lộ nhiều dấu tích có ý nghĩa rất lớn cho nền khảo cổ học. Từ những đợt khai quật này, trung tâm sẽ từng bước xây dựng kế hoạch phục dựng, khôi phục và bảo vệ cảnh quan, đa dạng hóa các giải pháp bảo tồn như trường hợp Nara (Nhật Bản). Nếu làm tốt và khoa học, dần dần chúng ta có thể hiểu được và khôi phục được một Kinh đô cổ nhất ở Đông Nam Á, từng bước biến di sản trở thành một trong những di sản văn hóa có giá trị nổi bật nhất của Việt Nam có sức thu hút mạnh mẽ đối với công chúng trong nước và thế giới nhằm bảo tồn và bảo vệ toàn vẹn khu di sản theo đúng các Công ước Quốc tế đối với một khu di sản thế giới tầm vóc như Thành nhà Hồ. Theo sử cũ ghi lại, vào những năm 1396-1398, nước ta đứng trước nguy cơ bị giặc ngoại xâm lược từ hai đầu đất nước. Phía Bắc, giặc Minh cho quân đánh chiếm xâm lược bờ cõi. Phía Nam, quân Chiêm Thành cũng có âm mưu thôn tính nước ta. Lúc này, Hồ Quý Ly đang là một tướng sĩ dưới triều nhà Trần, đã đứng ra dùng sách lược mềm mỏng ngoại giao để hoãn binh từ hai phía. Trong nước, ông đứng lên dẹp loạn những cuộc nổi dậy của các loạn thần, tham mưu cho vua tôi nhà Trần dời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa để đảm bảo an toàn lâu dài. Khi vào Thanh Hóa, Hồ Quý Ly đã cho xây dựng cung Bảo Thanh (tức Ly cung nhà Hồ, thuộc xã Hà Đông, huyện Hà Trung ngày nay) trên một diện tích lớn. Công trình được đầu tư xây dựng công phu giống như một thành Thăng Long thu nhỏ để đón vua Trần vào Thanh Hóa, chuẩn bị cho việc xây dựng kinh đô mới là thành Tây Đô (Thành nhà Hồ ngày nay). Vào năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất ngôi nhà Trần, thiết lập vương triều Hồ, đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Năm 1407, cha con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt. Triều đại nhà Hồ diệt vong. Dù chỉ tồn tại có 7 năm và được xem là triều đại phong kiến ngắn nhất lịch sử Việt Nam, song nhà Hồ đã để lại những dấu ấn trong lịch sử, đặc biệt là cuộc cải cách toàn diện đất nước, được đánh giá có giá trị thực tiễn và đi trước thời đại. (Còn tiếp)
Vị trí xảy ra trận động đất sáng sớm nay tại Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Ảnh: Viện Vật lý Địa cầu. Một trận động đất có độ lớn 3.2 vừa xảy ra ở huyện Kon Plông , tỉnh Kon Tum , độ sâu chấn tiêu khoảng 8.1km. Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần – Viện Vật lý Địa cầu vừa phát đi thông báo động đất. Theo đó, vào khoảng 21h49 (giờ GMT) ngày 4/4 (tức 4h49, giờ Hà Nội ngày 5/4), một trận động đất có độ lớn 3.2 xảy ra tại vị trí có tọa độ (14.882 độ vĩ Bắc, 108.274 độ kinh Đông), độ sâu chấn tiêu khoảng 8.1km. Động đất xảy ra tại khu vực huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Cấp độ rủi ro thiên tai cấp 0. Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần – Viện Vật lý Địa cầu vẫn đang tiếp tục theo dõi trận động đất này. Trước đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý địa cầu (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) nhận định, động đất ở Kon Plông là động đất kích thích, xảy ra do hoạt động của hồ chứa thủy điện tích nước gây áp lực lên hệ thống đứt gãy bên dưới, khiến hoạt động động đất xảy ra sớm hơn. Các chuyên gia cảnh báo, động đất kích thích có thể kéo dài ở khu vực này, liên quan chặt chẽ đến hoạt động tích nước của hồ chứa thủy điện. Viện Vật lý Địa cầu cho hay, trên cơ sở số liệu động đất ghi nhận được tại khu vực huyện Kon Plông cho thấy, động đất xảy ra thường xuyên hơn trong thời gian gần đây và có xu hướng tăng lên về độ lớn. Các trận động đất tại khu vực này chưa ghi nhận thiệt hại về nhà cửa và người. Tuy nhiên, các rung động địa chấn do động đất gây ra đã ảnh hưởng nhất định đến đời sống của nhân dân trong khu vực. Theo TS Nguyễn Xuân Anh (Viện Vật lý Địa cầu), đơn vị thường xuyên thông báo về hoạt động động đất đến chính quyền và người dân tại khu vực này. Để có kết luận chính xác, thời gian theo dõi hoạt động động đất phải đủ lớn, các cán bộ thuộc Viện tiếp tục theo dõi thêm và xử lý số liệu các trận động đất tại huyện Kon Plông. TS Nguyễn Xuân Anh cho biết, hiện chỉ cảnh báo động đất có thể xảy ra ở một vùng nào đó chứ khó dự báo thời gian xảy ra động đất. Ngay như ở Nhật Bản, có những trận động đất xảy ra gây thiệt hại rất lớn, nhưng thời gian xảy ra động đất gần như không thể dự báo sớm được. Cho đến nay, trên thế giới chưa có nước nào có thể dự báo được chính xác khi nào động đất xảy ra, cũng như làm cách nào để chống lại động đất, nhưng có thể giảm thiểu được những thiệt hại do động đất gây ra. Các nhà khoa học chỉ có thể đưa ra cảnh báo sớm là khu vực này, vùng kia có thể sẽ xảy ra động đất ở độ lớn nào đó. “Thông tin cảnh báo khu vực này có thể sẽ xảy ra động đất ở độ lớn nào đó đã là rất tốt rồi. Bởi từ thông tin này, chính quyền địa phương và người dân sẽ xây dựng các công trình như thủy điện, nhà dân… có khả năng chống chịu với độ lớn của động đất từ thông tin cảnh báo. Điều quan trọng đầu tiên là phải bảo đảm tính bền vững của các công trình xây dựng, tiếp đến là vấn đề giáo dục về các biện pháp phòng tránh rủi ro động đất. Phải tuyên truyền đến người dân để họ nắm được những kỹ năng cơ bản trong phòng tránh và giải quyết hậu quả do động đất gây ra”, TS Nguyễn Xuân Anh nhấn mạnh. Độ lớn của động đất Độ lớn của động đất M hay còn gọi là độ Richter, trong đó: Từ 1 – 2: Không nhận biết được. Từ 2 – 4: Có thể nhận biết nhưng thường không gây thiệt hại. Từ 4 – 5: Mặt đất rung chuyển, nghe tiếng nổ, thiệt hại không đáng kể. Từ 5 – 6: Nhà cửa rung chuyển, một số công trình có hiện tượng nứt. Từ 6 – 7: Nhà cửa bị hư hại nhẹ. Từ 7 – 8: Động đất mạnh phá hủy hầu hết các công trình xây dựng thông thường, có vết nứt lớn hoặc lún sụt trên mặt đất. Từ 8 – 9: Nhà cửa đổ nát, nền đất bị lún sâu đến 1m, sụp đổ lớn ở núi kèm theo thay đổi địa hình trên diện rộng. Trên 9: Rất hiếm khi xảy ra.
Location of the earthquake early this morning in Kon Plong, Kon Tum province. Photo: Institute of Geophysics. An earthquake of magnitude 3.2 recently occurred in Kon Plong district , Kon Tum province , earthquake depth is about 8.1km. The Earthquake Information and Tsunami Warning Center - Institute of Geophysics has just issued an earthquake notice. Accordingly, at about 9:49 p.m. (GMT) on April 4 (ie 4:49 a.m., Hanoi time on April 5), an earthquake with a magnitude of 3.2 occurred at the coordinates (14,882 degrees North latitude, 108,274 East longitude), focal depth is about 8.1km. The earthquake occurred in Kon Plong district, Kon Tum province. Natural disaster risk level is level 0. The Earthquake Information and Tsunami Warning Center - Institute of Geophysics is continuing to monitor this earthquake. Previously, scientists from the Institute of Geophysics (Vietnam Academy of Science and Technology) determined that the earthquake in Kon Plong was a stimulated earthquake, occurring due to the operation of a hydroelectric reservoir. Water puts pressure on the underlying fault system, causing earthquake activity to occur sooner. Experts warn that stimulated earthquakes may last a long time in this area, closely related to the water storage activities of hydroelectric reservoirs. The Institute of Geophysics said that based on earthquake data recorded in Kon Plong district, earthquakes have occurred more frequently in recent times and tend to increase in magnitude. Earthquakes in this area have not recorded damage to houses or people. However, seismic vibrations caused by the earthquake have had a certain impact on the lives of people in the area. According to Dr. Nguyen Xuan Anh (Institute of Geophysics), the unit regularly reports earthquake activity to the authorities and people in this area. To have accurate conclusions, the time to monitor earthquake activity must be long enough. Institute staff continue to monitor and process earthquake data in Kon Plong district. Dr. Nguyen Xuan Anh said that currently there is only a warning that an earthquake may occur in a certain area, but it is difficult to predict the time when an earthquake will occur. Even in Japan, there are earthquakes that cause great damage, but the time of the earthquake is almost impossible to predict early. Up to now, no country in the world can accurately predict when an earthquake will occur, nor how to fight an earthquake, but it is possible to minimize the damage caused by an earthquake. . Scientists can only give early warning that this or that area may experience an earthquake of some magnitude. “Warning information that this area may experience an earthquake of some magnitude is very good. Because from this information, local authorities and people will build projects such as hydroelectric plants, houses... that can withstand the magnitude of earthquakes from warning information. The first important thing is to ensure the sustainability of construction projects, followed by education on measures to prevent earthquake risks. We must propagate to people so they can grasp basic skills in preventing and dealing with consequences caused by earthquakes," Dr. Nguyen Xuan Anh emphasized. Magnitude of the earthquake The magnitude of the earthquake M is also known as the Richter scale, in which: From 1 – 2: Unable to recognize. From 2 – 4: Can be detected but usually does not cause damage. From 4 to 5: The ground shook, explosions were heard, minor damage. From 5 to 6: Houses shook, some buildings had cracks. From 6 to 7: Houses are slightly damaged. From 7 to 8: Strong earthquake destroys most common construction works, there are large cracks or subsidence on the ground. From August 8 to 9: Houses were ruined, the ground sank up to 1 meter deep, and there was a major collapse in the mountains accompanied by widespread terrain changes. Above 9: Very rare.
Một vệt sáng màu đỏ tươi như máu, gần như một vòng cung ma quỷ hay một dòng sông máu chảy qua bầu trời đã gây hoang mang cho nhiều người dân ở bán đảo Scandinavia. Các nhà khoa học khẳng định nó không phải cực quang. Theo tờ Space , vệt sáng được mô tả như một dòng sông ánh sáng màu đỏ như máu, mờ ảo, trải dài suốt bầu trời đêm, có nơi nhìn thấy như một vòng cung giống cầu vòng nhưng chỉ có một màu. Hiện tượng đã xuất hiện vào tuần trước, trùng hợp với cơn bão địa từ mạnh nhất trong 6 năm đổ bộ Trái Đất. Phía Mỹ cũng xuất hiện ánh sáng hồng, được cho là loại cực quang lạ. Tuy nhiên phân tích mới khẳng định “dòng sông máu” quan sát từ Bắc Âu không phải cực quang. Một phần của “dòng sông máu” hiện ra trên bầu trời Møns Klint, một tập hợp các vách đá vôi trên đảo Møn của Đan Mạch ở Biển Baltic – Ảnh: Nhiếp ảnh gia thiên văn Ruslan Merzlyakov. Theo phân tích của các nhà khoa học hiện tượng bất thường này được gọi là “vòng cung đỏ cực quang ổn định” (SAR), và bất chấp cái tên – có thể được đặt với những nhận định sai lầm ban đầu dành cho dạng hiện tượng này – nó không phải là cực quang và chưa chắc ổn định. “Dòng sông máu” ma quái là ánh sáng được phát ra bởi các phân tử oxy trong bầu khí quyển phía trên bị đốt nóng bởi hệ thống dòng điện vòng của Trái Đất, một vòng dòng điện khổng lồ bao quanh hành tinh. Bão địa từ xuất hiện và đã tạo ra cực quan thực. Trong thời gian cực quang này, các hạt năng lượng cao từ gió Mặt Trời và quả cầu plasma mà nó tống vào từ quyển Trái Đất kích thích các phân tử khí trong tầng khí quyển trên, gây ra một loại hiện tượng, bao gồm ánh sáng xoáy đủ màu do các loại nguyên tử khác nhau bị kích thích. Đối với SAR, thứ bị kích thích là oxy, bị dòng điện vòng bao quanh từ quyển này đốt nóng, phát sáng như cực quang nhưng lại mang màu đỏ đáng sợ. SAR được quan sát ở Bắc Âu – rõ ràng nhất từ phía Đan Mạch – không phải màn trình diễn ánh sáng bất thường duy nhất được thấy trong cơn bão khổng lồ vừa qua. Một hiện tượng giống như STEVE – một dải ánh sáng tím cũng không phải cực quang – cũng lơ lửng trên bầu trời Mỹ và Anh.
A blood-red streak of light, almost like a demonic arc or a river of blood flowing through the sky, has caused panic among many people in Scandinavia. Scientists confirm it is not aurora. According to the sheet Space , the streak of light is described as a blood-red, blurry river of light, stretching across the night sky, in some places seen as an arc like a rainbow but with only one color. The phenomenon appeared last week, coinciding with the strongest geomagnetic storm in 6 years hitting Earth. side America Pink light also appeared, believed to be a strange type of aurora. However, new analysis confirms that the "blood river" observed from Northern Europe is not aurora. Part of the "river of blood" appears in the sky over Møns Klint, a set of limestone cliffs on the Danish island of Møn in the Baltic Sea - Photo: Astronomy photographer Ruslan Merzlyakov. According to analysis by scientists This unusual phenomenon is called a “stable auroral red arc” (SAR), and despite the name – which may have been given to the early misconceptions about this type of phenomenon – it is not aurora and not necessarily stable. The ghostly “river of blood” is light emitted by oxygen molecules in the upper atmosphere heated by the Earth's circular current system, a giant ring of electric current surrounding the planet. Geomagnetic storms appeared and created auroras. During this aurora, high-energy particles from the solar wind and the plasma ball it ejects into Earth's magnetosphere excite gas molecules in the upper atmosphere, causing a variety of phenomena, including solar flares. Colorful swirls of light are caused by different types of atoms being excited. For SAR, the excited thing is oxygen, which is heated by the ring current surrounding the magnetosphere, glowing like an aurora but with a scary red color. SAR observed in Northern Europe – most clearly from Denmark – was not the only unusual light show seen during the giant storm. A STEVE-like phenomenon – a band of purple light that is also not aurora – also hovered over the US and UK skies.
Bằng tác phẩm Người Ai Cập – Quyền lực & Tình yêu , với tài năng kể chuyện tuyệt vời, tác giả Mika Toimi Waltari đã mang đến cho bạn đọc những câu chuyện đầy cuốn hút, chứa đựng kho tàng kiến thức về các vị thần, tín ngưỡng tôn giáo, chính trị và văn hóa của một trong những nền văn minh vĩ đại nhất của loài người. Người Ai Cập – Quyền lực & Tình yêu xoay quanh câu chuyện tình bạn giữa Sinuhe với hai vị Pharaon Ai Cập, Quốc vương tiểu quốc Amori và những cuộc tranh giành quyền lực trong vương triều cùng những cuộc chiến tranh dã man, tàn bạo giữa các vương quốc. ‘Người Ai Cập – Quyền lực & Tình yêu’, cuốn tiểu thuyết đầy cuốn hút, xoay quanh câu chuyện tình bạn giữa Sinuhe với hai vị Pharaon Ai Cập, Quốc vương tiểu quốc Amori và những cuộc tranh giành quyền lực trong vương triều. NXB Sau khi lên ngôi, Pharaon Ekhnaton đã lật đổ Amon – vị thần tối cao của Ai Cập , và tôn thờ thần Mặt Trời Aton làm vị thần duy nhất của vương quốc. Tôn giáo mới của Ekhnaton đề cao hòa bình, bác ái và sự bình đẳng giữa mọi người, mọi dân tộc. Nhưng “cuộc cải cách” đó đã dẫn đến bạo loạn, khiến Ekhnaton phải dời thủ đô từ Thebes lên Akhetaton. Là ngự y của Pharaon, Sinuhe tháp tùng ngài đến thủ đô mới. Lúc đầu, Sinuhe hết sức ngưỡng mộ triết thuyết của Pharaon Ekhnaton, nhưng tôn giáo mới của Ekhenaton đã đẩy cả vương quốc Ai Cập đến bờ vực thẳm. Lúc này, những cuộc chiến do Tể tướng Horemheb chỉ huy đã phần nào khôi phục lại sự huy hoàng của vương quốc. Dù bị xem là người có xuất thân thấp hèn, nhưng thực tế, trong lịch sử Ai Cập, Horemheb được coi là một trong những Pharaon vĩ đại nhất của vương quốc. Người Ai Cập – Quyền lực & Tình yêu là bộ tiểu thuyết lịch sử gồm hai tập với 15 chương kể về cuộc đời danh y Sinuhe những năm 1390 – 1335 trước Công lịch, cũng là 15 chương kể về xã hội Ai Cập cổ đại thời bấy giờ qua hồi ức của nhân vật chính Sinuhe. Kiệt tác Người Ai Cập – Quyền lực & Tình yêu được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1945 và chỉ sau một năm, cuốn tiểu thuyết này đã được tái bản bốn lần với tổng số bán ra hơn 70.000 bản. Cho đến nay, tác phẩm đã được dịch sang 40 thứ tiếng và được phát hành rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sự thành công của tác phẩm kinh điển này đã giúp tác giả Mika Toimi Waltari trở thành một trong những nhà văn Phần Lan nổi tiếng nhất thế kỷ 20. Sinuhe – người kể chuyện – là một đứa trẻ bị thả trôi sông, được vợ chồng thầy thuốc nghèo không có con mang về nuôi. Nhờ sự hướng nghiệp của cha nuôi, Sinuhe đã theo học nghề y để nối nghiệp cha chữa bệnh cho người nghèo. Với đôi tay khéo léo và tài chữa bệnh, Sinuhe trở thành một danh y nổi tiếng, đồng thời là bạn của Pharaon Ekhnaton và Tể tướng Horemheb – người sau này cũng trở thành Pharaon. Tác giả Mika Toimi Waltari. NXB Là ngự y của triều đình, Sinuhe bị xô đẩy vào những biến động sâu sắc của xã hội Ai Cập. Sau khi mất hết tất cả vì tình yêu mù quáng, ông phải rời bỏ quê nhà cùng người đầy tớ Kaptah ranh mãnh đi đến nhiều miền đất và cuối cùng bị Pharaon đày đi biệt xứ. Trong những năm tháng bị lưu đày nơi xứ người, Sinuhe đã viết lại nỗi đắng cay, oan nghiệt cũng như những hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời mình như một cách để nhìn lại, gột rửa lỗi lầm của quá khứ. Trong Người Ai Cập – Quyền lực & Tình yêu có chiến tranh quyền lực, có tình yêu lãng mạn, mê đắm lẫn khổ đau. Trong đó, phải kể đến ba mối tình với những cung bậc tình yêu và bi kịch khác nhau của Sinuhe với kỳ nữ Nefernefernefer, với trinh nữ Minea xứ đảo Crete và Merit – nữ hầu bàn quán rượu ở Thebes. Trong ‘Người Ai Cập – Quyền lực và Tình yêu’ có chiến tranh quyền lực, có tình yêu lãng mạn, mê đắm lẫn khổ đau. NXB Bên cạnh tình yêu nam nữ, tác phẩm Người Ai Cập – Quyền lực & Tình yêu còn miêu tả tình yêu vô bờ của Sinuhe đối với thành phố Thebes quê hương và đất nước Ai Cập của ông. Câu nói của Sinuhe “Ai đã từng một lần uống nước sông Nile người đó sẽ khát khao trở lại sông Nile. Nước ở bất cứ nơi nào khác không thể làm anh ta nguôi cơn khát” được nhắc lại rất nhiều lần như một “điệp khúc” trong tác phẩm. Qua ngòi bút tài hoa của Mika Toimi Waltari, Người Ai Cập – Quyền lực & Tình yêu (do First News và NXB Dân Trí ấn hành, 2023) trở thành cuốn tiểu thuyết lịch sử kinh điển, đậm tính triết lý, kết hợp hài hòa lịch sử huyền bí và cuộc sống đời thường của người Ai Cập cổ đại.
By works Egyptians – Power & Love , With great storytelling talent, author Mika Toimi Waltari has brought readers fascinating stories, containing a treasure of knowledge about the gods, religious beliefs, politics and culture of one of the world's most famous nations. these civilization humanity's greatest. Egyptians – Power & Love revolves around the story of the friendship between Sinuhe and two Egyptian Pharaohs, the King of Amori, and the power struggles within the dynasty and the barbaric and brutal wars between kingdoms. 'The Egyptians - Power & Love', a fascinating novel, revolves around the story of the friendship between Sinuhe and two Egyptian Pharaohs, the King of Amori and the power struggles within the dynasty. Publishing House After ascending the throne, Pharaoh Ekhnaton overthrew Amon - the supreme god Egypt , and worshiped the sun god Aton as the sole deity of the kingdom. Ekhnaton's new religion promotes peace, charity and equality among all people and peoples. But that “reform” led to riots, causing Ekhnaton to move his capital from Thebes to Akhetaton. As the Pharaoh's physician, Sinuhe accompanied him to the new capital. At first, Sinuhe greatly admired the philosophy of Pharaoh Ekhnaton, but Ekhenaton's new religion pushed the entire Egyptian kingdom to the edge of the abyss. At this time, the wars led by Prime Minister Horemheb partly restored the splendor of the kingdom. Although considered a man of low birth, in fact, in Egyptian history, Horemheb was considered one of the greatest Pharaohs of the kingdom. Egyptians – Power & Love is a historical novel consisting of two volumes with 15 chapters about the life of the famous physician Sinuhe in the years 1390 - 1335 BC, as well as 15 chapters about ancient Egyptian society at that time through the memories of the main character. Sinuhe. Masterpiece Egyptians – Power & Love was first published in 1945 and after only one year, this novel was reprinted four times with a total sale of more than 70,000 copies. To date, the work has been translated into 40 languages ​​and widely distributed in many countries around the world. The success of this classic work helped author Mika Toimi Waltari become one of the most famous Finnish writers of the 20th century. Sinuhe - the storyteller - is a child who was left floating in the river and was taken in by a poor childless doctor and his wife. Thanks to his adoptive father's guidance, Sinuhe studied medicine to succeed his father in treating the poor. With skillful hands and talent for healing, Sinuhe became a famous physician, as well as a friend of Pharaoh Ekhnaton and Prime Minister Horemheb - who later also became Pharaoh. Author Mika Toimi Waltari. Publishing House As the royal physician, Sinuhe was thrust into the profound upheavals of Egyptian society. After losing everything because of blind love, he had to leave his homeland with his sly servant Kaptah to many lands and was finally exiled by the Pharaoh. During the years of exile in a foreign land, Sinuhe wrote down the bitterness, injustice as well as the rare happiness in his life as a way to look back and wash away the mistakes of the past. In Egyptians – Power & Love There is war of power, there is romantic love, infatuation and suffering. Among them, we must mention three love affairs with different love levels and tragedies of Sinuhe with the beautiful woman Nefernefernefer, with the virgin Minea of ​​Crete and Merit - a tavern waitress in Thebes. In 'The Egyptians - Power and Love' there is war of power, romantic love, infatuation and suffering. Publishing House Besides love between men and women, works Egyptians – Power & Love also describes Sinuhe's boundless love for his home city of Thebes and his country of Egypt. Sinuhe's quote “Who has ever drunk water Nile River he will long to return to the Nile. Water anywhere else cannot quench his thirst" is repeated many times as a "chorus" in the work. Through the talented pen of Mika Toimi Waltari, Egyptians – Power & Love (published by First News and Dan Tri Publishing House, 2023) becomes a classic historical novel, rich in philosophy, harmoniously combining mystical history and everyday life of ancient Egyptians.
‘Cần lấy con người làm trung tâm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân sinh sống trong lưu vực’, Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu sáng 5/4. Trước lãnh đạo 4 nước thành viên Ủy hội sông Mekong sáng 5/4, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định dòng sông Mekong hùng vĩ bao đời qua đã là nguồn nước, nguồn tài nguyên, nguồn sống, là mạch nguồn gắn kết hàng chục triệu người dân sinh sống trên lưu vực. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh lưu vực sông Mekong đứng trước những thách thức rất lớn. Trong đó, nhu cầu gia tăng về tài nguyên cho các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, cộng hưởng với những tác động chưa từng có của biến đổi khí hậu đã và đang tạo nên áp lực ngày càng lớn đối với tài nguyên và môi trường sinh thái trong lưu vực. Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết là quốc gia nằm cuối nguồn con sông này, Việt Nam đang cảm nhận rõ nét nhất những tác động nặng nề này. Ông lấy dẫn chứng năm 2020, lượng phù sa về Đồng bằng sông Cửu Long ( ĐBSCL ) đã giảm chỉ còn 1/3 lượng phù sa của 15 năm trước. Với tốc độ suy giảm hiện tại, các nhà nghiên cứu ước tính vào năm 2040, vùng ĐBSCL chỉ còn không tới 5 triệu tấn phù sa/năm. “Đây chỉ là một trong những ví dụ về những thiệt hại nghiêm trọng mà ĐBSCL phải đối mặt, ảnh hưởng trực tiếp tới sinh kế của hơn 20 triệu người dân Việt Nam sống tại lưu vực cũng như an ninh lương thực và an ninh nguồn nước của Việt Nam, khu vực”, Thủ tướng nói. Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại phiên họp hẹp trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ 4. Ảnh: Đoàn Bắc. Cùng với đó, nhiều tổ chức nghiên cứu độc lập đánh giá ĐBSCL là một trong những khu vực địa lý chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trên thế giới về các tác động tiêu cực biến đổi khí hậu như lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở… Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam nhấn mạnh nếu không có các giải pháp đồng bộ và kịp thời, dự báo đến cuối thế kỷ này, một nửa diện tích ĐBSCL sẽ chìm dưới mực nước biển. Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển, theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, Ủy hội sông Mekong quốc tế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong đó, Ủy hội đã thông qua và triển khai thực hiện các chiến lược và kế hoạch phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài nguyên nước; hoàn thiện bộ quy chế sử dụng nước – khuôn khổ pháp lý quan trọng của Ủy hội. Các nước thành viên cũng đã hoàn thành nghiên cứu chung về quản lý và phát triển bền vững lưu vực sông Mekong, bao gồm cả tác động của các dự án thủy điện dòng chính. Đây là căn cứ khoa học mang tính nền tảng cho việc ra quyết định liên quan đến hoạt động phát triển lưu vực của các nước ven sông. Theo Thủ tướng, thành quả đó khẳng định giá trị lâu dài của Hiệp định Mekong 1995, là nền tảng, cơ sở quan trọng cho các hoạt động hợp tác, thúc đẩy gắn kết, điều phối vùng và đẩy mạnh quan hệ với các đối tác, các cơ chế hợp tác có liên quan trong khu vực. Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone chào đón Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ 4. Ảnh: Đoàn Bắc. Tuy nhiên, ông nhìn nhận Ủy hội cũng phải đối mặt với những thách thức rất lớn, đòi hỏi ngày càng cao, trong đó bao gồm cả năng lực và nguồn lực cho hoạt động. Trong khi đó, sự quan tâm và hỗ trợ nhiều mặt của các đối tác tiếp tục suy giảm, một phần do sự phát triển của các cơ chế tiểu vùng khác. Trước tình hình đó, để phát huy hơn nữa hiệu quả hợp tác giữa các nước thành viên, tăng cường vai trò trung tâm của cơ chế hợp tác Ủy hội sông Mekong quốc tế, thúc đẩy kết nối với các cơ chế hợp tác tiểu vùng và khu vực ASEAN, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị tập trung 6 ưu tiên. Thứ nhất , tiếp tục khẳng định cam kết mạnh mẽ, nghiêm túc tuân thủ và thực hiện hiệu quả Hiệp định Mekong 1995, nhất là các nguyên tắc nền tảng về bình đẳng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, sử dụng công bằng và hợp lý tài nguyên nước, duy trì hợp lý dòng chảy trên dòng chính. Cùng với đó là ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêu cực, nhất là đối với các nước hạ nguồn. Tập trung thực hiện tốt các kế hoạch, chiến lược, tuân thủ Bộ Quy chế sử dụng nước và kết quả nghiên cứu chung, coi đó là cơ sở cho mọi hành động của Ủy hội và mỗi quốc gia thành viên. Thứ hai, mọi chính sách và hành động liên quan của Ủy hội và các nước thành viên cần lấy con người làm trung tâm, với cách tiếp cận toàn dân, toàn diện và toàn lưu vực. Việc này nhằm bảo đảm sinh kế bền vững của người dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân sinh sống trong lưu vực, nhất là cư dân sinh sống trên và dọc sông, đối với các tình huống bất trắc xảy ra như dịch bệnh, thiên tai, bão lũ… Đồng thời, chúng ta cần tăng cường hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia ở tiểu vùng sông Mekong như buôn lậu, tội phạm ma túy, buôn bán người, buôn bán tài nguyên thiên nhiên trái phép để đảm bảo an ninh và an toàn cho cuộc sống của người dân trong khu vực. Thứ ba, cần nỗ lực xây dựng Ủy hội trở thành một trung tâm tri thức, cung cấp các thông tin, số liệu và kiến thức về lưu vực, các dịch vụ tư vấn nhằm giúp các cơ chế hợp tác tiểu vùng khác thực hiện chức năng của mình. Đồng thời, các thành viên cần làm tốt vai trò điều phối hoạt động hợp tác để tránh chồng chéo giữa các cơ chế khác nhau thông qua việc tổ chức các diễn đàn chung để trao đổi, thảo luận về các giải pháp đối phó với các thách thức của lưu vực. Sau phiên họp hẹp, thủ tướng các nước tham dự phiên họp toàn thể vào sáng 5/4. Ảnh: Đoàn Bắc. Thứ tư, cần tiếp tục đổi mới công tác quản lý, điều hành, nâng cao năng lực thực thi của Ủy hội thông qua đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số và áp dụng công nghệ hiện đại trong quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên nước sông Mekong. Các nước thành viên cần đầu tư nâng cấp mạng lưới quan trắc, sớm xây dựng quy trình quản lý và vận hành các công trình thủy điện bậc thang trên dòng chính sông Mekong, đồng thời thiết lập hệ thống chia sẻ số liệu vận hành thời gian thực của các công trình thủy điện trên cả dòng chính và dòng nhánh. Tiếp tục triển khai các nghiên cứu đánh giá tác động môi trường, xã hội và kinh tế của các kế hoạch khai thác, sử dụng nước và các nguồn tài nguyên liên quan trong lưu vực; đây là việc cần thiết để thiết lập các cơ sở khoa học đáng tin cậy phục vụ quá trình ra quyết định. Thứ năm , tiếp tục phát huy tinh thần “tự do giao thông thủy” như đã được nêu tại Hiệp định Mekong 1995 để tăng cường mạnh mẽ kết nối giữa các nền kinh tế, thúc đẩy giao thương giữa các nước thành viên, phối hợp và hợp tác trong việc phát triển vận tải an toàn và có hiệu quả, bền vững về môi trường đường thủy trên sông Mekong, không gây hại đến nguồn nước và môi trường sinh thái. Về phần mình, Việt Nam cam kết tạo mọi thuận lợi cho các phương tiện vận tải thủy của các nước quá cảnh Việt Nam, đảm bảo kết nối giao thông thủy xuyên suốt giữa các quốc gia ven sông đúng như tinh thần của Hiệp định Mekong. Thứ sáu , sớm tiến hành đánh giá thực chất, toàn diện về quá trình thực hiện ven sông hóa Ủy hội để từ đó tiếp tục kiện toàn, đổi mới tổ chức, thể chế và phương thức làm việc của Ủy hội, bảo đảm bộ máy tinh gọn, ổn định, hiệu lực, hiệu quả. Cùng với đó, nâng cao năng lực của Ủy hội cả về chuyên môn và khả năng tài chính; tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác với các đối tác đối thoại, đối tác phát triển, các tổ chức khu vực, quốc tế và các tổ chức lưu vực sông quốc tế khác để huy động tối đa nguồn lực, tri thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại của các đối tác. Ủy hội cũng cần duy trì và tìm kiếm các nguồn tài chính mới, cách thức mới để ứng phó hiệu quả với các khó khăn, thách thức của lưu vực. Đồng thời, để kịp thời ứng phó trước những biến động to lớn của tình hình lưu vực, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng các Hội nghị cấp cao cần được tổ chức thường xuyên hơn để lãnh đạo cấp cao các nước kịp thời chỉ đạo và đưa ra định hướng hợp tác cho Ủy hội. “Tôi đề nghị chúng ta tiến hành họp hội nghị cấp cao 5 năm một lần, phù hợp với chu kỳ xây dựng và đánh giá các chiến lược, kế hoạch phát triển 5 năm, 10 năm. Giữa khoảng thời gian 5 năm đó sẽ tổ chức một Hội nghị cấp cao giữa kỳ, có thể kết hợp nhân dịp các Hội nghị cấp cao ASEAN”, Thủ tướng nói. Ông đề nghị giao hội đồng của Ủy hội trao đổi, thống nhất vấn đề này, báo cáo lãnh đạo các nước quyết định việc này trong năm 2023. Nhân dịp này, Việt Nam một lần nữa khẳng định luôn đề cao vai trò của Ủy hội và cam kết hợp tác chặt chẽ với các quốc gia thành viên để triển khai thành công các chiến lược, kế hoạch và chương trình hành động của Ủy hội. Những cam kết, hành động vì mục tiêu xây dựng lưu vực sông Mekong thịnh vượng về kinh tế, công bằng về xã hội, lành mạnh về môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, vì hòa bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng chung của cộng đồng ASEAN.
‘Cần lấy con người làm trung tâm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân sinh sống trong lưu vực’, Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu sáng 5/4. Trước lãnh đạo 4 nước thành viên Ủy hội sông Mekong sáng 5/4, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định dòng sông Mekong hùng vĩ bao đời qua đã là nguồn nước, nguồn tài nguyên, nguồn sống, là mạch nguồn gắn kết hàng chục triệu người dân sinh sống trên lưu vực. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh lưu vực sông Mekong đứng trước những thách thức rất lớn. Trong đó, nhu cầu gia tăng về tài nguyên cho các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, cộng hưởng với những tác động chưa từng có của biến đổi khí hậu đã và đang tạo nên áp lực ngày càng lớn đối với tài nguyên và môi trường sinh thái trong lưu vực. Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết là quốc gia nằm cuối nguồn con sông này, Việt Nam đang cảm nhận rõ nét nhất những tác động nặng nề này. Ông lấy dẫn chứng năm 2020, lượng phù sa về Đồng bằng sông Cửu Long ( ĐBSCL ) đã giảm chỉ còn 1/3 lượng phù sa của 15 năm trước. Với tốc độ suy giảm hiện tại, các nhà nghiên cứu ước tính vào năm 2040, vùng ĐBSCL chỉ còn không tới 5 triệu tấn phù sa/năm. “Đây chỉ là một trong những ví dụ về những thiệt hại nghiêm trọng mà ĐBSCL phải đối mặt, ảnh hưởng trực tiếp tới sinh kế của hơn 20 triệu người dân Việt Nam sống tại lưu vực cũng như an ninh lương thực và an ninh nguồn nước của Việt Nam, khu vực”, Thủ tướng nói. Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại phiên họp hẹp trong khuôn khổ Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ 4. Ảnh: Đoàn Bắc. Cùng với đó, nhiều tổ chức nghiên cứu độc lập đánh giá ĐBSCL là một trong những khu vực địa lý chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trên thế giới về các tác động tiêu cực biến đổi khí hậu như lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở… Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam nhấn mạnh nếu không có các giải pháp đồng bộ và kịp thời, dự báo đến cuối thế kỷ này, một nửa diện tích ĐBSCL sẽ chìm dưới mực nước biển. Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển, theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, Ủy hội sông Mekong quốc tế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong đó, Ủy hội đã thông qua và triển khai thực hiện các chiến lược và kế hoạch phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài nguyên nước; hoàn thiện bộ quy chế sử dụng nước – khuôn khổ pháp lý quan trọng của Ủy hội. Các nước thành viên cũng đã hoàn thành nghiên cứu chung về quản lý và phát triển bền vững lưu vực sông Mekong, bao gồm cả tác động của các dự án thủy điện dòng chính. Đây là căn cứ khoa học mang tính nền tảng cho việc ra quyết định liên quan đến hoạt động phát triển lưu vực của các nước ven sông. Theo Thủ tướng, thành quả đó khẳng định giá trị lâu dài của Hiệp định Mekong 1995, là nền tảng, cơ sở quan trọng cho các hoạt động hợp tác, thúc đẩy gắn kết, điều phối vùng và đẩy mạnh quan hệ với các đối tác, các cơ chế hợp tác có liên quan trong khu vực. Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone chào đón Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Cấp cao Ủy hội sông Mekong quốc tế lần thứ 4. Ảnh: Đoàn Bắc. Tuy nhiên, ông nhìn nhận Ủy hội cũng phải đối mặt với những thách thức rất lớn, đòi hỏi ngày càng cao, trong đó bao gồm cả năng lực và nguồn lực cho hoạt động. Trong khi đó, sự quan tâm và hỗ trợ nhiều mặt của các đối tác tiếp tục suy giảm, một phần do sự phát triển của các cơ chế tiểu vùng khác. Trước tình hình đó, để phát huy hơn nữa hiệu quả hợp tác giữa các nước thành viên, tăng cường vai trò trung tâm của cơ chế hợp tác Ủy hội sông Mekong quốc tế, thúc đẩy kết nối với các cơ chế hợp tác tiểu vùng và khu vực ASEAN, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị tập trung 6 ưu tiên. Thứ nhất , tiếp tục khẳng định cam kết mạnh mẽ, nghiêm túc tuân thủ và thực hiện hiệu quả Hiệp định Mekong 1995, nhất là các nguyên tắc nền tảng về bình đẳng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, sử dụng công bằng và hợp lý tài nguyên nước, duy trì hợp lý dòng chảy trên dòng chính. Cùng với đó là ngăn ngừa và hạn chế tác động tiêu cực, nhất là đối với các nước hạ nguồn. Tập trung thực hiện tốt các kế hoạch, chiến lược, tuân thủ Bộ Quy chế sử dụng nước và kết quả nghiên cứu chung, coi đó là cơ sở cho mọi hành động của Ủy hội và mỗi quốc gia thành viên. Thứ hai, mọi chính sách và hành động liên quan của Ủy hội và các nước thành viên cần lấy con người làm trung tâm, với cách tiếp cận toàn dân, toàn diện và toàn lưu vực. Việc này nhằm bảo đảm sinh kế bền vững của người dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân sinh sống trong lưu vực, nhất là cư dân sinh sống trên và dọc sông, đối với các tình huống bất trắc xảy ra như dịch bệnh, thiên tai, bão lũ… Đồng thời, chúng ta cần tăng cường hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia ở tiểu vùng sông Mekong như buôn lậu, tội phạm ma túy, buôn bán người, buôn bán tài nguyên thiên nhiên trái phép để đảm bảo an ninh và an toàn cho cuộc sống của người dân trong khu vực. Thứ ba, cần nỗ lực xây dựng Ủy hội trở thành một trung tâm tri thức, cung cấp các thông tin, số liệu và kiến thức về lưu vực, các dịch vụ tư vấn nhằm giúp các cơ chế hợp tác tiểu vùng khác thực hiện chức năng của mình. Đồng thời, các thành viên cần làm tốt vai trò điều phối hoạt động hợp tác để tránh chồng chéo giữa các cơ chế khác nhau thông qua việc tổ chức các diễn đàn chung để trao đổi, thảo luận về các giải pháp đối phó với các thách thức của lưu vực. Sau phiên họp hẹp, thủ tướng các nước tham dự phiên họp toàn thể vào sáng 5/4. Ảnh: Đoàn Bắc. Thứ tư, cần tiếp tục đổi mới công tác quản lý, điều hành, nâng cao năng lực thực thi của Ủy hội thông qua đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số và áp dụng công nghệ hiện đại trong quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên nước sông Mekong. Các nước thành viên cần đầu tư nâng cấp mạng lưới quan trắc, sớm xây dựng quy trình quản lý và vận hành các công trình thủy điện bậc thang trên dòng chính sông Mekong, đồng thời thiết lập hệ thống chia sẻ số liệu vận hành thời gian thực của các công trình thủy điện trên cả dòng chính và dòng nhánh. Tiếp tục triển khai các nghiên cứu đánh giá tác động môi trường, xã hội và kinh tế của các kế hoạch khai thác, sử dụng nước và các nguồn tài nguyên liên quan trong lưu vực; đây là việc cần thiết để thiết lập các cơ sở khoa học đáng tin cậy phục vụ quá trình ra quyết định. Thứ năm , tiếp tục phát huy tinh thần “tự do giao thông thủy” như đã được nêu tại Hiệp định Mekong 1995 để tăng cường mạnh mẽ kết nối giữa các nền kinh tế, thúc đẩy giao thương giữa các nước thành viên, phối hợp và hợp tác trong việc phát triển vận tải an toàn và có hiệu quả, bền vững về môi trường đường thủy trên sông Mekong, không gây hại đến nguồn nước và môi trường sinh thái. Về phần mình, Việt Nam cam kết tạo mọi thuận lợi cho các phương tiện vận tải thủy của các nước quá cảnh Việt Nam, đảm bảo kết nối giao thông thủy xuyên suốt giữa các quốc gia ven sông đúng như tinh thần của Hiệp định Mekong. Thứ sáu , sớm tiến hành đánh giá thực chất, toàn diện về quá trình thực hiện ven sông hóa Ủy hội để từ đó tiếp tục kiện toàn, đổi mới tổ chức, thể chế và phương thức làm việc của Ủy hội, bảo đảm bộ máy tinh gọn, ổn định, hiệu lực, hiệu quả. Cùng với đó, nâng cao năng lực của Ủy hội cả về chuyên môn và khả năng tài chính; tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác với các đối tác đối thoại, đối tác phát triển, các tổ chức khu vực, quốc tế và các tổ chức lưu vực sông quốc tế khác để huy động tối đa nguồn lực, tri thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại của các đối tác. Ủy hội cũng cần duy trì và tìm kiếm các nguồn tài chính mới, cách thức mới để ứng phó hiệu quả với các khó khăn, thách thức của lưu vực. Đồng thời, để kịp thời ứng phó trước những biến động to lớn của tình hình lưu vực, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng các Hội nghị cấp cao cần được tổ chức thường xuyên hơn để lãnh đạo cấp cao các nước kịp thời chỉ đạo và đưa ra định hướng hợp tác cho Ủy hội. “Tôi đề nghị chúng ta tiến hành họp hội nghị cấp cao 5 năm một lần, phù hợp với chu kỳ xây dựng và đánh giá các chiến lược, kế hoạch phát triển 5 năm, 10 năm. Giữa khoảng thời gian 5 năm đó sẽ tổ chức một Hội nghị cấp cao giữa kỳ, có thể kết hợp nhân dịp các Hội nghị cấp cao ASEAN”, Thủ tướng nói. Ông đề nghị giao hội đồng của Ủy hội trao đổi, thống nhất vấn đề này, báo cáo lãnh đạo các nước quyết định việc này trong năm 2023. Nhân dịp này, Việt Nam một lần nữa khẳng định luôn đề cao vai trò của Ủy hội và cam kết hợp tác chặt chẽ với các quốc gia thành viên để triển khai thành công các chiến lược, kế hoạch và chương trình hành động của Ủy hội. Những cam kết, hành động vì mục tiêu xây dựng lưu vực sông Mekong thịnh vượng về kinh tế, công bằng về xã hội, lành mạnh về môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, vì hòa bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng chung của cộng đồng ASEAN.
Sau khi giả trai để tham dự kỳ thi Hội, bà bị vua phát hiện. Tuy nhiên, thay vì trừng phạt, vua đã mời bà vào cung để chuyên dạy chữ và lễ nghi cho các cung tần, thị nữ. 1. Bà là ai? Nguyễn Thị Duệ (1574 – 1654) là nữ danh sĩ Việt Nam vào thế kỷ XVI – XVII. Bà sinh ra tại Kiệt Đặc (phường Văn An, thành phố Chí Linh , tỉnh Hải Dương ngày nay), nổi tiếng thông minh, xinh đẹp. Năm 1594, bà lấy tên Nguyễn Ngọc Du và giả làm trai để dự kỳ thi Hội. Bà đỗ tiến sĩ nhưng bị phát hiện. Sau đó, vua Mạc Kính Cung đã xóa tội khi quân đồng thời mời bà vào cung giảng dạy cho các phi tần. 2. Bà được dân gian gọi với danh hiệu gì? Dân gian bấy giờ gọi bà là Tinh Phi hay Bà chúa Sao, ngụ ý khen bà xinh đẹp và sáng như vì sao. Cũng vì dáng vẻ mảnh mai, gương mặt thanh tú của bà, vua nhà Mạc đã ngờ vực và phát hiện ra bà là nữ giả trai để đi thi. 3. Sau khi nhà Mạc bị diệt, chúa Trịnh đã làm gì sau khi bắt được bà? Nguyễn Thị Duệ đỗ tiến sĩ và làm quan dưới thời vua Mạc Kính Cung. Khi nhà Mạc bị chúa Trịnh đánh đuổi lên Cao Bằng, bà cũng đi theo. Năm 1625, bà rơi vào tay quân Trịnh. Vì tài đối đáp xuất sắc, bà được chúa Trịnh tiếp tục trọng dụng. Trịnh Tráng phong bà làm Nghi ái quan, trông coi việc học trong phủ chúa. 4. Bà có chính sách gì để thúc đẩy phong trào học tập trong dân chúng? Thời làm quan, để thúc đẩy phong trào học tập trong dân chúng, bà thường cùng các bậc túc nho đến giảng dạy tại các khu vực ấn định rồi tự soạn đề, tổ chức thi. Bài thi được chính tay bà chấm và gửi kết quả ngược lại địa phương. Phương pháp này đã giúp nâng cao trình độ học vấn tại làng, xã xa kinh thành. 5. Khi nghỉ hưu, vua Lê đã trọng thưởng cho bà bằng cách nào? Khi tuổi đã cao, Nguyễn Thị Duệ từ quan về lại quê nhà ở Kiệt Đặc (Hải Dương ngày nay). Bà dựng am Đào Hoa để làm nơi đọc sách, chỉ bảo cho các sĩ tử trong làng. Vua Lê ưu ái giao cho bà số thuế hàng năm của tổng Kiệt Đặc để làm bổng lộc. Bà chỉ giữ lại một chút, phần còn lại dành hết cho việc công ích và trợ giúp người nghèo khổ.
After pretending to be a man to attend the Association exam, she was discovered by the king. However, instead of punishing her, the king invited her to the palace to specialize in teaching literacy and etiquette to the concubines and maids. 1. Who is she? Nguyen Thi Due (1574 - 1654) was a famous Vietnamese female artist in the 16th - 17th centuries. She was born in Kiet Dac (Van An ward, Chi Linh city , Hai Duong Province today), famous for being smart and beautiful. In 1594, she took the name Nguyen Ngoc Du and pretended to be a boy to take the Association exam. She passed her doctorate but was discovered. After that, King Mac Kinh Cung cleared her of lese majesty and invited her to the palace to teach his concubines. 2. What title is she called by the people? People at that time called her Tinh Phi or Star Princess, implying that she was beautiful and bright like a star. Because of her slim figure and delicate face, the Mac king was suspicious and discovered that she was a woman pretending to be a man to take the exam. 3. After the Mac dynasty was destroyed, what did Lord Trinh do after capturing her? Nguyen Thi Due passed her doctorate and became a mandarin under King Mac Kinh Cung. When the Mac dynasty was driven to Cao Bang by Lord Trinh, she also followed. In 1625, she fell into the hands of the Trinh army. Because of her excellent conversational skills, she was continuously used by Lord Trinh. Trinh Trang appointed her to be a Nghi official, overseeing the studies in the lord's palace. 4. What policies do you have to promote the learning movement among the people? During her time as a mandarin, in order to promote the learning movement among the people, she often went with senior scholars to teach in designated areas and then composed and organized exams herself. The exam was graded by her herself and the results were sent back to the locality. This method has helped improve the level of education in villages and communes far from the capital. 5. When retiring, how did King Le reward her? When she was old, Nguyen Thi Due resigned from the mandarin and returned to her hometown in Kiet Dac (present-day Hai Duong). She built Dao Hoa hermitage as a place to read books and give advice to scholars in the village. King Le favorably gave her the annual tax amount of General Kiet Dac as a benefit. She only kept a little bit, the rest was devoted to public service and helping the poor.
Tối 5/4, tại tỉnh Bắc Ninh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tham dự Lễ kỷ niệm 110 năm thành lập huyện Thuận Thành và công bố Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thành lập thị xã Thuận Thành và các phường thuộc thị xã Thuận Thành. Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu tại buổi lễ. (Ảnh: DUY LINH). Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân gửi lẵng hoa chúc mừng. Tại buổi lễ, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ trao Nghị quyết 723/NQ-UBTVQH15 ngày 13/2/ 2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thành lập thị xã Thuận Thành và 10 phường thuộc thị xã Thuận Thành gồm: Hồ, An Bình, Song Hồ, Gia Đông, Thanh Khương, Hà Mãn, Trạm Lộ, Trí Quả, Xuân Lâm, Ninh Xá. Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định: Bắc Ninh – Kinh Bắc là vùng đất cổ, giàu truyền thống lịch sử, văn hiến, cách mạng; nơi phát tích Vương triều Lý; quê hương của các lễ hội đặc sắc, các làng nghề truyền thống và gần 1.600 di tích lịch sử-văn hóa, nhiều bảo vật quốc gia và làn điệu Dân ca Quan họ – Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Vùng đất địa linh nhân kiệt này nổi tiếng với truyền thống hiếu học, khoa bảng và là quê hương của nhiều nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng, Nhà nước. Truyền thống văn hóa, cách mạng cùng những tiềm năng, thế mạnh, bề dày lịch sử hơn 190 năm đã tạo tiền đề thuận lợi để tỉnh Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại sau 26 năm tái lập tỉnh (1997-2023). Trong thành công của tỉnh, có đóng góp quan trọng của huyện Thuận Thành. Trên cơ sở đánh giá tiềm năng, thế mạnh và các điều kiện cụ thể, ngày 13/2/2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết thành lập thị xã Thuận Thành và các phường thuộc thị xã. Đây là nghị quyết quan trọng, tạo tiền đề và động lực để Thuận Thành tập trung mọi nguồn lực đầu tư xây dựng phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đáp ứng các tiêu chí, tiêu chuẩn của một đô thị năng động, hiện đại và văn minh với chức năng là trung tâm tiếp nhận, chuyển giao và lan tỏa công nghệ hiện đại của tỉnh Bắc Ninh. Khẳng định đô thị hóa là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững, để tiếp tục phát triển bứt phá, sớm trở thành đô thị văn minh, hiện đại, hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế liên kết vùng với Hà Nội và các tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, song vẫn luôn giữ được bản sắc văn hóa của vùng Kinh Bắc, Chủ tịch Quốc hội đề nghị Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã Thuận Thành tiếp tục quán triệt nghiêm túc, thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm, Kế hoạch 5 năm; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 20, nhiệm kỳ 2020-2025; tập trung thực hiện tốt chủ đề công tác năm 2023 của tỉnh: “Đẩy mạnh xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; nâng cao đạo đức công vụ; tập trung phát triển kết cấu hạ tầng, đô thị và văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững”. Cùng với đó, Chủ tịch Quốc hội đề nghị địa phương quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để làm tốt công tác quy hoạch, nâng cao chất lượng quy hoạch và phát triển đô thị gắn với phát triển kinh tế đô thị, tiến tới mô hình đô thị xanh, thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu, xây dựng Thuận Thành xứng đáng là đô thị hạt nhân, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội của khu vực phía nam sông Đuống. Đặc biệt, chính quyền tỉnh Bắc Ninh và thị xã Thuận Thành cần có các giải pháp bảo đảm tốt công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn; sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất, tránh lãng phí; kiểm soát tốt tình trạng đầu cơ, đẩy giá đất ở các đơn vị hành chính đô thị mới được thành lập. Chủ tịch Quốc hội yêu cầu Thuận Thành cần chủ động nghiên cứu, có phương án sắp xếp phù hợp đối với các đơn vị hành chính có diện tích tự nhiên và quy mô dân số nhỏ so với quy định, hạn chế tình trạng sắp xếp, thay đổi địa giới, tên gọi của đơn vị hành chính nhiều lần, gây xáo trộn, mất ổn định đối với đời sống của người dân và hoạt động của doanh nghiệp trên địa bàn. Đồng thời, tập trung nguồn lực để đầu tư, sớm đạt mục tiêu yêu cầu đối với những tiêu chuẩn còn chưa bảo đảm mức tối thiểu, đặc biệt là tiêu chuẩn về tỷ lệ nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật tại các xã, thị trấn dự kiến thành lập phường thuộc thị xã Thuận Thành. Cho rằng việc thành lập thị xã Thuận Thành, cùng với thị xã Quế Võ và 21 phường đã nâng tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh Bắc Ninh đạt 51,32% (tăng 14,67% so với trước khi thành lập), đây là tỷ lệ cao so với các tỉnh, thành phố trong cả nước, Chủ tịch Quốc hội tin tưởng từ dấu mốc phát triển này, thị xã Thuận Thành sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, ngày càng giàu đẹp, văn minh, trở thành đô thị xanh, thông minh, năng động, hiện đại, hội nhập, cùng với thành phố Bắc Ninh, thành phố Từ Sơn, thị xã Quế Võ và các huyện của tỉnh xây dựng Bắc Ninh sớm trở thành thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng “Hiện đại, văn minh, hài hòa và bền vững”, giàu bản sắc văn hóa. Dịp này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chúc Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thị xã Thuận Thành “Thuận lòng dân vạn sự thành” Trước đó, chiều cùng ngày, tại Khu di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Đoàn công tác đã dâng hương tưởng nhớ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, tri ân các bậc thủy tổ dân tộc có công khai mở nước. Chủ tịch Quốc hội đã tới thăm Trung tâm Bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ, thôn Đông Khê, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, nơi trưng bày, giới thiệu hơn 1.000 tài liệu, hiện vật được nghiên cứu, sưu tầm từ các gia đình nghệ nhân và nhân dân địa phương, thể hiện lịch sử chân thực, hấp dẫn về dòng tranh dân gian đặc sắc của dân tộc.
On the evening of April 5, in Bac Ninh province, Politburo member and National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue attended the 110th anniversary of its founding. Thuan Thanh district and announced the Resolution of the National Assembly Standing Committee on the establishment of Thuan Thanh town and wards of Thuan Thanh town. Chairman of the National Assembly Vuong Dinh Hue spoke at the ceremony. (Photo: DUY LINH). Vice President Vo Thi Anh Xuan sent a flower basket to congratulate. At the ceremony, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue awarded Resolution 723/NQ-UBTVQH15 dated February 13, 2023 of the National Assembly Standing Committee on the establishment of Thuan Thanh town and 10 wards of Thuan Thanh town including: Ho , An Binh, Song Ho, Gia Dong, Thanh Khuong, Ha Man, Tram Lo, Tri Qua, Xuan Lam, Ninh Xa. Speaking at the ceremony, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue affirmed: Bac Ninh - Kinh Bac is an ancient land, rich in historical, cultural and revolutionary traditions; where the Ly Dynasty was founded; Home to unique festivals, traditional craft villages and nearly 1,600 historical-cultural relics, many national treasures and Quan Ho folk songs - Intangible cultural heritage of humanity. This land of outstanding people is famous for its tradition of studiousness and scholarship and is the hometown of many outstanding senior leaders of the Party and State. Cultural and revolutionary traditions along with the potentials, strengths, and history of more than 190 years have created a favorable premise for Bac Ninh province to become a modern industrial province after 26 years of re-establishment (1997- 2023). In the province's success, there is an important contribution from Thuan Thanh district. Based on the assessment of potential, strengths and specific conditions, on February 13, 2023, the National Assembly Standing Committee passed a Resolution to establish Thuan Thanh town and wards within the town. This is an important resolution, creating a premise and motivation for Thuan Thanh to focus all investment resources on building and developing technical and social infrastructure to meet the criteria and standards of a dynamic urban area. , modern and civilized with the function of being the center for receiving, transferring and spreading modern technology of Bac Ninh province. Affirming that urbanization is an objective necessity, an important driving force for rapid and sustainable socio-economic development, to continue to develop breakthroughs, and soon become a civilized, modern, urban area. In order to promote economic development linking the region with Hanoi and provinces and cities in the Red River Delta, while always preserving the cultural identity of the Kinh Bac region, the National Assembly Chairman requested the Party Committee and Government to The authorities and people of Thuan Thanh town continue to seriously grasp and well implement the Party's policies and guidelines, focusing on the Resolution of the 13th Party Congress; 10-year socio-economic development strategy, 5-year plan; Resolution of the 20th Bac Ninh Provincial Party Congress, term 2020-2025; Focus on well implementing the province's 2023 work theme: "Promoting building a strong Party and political system; improve public service ethics; Focus on developing infrastructure, urban areas and culture, meeting the requirements of sustainable development." Along with that, the Chairman of the National Assembly requested localities to deeply grasp Resolution Không. 06-NQ/TW dated January 24, 2022 of the Politburo on planning, construction, management and sustainable urban development. By 2030, with a vision to 2045, to do a good job in planning, improve the quality of planning and urban development associated with urban economic development, moving towards a green, smart, and adaptive urban model. climate change, building Thuan Thanh worthy of being a nuclear urban area, creating a driving force for socio-economic development of the area south of the Duong River. In particular, the authorities of Bac Ninh province and Thuan Thanh town need to have solutions to ensure good state management of land in the area; Use land resources effectively, avoid waste; Well control speculation, pushing up land prices in newly established urban administrative units. The Chairman of the National Assembly requested Thuan Thanh to proactively research and have appropriate arrangements for administrative units with small natural areas and population sizes compared to regulations, limiting arrangements. , changing the boundaries and names of administrative units many times, causing chaos and instability in the lives of people and operations of businesses in the area. At the same time, focus resources to invest and soon achieve the required goals for standards that have not yet met the minimum level, especially standards on the rate of urban wastewater treated to meet technical regulations. in communes and towns expected to establish wards in Thuan Thanh town. Given that the establishment of Thuan Thanh town, along with Que Vo town and 21 wards, has raised the urbanization rate of Bac Ninh province to 51.32% (an increase of 14.67% compared to before establishment), this is a high rate compared to other provinces and cities in the country. The Chairman of the National Assembly believes that from this development milestone, Thuan Thanh town will continue to develop strongly, become increasingly rich, beautiful, civilized, and become green, smart, dynamic, modern, integrated urban area, together with Bac Ninh city, Tu Son city, Que Vo town and other districts of the province to build Bac Ninh to soon become a centrally run city in the direction of "Modern, civilized, harmonious and sustainable", rich in cultural identity. On this occasion, Chairman of the National Assembly Vuong Dinh Hue wished the Party, government and people of Thuan Thanh town "All things will be successful with the will of the people" Earlier, on the same afternoon, at Kinh Duong Vuong Mausoleum and Temple Relics, Dai Dong Thanh commune, Thuan Thanh district, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue and the delegation offered incense to commemorate Kinh Duong Vuong and Lac Long. Quan and Au Co pay tribute to the nation's ancestors who openly opened the country. The Chairman of the National Assembly visited the Dong Ho Folk Painting Conservation Center, Dong Khe village, Song Ho commune, Thuan Thanh district, where more than 1,000 documents and artifacts researched and collected from ancient villages were displayed and introduced. artisan families and local people, showing the authentic and fascinating history of the nation's unique folk paintings.
Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4 năm 2023 sẽ diễn ra từ ngày 14- 19/4 tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây , Hà Nội . Điểm nhấn của Ngày văn hóa sẽ là Diễn đàn văn hóa với chủ đề: “Văn hóa các dân tộc Việt Nam – Nguồn lực phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Việt Nam (tranh lụa của Trần Minh Thái) . Ảnh TL. Theo đó, Diễn đàn văn hóa “Văn hóa các dân tộc Việt Nam – Nguồn lực phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” dự kiến diễn ra ngày 15/4/2023 tại Nhà chiếu phim, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Diễn đàn là hoạt động thiết thực triển khai hiệu quả những nội dung của Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021; Chiến lược phát triển Văn hóa đến năm 2030; Kỷ niệm 80 năm ra đời “Đề cương về Văn hóa Việt Nam” và 15 năm thực hiện Quyết định số 1668/QĐ-TTg ngày 17/11/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc lấy ngày 19/4 hàng năm là Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Chương trình dự kiến có khoảng 40 tham luận, 02 talk show, tổ chức trưng bày các hình ảnh về sắc màu văn hóa các dân tộc Việt Nam kết hợp với thực hành di sản và nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt, xoè, sạp…; Trình diễn nghệ thuật văn hóa được UNESCO ghi danh và một số di sản văn hóa phi vật thể quốc gia như văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại; nghệ thuật sân khấu Rô băm của dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng, trích đoạn nghi thức truyền thống của dân tộc Mạ tỉnh Lâm Đồng, dân tộc Thái tỉnh Thanh Hoá… Được biết, thực hiện các hoạt động văn hóa nói trên sẽ do gần 200 người thuộc 17 cộng đồng dân tộc của 15 tỉnh, thành phố đại diện cho các dân tộc, vùng miền và khoảng 100 người của 16 dân tộc đang hoạt động hàng ngày tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.
Vietnamese Ethnic Culture Day April 19, 2023 will take place from April 14 to April 19 at the Vietnamese Ethnic Culture - Tourism Village, Dong Mo, Son Tay , Hanoi . The highlight of the Cultural Day will be the Cultural Forum with the theme: "Cultures of Vietnam's ethnic groups - Resources for developing a prosperous and happy country." Uncle Ho with fellow Vietnamese ethnic groups (silk painting by Tran Minh Thai). Photo TL. Accordingly, the Cultural Forum "Cultures of Vietnam's ethnic groups - Resources for developing a prosperous and happy country" is scheduled to take place on April 15, 2023 at the Cinema House, Cultural and Tourism Village of the provinces. Ethnic Vietnam. The forum is a practical activity to effectively deploy the contents of the 2021 National Cultural Conference; Cultural Development Strategy until 2030; Celebrating the 80th anniversary of the birth of the "Outline on Vietnamese Culture" and 15 years of implementing Decision Không. 1668/QD-TTg dated November 17, 2008 of the Prime Minister on taking April 19 every year as National Day. Culture of Vietnamese ethnic groups. The program is expected to have about 40 presentations, 02 talk shows, and display images of the cultural colors of Vietnam's ethnic groups combined with heritage practices and traditional crafts such as knitting, weaving, xoe, stall...; Performing cultural arts registered by UNESCO and a number of national intangible cultural heritages such as the Central Highlands Gong culture, a masterpiece of intangible culture and oral tradition of humanity; Ro Hash theater art of the Khmer ethnic group in Soc Trang province, excerpts from traditional rituals of the Ma ethnic group in Lam Dong province, the Thai ethnic group in Thanh Hoa province... It is known that the above mentioned cultural activities will be carried out by nearly 200 people from 17 ethnic communities of 15 provinces and cities representing ethnic groups and regions and about 100 people from 16 ethnic groups participating in daily activities. day at the Cultural and Tourism Village of Vietnamese Ethnic Groups.
Hầu như các vua nước ta ở đời Trần đều tiếp và tiễn đưa các vị sứ thần Bắc Quốc về nước. Mỗi người mỗi hoàn cảnh và đối tượng khác nhau, nhưng đều có dấu ấn để lại qua thơ ca của họ. Vua Thái Tông Trần Cảnh (1218-1277) có bài thơ “Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh”, rất thú vị. Phiên âm: Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh Cố vô quỳnh bảo tự hoài tàm, Cực mục giang cao ý bất kham. Mã thủ thu phong xuy kiếm giáp, Ốc lương lạc nguyệt chiếu thư am. Mạc không nan trụ yến quy Bắc, Địa noãn sầu văn nhạn biệt Nam. Thử khứ vị tri khuynh cái nhật, Thi nhiên liêu vị dáng thanh đàm. Dịch nghĩa: Tiễn sứ Bắc Trương Hiển Khanh Nghĩ không có ngọc quỳnh đáp lại, lòng tự thẹn, Trên bờ sông nhìn xa mãi xiết bao ngậm ngùi. Gió thu trước đầu ngựa thổi vào thanh gươm, Ánh trăng lọt qua rường nhà dọi vào phòng sách. Màn trống khó ngăn chim én về phương Bắc, Đất ẩm buồn nghe chim nhạn biệt phương Nam. Lần đi này chưa biết ngày nào mới có dịp nghiêng lọng, Xin vì có cuộc chuyện trò tao nhã mà có một bài thơ. Tranh minh họa cảnh tiễn sứ về nước. Dịch thơ: Thẹn không ngọc báu tạ ơn lòng, Bát ngát nhìn sông dạ rối bong. Đầu ngựa gió thu khua bảo kiếm, Nóc nhà trăng dọi sáng thư phòng. Én về đất Bắc màn trơ trọi, Nhạn biệt trời Nam, tiếng não nùng. Nghiêng lọng ngày nào chưa dễ biết, Thơ này xin thế chuyện riêng chung. (Đào Phương Bình dịch) Đây là bài thơ vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) viết tặng Trương Hiền Khanh (tức Trương Lập Đạo) khi ông sứ thần này được vua nhà Nguyên phái sang nước Đại Việt ta để “truyền chỉ dụ” vào năm 1265. Ông Trương Lập Đạo còn được phái sang nước ta lần thứ hai, vào năm 1291, dưới triều vua Trần Nhân Tông. Lần này nhà Nguyên ngạo mạn hơn, hạ chiếu đòi vua Trần Nhân Tông phải đích thân sang chầu, nhưng vua quan nhà Trần khôn khéo tìm cách từ chối. Như vậy, bài thơ “Tống Bắc sứ Trương Hiền Khanh” được vua Trần Thái Tông viết nhân dịp ông sứ thần nhà Nguyên Trương Hiền Khanh đã hoàn thành nhiệm vụ bang giao mà trở về phương Bắc. Cuộc tiễn đưa có vẻ lưu luyến, diễn ra trên bờ sông, chắc chắn là sông Nhĩ Hà, đời Trần còn gọi là Lô Giang (sông Lô). Bến Đông Bộ đầu, (nay là khoảng phố Hòe Nhai, Hà Khẩu, Hàng Than, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) thường là nơi tiễn đưa các sứ đoàn nước ta đi phương Bắc, hoặc sứ thần Bắc Quốc về xứ Bắc. Từ bến sông lịch sử này, các sứ đoàn sẽ qua sông Lô bằng thuyền buồm, rồi lên bờ Bắc, ở quãng Ái Mộ, quận Long Biên ngày nay để tiếp tục đi sang Kinh Bắc, rồi lên biên giới Lạng Giang. Vị chủ nhà khiêm nhường nói khéo: Nghĩ rằng không có ngọc quỳnh đáp lại, lòng cảm thấy tự thẹn, Trên bờ sông, nhìn xa mãi xiết bao ngậm ngùi. (Cố vô quỳnh bảo tự hoài tàm / Cực mục giang cao ý bất kham) Đấy là hai câu thơ mở đầu của bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường. “Quỳnh bảo”, tức thứ ngọc quỳnh rất quý, người xưa thường dùng vật quý này để tặng nhau. Sách Kinh Thi (thiên Vệ Phong) có câu: “ Đào ngã dĩ mộc đào/ Báo chi dĩ quỳnh dao ” (Tặng ta quả mộc đào/ Ta đáp lại bằng ngọc quỳnh dao). Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” cũng tả vẻ đẹp phong nhã trong mỗi bước đi của chàng thư sinh Kim Trọng: “ Hài văn lần bước dặm xanh, Một vùng như thể cây quỳnh cành dao ”… Sứ thần nhà Nguyên sang nước ta, lúc đầu thường vẫn vênh vang tự đắc, cao ngạo như một kẻ bề trên, thượng quốc. Vua của họ tự xưng là Thiên tử (con Trời). Ta là nước nhỏ, chỉ được xem là nước chư hầu, vua cũng chỉ ở ngôi Vương (An Nam Quốc Vương), nên việc tiếp đón sứ thần thượng quốc là một việc rất hệ trọng, có vai trò vô cùng cần thiết trong mối quan hệ bang giao, nhằm giữ cho được hòa bình, lại phải giữ cho được thể diện và quyền tự chủ của một quốc gia độc lập. Cho nên, các vua Đại Việt phải rất khéo léo trong ứng xử. Sách lược “Nội cương, ngoại nhu” (Trong cứng, ngoài mềm), “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, luôn được thực thi một cách triệt để, như một nghệ thuật ngoại giao tài tình. Ở lâu, đàm đạo văn chương thù tạc cũng nhiều, cho nên sứ thần phương Bắc mới dần hiểu và càng nể phục ý chí và tài năng thơ phú của vua quan nước ta, đặc biệt là ở đời nhà Trần. Hiểu nhau, nể trọng nhau rồi thì thành ra quan hệ trở nên gần gũi hơn. Thế nên cuộc tiễn đưa mới có vẻ bịn rịn và chân thành. Vua Trần Thái Tông nói rằng “Nghĩ rằng không có ngọc quỳnh đáp lại, lòng cảm thấy tự thẹn” là có cái ý khiêm cung đấy thôi. Hình như nhà thơ muốn nói rằng mình không có tài thi phú để làm được bài thơ hay tặng khách quý đấy chăng? Mượn điển bên Tàu, dùng văn hóa Tàu để giao đãi với sứ thần nước ấy, cũng là một sự khéo léo, khiêm nhường. Nhìn chiếc thuyền chở sứ thần nước Nguyên, giờ đây đã như một người bạn quý, nên cuộc tiễn biệt mới có cảm xúc chân thành như vậy. Hôm ấy, chắc sông Hồng mênh mang sương khói, chiếc thuyền khách cứ xa dần, xa dần, trôi dần sang bờ Bắc, đem theo một người bạn quý chả biết có khi nào gặp lại. Chẳng phải cũng ngậm ngùi lắm sao? Hai câu thơ tiếp theo, tả thực, nhưng là để mượn cảnh mà tả tình: Mã thủ thu phong xuy kiếm giáp, Ốc lương lạc nguyệt chiếu thư am. (Gió thu trước đầu ngựa thổi vào thanh gươm, Ánh trăng lọt qua rường nhà, lọt vào phòng sách) Câu trước tả hình ảnh người ra đi, tức vị khách quý. Câu sau tả quang cảnh trống vắng của căn phòng đọc sách mà khách và chủ có thể đã từng nghiền ngẫm và đàm đạo văn chương ở cung điện của nhà vua trong suốt những ngày qua. Cảnh chỉ mang tính biểu tượng, có phần ước lệ, nhưng có phần sáng tạo, gần gũi và hợp tình. Đỗ Phủ khi làm thơ nhớ Lý Bạch có câu: “ Lạc nguyệt mãn ốc lương, Do nghi chiếu nhan sắc ” (Trăng sáng đầy rường nhà/ Những tưởng dọi sáng dung nhan). Vua Trần Thái Tông mượn điển bên Tàu, cốt để gửi gắm cái tình của người đương thời, của người trong cuộc, của mình với ngài Trương Lập Đạo đại nhân mà thôi. Còn như: Màn trướng khó ngăn chim én về phương Bắc, Đất ẩm buồn nghe chim nhạn biệt phương Nam. (Mạc không nan trụ yến quy Bắc, Địa noãn sầu văn nhạn biệt Nam) Thì lại là những cảm nghĩ, những suy tư lưu luyến của người ở lại. Cái việc ngài sứ thần trở về phương Bắc là không thể khác được, dầu cho cái tình lưu luyến đã là sâu đậm như thế nào chăng nữa. Đồng thời, cái tình của người phương Nam với sứ thần cũng tương tự như vậy. Thế nên: Lần đi này chưa biết ngày nào mới có dịp nghiêng lọng, Xin vì có cuộc chuyện trò tao nhã mà có một bài thơ. (Thử khứ vị tri khuynh cái nhật, Thì thiên lưu vị dáng thanh đàm). “Nghiêng lọng” vốn là một tích xưa. Sách “Gia ngữ” chép câu chuyện Khổng Tử đi sang đất Đàm, gặp Trinh Tử ở dọc đường. Hai người dừng lại, nghiêng lọng nói chuyện với nhau cả ngày, tình rất tâm đầu ý hợp. Tác giả mượn điển này để tỏ cái tình lưu luyến của mình với bạn trong cuộc chia tay chưa biết bao giờ mới có cơ hội gặp lại. Âu cũng là cái tình muôn thuở vậy! Có thể hình dung tổng thể bài thơ của Trần Thái Tông là viết tặng sứ thần Trương Lập Đạo (Trương Hiền Khanh). Viết trong cuộc chia tay ở kinh thành Thăng Long, có thể là sau yến tiệc cung đình tiễn khách như thường lệ. Còn như cảnh tiễn đưa cũng chỉ là chuyện sắp tới, có thể là được diễn ra trong sớm mai, khi ngài sứ thần lên đường trở về phương Bắc. Giao đãi với người, lại chỉ dùng vốn hiểu biết văn hóa xứ người, là không thể khác, nhưng đồng thời cũng thể hiện bản lĩnh của một ông vua có văn hóa, mặc dù hồi ấy chữ Hán được dùng như một văn tự chính thống của nước ta. Tinh tế, khôn ngoan, nhưng cũng chân thành nồng ấm. Đó chính là cái tình lớn của những người bạn lớn, quan thiết đến công cuộc bang giao và vận mệnh của hòa bình. Qua những lần tiếp xúc trực tiếp với vua quan nước Đại Việt, Trương Lập Đạo dần tỏ ra rất kính trọng vua quan nhà Trần và truyền thống văn hóa, văn chương đặc sắc của người Đại Việt. Chính ngài Trương Hiển Khanh từng viết: “ Nước Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương, Chưa thể nói một cách nông cạn rằng, họ như ếch ngồi đáy giếng !”. Trong bang giao rất tế nhị với sứ thần Bắc Quốc, nếu đó là người nước Tống làm quan cho nhà Nguyên, các vua Trần thường khéo léo có ý nhắc nhở về thân phận các vị sứ thần Bắc Quốc rằng, chính họ, chẳng qua cũng chỉ là kẻ nô lệ cho ngoại bang, cho người Mông Cổ, chứ vẻ vang cái nỗi gì! Họ còn nhục nhã ngậm đắng nuốt cay mà phải cam lòng cúi ngửa trước kẻ thống trị. Còn như Đại Việt ta nhỏ bé, nhưng vẫn là một quốc gia chiến thắng, một quốc gia độc lập, có truyền thống văn hóa ngàn đời. Thử hỏi, ai hơn ai nào!
Hầu như các vua nước ta ở đời Trần đều tiếp và tiễn đưa các vị sứ thần Bắc Quốc về nước. Mỗi người mỗi hoàn cảnh và đối tượng khác nhau, nhưng đều có dấu ấn để lại qua thơ ca của họ. Vua Thái Tông Trần Cảnh (1218-1277) có bài thơ “Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh”, rất thú vị. Phiên âm: Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh Cố vô quỳnh bảo tự hoài tàm, Cực mục giang cao ý bất kham. Mã thủ thu phong xuy kiếm giáp, Ốc lương lạc nguyệt chiếu thư am. Mạc không nan trụ yến quy Bắc, Địa noãn sầu văn nhạn biệt Nam. Thử khứ vị tri khuynh cái nhật, Thi nhiên liêu vị dáng thanh đàm. Dịch nghĩa: Tiễn sứ Bắc Trương Hiển Khanh Nghĩ không có ngọc quỳnh đáp lại, lòng tự thẹn, Trên bờ sông nhìn xa mãi xiết bao ngậm ngùi. Gió thu trước đầu ngựa thổi vào thanh gươm, Ánh trăng lọt qua rường nhà dọi vào phòng sách. Màn trống khó ngăn chim én về phương Bắc, Đất ẩm buồn nghe chim nhạn biệt phương Nam. Lần đi này chưa biết ngày nào mới có dịp nghiêng lọng, Xin vì có cuộc chuyện trò tao nhã mà có một bài thơ. Tranh minh họa cảnh tiễn sứ về nước. Dịch thơ: Thẹn không ngọc báu tạ ơn lòng, Bát ngát nhìn sông dạ rối bong. Đầu ngựa gió thu khua bảo kiếm, Nóc nhà trăng dọi sáng thư phòng. Én về đất Bắc màn trơ trọi, Nhạn biệt trời Nam, tiếng não nùng. Nghiêng lọng ngày nào chưa dễ biết, Thơ này xin thế chuyện riêng chung. (Đào Phương Bình dịch) Đây là bài thơ vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) viết tặng Trương Hiền Khanh (tức Trương Lập Đạo) khi ông sứ thần này được vua nhà Nguyên phái sang nước Đại Việt ta để “truyền chỉ dụ” vào năm 1265. Ông Trương Lập Đạo còn được phái sang nước ta lần thứ hai, vào năm 1291, dưới triều vua Trần Nhân Tông. Lần này nhà Nguyên ngạo mạn hơn, hạ chiếu đòi vua Trần Nhân Tông phải đích thân sang chầu, nhưng vua quan nhà Trần khôn khéo tìm cách từ chối. Như vậy, bài thơ “Tống Bắc sứ Trương Hiền Khanh” được vua Trần Thái Tông viết nhân dịp ông sứ thần nhà Nguyên Trương Hiền Khanh đã hoàn thành nhiệm vụ bang giao mà trở về phương Bắc. Cuộc tiễn đưa có vẻ lưu luyến, diễn ra trên bờ sông, chắc chắn là sông Nhĩ Hà, đời Trần còn gọi là Lô Giang (sông Lô). Bến Đông Bộ đầu, (nay là khoảng phố Hòe Nhai, Hà Khẩu, Hàng Than, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) thường là nơi tiễn đưa các sứ đoàn nước ta đi phương Bắc, hoặc sứ thần Bắc Quốc về xứ Bắc. Từ bến sông lịch sử này, các sứ đoàn sẽ qua sông Lô bằng thuyền buồm, rồi lên bờ Bắc, ở quãng Ái Mộ, quận Long Biên ngày nay để tiếp tục đi sang Kinh Bắc, rồi lên biên giới Lạng Giang. Vị chủ nhà khiêm nhường nói khéo: Nghĩ rằng không có ngọc quỳnh đáp lại, lòng cảm thấy tự thẹn, Trên bờ sông, nhìn xa mãi xiết bao ngậm ngùi. (Cố vô quỳnh bảo tự hoài tàm / Cực mục giang cao ý bất kham) Đấy là hai câu thơ mở đầu của bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường. “Quỳnh bảo”, tức thứ ngọc quỳnh rất quý, người xưa thường dùng vật quý này để tặng nhau. Sách Kinh Thi (thiên Vệ Phong) có câu: “ Đào ngã dĩ mộc đào/ Báo chi dĩ quỳnh dao ” (Tặng ta quả mộc đào/ Ta đáp lại bằng ngọc quỳnh dao). Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” cũng tả vẻ đẹp phong nhã trong mỗi bước đi của chàng thư sinh Kim Trọng: “ Hài văn lần bước dặm xanh, Một vùng như thể cây quỳnh cành dao ”… Sứ thần nhà Nguyên sang nước ta, lúc đầu thường vẫn vênh vang tự đắc, cao ngạo như một kẻ bề trên, thượng quốc. Vua của họ tự xưng là Thiên tử (con Trời). Ta là nước nhỏ, chỉ được xem là nước chư hầu, vua cũng chỉ ở ngôi Vương (An Nam Quốc Vương), nên việc tiếp đón sứ thần thượng quốc là một việc rất hệ trọng, có vai trò vô cùng cần thiết trong mối quan hệ bang giao, nhằm giữ cho được hòa bình, lại phải giữ cho được thể diện và quyền tự chủ của một quốc gia độc lập. Cho nên, các vua Đại Việt phải rất khéo léo trong ứng xử. Sách lược “Nội cương, ngoại nhu” (Trong cứng, ngoài mềm), “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, luôn được thực thi một cách triệt để, như một nghệ thuật ngoại giao tài tình. Ở lâu, đàm đạo văn chương thù tạc cũng nhiều, cho nên sứ thần phương Bắc mới dần hiểu và càng nể phục ý chí và tài năng thơ phú của vua quan nước ta, đặc biệt là ở đời nhà Trần. Hiểu nhau, nể trọng nhau rồi thì thành ra quan hệ trở nên gần gũi hơn. Thế nên cuộc tiễn đưa mới có vẻ bịn rịn và chân thành. Vua Trần Thái Tông nói rằng “Nghĩ rằng không có ngọc quỳnh đáp lại, lòng cảm thấy tự thẹn” là có cái ý khiêm cung đấy thôi. Hình như nhà thơ muốn nói rằng mình không có tài thi phú để làm được bài thơ hay tặng khách quý đấy chăng? Mượn điển bên Tàu, dùng văn hóa Tàu để giao đãi với sứ thần nước ấy, cũng là một sự khéo léo, khiêm nhường. Nhìn chiếc thuyền chở sứ thần nước Nguyên, giờ đây đã như một người bạn quý, nên cuộc tiễn biệt mới có cảm xúc chân thành như vậy. Hôm ấy, chắc sông Hồng mênh mang sương khói, chiếc thuyền khách cứ xa dần, xa dần, trôi dần sang bờ Bắc, đem theo một người bạn quý chả biết có khi nào gặp lại. Chẳng phải cũng ngậm ngùi lắm sao? Hai câu thơ tiếp theo, tả thực, nhưng là để mượn cảnh mà tả tình: Mã thủ thu phong xuy kiếm giáp, Ốc lương lạc nguyệt chiếu thư am. (Gió thu trước đầu ngựa thổi vào thanh gươm, Ánh trăng lọt qua rường nhà, lọt vào phòng sách) Câu trước tả hình ảnh người ra đi, tức vị khách quý. Câu sau tả quang cảnh trống vắng của căn phòng đọc sách mà khách và chủ có thể đã từng nghiền ngẫm và đàm đạo văn chương ở cung điện của nhà vua trong suốt những ngày qua. Cảnh chỉ mang tính biểu tượng, có phần ước lệ, nhưng có phần sáng tạo, gần gũi và hợp tình. Đỗ Phủ khi làm thơ nhớ Lý Bạch có câu: “ Lạc nguyệt mãn ốc lương, Do nghi chiếu nhan sắc ” (Trăng sáng đầy rường nhà/ Những tưởng dọi sáng dung nhan). Vua Trần Thái Tông mượn điển bên Tàu, cốt để gửi gắm cái tình của người đương thời, của người trong cuộc, của mình với ngài Trương Lập Đạo đại nhân mà thôi. Còn như: Màn trướng khó ngăn chim én về phương Bắc, Đất ẩm buồn nghe chim nhạn biệt phương Nam. (Mạc không nan trụ yến quy Bắc, Địa noãn sầu văn nhạn biệt Nam) Thì lại là những cảm nghĩ, những suy tư lưu luyến của người ở lại. Cái việc ngài sứ thần trở về phương Bắc là không thể khác được, dầu cho cái tình lưu luyến đã là sâu đậm như thế nào chăng nữa. Đồng thời, cái tình của người phương Nam với sứ thần cũng tương tự như vậy. Thế nên: Lần đi này chưa biết ngày nào mới có dịp nghiêng lọng, Xin vì có cuộc chuyện trò tao nhã mà có một bài thơ. (Thử khứ vị tri khuynh cái nhật, Thì thiên lưu vị dáng thanh đàm). “Nghiêng lọng” vốn là một tích xưa. Sách “Gia ngữ” chép câu chuyện Khổng Tử đi sang đất Đàm, gặp Trinh Tử ở dọc đường. Hai người dừng lại, nghiêng lọng nói chuyện với nhau cả ngày, tình rất tâm đầu ý hợp. Tác giả mượn điển này để tỏ cái tình lưu luyến của mình với bạn trong cuộc chia tay chưa biết bao giờ mới có cơ hội gặp lại. Âu cũng là cái tình muôn thuở vậy! Có thể hình dung tổng thể bài thơ của Trần Thái Tông là viết tặng sứ thần Trương Lập Đạo (Trương Hiền Khanh). Viết trong cuộc chia tay ở kinh thành Thăng Long, có thể là sau yến tiệc cung đình tiễn khách như thường lệ. Còn như cảnh tiễn đưa cũng chỉ là chuyện sắp tới, có thể là được diễn ra trong sớm mai, khi ngài sứ thần lên đường trở về phương Bắc. Giao đãi với người, lại chỉ dùng vốn hiểu biết văn hóa xứ người, là không thể khác, nhưng đồng thời cũng thể hiện bản lĩnh của một ông vua có văn hóa, mặc dù hồi ấy chữ Hán được dùng như một văn tự chính thống của nước ta. Tinh tế, khôn ngoan, nhưng cũng chân thành nồng ấm. Đó chính là cái tình lớn của những người bạn lớn, quan thiết đến công cuộc bang giao và vận mệnh của hòa bình. Qua những lần tiếp xúc trực tiếp với vua quan nước Đại Việt, Trương Lập Đạo dần tỏ ra rất kính trọng vua quan nhà Trần và truyền thống văn hóa, văn chương đặc sắc của người Đại Việt. Chính ngài Trương Hiển Khanh từng viết: “ Nước Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương, Chưa thể nói một cách nông cạn rằng, họ như ếch ngồi đáy giếng !”. Trong bang giao rất tế nhị với sứ thần Bắc Quốc, nếu đó là người nước Tống làm quan cho nhà Nguyên, các vua Trần thường khéo léo có ý nhắc nhở về thân phận các vị sứ thần Bắc Quốc rằng, chính họ, chẳng qua cũng chỉ là kẻ nô lệ cho ngoại bang, cho người Mông Cổ, chứ vẻ vang cái nỗi gì! Họ còn nhục nhã ngậm đắng nuốt cay mà phải cam lòng cúi ngửa trước kẻ thống trị. Còn như Đại Việt ta nhỏ bé, nhưng vẫn là một quốc gia chiến thắng, một quốc gia độc lập, có truyền thống văn hóa ngàn đời. Thử hỏi, ai hơn ai nào!
Phiên đấu giá diễn ra vào 17g30 ngày 4/4, theo giờ Hồng Kông. Tranh La famille dans le jardin ( Gia đình trong vườn ) là bức tranh lụa lớn thứ hai của danh họa Lê Phổ được công chúng biết đến (kích thước 91,3cm x 61,5cm) sáng tác năm 1938 – 1 năm sau khi ông qua Pháp định cư. Tác phẩm từng được đấu giá vào năm 1999 đi kèm giấy chứng thực từ Alain Le Kim – con trai cố họa sĩ. Theo đó, với mức giá này giúp bức tranh trên trở thành tác phẩm được đấu giá cao nhất của danh họa Lê Phổ, cao thứ hai trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Hiện tranh của danh họa Việt Nam có giá cao nhất là tác phẩm Chân dung cô Phượng của danh họa Mai Trung Thứ với giá bán là 3,1 triệu USD. Trước đó, tranh sơn dầu Figures in a garden ( Dáng hình trong vườn) của Lê Phổ, được bán với giá 2,29 triệu USD trong phiên đấu giá của Sotheby’s Hồng Kông vào tháng 4/2022. Được biết, cũng trong phiên đấu giá này, tranh Thiếu nữ áo xanh ( Jeune femme en blue dans un paysage ) của Vũ Cao Đàm cũng đạt mức giá bán ra tốt, hơn 900.000 USD (khoảng 21 tỷ đồng). Tác phẩm Phụ nữ và trẻ em bên sông ( Femmes et enfants au bord de la riviere ) của Mai Trung Thứ được gõ búa với giá 5,7 triệu đô-la Hồng Kông, tương đương hơn 700.000 USD (hơn 16,4 tỷ đồng).
The auction takes place at 5:30 p.m. on April 4, Hong Kong time. Painting La famille dans le jardin ( Family in the garden ) is the second largest silk painting known to the public by famous artist Le Pho (size 91.3cm x 61.5cm) created in 1938 - 1 year after he settled in France. The work was auctioned in 1999 and comes with a certificate of authenticity from Alain Le Kim - the late artist's son. Accordingly, this price helps the above painting become the highest auctioned work of famous artist Le Pho, the second highest in the history of Vietnamese fine arts. Currently, paintings by famous Vietnamese artists have the highest price Portrait of Ms. Phuong by famous artist Mai Trung Thu with a selling price of 3.1 million USD. Before that, oil paintings Figures in a garden ( Shape in the garden) by Le Pho, sold for 2.29 million USD at Sotheby's Hong Kong auction in April 2022. It is known that, also in this auction, paintings Girl in blue shirt ( Jeune femme in blue dans un paysage ) by Vu Cao Dam also achieved a good selling price, more than 900,000 USD (about 21 billion VND). Work Women and children by the river ( Femmes et enfants au bord de la riviere ) by Mai Trung Thu went under the hammer for 5.7 million Hong Kong dollars, equivalent to more than 700,000 USD (more than 16.4 billion VND).
Tài năng của một chính khách lão luyện đã giúp Đào Duy Từ vừa mềm dẻo, khéo léo vừa kiên quyết và mạnh mẽ, giúp chúa Nguyễn ứng xử, đối phó với các chính sách áp chế của chúa Trịnh ở xứ Đàng Ngoài. Lũy Thầy, cùng với lũy Trường Dục, là những công trình kiến trúc quân sự kỳ vĩ ở thế kỷ XVII, đã góp phần đắc lực trong việc giúp các chúa Nguyễn giữ chắc sự nghiệp Nam tiến – mở đất thần thánh của dân tộc. Tên gọi “Thầy” của lũy, cũng như của người dựng lũy, phản ánh và nói theo tên tuổi sự nghiệp của một nhân vật lịch sử lớn, trên thực tế, đã làm và được chúa Nguyễn Phúc Nguyên tôn gọi là Thầy: Đào Duy Từ. Đào Duy Từ sinh năm 1572, đúng vào lúc chúa Nguyễn Hoàng, đương chức Trấn thủ các xứ Thuận Hóa – Quảng Nam, đánh bại cuộc tấn công của quân nhà Mạc, ngoài “Bắc triều”, cắt đường vòng qua Thanh Nghệ vào phá đất Thuận Quảng của “Nam triều”. Ông quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa (nay là thôn Sơn Thắng, phường Nguyên Bình, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Cha ông là Đào Tá Hán – một kép hát nổi tiếng, từng làm chức lĩnh quan, trông coi đội nữ nhạc của “Nam triều”, thời vua Lê Anh Tông và Thái sư Trịnh Kiểm. Di tích lũy Thầy ở TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình (Ảnh: HOÀNG PHÚC). Cha mất sớm nhưng được mẹ tận tâm nuôi dạy nên Đào Duy Từ đã sớm nổi danh học giỏi như thần đồng, 14 tuổi đã là học trò xuất sắc của Hương cống Nguyễn Đức Khoa. Tuy nhiên, do định kiến và chế độ thi cử hà khắc ở “Nam triều” lúc bấy giờ, coi “xướng ca (là) vô loài”, nên Đào Duy Từ không được phép đi thi. 21 tuổi, vào năm 1593, lúc “Nam triều” của họ Lê – Trịnh vừa đánh bại “Bắc triều” của họ Mạc, tổ chức khoa thi Hương năm Quý Tỵ, Đào Duy Từ đổi tính danh theo họ mẹ thành Vũ Duy Từ, dự thi ở trường Hương thí xứ Thanh, đỗ Á nguyên. Nhưng vừa ra Thăng Long, chuẩn bị thi Hội thì sự việc “mạo danh” ứng thí bị phát giác. Đào Duy Từ bị đánh tuột danh hiệu Á nguyên, lột mũ áo đuổi về quê. Bất đắc chí và lầm lũi sống ở quê nhà bằng nghề dạy học cho đến năm 1625, ở tuổi đã 53, Đào Duy Từ mới trốn được vào “xứ Đàng Trong”, bấy giờ đang ở vào đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, kế nghiệp chúa Nguyễn Hoàng, trị vì. Nhưng biết chưa thể đường đột ra mắt người đứng đầu xứ Đàng Trong ngay, nên đầu tiên Đào Duy Từ phải đánh đường vào tận Hoài Nhân (tỉnh Bình Định ngày nay), làm kẻ chăn trâu cho một phú hào để ẩn nhẫn, dò xét tình hình và chờ đợi thời cơ. Bài thơ “Ngọa Long Cương vãn” – tự ví mình với Khổng Minh Gia Cát Lượng, ở ẩn tại Ngọa Long Cương, chờ Lưu Bị tìm đến gặp – của Đào Duy Từ, ra đời vào thời gian này. Sau đấy, nhờ có Khám lý Hoài Nhân là Trần Đức Hòa biết tiếng tăm và tông tích họ Đào mới thu nạp vào dưới trướng, lại đem con gái gả cho, rồi dâng “Ngọa Long Cương vãn”, giới thiệu Đào Duy Từ với chúa Nguyễn Phúc Nguyên, đường đến với vị chúa Xứ Đàng Trong của Đào Duy Từ mới hanh thông. Vì chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã nghe chuyện cha mình là Nguyễn Hoàng, từ thuở còn làm “con thoi” ra Bắc vào Nam, qua xứ Thanh, từng để ý đến Đào Duy Từ, nay được Trần Đức Hòa bảo lãnh, lại trực tiếp “phỏng vấn” và đọc “Ngọa Long Cương vãn” của họ Đào, nên cả mừng như bắt được vàng, phong ngay Đào Duy Từ làm Nha úy Nội tán tước Lộc Khê hầu, trông coi mọi việc quân cơ, quốc chính. Bấy giờ là năm 1627 và Đào Duy Từ đã 55 tuổi. Năm 1627 cũng là thời gian bùng nổ cuộc chiến lần thứ nhất, giữa thế lực của chúa Trịnh Tráng ở “xứ Đàng Ngoài” và lực lượng chúa Nguyễn Phúc Nguyên ở “xứ Đàng Trong”, mở đầu cho 7 lần giao tranh tàn khốc của chuỗi sự kiện “Trịnh – Nguyễn phân tranh”, kéo dài 45 năm giữa thế kỷ XVII (1627 – 1672). Từ tháng 3-1627 ấy, chúa Trịnh Tráng rước vua Lê Thần Tông, đem theo tướng Nguyễn Khải, cùng đại binh từ Thăng Long vượt sông Gianh, vào bày trận ở bờ Bắc sông Nhật Lệ, chờ đánh tan lực lượng chống đỡ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên do tôn thất Nguyễn Phúc Vệ và danh tướng Nguyễn Hữu Dật chỉ huy, từ thủ phủ xứ Đàng Trong lúc bấy giờ là Dinh Cát (ở huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị bây giờ) kéo ra, rồi thì – nếu thắng – sẽ tiến vào, chiếm lấy Dinh Cát. Nhưng cuộc chiến đối trận (đối lũy, đối ngạn) trên chiến trường Nhật Lệ, sau đấy đã diễn ra dữ dội, phức tạp mà không theo như mong muốn của chúa Trịnh, khiến Trịnh Tráng phải bãi binh, rút quân về Thăng Long, chuẩn bị cho lần sau lại dẫn quân vào đánh tiếp. Trong khi đó, Đào Duy Từ theo dõi toàn bộ diễn biến của cuộc chiến, đã nhận ra vị thế trọng yếu – chiến lược của vùng sông Nhật Lệ, không chỉ ở (và đối với) cuộc chiến lần thứ nhất này, mà chắc chắn còn ở (và đối với) các lần đánh nhau sau nữa, cho nên đã đi tới một quyết định trọng đại: Chọn vùng Nhật Lệ xây dựng một hệ thống công sự phòng ngự, dạng thành lũy kiên cố và linh động, thật lợi hại, bảo đảm cho sự nghiệp giữ đất của xứ Đàng Trong! Vậy là, theo tâu bày của Đào Duy Từ, vào năm 1630, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã xuống lệnh huy động tối đa lực lượng quân dân “xứ Đàng Trong”, xây dựng lũy Trường Dục. Lũy này, lấy sông Nhật Lệ làm hào, đắp nổi mà chạy dài 9 km, cao 3 m, dày 6 m, từ chân núi Trường Dục ở phía Tây, ra đến phá Hạc Hải ở mạn Đông. Đến năm sau (1631), Đào Duy Từ lại tâu xin chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho xây đắp một chiến lũy nữa, kỳ công hơn, “tung hứng” cùng lũy Trường Dục mà giữ chắc lấy đất. Đó là lũy Nhật Lệ nhưng được quen gọi hơn là “lũy Thầy” (tức “Lũy của Thầy Đào Duy Từ”). Lũy Thầy – Nhật Lệ được mô tả trong sử cũ, như sau: Cao 1 trượng 3 thước, mặt ngoài ốp (đóng) gỗ lim, mặt trong đắp đất làm 5 bậc, để voi ngựa có thể đi lại được. Chiều dài của lũy là 3.000 trượng, cứ cách mỗi trượng lại đặt một khẩu súng “quá sơn”, cách 3 hoặc 5 trượng, lập một pháo đài, đặt một khẩu súng nòng lớn. Thuốc đạn chứa chất như núi. Đo đạc di tích còn lại đến nay thì thấy lũy Thầy có chiều dài 18 km, gấp đôi lũy Trường Dục, bắt đầu từ núi Đâu Mâu ở phía Tây, chạy ra cửa biển Nhật Lệ ở phía Đông, vòng ngược lại lên mạn Đông Bắc mà chốt lại ở làng Đông Hải. Hai chiến lũy Trường Dục và lũy Thầy hợp lại thành một ô phòng thủ, phối hợp với việc thả xích sắt chắn ngang các cửa biển Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) và Minh Linh (cửa Tùng), trên thực tế, đã che kín địa đầu phía Bắc của Xứ Đàng Trong, chặn kỹ hướng xâm nhập từ Xứ Đàng Ngoài vào. Một “vùng đệm” chạy từ mặt trước lũy ra phía Bắc, tới bờ Nam sông Gianh, cũng được Đào Duy Từ chỉ ra cho chúa Nguyễn thiết lập, thành bãi chiến trường để hỗ trợ hệ thống lũy phát huy hiệu quả chống đỡ hướng tấn công từ bờ Bắc sông Gianh sang. Ngay lập tức, sau khi hình thành rồi thành hình hệ thống công sự gọi chung là lũy Thầy này, những hiệu quả tác chiến phòng thủ của chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong chống lại chúa Trịnh ở xứ Đàng Ngoài đã được phát huy tối đa, trong lần chiến tranh thứ hai – năm 1633. Và trong các lần chiến tranh sau đó nữa, như ở lần thứ 4 – năm 1648, kể cả ở lần thứ 7 – năm 1672, lũy đã bị phá vỡ đến 30 trượng nhưng ngay trong đêm, quân chúa Nguyễn lại cố sức “vá” lại, khiến cho trong suốt 45 năm của cuộc chiến “Trịnh – Nguyễn phân tranh”, không lần nào quân Trịnh có thể vượt qua lũy mà vào sâu xứ Đàng Trong được. Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng lũy Thầy, mà còn nữa, cả một hệ thống những công sức và trí tuệ, đã được Đào Duy Từ cống hiến cho sự nghiệp giữ đất xứ Đàng Trong. Tài năng của một chính khách lão luyện đã khiến Đào Duy Từ vừa mềm dẻo, khéo léo vừa kiên quyết và mạnh mẽ, giúp chúa Nguyễn ứng xử, đối phó với các chính sách áp chế của chúa Trịnh ở xứ Đàng Ngoài. Đến khi xảy ra cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh tàn khốc thì tuy không thân chinh, chỉ huy các trận đánh nhưng Đào Duy Từ vẫn là một nhà quân sự đại tài, khi đưa ra những quyết sách chiến lược, tổ chức và xây dựng lực lượng chiến đấu, cả chế tạo vũ khí, đặc biệt là viết bộ binh thư nổi tiếng “Hổ trướng khu cơ” – không chỉ có tác dụng lớn về cả thực tiễn và lý luận quân sự đối với đương thời ở xứ Đàng Trong mà còn lâu dài về sau, trên bình diện toàn đất nước. Một sự nghiệp đồ sộ như thế, mà lại chỉ có 8 năm để thực hiện! Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Ngày 17 tháng 10 năm Giáp Tuất (7-12-1634), Đào Duy Từ lâm bệnh nặng, mất, thọ 63 tuổi. Trước đó, được chúa Nguyễn Phúc Nguyên thân đến bên giường bệnh thăm hỏi, Đào Duy Từ đã khóc và nói lời cuối cùng: “Thần gặp được thánh minh, chưa báo đáp được mảy may, nay đã bệnh đến thế này, còn biết nói chi nữa!”. Sử cũ chép: Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc, phong cho làm Hiệp mưu Đồng đức Công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu.
Tài năng của một chính khách lão luyện đã giúp Đào Duy Từ vừa mềm dẻo, khéo léo vừa kiên quyết và mạnh mẽ, giúp chúa Nguyễn ứng xử, đối phó với các chính sách áp chế của chúa Trịnh ở xứ Đàng Ngoài. Lũy Thầy, cùng với lũy Trường Dục, là những công trình kiến trúc quân sự kỳ vĩ ở thế kỷ XVII, đã góp phần đắc lực trong việc giúp các chúa Nguyễn giữ chắc sự nghiệp Nam tiến – mở đất thần thánh của dân tộc. Tên gọi “Thầy” của lũy, cũng như của người dựng lũy, phản ánh và nói theo tên tuổi sự nghiệp của một nhân vật lịch sử lớn, trên thực tế, đã làm và được chúa Nguyễn Phúc Nguyên tôn gọi là Thầy: Đào Duy Từ. Đào Duy Từ sinh năm 1572, đúng vào lúc chúa Nguyễn Hoàng, đương chức Trấn thủ các xứ Thuận Hóa – Quảng Nam, đánh bại cuộc tấn công của quân nhà Mạc, ngoài “Bắc triều”, cắt đường vòng qua Thanh Nghệ vào phá đất Thuận Quảng của “Nam triều”. Ông quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa (nay là thôn Sơn Thắng, phường Nguyên Bình, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Cha ông là Đào Tá Hán – một kép hát nổi tiếng, từng làm chức lĩnh quan, trông coi đội nữ nhạc của “Nam triều”, thời vua Lê Anh Tông và Thái sư Trịnh Kiểm. Di tích lũy Thầy ở TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình (Ảnh: HOÀNG PHÚC). Cha mất sớm nhưng được mẹ tận tâm nuôi dạy nên Đào Duy Từ đã sớm nổi danh học giỏi như thần đồng, 14 tuổi đã là học trò xuất sắc của Hương cống Nguyễn Đức Khoa. Tuy nhiên, do định kiến và chế độ thi cử hà khắc ở “Nam triều” lúc bấy giờ, coi “xướng ca (là) vô loài”, nên Đào Duy Từ không được phép đi thi. 21 tuổi, vào năm 1593, lúc “Nam triều” của họ Lê – Trịnh vừa đánh bại “Bắc triều” của họ Mạc, tổ chức khoa thi Hương năm Quý Tỵ, Đào Duy Từ đổi tính danh theo họ mẹ thành Vũ Duy Từ, dự thi ở trường Hương thí xứ Thanh, đỗ Á nguyên. Nhưng vừa ra Thăng Long, chuẩn bị thi Hội thì sự việc “mạo danh” ứng thí bị phát giác. Đào Duy Từ bị đánh tuột danh hiệu Á nguyên, lột mũ áo đuổi về quê. Bất đắc chí và lầm lũi sống ở quê nhà bằng nghề dạy học cho đến năm 1625, ở tuổi đã 53, Đào Duy Từ mới trốn được vào “xứ Đàng Trong”, bấy giờ đang ở vào đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, kế nghiệp chúa Nguyễn Hoàng, trị vì. Nhưng biết chưa thể đường đột ra mắt người đứng đầu xứ Đàng Trong ngay, nên đầu tiên Đào Duy Từ phải đánh đường vào tận Hoài Nhân (tỉnh Bình Định ngày nay), làm kẻ chăn trâu cho một phú hào để ẩn nhẫn, dò xét tình hình và chờ đợi thời cơ. Bài thơ “Ngọa Long Cương vãn” – tự ví mình với Khổng Minh Gia Cát Lượng, ở ẩn tại Ngọa Long Cương, chờ Lưu Bị tìm đến gặp – của Đào Duy Từ, ra đời vào thời gian này. Sau đấy, nhờ có Khám lý Hoài Nhân là Trần Đức Hòa biết tiếng tăm và tông tích họ Đào mới thu nạp vào dưới trướng, lại đem con gái gả cho, rồi dâng “Ngọa Long Cương vãn”, giới thiệu Đào Duy Từ với chúa Nguyễn Phúc Nguyên, đường đến với vị chúa Xứ Đàng Trong của Đào Duy Từ mới hanh thông. Vì chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã nghe chuyện cha mình là Nguyễn Hoàng, từ thuở còn làm “con thoi” ra Bắc vào Nam, qua xứ Thanh, từng để ý đến Đào Duy Từ, nay được Trần Đức Hòa bảo lãnh, lại trực tiếp “phỏng vấn” và đọc “Ngọa Long Cương vãn” của họ Đào, nên cả mừng như bắt được vàng, phong ngay Đào Duy Từ làm Nha úy Nội tán tước Lộc Khê hầu, trông coi mọi việc quân cơ, quốc chính. Bấy giờ là năm 1627 và Đào Duy Từ đã 55 tuổi. Năm 1627 cũng là thời gian bùng nổ cuộc chiến lần thứ nhất, giữa thế lực của chúa Trịnh Tráng ở “xứ Đàng Ngoài” và lực lượng chúa Nguyễn Phúc Nguyên ở “xứ Đàng Trong”, mở đầu cho 7 lần giao tranh tàn khốc của chuỗi sự kiện “Trịnh – Nguyễn phân tranh”, kéo dài 45 năm giữa thế kỷ XVII (1627 – 1672). Từ tháng 3-1627 ấy, chúa Trịnh Tráng rước vua Lê Thần Tông, đem theo tướng Nguyễn Khải, cùng đại binh từ Thăng Long vượt sông Gianh, vào bày trận ở bờ Bắc sông Nhật Lệ, chờ đánh tan lực lượng chống đỡ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên do tôn thất Nguyễn Phúc Vệ và danh tướng Nguyễn Hữu Dật chỉ huy, từ thủ phủ xứ Đàng Trong lúc bấy giờ là Dinh Cát (ở huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị bây giờ) kéo ra, rồi thì – nếu thắng – sẽ tiến vào, chiếm lấy Dinh Cát. Nhưng cuộc chiến đối trận (đối lũy, đối ngạn) trên chiến trường Nhật Lệ, sau đấy đã diễn ra dữ dội, phức tạp mà không theo như mong muốn của chúa Trịnh, khiến Trịnh Tráng phải bãi binh, rút quân về Thăng Long, chuẩn bị cho lần sau lại dẫn quân vào đánh tiếp. Trong khi đó, Đào Duy Từ theo dõi toàn bộ diễn biến của cuộc chiến, đã nhận ra vị thế trọng yếu – chiến lược của vùng sông Nhật Lệ, không chỉ ở (và đối với) cuộc chiến lần thứ nhất này, mà chắc chắn còn ở (và đối với) các lần đánh nhau sau nữa, cho nên đã đi tới một quyết định trọng đại: Chọn vùng Nhật Lệ xây dựng một hệ thống công sự phòng ngự, dạng thành lũy kiên cố và linh động, thật lợi hại, bảo đảm cho sự nghiệp giữ đất của xứ Đàng Trong! Vậy là, theo tâu bày của Đào Duy Từ, vào năm 1630, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã xuống lệnh huy động tối đa lực lượng quân dân “xứ Đàng Trong”, xây dựng lũy Trường Dục. Lũy này, lấy sông Nhật Lệ làm hào, đắp nổi mà chạy dài 9 km, cao 3 m, dày 6 m, từ chân núi Trường Dục ở phía Tây, ra đến phá Hạc Hải ở mạn Đông. Đến năm sau (1631), Đào Duy Từ lại tâu xin chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho xây đắp một chiến lũy nữa, kỳ công hơn, “tung hứng” cùng lũy Trường Dục mà giữ chắc lấy đất. Đó là lũy Nhật Lệ nhưng được quen gọi hơn là “lũy Thầy” (tức “Lũy của Thầy Đào Duy Từ”). Lũy Thầy – Nhật Lệ được mô tả trong sử cũ, như sau: Cao 1 trượng 3 thước, mặt ngoài ốp (đóng) gỗ lim, mặt trong đắp đất làm 5 bậc, để voi ngựa có thể đi lại được. Chiều dài của lũy là 3.000 trượng, cứ cách mỗi trượng lại đặt một khẩu súng “quá sơn”, cách 3 hoặc 5 trượng, lập một pháo đài, đặt một khẩu súng nòng lớn. Thuốc đạn chứa chất như núi. Đo đạc di tích còn lại đến nay thì thấy lũy Thầy có chiều dài 18 km, gấp đôi lũy Trường Dục, bắt đầu từ núi Đâu Mâu ở phía Tây, chạy ra cửa biển Nhật Lệ ở phía Đông, vòng ngược lại lên mạn Đông Bắc mà chốt lại ở làng Đông Hải. Hai chiến lũy Trường Dục và lũy Thầy hợp lại thành một ô phòng thủ, phối hợp với việc thả xích sắt chắn ngang các cửa biển Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) và Minh Linh (cửa Tùng), trên thực tế, đã che kín địa đầu phía Bắc của Xứ Đàng Trong, chặn kỹ hướng xâm nhập từ Xứ Đàng Ngoài vào. Một “vùng đệm” chạy từ mặt trước lũy ra phía Bắc, tới bờ Nam sông Gianh, cũng được Đào Duy Từ chỉ ra cho chúa Nguyễn thiết lập, thành bãi chiến trường để hỗ trợ hệ thống lũy phát huy hiệu quả chống đỡ hướng tấn công từ bờ Bắc sông Gianh sang. Ngay lập tức, sau khi hình thành rồi thành hình hệ thống công sự gọi chung là lũy Thầy này, những hiệu quả tác chiến phòng thủ của chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong chống lại chúa Trịnh ở xứ Đàng Ngoài đã được phát huy tối đa, trong lần chiến tranh thứ hai – năm 1633. Và trong các lần chiến tranh sau đó nữa, như ở lần thứ 4 – năm 1648, kể cả ở lần thứ 7 – năm 1672, lũy đã bị phá vỡ đến 30 trượng nhưng ngay trong đêm, quân chúa Nguyễn lại cố sức “vá” lại, khiến cho trong suốt 45 năm của cuộc chiến “Trịnh – Nguyễn phân tranh”, không lần nào quân Trịnh có thể vượt qua lũy mà vào sâu xứ Đàng Trong được. Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng lũy Thầy, mà còn nữa, cả một hệ thống những công sức và trí tuệ, đã được Đào Duy Từ cống hiến cho sự nghiệp giữ đất xứ Đàng Trong. Tài năng của một chính khách lão luyện đã khiến Đào Duy Từ vừa mềm dẻo, khéo léo vừa kiên quyết và mạnh mẽ, giúp chúa Nguyễn ứng xử, đối phó với các chính sách áp chế của chúa Trịnh ở xứ Đàng Ngoài. Đến khi xảy ra cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh tàn khốc thì tuy không thân chinh, chỉ huy các trận đánh nhưng Đào Duy Từ vẫn là một nhà quân sự đại tài, khi đưa ra những quyết sách chiến lược, tổ chức và xây dựng lực lượng chiến đấu, cả chế tạo vũ khí, đặc biệt là viết bộ binh thư nổi tiếng “Hổ trướng khu cơ” – không chỉ có tác dụng lớn về cả thực tiễn và lý luận quân sự đối với đương thời ở xứ Đàng Trong mà còn lâu dài về sau, trên bình diện toàn đất nước. Một sự nghiệp đồ sộ như thế, mà lại chỉ có 8 năm để thực hiện! Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Ngày 17 tháng 10 năm Giáp Tuất (7-12-1634), Đào Duy Từ lâm bệnh nặng, mất, thọ 63 tuổi. Trước đó, được chúa Nguyễn Phúc Nguyên thân đến bên giường bệnh thăm hỏi, Đào Duy Từ đã khóc và nói lời cuối cùng: “Thần gặp được thánh minh, chưa báo đáp được mảy may, nay đã bệnh đến thế này, còn biết nói chi nữa!”. Sử cũ chép: Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc, phong cho làm Hiệp mưu Đồng đức Công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu.
Kỳ trăng tròn tháng 2 âm lịch này được người dân Bắc Mỹ gọi là trăng hồng vì nó có màu hồng giống loài hoa dại ở vùng này thường nở vào tháng 4. Theo Hội Thiên văn Hà Nội (HAS), hiện tượng trăng hồng hay còn gọi là trăng tròn sẽ xuất hiện vào tối 6/4 là một trong những sự kiện thiên văn học đáng mong đợi của tháng 4 này. Tên gọi trăng hồng có xuất xứ từ tên gọi của một loài hoa mọc phổ biến ở Bắc Mỹ và nở vào mùa xuân gọi là hoa phlox. Thời điểm tháng 4 hàng năm là khi hoa plox nở rộ và ở những nơi chúng mọc nhiều tạo nên cảnh tượng như một tấm thảm màu hồng trên mặt đất. Trăng tròn rơi vào khoảng thời gian như vậy được người bản địa gọi là trăng hồng. Trăng hồng là hiện tượng thiên văn thú vị trong tháng 4. Cách gọi tên như tên thông thường xuất phát từ văn hóa, cũng là trăng tròn tháng 4 nhưng có nhiều tên gọi khác nhau như trăng cỏ mọc, trăng thỏ rừng, trăng cá. Kỳ trăng này cũng rơi vào dịp lễ Phục sinh của người theo đạo Thiên Chúa giáo , thường diễn ra vào Chủ nhật đầu tiên của tháng 4. Năm nay, lễ Phục sinh của những người theo đạo Tin lành rơi vào ngày 9/4, còn Phục sinh của người theo đạo Cơ đốc giáo chính thống là ngày 13/4, ngày được cho là Chúa Giê-su sống lại và lên thiên đàng. Theo lịch mặt trăng của người Hindu (kết hợp giữa lịch mặt trăng và lịch mặt trời), kỳ trăng này đánh dấu lễ hội Hanuman Jayanti và phổ biến trong những người theo đạo Phật tại Sri Lanka. Theo ông Đặng Vũ Tuấn Sơn, Hội Thiên văn và Vũ trụ học Việt Nam, trăng hồng diễn ra khi Mặt trăng di chuyển đến phía đối diện với Trái đất (Trái đất nằm giữa Mặt trăng và Mặt trời). Khi đó, Mặt trăng lớn và sáng hơn bình thường. Mặc dù có tên là trăng hồng nhưng vào đêm hôm đó trăng có thể có màu trắng, vàng… Mặc dù không thực sự chuyển sang màu hồng, tại nhiều địa điểm trên thế giới, Mặt trăng chuyển sang màu đỏ nhạt. Việc Trăng có màu gì còn do thời điểm quan sát. Theo ông Đặng Vũ Tuấn Sơn, Trăng có màu hồng không hiếm. Thường thì khi Trăng còn ở hơi thấp nó sẽ có nhiều sắc đỏ hơn, cộng với việc khí quyển ô nhiễm hoặc có phân lớp rõ rệt giữa các lớp khí dẫn tới sự sai khác về góc khúc xạ của ánh sáng. Nếu đợi đến lúc Trăng lên đủ cao thì không có màu đó. Theo ông Đặng Vũ Tuấn Sơn, Mặt trăng không hề tự phát sáng, ánh sáng mà ta nhìn thấy là ánh sáng của Mặt trời phản xạ lại khi gặp bề mặt Mặt trăng. Vì Mặt trăng chuyển động quanh Trái đất nên vùng được chiếu sáng mà chúng ta nhìn thấy ở mỗi thời điểm là khác nhau. Sự biến đổi hình dạng của vùng được chiếu sáng đo theo chu kỳ được gọi là các pha của Mặt trăng. Âm lịch mà chúng ta sử dụng dựa trên chính chu kỳ các pha như vậy. Hằng ngày, Mặt trăng luôn có màu trắng – vàng. Riêng những lần có nguyệt thực – khi Mặt trăng ở pha tròn và đi vào vùng bóng tối phía sau Trái đất – thì một phần hoặc toàn bộ Mặt trăng có màu đỏ, đối với vùng nửa tối thì là màu đỏ nhạt – hoặc có thể gọi là hồng. Thời điểm tốt nhất để ngắm trăng tròn lần này là khi mặt trăng mọc ở hướng đông vào ngày 6/4, ngay sau khi hoàng hôn. Bạn có thể kiểm tra thời gian trăng mọc từ vị trí của bạn và tìm một nơi thoáng đãng để quan sát mặt trăng vì nó mọc khá thấp so với đường chân trời ở phía đông. Khi trăng lên và tròn dần, nó sẽ chuyển màu cam khi được nhìn thấy từ đường chân trời. Ánh sáng của mặt trăng sẽ soi sáng khắp bầu khí quyển của Trái đất. Điều này có nghĩa là các bước sóng của ánh sáng màu xanh da trời sẽ ngắn hơn trong bầu khí quyển, trong khi các bước sóng dài hơn màu đỏ và màu cam sẽ dễ dàng đi qua hơn. Sau trăng hồng, kỳ trăng tiếp theo sẽ diễn ra vào ngày 5/5. Kỳ trăng này được gọi là trăng hoa vì nó diễn ra vào thời kỳ cây cối ra hoa và vào vụ trồng ngô.
This full moon in the second lunar month is called the pink moon by North Americans because it is pink like the wildflowers in this region that usually bloom in April. According to the Hanoi Astronomical Society (HAS), the pink moon phenomenon, also known as the full moon, will appear on the evening of April 6 and is one of the expected astronomical events of this April. The name pink moon comes from the name of a flower that grows commonly in North America and blooms in spring called phlox. April every year is when plox flowers bloom and in places where they grow a lot, they create a scene like a pink carpet on the ground. The full moon that falls during such a period is called the pink moon by the natives. The pink moon is an interesting astronomical phenomenon in April. The common name comes from culture, it is also the full moon in April but has many different names such as grass moon, hare moon, fish moon. This moon also falls on the religious holiday of Easter Christian , usually takes place on the first Sunday of April. This year, Easter for Protestants falls on April 9, while Easter For Orthodox Christians, it is April 13, the day Jesus is said to have been resurrected and ascended to heaven. According to the Hindu lunar calendar (a combination of lunar and solar calendars), this lunar period marks the Hanuman Jayanti festival and is popular among Buddhists in Sri Lanka. According to Mr. Dang Vu Tuan Son, Vietnam Association of Astronomy and Cosmology, the pink moon occurs when the Moon moves to the opposite side of the Earth (Earth is between the Moon and the Sun). At that time, the Moon is larger and brighter than usual. Although it is called the pink moon, on that night the moon can be white, yellow... Although it does not actually turn pink, in many locations around the world, the Moon turns pale red. The color of the Moon depends on the time of observation. According to Mr. Dang Vu Tuan Son, a pink moon is not rare. Usually, when the Moon is still a bit low, it will have more red hues, combined with atmospheric pollution or clear layering between gas layers, leading to differences in the angle of refraction of light. If you wait until the Moon rises high enough, that color will not appear. According to Mr. Dang Vu Tuan Son, the Moon does not emit light on its own, the light we see is the light reflected by the Sun when it meets the Moon's surface. Because the Moon moves around the Earth, the illuminated area we see is different at each moment. The shape of the illuminated area changes according to cycles called the phases of the Moon. The lunar calendar we use is based on such a cycle of phases. Every day, the Moon is always white - yellow. Particularly during lunar eclipses - when the Moon is in its full phase and enters the shadow area behind the Earth - part or all of the Moon is red, for the penumbra it is light red - or it can be called pink. The best time to see this full moon is when the moon rises in the east on April 6, right after sunset. You can check the moonrise time from your location and find an open place to observe the moon as it rises quite low above the horizon in the east. As the moon rises and becomes fuller, it will turn orange when seen from the horizon. The moon's light will illuminate Earth's atmosphere. This means that the wavelengths of blue light will be shorter in the atmosphere, while the longer wavelengths of red and orange will pass through more easily. After the pink moon, the next moon will take place on May 5. This moon is called the flower moon because it occurs during the flowering period of plants and during the corn growing season.
Sáng 6-4, Toàn quyền Úc David Hurley và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Australia đã rời TP HCM , kết thúc tốt đẹp chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 3 đến 6-4. Đây là chuyến thăm cấp Nhà nước đầu tiên của một Nguyên thủ nước ngoài tới Việt Nam trong năm 2023 và là quốc khách đầu tiên mà Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đón tiếp trên cương vị mới. Chuyến thăm còn mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (1973 – 2023). Chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Toàn quyền Úc David Hurley và Phu nhân góp phần tăng cường gắn kết, củng cố lòng tin chiến lược giữa hai nước. Ảnh: TTXVN. Trong thời gian thăm Việt Nam, Toàn quyền Úc David Hurley đã có nhiều hoạt động quan trọng như: Đặt vòng hoa tại Đài tưởng niệm các Anh hùng Liệt sĩ; đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh; dự Lễ đón chính thức và hội đàm với Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng; chào xã giao Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; hội kiến với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; thăm Lực lượng Gìn giữ hòa bình Việt Nam; dự chiêu đãi chính thức. Dịp này, Toàn quyền Úc tiếp Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Văn Nên; thăm một số cơ sở giáo dục tại TP HCM… Tại các cuộc hội đàm, hội kiến giữa lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Toàn quyền Úc, hai bên bày tỏ hài lòng về sự phát triển thực chất và hiệu quả của quan hệ Đối tác Chiến lược giữa hai nước sau 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Đặc biệt, nhiều lĩnh vực hợp tác nêu trong Chương trình Hành động giai đoạn 2020 – 2023 đã trở thành trụ cột, điểm sáng trong quan hệ hai nước như: An ninh – quốc phòng, kinh tế – thương mại, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo, giao lưu nhân dân… Các nhà lãnh đạo chia sẻ về hợp tác giữa Cơ quan lập pháp hai nước trong hoàn thiện thể chế pháp lý để tăng cường hợp tác trong những vấn đề khu vực, toàn cầu như thúc đẩy hệ sinh thái chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng công bằng và ứng phó biến đối khí hậu. Cho rằng hai nước vẫn còn nhiều dư địa và tiềm năng hợp tác, các nhà lãnh đạo đã cùng thảo luận sâu rộng về các định hướng lớn để tăng cường quan hệ Việt Nam – Úc trên các lĩnh vực; đồng thời, nhất trí trao đổi về việc nâng cấp quan hệ lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện vào thời gian phù hợp. Tiếp Toàn quyền Úc David Hurley đến chào xã giao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh ngài Toàn quyền David Hurley cùng Phu nhân và Đoàn đại biểu cấp cao Úc sang thăm Việt Nam đúng vào dịp hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1973 – 2023), coi đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ Đối tác Chiến lược giữa hai nước trong thời gian tới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá cao sự phát triển tích cực, nhiều mặt trong các lĩnh vực hợp tác song phương Việt Nam – Úc , nhất là thương mại, giao lưu nhân dân. Sau khi nghe ngài Toàn quyền Úc David Hurley trao đổi về kết quả cuộc hội đàm, hội kiến với các Nhà lãnh đạo Việt Nam và các hoạt động của Đoàn, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhất trí với phương hướng phát triển quan hệ hai nước trong thời gian tới, đồng thời nhấn mạnh những kết quả đạt được trong triển khai quan hệ Đối tác Chiến lược Việt Nam – Úc là nền tảng để hai nước hướng tới những dấu mốc mới cao hơn, trong đó có việc nâng cấp lên quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện. Tổng Bí thư cho rằng hai nước chia sẻ nhiều điểm tương đồng, đều nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương năng động, đặc biệt tại Úc có một cộng đồng người Việt trên 300 ngàn người đang sinh sống, làm việc và học tập, đề nghị ngài Toàn quyền và Chính phủ Úc tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện cho cộng đồng người Việt Nam phát huy vai trò cầu nối cho quan hệ hai nước. Các Nhà lãnh đạo nhất trí cho rằng trên cơ sở thành công tốt đẹp của chuyến thăm này và các hoạt động có ý nghĩa trong năm kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, việc xây dựng khuôn khổ hợp tác mới giữa hai nước sẽ đóng góp tích cực vào việc duy trì môi trường hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới. Chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Toàn quyền Úc David Hurley và Phu nhân góp phần tăng cường gắn kết hai nước ở tất cả các cấp, củng cố lòng tin chiến lược giữa hai quốc gia, là dấu ấn nổi bật trong Năm kỷ niệm quan trọng của hai nước.
On the morning of April 6, Australian Governor General David Hurley and his wife and the high-ranking Australian delegation left Ho Chi Minh City , successfully ending the State visit to Vietnam from April 3 to April 6. This is the first State-level visit of a foreign Head of State to Vietnam in 2023 and the first national guest that President Vo Van Thuong welcomes in his new position. The visit also has many symbolic meanings, commemorating the 50th anniversary of establishing diplomatic relations between the two countries (1973 - 2023). The State visit to Vietnam by Australian Governor General David Hurley and his wife contributed to strengthening bonds and strengthening strategic trust between the two countries. Photo: TTXVN. During his visit to Vietnam, Governor General of Australia David Hurley has had many important activities such as: Laying wreaths at the Memorial of Martyrs and Heroes; lay a wreath and enter the Mausoleum to pay respects to President Ho Chi Minh; Attended the official welcoming ceremony and held talks with President Vo Van Thuong; paid a courtesy visit to General Secretary Nguyen Phu Trong; meeting with Prime Minister Pham Minh Chinh and Chairman of the National Assembly Vuong Dinh Hue; visited the Vietnam Peace Keeping Force; attend the official reception. On this occasion, the Australian Governor-General received Secretary of the Ho Chi Minh City Party Committee Nguyen Van Nen; Visit some educational institutions in Ho Chi Minh City... At the talks and meetings between senior leaders of Vietnam and the Governor-General of Australia, the two sides expressed satisfaction with the substantive and effective development of the Strategic Partnership between the two countries after 50 years of establishment. diplomatic relation. In particular, many areas of cooperation mentioned in the Action Program for the period 2020 - 2023 have become pillars and bright spots in the two countries' relationship such as: Security - defense, economy - trade, science - technology. technology, education - training, people-to-people exchanges... The leaders shared about cooperation between the two countries' legislatures in perfecting legal institutions to strengthen cooperation on regional and global issues such as promoting digital transformation ecosystems and energy transformation. equitable quality and response to climate change. Believing that the two countries still have a lot of room and potential for cooperation, the leaders discussed extensively about major directions to strengthen Vietnam-Australia relations in all fields; At the same time, they agreed to discuss upgrading the relationship to a Comprehensive Strategic Partnership at an appropriate time. Receiving Australian Governor General David Hurley to pay a courtesy visit, General Secretary Nguyen Phu Trong welcomed Governor General David Hurley, his wife and the Australian high-ranking delegation to visit Vietnam on the occasion of the two countries celebrating the 50th anniversary of the establishment of diplomatic relations. diplomatic relations (1973 - 2023), considering this an important event to further promote the Strategic Partnership between the two countries in the coming time. General Secretary Nguyen Phu Trong highly appreciated the positive and multi-faceted development in the fields of bilateral cooperation. Vietnam – Australia , especially trade and people-to-people exchanges. After listening to Australian Governor-General David Hurley discuss the results of talks and meetings with Vietnamese leaders and the delegation's activities, General Secretary Nguyen Phu Trong agreed with the direction of developing bilateral relations. countries in the coming time, while emphasizing the results achieved in implementing the Vietnam-Australia Strategic Partnership as the foundation for the two countries to move towards new and higher milestones, including upgrading to Comprehensive Strategic Partnership. The General Secretary said that the two countries share many similarities, both are located in the dynamic Asia-Pacific region, especially in Australia there is a Vietnamese community of over 300 thousand people living, working and studying. gathered, asking the Governor General and the Australian Government to continue to pay attention and create conditions for the Vietnamese community to promote its role as a bridge for relations between the two countries. The Leaders agreed that based on the great success of this visit and meaningful activities in the year commemorating the 50th anniversary of establishing diplomatic relations, the building of a new framework of cooperation between the two countries will be possible. will contribute positively to maintaining an environment of peace, cooperation and development in the region and the world. The State visit to Vietnam by Australian Governor-General David Hurley and his wife contributed to strengthening the bond between the two countries at all levels, consolidating strategic trust between the two countries, and was an outstanding mark in the Year of Jubilee. important concept of the two countries.
Đã bao giờ chúng ta thắc mắc, trong 54 dân tộc Việt Nam, từ người Hmông trên đỉnh núi cao bốn mùa mây phủ, người Sán Dìu trên đất trung du sỏi đá, người Bana, Jrai, M’Nông trên cao nguyên đất đỏ lồng lộng gió ngàn, cho đến người Việt, người Khơ-me trên những cánh đồng châu thổ thẳng cánh cò bay… họ sinh sống trong những ngôi nhà như thế nào? Điều này có ảnh hưởng gì đến văn hóa, phong tục tập quán, lối sống của họ? Có một nhà nghiên cứu đã dành cả cuộc đời, dốc trọn tâm huyết khảo cứu về những điều đó, người mà từ những năm 1978 đã “lấp đầy” sách, báo, tạp chí bằng những kiến thức chuyên sâu, bài bản về nhà ở cổ truyền qua quá trình thực địa và phân loại của mình. Đó chính là PGS-TS. Nguyễn Khắc Tụng. Cuốn sách Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam của PGS-TS. Nguyễn Khắc Tụng do MaiHaBooks liên kết cùng Nhà xuất bản Khoa học xã hội tái bản (trên cơ sở gộp bản in của Tập I năm 1994 và Tập II năm 1995) vừa được ra mắt độc giả. Nhân dịp này, ngày 5.4 tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã diễn ra tọa đàm Văn hóa tộc người từ góc nhìn về nhà ở . Tại tọa đàm, các diễn giả đã làm rõ thêm những nghiên cứu của PGS-TS. Nguyễn Khắc Tụng trong hành trình nghiên cứu dân tộc học, văn hóa học, sử học… của ông. Toàn cảnh tọa đàm. Cuốn sách bao gồm những bài nghiên cứu chuyên sâu đi vào mô tả, phân tích những cấu trúc trong các loại nhà của từng dân tộc, từ chất liệu xây dựng, cách thi công, đặc điểm riêng có của từng loại nhà của các dân tộc, chức năng sử dụng các loại phòng, các quan niệm và nghi lễ tâm linh liên quan đến nhà ở của các dân tộc… Chúng đều được tổng hợp lại, tạo thành bài chuyên khảo có giá trị nghiên cứu sâu rộng liên quan đến lĩnh vực kiến trúc và văn hóa. Chia sẻ tại tọa đàm, PGS-TS. Đặng Hoài Thu, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, cho biết đây là một trong những công trình nghiên cứu khoa học vô cùng nổi tiếng, PGS-TS. Nguyễn Khắc Tụng đã đi từ nhà ở truyền thống để định danh về văn hóa của các tộc người. Trong đó, kiến trúc, nhân học, dân tộc học, văn hóa, tất cả được đặt trong cùng một tổng thể, để chúng ta nhìn nó như một hệ sinh thái. PGS-TS. Lâm Bá Nam, Chủ tịch Hội Dân tộc học và nhân học Việt Nam, cũng cho rằng PGS-TS. Nguyễn Khắc Tụng đã có những đóng góp quan trọng khi nghiên cứu về lĩnh vực nhà cửa và tộc người bằng việc nhận ra tính liên ngành trong khoa học. PGS-TS. Lâm Bá Nam, Chủ tịch Hội Dân tộc học và Nhân học Việt Nam, phát biểu tại tọa đàm. Phân tích kỹ lưỡng các nội dung chính mà PGS-TS. Nguyễn Khắc Tụng nghiên cứu trong Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam , theo PGS-TS. Vương Xuân Tình, nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học Việt Nam, tác giả đã đặt khái niệm “nhà cửa” rộng hơn “nhà ở”, bởi trong nhà cửa không chỉ có nhà ở, mà còn bao gồm các hợp phần xây dựng khác trong khuôn viên của ngôi nhà như bếp, chuồng trại, gia súc, cổng…; và cả kiến trúc công cộng như nhà thờ họ, đình, chùa, đền, miếu, nhà rông , nhà gươl… PGS-TS. Vương Xuân Tình, Nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học Việt Nam đã có những phân tích chuyên sâu về công trình của PGS- TS. Nguyễn Khắc Tụng. Có thể thấy rằng, PGS-TS. Nguyễn Khắc Tụng là người mở ra hướng nghiên cứu về nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam. Những quan điểm nghiên cứu, hệ thống khái niệm và phương pháp nghiên cứu của ông hiện nay vẫn đang được sử dụng trong nghiên cứu về nhà ở dưới tiếp cận dân tộc học. Trong cuốn sách, tác giả đã trình bày nhà ở cổ truyền các dân tộc theo nhóm ngôn ngữ, nội dung tập trung về: loại hình nhà, kiến trúc , mặt bằng sinh hoạt, các tập tục có liên quan đến ngôi nhà. Cuốn sách Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam. GS-TS-KTS. Doãn Minh Khôi – Viện trưởng Viện Quy hoạch và kiến trúc đô thị (Trường Đại học Xây dựng Hà Nội), cho rằng việc phân theo nhóm ngôn ngữ như thế này tuy khác với cách phân chia của một số nhà nghiên cứu hiện nay nhưng cho thấy rằng, muốn tạo nên một tập tục sinh hoạt thì phải phân theo nhóm ngôn ngữ. Cách phân loại này cho thấy ngôn ngữ đã làm thống nhất được các tộc người với nhau hoặc là các nhóm tộc người với nhau. Đó là cách phân loại dân tộc học, chính nó là cái nghiên cứu bản chất, bản chất là từ ngôn ngữ, rồi từ ngôn ngữ sẽ tạo ra những tập tục, sinh hoạt cộng đồng, mà theo GS-TS-KTS. Doãn Minh Khôi, đây là một nội dung rất quan trọng để từ đó có thể nghiên cứu sâu về hình thức ngôi nhà. Dưới góc nhìn của một chuyên gia kiến trúc, GS-TS-KTS. Doãn Minh Khôi nhận định: “Đây là một cuốn sách rất có giá trị, như là một cuốn bách khoa toàn thư về nhà truyền thống, có thể là chưa đầy đủ nhưng có tính dẫn đường và có sự nghiên cứu đầy đủ về các nhà ở cổ truyền các dân tộc. Đây cũng là một công trình nghiên cứu cho một phương pháp tiếp cận nhìn về bản chất của ngôi nhà. Qua cuốn sách, độc giả sẽ học được cách viết, cách vẽ, cách diễn tả mộc mạc nhưng chứa đựng đầy đủ thông tin, là cách làm khoa học mà tôi gọi là hàn lâm điền dã”. Dưới góc nhìn của một chuyên gia kiến trúc GS-TS-KTS Doãn Minh Khôi đánh giá: “Đây là một cuốn sách rất có giá trị, như là một cuốn bách khoa toàn thư về nhà truyền thống”. Với kiến trúc – bộ môn nghiên cứu về tổ chức không gian sống (không gian ở, sinh hoạt, sản xuất,…) thì công trình của PGS-TS. Nguyễn Khắc Tụng là tài liệu quý để các kiến trúc sư có thể tìm hiểu, sáng tạo và góp phần gìn giữ kiến trúc nhà truyền thống Việt Nam nói riêng và bản sắc kiến trúc Việt Nam nói chung. Trong xu thế phát triển hiện nay, kiến trúc đương đại phải luôn hướng tới cái mới, nhưng phải trên nền văn hóa truyền thống – những yếu tố để cấu thành nên bản sắc. Đó chính là xu hướng kiến trúc hiện đại hóa bản địa, không những giải mã kiến trúc truyền thống mà còn tạo ra ngôn ngữ kiến trúc đương đại có bản sắc. Muốn vậy, các kiến trúc sư phải dựa trên nghiên cứu của các nhà dân tộc học để hiểu được cái cốt lõi của ngôi nhà cổ truyền. Các diễn giả, khách mời và ban tổ chức tọa đàm chụp ảnh lưu niệm. Nơi ăn chốn ở từ lâu đã là một trong những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống con người. Có thể nói “Nhà” là nơi cung cấp sự ổn định, an toàn, là nơi diễn ra các hoạt động duy trì sự sống cơ bản và tạo ra những giá trị văn hóa cả về vật thể và phi vật thể. Vậy nên, có thể khẳng định, nhà ở chính là nơi mang trong mình bản sắc của một tộc người, mang giá trị nghiên cứu khoa học sâu rộng. Từ đây có thể thấy rằng, cuốn sách Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam của PGS-TS. Nguyễn Khắc Tụng là công trình nghiên cứu kết tinh của cả một đời người, là chuyến phiêu lưu du ngoạn về những miền xa xôi của tổ quốc, để chúng ta hiểu thêm về con người trên đất nước Việt Nam.
Have we ever wondered, among the 54 ethnic groups in Vietnam, from the Hmong people on high mountain tops covered with clouds all year round, the San Diu people on the rocky midland, the Bana, Jrai, M'Nong people on the red soil plateau? Windy cages, to Vietnamese and Khmer people on the delta fields flying like storks... what kind of houses do they live in? What impact does this have on their culture, customs, and lifestyle? There is a researcher who has devoted his entire life to researching those things, who since 1978 has "filled" books, newspapers, and magazines with in-depth, methodical knowledge about homework. in ancient times through their fieldwork and classification. That is Associate Professor-Dr. Nguyen Khac Tung. Book Traditional houses of Vietnamese ethnic groups by Associate Professor-Dr. Nguyen Khac Tung's reprint by MaiHaBooks in association with Social Sciences Publishing House (on the basis of combining the printed copies of Volume I in 1994 and Volume II in 1995) has just been released to readers. On this occasion, on April 5, a discussion took place at Hanoi University of Culture Ethnic culture from the perspective of housing . At the seminar, the speakers further clarified the research of Associate Professor-Dr. Nguyen Khac Tung in his journey of researching ethnology, cultural studies, history... Overview of the discussion. The book includes in-depth research articles that describe and analyze the structures in each ethnic group's house types, from construction materials, construction methods, and unique characteristics of each ethnic group's house type. ethnic groups, the functions of using different types of rooms, the concepts and spiritual rituals related to the housing of ethnic groups... They are all synthesized, creating a monograph with extensive research value related to fields of architecture and culture. Sharing at the discussion, Associate Professor-Dr. Dang Hoai Thu, Vice Principal of Hanoi University of Culture, said this is one of the extremely famous scientific research projects, Associate Professor-Dr. Nguyen Khac Tung went from traditional houses to identifying the cultures of ethnic groups. In it, architecture, anthropology, ethnology, culture, are all placed in the same whole, so that we see it as an ecosystem. Associate Professor-Dr. Lam Ba Nam, President of the Vietnam Association of Ethnology and Anthropology, also said that Associate Professor, PhD. Nguyen Khac Tung has made important contributions when researching the field of housing and ethnicity by recognizing the interdisciplinary nature of science. Associate Professor-Dr. Lam Ba Nam, President of the Vietnam Association of Ethnology and Anthropology, spoke at the seminar. Carefully analyze the main contents that Associate Professor, PhD. Nguyen Khac Tung researched in Traditional houses of Vietnamese ethnic groups , according to Associate Professor-Dr. Vuong Xuan Tinh, former Director of the Vietnam Institute of Ethnology, the author has placed the concept of "house" broader than "housing", because in house there is not only housing, but also includes construction components. other areas within the house such as kitchen, barn, livestock, gate...; and also public architecture such as family churches, communal houses, pagodas, temples, shrines, communal house , Guol house… Associate Professor-Dr. Vuong Xuan Tinh, Former Director of the Vietnam Institute of Ethnology, had in-depth analysis of the work of Associate Professor - PhD. Nguyen Khac Tung. It can be seen that Associate Professor, PhD. Nguyen Khac Tung is the person who opened the research direction on traditional housing of Vietnamese ethnic groups. His research perspectives, conceptual systems and research methods are still being used in housing research using an ethnographic approach. In the book, the author presented traditional houses of ethnic groups by language group, focusing on: types of houses, architecture , living premises, customs related to the house. Book of Traditional Housing of Vietnamese Ethnic Groups. Professor, PhD, Architect. Doan Minh Khoi - Director of the Institute of Urban Planning and Architecture (Hanoi University of Civil Engineering), said that the division by language group like this is different from the division of some researchers today, but shows that, in order to create a living custom, it must be divided into language groups. This classification shows that language has unified ethnic groups or ethnic groups together. That is the ethnographic classification, it is the study of nature, nature comes from language, then from language will create customs and community activities, according to Professor-TS-Architect. Doan Minh Khoi, this is a very important content from which to study the form of the house in depth. From the perspective of an architectural expert, Professor-TS-Architect. Doan Minh Khoi commented: "This is a very valuable book, like an encyclopedia about traditional houses. It may not be complete but it is guiding and has complete research on traditional houses." Traditional houses of ethnic groups. This is also a research project for an approach to looking at the nature of the house. Through the book, readers will learn how to write, how to draw, how to describe in a simple way but containing enough information, which is a scientific way that I call "academic fieldwork". From the perspective of an architectural expert, Professor, PhD, Architect Doan Minh Khoi commented: "This is a very valuable book, like an encyclopedia about traditional houses." With architecture - the subject that studies the organization of living space (living, living, production space, etc.), the work of Associate Professor-Dr. Nguyen Khac Tung is a valuable document for architects to learn, create and contribute to preserving traditional Vietnamese house architecture in particular and Vietnamese architectural identity in general. In the current development trend, contemporary architecture must always aim for something new, but must be based on traditional culture - the elements that form identity. That is the trend of modernizing indigenous architecture, not only decoding traditional architecture but also creating a contemporary architectural language with identity. To do so, architects must rely on the research of ethnologists to understand the core of traditional houses. Speakers, guests and discussion organizers took souvenir photos. Accommodation has long been one of the essential needs in human life. It can be said that "Home" is a place that provides stability and safety, where basic life-sustaining activities take place and creates cultural values ​​both tangible and intangible. Therefore, it can be affirmed that housing is the place that carries the identity of an ethnic group and has extensive scientific research value. From here it can be seen that the book Traditional houses of Vietnamese ethnic groups by Associate Professor-Dr. Nguyen Khac Tung is the crystallized research of a lifetime, an adventure of traveling to remote regions of the country, so that we can understand more about the people of Vietnam.
Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 824/QĐ-BVHTTDL cho phép Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp với Bảo tàng Lịch sử quốc gia khai quật khảo cổ tại Khu vực Trai Cung thuộc di tích Đàn Tế Nam Giao, phường Trường An, thành phố Huế , tỉnh Thừa Thiên Huế . Đàn Tế Nam Giao, TP Huế. Nguồn: thuathienhue.gov.vn Thời gian khai quật từ ngày 10/4/2023 đến ngày 20/6/2023, trên diện tích 160m2, gồm 04 hố (H1: 30m2;H2: 30m2; H3: 50m2; H4: 50m2 ). Chủ trì khai quật là bà Nguyễn Thị Thao Giang, Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Trong thời gian khai quật khảo cổ, cơ quan được cấp giấy phép cần chú ý bảo vệ địa tầng của di tích; có trách nhiệm tuyên truyền cho Nhân dân về việc bảo vệ di sản văn hóa ở địa phương, không công bố kết luận chính thức khi chưa có sự thỏa thuận của cơ quan chủ quản và Cục Di sản văn hóa. Những hiện vật thu thập được trong quá trình khai quật khảo cổ, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản tránh để hiện vật bị hư hỏng, thất lạc và báo cáo Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phương án bảo vệ và phát huy giá trị những hiện vật đó. Sau khi kết thúc đợt khai quật khảo cổ, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Bảo tàng Lịch sử quốc gia phải có báo cáo sơ bộ và đề xuất phương án quản lý, bảo vệ khu vực đã khai quật khảo cổ trong thời gian chậm nhất 01 (một) tháng và báo cáo khoa học trong thời gian chậm nhất 01 (một) năm, gửi về Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trước khi công bố kết quả của đợt khai quật khảo cổ, cơ quan được cấp giấy phép trao đổi, thống nhất với Cục Di sản văn hóa./.
The Ministry of Culture, Sports and Tourism has issued Decision Không. 824/QD-BVHTTDL allowing the Hue Monuments Conservation Center to coordinate with the National Museum of History to conduct archaeological excavations in the Trai Cung area of ​​the Jinan Giao Altar relic, Truong An ward, Hue city , Thua Thien Hue province . Jinan Giao Altar, Hue City. Source: thuathienhue.gov.vn Excavation time is from April 10, 2023 to June 20, 2023, on an area of ​​160m2, including 04 holes (H1: 30m2; H2: 30m2; H3: 50m2; H4: 50m2). The excavation chair is Ms. Nguyen Thi Thao Giang, National Museum of History. During archaeological excavations, the licensing agency should pay attention to protecting the stratigraphy of the monument; is responsible for propagating to the People about the protection of local cultural heritage, and not announcing official conclusions without the agreement of the governing agency and the Department of Cultural Heritage. For artifacts collected during archaeological excavations, the Hue Museum of Royal Antiquities and the Hue Monuments Conservation Center are responsible for preserving and preserving the artifacts to prevent them from being damaged, lost, or damaged. Report to the Minister of Culture, Sports and Tourism on plans to protect and promote the value of those artifacts. After finishing the archaeological excavation, the Hue Monuments Conservation Center and the National Museum of History must have a preliminary report and propose a plan to manage and protect the archaeologically excavated area in no later than 01 (one) month and a scientific report no later than 01 (one) year, sent to the Ministry of Culture, Sports and Tourism. Before announcing the results of the archaeological excavation, the licensed agency shall discuss and reach agreement with the Department of Cultural Heritage./.
Chiều 6/4, Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách đã xem xét, cho ý kiến về một số vấn đề lớn còn ý kiến khác nhau đối với dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà – Ảnh: quochoi.vn. Báo cáo về nội dung dự án Luật Đất đai (sửa đổi), Phó Thủ tướng Chính phủ , Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, sau hơn 2 tháng tiến hành lấy ý kiến nhân dân (từ 3/1 đến ngày 15/3), cơ quan soạn thảo đã tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Dự thảo mới nhất có 16 Chương, 246 Điều, trong đó, tăng 3 mục (Mục 1, Chương VII và Mục 1,2 chương XVI), bổ sung mới 22 điều, bỏ 12 điều. Về quá trình lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo luật, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho hay, tính đến hết ngày 2/4, đã có 11.685.461 lượt ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được tập hợp gửi về Bộ TN&MT. Cũng theo Phó Thủ tướng, Chính phủ đã ban hành văn bản đề nghị nhân dân tiếp tục đóng góp ý kiến vào dự thảo luật đến khi Quốc hội thông qua Luật Đất đai (sửa đổi). Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho biết một trong những nội dung nhận được nhiều ý kiến đóng góp trong Luật Đất đai sửa đổi là vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (1.159.990 ý kiến, chiếm 9,93%). Cơ quan soạn thảo đã nghiên cứu, rà soát, tiếp thu và cụ thể hóa để đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi, tạo sự đồng thuận, góp phần đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng ở các dự án. Theo đó việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch, kịp thời và đúng quy định của pháp luật. Người có đất bị thu hồi được bồi thường thiệt hại về đất, tài sản gắn liền với đất, cây trồng, vật nuôi, chi phí đầu tư vào đất, thiệt hại do ngừng sản xuất, kinh doanh. Được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm, hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở. Giá đất bồi thường là giá đất cụ thể của loại đất thu hồi tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Khu tái định cư phải hoàn thiện các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy hoạch được phê duyệt cũng như văn hóa, phong tục tập quán của người dân địa phương. Ngoài ra, hình thức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cũng được đa dạng hóa về hình thức… Về giá đất, Phó Thủ tướng cho hay cơ quan soạn thảo đã tiếp thu làm rõ nguyên tắc định giá đất, giá thị trường, căn cứ định giá đất, thông tin đầu vào để xác định giá đất theo các phương pháp. Việc định giá đất phải đảm bảo theo “nguyên tắc thị trường”, “đúng trình tự thủ tục” khách quan, công khai, minh bạch. Thông tin đầu vào để xác định giá đất được căn cứ vào hợp đồng đã công chứng, chứng thực hay giá trúng đấu giá đất. Đối với trường hợp chưa có thông tin giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai thì thu thập thông tin giá đất qua điều tra, khảo sát, thông tin về doanh thu, chi phí thu nhập từ việc sử dụng đất theo thị trường. Dự luật cũng bổ sung quy định tiếp tục sử dụng bảng giá đất hiện hành đến 31/12/2025 để các địa phương đủ thời gian xây dựng, ban hành bảng giá đất mới theo quy định của Luật. Đồng thời việc ban hành bảng giá đất hàng năm tiếp theo được hướng dẫn cụ thể theo những khu vực, loại đất có biến động thì mới phải cập nhật giá đất cho phù hợp với thị trường. Đại biểu Nguyễn Đại Thắng – Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên. Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Nguyễn Đại Thắng – Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên bày tỏ nhất trí cao với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) trình Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách lần này. Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) có nhiều điểm mới, đột phá và rất tiến bộ so với Luật Đất đai hiện hành, đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đặt ra đã được cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm tra chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, đã tiếp thu tối đa các ý kiến tham gia hợp lý của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, các nhà khoa học, các cơ quan, đơn vị và ý kiến tham gia của các tầng lớp nhân dân. Góp ý về vấn đề cụ thể, đại biểu cho biết, cơ chế thu hồi đất trong dự thảo Luật phải giải quyết được những vướng mắc, điểm nghẽn trong giải phóng mặt bằng và triển khai dự án hiện nay để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển và đạt được mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13 đề ra đến năm 2045 đất nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao, phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp công nghệ cao, thương mại dịch vụ. Để tạo động lực phát triển thương mại dịch vụ thì phải phát triển đô thị, đẩy mạnh đô thị hóa, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, quản lý đô thị, hình thành và những khu đô thị, các dự án thương mại dịch vụ mang tầm quốc tế và đủ sức cạnh tranh quốc tế. Muốn làm được điều đó phải có cơ chế thu hồi đất, triển khai dự án thuận lợi. Do đó, đại biểu cho rằng cần phải xác định rõ các dự án đô thị, dự án thương mại dịch vụ, các dự án có quy mô sử dụng đất từ bao nhiêu hecta trở lên. Ngoài các trường hợp quy định Nhà nước thu hồi đất, đại biểu đề xuất những dự án đô thị, dự án thương mại dịch vụ với quy mô sử dụng đất từ 100 hecta trở lên nên giao để Nhà nước thu hồi đất chứ không thực hiện cơ chế thỏa thuận. Nếu thực hiện thỏa thuận thì cần có cơ chế kiểm soát việc thỏa thuận này.
On the afternoon of April 6, the Conference of specialized National Assembly deputies reviewed and gave opinions on a number of major issues with different opinions regarding the Land Law (amended) project. Deputy Prime Minister Tran Hong Ha - Photo: quochoi.vn. Report on the content of the Land Law project (amended), Deputy Prime Minister , Minister of Natural Resources and Environment Tran Hong Ha said that after more than 2 months of collecting people's opinions (from January 3 to March 15), the drafting agency has received and completed the draft revised Land Law. The latest draft has 16 Chapters, 246 Articles, of which 3 sections are increased (Section 1, Chapter VII and Sections 1 and 2, Chapter XVI), 22 new articles are added, and 12 articles are removed. Regarding the process of collecting people's opinions on the draft law, Deputy Prime Minister Tran Hong Ha said that by the end of April 2, there were 11,685,461 comments from agencies, organizations and individuals. gathered and sent to the Ministry of Natural Resources and Environment. Also according to the Deputy Prime Minister, the Government has issued a document asking people to continue to contribute opinions on the draft law until the National Assembly passes the Land Law (amended). Deputy Prime Minister Tran Hong Ha said that one of the contents that received many comments in the revised Land Law is the issue of compensation, support, and resettlement when the State recovers land (1,159,990 comments). , accounting for 9.93%). The drafting agency has researched, reviewed, absorbed and concretized to ensure the legitimate rights and interests of people whose land is recovered, create consensus, and contribute to accelerating site clearance work. in projects. Accordingly, compensation, support and resettlement when the State recovers land must ensure democracy, objectivity, fairness, openness, transparency, timeliness and compliance with the law. People whose land is recovered are compensated for damage to land, assets attached to land, crops, livestock, investment costs in land, and damage due to cessation of production and business. Receive support for job change training and job search, support for stabilizing life and production, and resettlement support when the State recovers residential land. Compensation land price is the specific land price of the type of land recovered at the time of approval of the compensation, support and resettlement plan. The resettlement area must complete the technical and social infrastructure conditions according to the approved planning as well as the culture and customs of the local people. In addition, forms of compensation, support, and resettlement are also diversified in form... Regarding land prices, the Deputy Prime Minister said that the drafting agency has received and clarified the principles of land pricing, market prices, grounds for land pricing, and input information to determine land prices according to methods. Land valuation must comply with "market principles", "proper procedures", objectivity, openness and transparency. Input information to determine land prices is based on notarized, authenticated contracts or winning land auction prices. In cases where there is no land price information in the land database, collect land price information through investigation, survey, information on revenue and income costs from land use according to the market. The Bill also adds regulations to continue using the current land price list until December 31, 2025 to give localities enough time to develop and issue a new land price list according to the provisions of the Law. At the same time, the promulgation of the next annual land price list will be specifically guided according to areas and land types that experience fluctuations in order to update land prices to suit the market. Delegate Nguyen Dai Thang - Hung Yen Provincial National Assembly Delegation. Discussed at the meeting, Delegate Nguyen Dai Thang - Hung Yen Provincial National Assembly Delegation Expressed high agreement with the draft Land Law (amended) submitted to this Conference of specialized National Assembly deputies. The draft Land Law (amended) has many new, groundbreaking and very progressive points compared to the current Land Law, meeting the practical requirements set out by the agency in charge of drafting it. The inspection agency prepared meticulously and thoroughly, and received maximum reasonable comments from National Assembly delegates, experts, scientists, agencies, units and opinions. of all classes of people. Commenting on specific issues, delegates said that the land recovery mechanism in the draft Law must resolve problems and bottlenecks in site clearance and current project implementation to promote the economy - social development and achieving the goal of the Resolution of the 13th National Party Congress set out that by 2045, our country will become a developed country with high income, and must promote industrial development, especially industrial industry. high technology, trade and services. To create motivation for the development of trade and services, it is necessary to develop urban areas, promote urbanization, strengthen and improve the quality of urban planning and management, and form urban areas and projects. Service trade projects are international in scope and internationally competitive. To do that, there must be a mechanism for land acquisition and favorable project implementation. Therefore, delegates believe that it is necessary to clearly identify urban projects, commercial and service projects, and projects with a land use scale of how many hectares or more. In addition to cases where the State recovers land, delegates proposed that urban projects and commercial and service projects with a land use scale of 100 hectares or more should be assigned to the State for land recovery rather than implementation. present an agreement mechanism. If an agreement is made, there needs to be a mechanism to control this agreement.
Nguồn nguyên liệu để bắt đầu một thế giới có sự sống như Trái Đất đã được tìm thấy trong Đám mây phân tử Perseus, một cụm sao và khí trẻ trong không gian sâu. Đám mây phân tử Perseus, còn gọi là IC348, chứa những ngôi sao rất trẻ mới 2-3 triệu năm tuổi đã được nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi tiến sĩ Susan Iglesias-Groth của Viện Vật lý thiên văn Canarias (IAC – Tây Ban Nha) tìm hiểu thông qua những quan sát của kính viễn vọng Spitzer của NASA. Theo tờ Space, quang phổ đáng kinh ngạc mà Spitzer đã ngừng hoạt động thu được từ Đám mây phân tử Perseus đã tiết lộ một số thành phần đáng kinh ngạc, đó là sự hiện hiện của hiều phân từ hydro, hydroxyl, nước, carbon dioxide, amoniac. Các phân tử quan trọng để tạo nên sự sống đã được tìm thấy ở Đám mây phân tử Perseus cách Trái Đất 1.000 năm ánh sáng – Ảnh: IAC. Những thứ này có thể đóng vai trò hình thành các hydrocarbon phức tạp hơn và các phân tử tiền sinh học bao gồm hydro xyanua (HCN), ethane (C2H6), hexatrine (C6H2), benzen (C6H6). Ngoài ra họ còn tìm thấy một số loại phân tử carbon khổng lồ gọi là fullerene và hydrocarbon thơm đa vòng. Thành phần phân tử phức tạp này có nghĩa đám mây này chứa các yếu tố cần thiết để các ngôi sao non trẻ mà nó đang sinh ra được thiết lập để có cơ hội tạo nên một thế giới có sự sống như Trái Đất. Các phân tử này sẽ đi vào thành phần của các ngôi sao mang đĩa tiền hành tinh đang hình thành, cũng gợi ý về cách những khối xây dựng sự sống đầu tiên đã hiện diện trên Trái Đất như thế nào. Nhóm nghiên cứu dự định sẽ tiếp tục quan sát đám mây phân tử thú vị này bằng siêu kính viễn vọng James Webb của NASA/ESA/CSA (các cơ quan vũ trụ Mỹ , châu Âu và Canada ), thứ hứa hẹn tiết lộ quang phổ chi tiết hơn và làm rõ hơn thành phần hóa học của đám mây. Nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí khoa học Monthly Notices of the Royal Astronomical Society.
The raw materials to start a habitable world like Earth have been found in the Perseus Molecular Cloud, a cluster of young stars and gas in deep space. The Perseus molecular cloud, also known as IC348, contains very young stars that are only 2-3 million years old, which were discovered by a research team led by Dr. Susan Iglesias-Groth of the Institute of Astrophysics of Canarias (IAC – Spain). Nha) find out through observations by NASA's Spitzer telescope. According to Space, the astonishing spectra that the decommissioned Spitzer obtained from the Perseus Molecular Cloud revealed some surprising compositions, including hydrogen, hydroxyl, water, and carbon. dioxide, ammonia. Important molecules to create life have been found in the Perseus Molecular Cloud 1,000 light years from Earth - Photo: IAC. These may play a role in the formation of more complex hydrocarbons and prebiotic molecules including hydrogen cyanide (HCN), ethane (C2H6), hexatrine (C6H2), benzene (C6H6). They also found several types of giant carbon molecules called fullerenes and polycyclic aromatic hydrocarbons. This complex molecular composition means this cloud contains the elements needed for the young stars it is birthing to be set up to have a chance of creating a habitable world like Earth. These molecules will enter the composition of stars bearing protoplanetary disks that are forming, also hinting at how the first building blocks of life came to be on Earth. The research team plans to continue observing this interesting molecular cloud using the James Webb super telescope of NASA/ESA/CSA (space agencies). America , Europe and Canada ), which promises to reveal more detailed spectra and clarify the cloud's chemical composition. The research was just published in a scientific journal Monthly Notices of the Royal Astronomical Society.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001). Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001) chỉ sống được 62 năm trên cuộc đời, mà di sản của ông đồng hành và réo gọi nhiều thế hệ người Việt Nam. Thế nhưng, mỗi dịp kỷ niệm ngày mất hay ngày sinh của ông, ngoài những chương trình ca nhạc thì chẳng mấy ai quan tâm đến việc củng cố tác phẩm Trịnh Công Sơn một cách có hệ thống. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh ra và lớn lên ở Huế , học cao đẳng ở Quy Nhơn , làm giáo viên ở Bảo Lộc , rồi gắn bó với TP Hồ Chí Minh cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dường như chưa bao giờ vắng mặt trên cõi đời, dù công chúng không còn nhìn thấy bóng dáng gầy gò cùng bước chân liêu xiêu của ông đi qua những hàng me đô thị phương Nam; Dù đồng nghiệp không còn nhìn thấy khuôn mặt buồn thỉnh thoảng ánh lên ánh mắt tinh nghịch của ông trong những cuộc hội ngộ rượu sớm trà khuya. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại nhờ nhiều ca khúc của ông vẫn dan díu giữa trái tim nhiều người. Lúc sinh thời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng thổ lộ đã sáng tác khoảng 600 ca khúc. Tuy nhiên, dựa vào văn bản mà nhiều nhà sưu tập có được, thì hiện nay chỉ mới tìm thấy khoảng 250 ca khúc. Sau 20 năm ông qua đời, các chương trình ca nhạc lớn nhỏ trên cả nước, cũng chỉ hát đi hát lại chừng 50 ca khúc quen thuộc. Do sự lười nhác của giới biểu diễn, hay vì nguyên nhân nào khác, thì một sự thật ấy cũng nói lên một điều rằng, di sản Trịnh Công Sơn chưa được khai thác hiệu quả để mang lại giá trị tinh thần cho xã hội hôm nay và ngày mai. Nền tân nhạc Việt Nam có ba nhân vật nổi bật là Văn Cao (1923-1995), Phạm Duy (1921- 2013) và Trịnh Công Sơn (1939-2001). Nếu phân tích về giai điệu và khúc thức, thì tác phẩm của Trịnh Công Sơn không bay bổng bằng Văn Cao và không đa dạng bằng Phạm Duy. Thế nhưng, ca từ của Trịnh Công Sơn lại rất gần gũi với tâm tình và tâm tính của người Việt Nam. Đặc biệt, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có dòng ca khúc Da Vàng vượt khỏi biên giới Việt Nam, thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia nghiên cứu âm nhạc quốc tế. Sau khi nhạc sĩ Mỹ Bob Dylan được trao giải thưởng Nobel Văn học năm 2016 vì “đã có cách biểu đạt mới cho thi ca qua các ca khúc”, thì những người yêu nhạc càng thấy trân trọng hơn với ca từ của Trịnh Công Sơn. Xuất hiện cùng thời điểm vào thập niên 60 của thế kỷ trước, Bod Dylan và Trịnh Công Sơn là hai hiện tượng âm nhạc ở hai bán cầu. Nếu nhạc sĩ Bod Dylan ở Mỹ có album “Blowin’ in the Wind” (Thoảng bay theo cơn gió) thì nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở Việt Nam có dòng ca khúc Da Vàng. Giữa hai nền văn hóa khác nhau, giữa hai môi trường sáng tạo khác nhau, nhưng ca từ của Trịnh Công Sơn hoàn toàn không thua kém Bod Dylan. Thậm chí, ca từ Trịnh Công Sơn còn có yếu tố vượt trội khi đề cập đến những thân phận yếu đuối chịu đựng chiến tranh. Ví dụ, ca khúc “Đại bác ru đêm” day dứt: “ Đại bác đêm đêm dội về thành phố/ Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe/ Từng chuyến bay đêm con thơ giật mình/ Hầm trú tan hoang ôi da thịt vàng/ Từng đêm soi sáng là mắt quê hương “. Hoặc ca khúc “Cho quê hương mỉm cười” đanh thép: “ Triệu bàn tay chúng ta đấm tan mặt tôi đòi/ Trong tim con người lòng tin làm khí giới/ Ta hiên ngang bên thú mặt người/ Một bầy thú tay sai cho người ngoài/ Triệu bàn chân chúng ta bước đi trên mặt đất này/ Trong tim con người là một đồng lúa mới/ Ta nung sôi ý chí mặt trời/ Chặt cùm xích cho quê hương mỉm cười “. Dòng ca khúc Da Vàng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có khoảng 100 bài hát, phần lớn vẫn còn chìm khuất trong đời sống âm nhạc Việt Nam hiện nay. Cần phục dựng lại, bằng cách xuất bản hoặc ghi âm những tác phẩm tâm huyết đó, không phải để đề cử giải thưởng Nobel Văn học cho Trịnh Công Sơn (vì giải thưởng Nobel không trao cho người đã khuất) mà để làm phong phú thêm kho tàng âm nhạc Việt Nam. Bởi lẽ, trong dòng ca khúc Da Vàng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã hát lên chân lý yêu chuộng hòa bình của người Việt Nam một cách giản dị và bền bỉ. Chẳng hạn, ca khúc “Đêm bây giờ đêm mai” viết năm 1967: “ Đêm mai là trời im tiếng súng/ Cho mẹ hát ca dao trên đồng/ Đêm mai này hỏa châu hết sáng/ Cho mẹ thấy tương lai đàn con/ Đêm huy hoàng trời mưa trút xuống/ Ôi từ đó nghe như thiên đàng “. Chân dung Trịnh Công Sơn qua nét vẽ Đinh Cường. Đẳng cấp ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là điều ai cũng thừa nhận. Nói cách khác, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là một người hát thơ mình bằng tiết tấu da diết. Vì vậy, chuyện Trịnh Công Sơn phổ thơ người khác rất hiếm hoi. Tổng cộng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chỉ phổ nhạc cho bốn bài thơ. Với mối quan hệ thân thiết, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã phổ hai bài thơ của họa sĩ Trịnh Cung thành ca khúc “Cuối cùng cho một tình yêu” và “Thiên sứ bâng khuâng”. Trường hợp ca khúc “Mẹ đi vắng” được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phổ thơ của Nguyễn Quang Dũng vào năm 1982, khá độc đáo. Chính xác hơn, khi ấy Nguyễn Quang Dũng mới 4 tuổi, đã cùng cha là nhà văn Nguyễn Quang Sáng đến thăm Trịnh Công Sơn. Từ những câu nói ngây ngô của Nguyễn Quang Dũng “mẹ đi vắng, con sang chơi nhà bạn, con cầm cây đàn con hát, cho mẹ về với con”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết ca khúc “Mẹ đi vắng” và trân trọng ghi tên tác giả phần lời lúc công bố tác phẩm. Ngoài ra, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn còn có ca khúc “Giọt nước cành sen” phổ thơ Thân Thị Ngọc Quế vào năm 1990: “ Ngàn năm giọt nước có buồn không/ Sao vẫn long lanh dưới ánh hồng/ Trên cánh sen vàng ai biết được/ Ngàn năm giọt nước có buồn không “. Sự nghiệp của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được đánh dấu từ ca khúc “Ướt mi” viết năm 1958. Vậy, ca khúc nào đánh dấu kết thúc hành trình sáng tác của ông? Ca khúc “Đồng dao 2000” được công bố trước khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời ít lâu, cũng không phải ca khúc cuối cùng của ông. Trong di cảo, có hai ca khúc được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết đầu năm 2001, là “Đốm lửa hồng” và “Hạt điều khăn điều”. Ca khúc “Đốm lửa hồng” trầm tư: “ Em đi tìm, tìm đời không gỗ đá/ Em đi tìm, tìm đời không cánh diều bay/ Hồng nhan giữa phố có khi hồng nhan lạ/ Hồng nhan giữa phố hồng nhan ơi/ Hồng nhan em là đốm lửa hồng “. Còn ca khúc “Hạt điều khăn điều” trăn trở: “ Những hạt điều nằm kề bên nhau/ Điệu không lụa đỏ/ Lụa đỏ thênh thang bay cùng khắp phố/ Phố em phố nhỏ đỏ đỏ mắt nhìn “. Sau 20 năm rời xa cõi tạm, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn phủ sóng trong mọi ngõ xóm ba miền. Thế nhưng, vẫn còn nhiều tâm tư của ông gửi gắm qua ca khúc, chưa được vang lên. Cho nên, nếu thực sự yêu mến Trịnh Công Sơn, thì đừng ăn theo tên tuổi Trịnh Công Sơn để công bố những bức thư tình sến súa mà ông đã giấu kín trong quá khứ, hoặc làm những bộ phim hư ảo như “Em và Trịnh”. Hãy hệ thống lại toàn bộ tác phẩm Trịnh Công Sơn và công bố một cách bài bản. Nhất là trong bối cảnh hội nhập, thực hiện một tuyển tập Trịnh Công Sơn để dịch sang các ngôn ngữ thịnh hành quốc tế, sẽ giúp thế giới có thêm một kênh thẩm mỹ về nghệ thuật Việt Nam. Không có gì phải nghi ngại, khi khẳng định rằng, qua ca khúc Trịnh Công Sơn, nhân loại sẽ thấu hiểu người Việt “nhân danh mơ ước ta quyết đòi hòa bình, nhân danh tình thương ta chống chiến tranh”. Từ năm 1968, Trịnh Công Sơn đã khao khát: “ Ta đã thấy gì trong đêm nay/ Bàn tay muôn vạn bàn tay/ Những ngón tay thơm nối tật nguyền, nối cuộc tình, nối lòng đổ nát/ Bàn tay đi nối anh em ” và Trịnh Công Sơn đã dự liệu: “ Nơi đây còn những thương binh/ Ngày mai ruộng xanh là niềm tin cấy trên lòng anh/ Vì quanh đây nhờ anh, người người đã sống trong yên lành “. Đồng thời, Trịnh Công Sơn cũng mong mỏi giữa người với người được kéo gần những cách biệt và những xa lạ: “ Người vinh quang mơ ước địa đàng/ Người gian nan mơ ước bình thường/ Làm sao đến gần hy vọng cuộc vui chung/ Đường hôm qua tôi thấy được rồi/ Đường hôm nay tôi đã cùng ngồi có gì vui/ Đường tương lai xin nhắc từ đầu/ Cùng anh em trên khắp địa cầu, hãy gần nhau/ Và riêng tôi xin có một ngày, ngồi thong dong trao đến mọi loài, chút tình tôi “.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001). Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001) chỉ sống được 62 năm trên cuộc đời, mà di sản của ông đồng hành và réo gọi nhiều thế hệ người Việt Nam. Thế nhưng, mỗi dịp kỷ niệm ngày mất hay ngày sinh của ông, ngoài những chương trình ca nhạc thì chẳng mấy ai quan tâm đến việc củng cố tác phẩm Trịnh Công Sơn một cách có hệ thống. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh ra và lớn lên ở Huế , học cao đẳng ở Quy Nhơn , làm giáo viên ở Bảo Lộc , rồi gắn bó với TP Hồ Chí Minh cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dường như chưa bao giờ vắng mặt trên cõi đời, dù công chúng không còn nhìn thấy bóng dáng gầy gò cùng bước chân liêu xiêu của ông đi qua những hàng me đô thị phương Nam; Dù đồng nghiệp không còn nhìn thấy khuôn mặt buồn thỉnh thoảng ánh lên ánh mắt tinh nghịch của ông trong những cuộc hội ngộ rượu sớm trà khuya. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại nhờ nhiều ca khúc của ông vẫn dan díu giữa trái tim nhiều người. Lúc sinh thời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng thổ lộ đã sáng tác khoảng 600 ca khúc. Tuy nhiên, dựa vào văn bản mà nhiều nhà sưu tập có được, thì hiện nay chỉ mới tìm thấy khoảng 250 ca khúc. Sau 20 năm ông qua đời, các chương trình ca nhạc lớn nhỏ trên cả nước, cũng chỉ hát đi hát lại chừng 50 ca khúc quen thuộc. Do sự lười nhác của giới biểu diễn, hay vì nguyên nhân nào khác, thì một sự thật ấy cũng nói lên một điều rằng, di sản Trịnh Công Sơn chưa được khai thác hiệu quả để mang lại giá trị tinh thần cho xã hội hôm nay và ngày mai. Nền tân nhạc Việt Nam có ba nhân vật nổi bật là Văn Cao (1923-1995), Phạm Duy (1921- 2013) và Trịnh Công Sơn (1939-2001). Nếu phân tích về giai điệu và khúc thức, thì tác phẩm của Trịnh Công Sơn không bay bổng bằng Văn Cao và không đa dạng bằng Phạm Duy. Thế nhưng, ca từ của Trịnh Công Sơn lại rất gần gũi với tâm tình và tâm tính của người Việt Nam. Đặc biệt, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có dòng ca khúc Da Vàng vượt khỏi biên giới Việt Nam, thu hút sự quan tâm của nhiều chuyên gia nghiên cứu âm nhạc quốc tế. Sau khi nhạc sĩ Mỹ Bob Dylan được trao giải thưởng Nobel Văn học năm 2016 vì “đã có cách biểu đạt mới cho thi ca qua các ca khúc”, thì những người yêu nhạc càng thấy trân trọng hơn với ca từ của Trịnh Công Sơn. Xuất hiện cùng thời điểm vào thập niên 60 của thế kỷ trước, Bod Dylan và Trịnh Công Sơn là hai hiện tượng âm nhạc ở hai bán cầu. Nếu nhạc sĩ Bod Dylan ở Mỹ có album “Blowin’ in the Wind” (Thoảng bay theo cơn gió) thì nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở Việt Nam có dòng ca khúc Da Vàng. Giữa hai nền văn hóa khác nhau, giữa hai môi trường sáng tạo khác nhau, nhưng ca từ của Trịnh Công Sơn hoàn toàn không thua kém Bod Dylan. Thậm chí, ca từ Trịnh Công Sơn còn có yếu tố vượt trội khi đề cập đến những thân phận yếu đuối chịu đựng chiến tranh. Ví dụ, ca khúc “Đại bác ru đêm” day dứt: “ Đại bác đêm đêm dội về thành phố/ Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe/ Từng chuyến bay đêm con thơ giật mình/ Hầm trú tan hoang ôi da thịt vàng/ Từng đêm soi sáng là mắt quê hương “. Hoặc ca khúc “Cho quê hương mỉm cười” đanh thép: “ Triệu bàn tay chúng ta đấm tan mặt tôi đòi/ Trong tim con người lòng tin làm khí giới/ Ta hiên ngang bên thú mặt người/ Một bầy thú tay sai cho người ngoài/ Triệu bàn chân chúng ta bước đi trên mặt đất này/ Trong tim con người là một đồng lúa mới/ Ta nung sôi ý chí mặt trời/ Chặt cùm xích cho quê hương mỉm cười “. Dòng ca khúc Da Vàng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có khoảng 100 bài hát, phần lớn vẫn còn chìm khuất trong đời sống âm nhạc Việt Nam hiện nay. Cần phục dựng lại, bằng cách xuất bản hoặc ghi âm những tác phẩm tâm huyết đó, không phải để đề cử giải thưởng Nobel Văn học cho Trịnh Công Sơn (vì giải thưởng Nobel không trao cho người đã khuất) mà để làm phong phú thêm kho tàng âm nhạc Việt Nam. Bởi lẽ, trong dòng ca khúc Da Vàng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã hát lên chân lý yêu chuộng hòa bình của người Việt Nam một cách giản dị và bền bỉ. Chẳng hạn, ca khúc “Đêm bây giờ đêm mai” viết năm 1967: “ Đêm mai là trời im tiếng súng/ Cho mẹ hát ca dao trên đồng/ Đêm mai này hỏa châu hết sáng/ Cho mẹ thấy tương lai đàn con/ Đêm huy hoàng trời mưa trút xuống/ Ôi từ đó nghe như thiên đàng “. Chân dung Trịnh Công Sơn qua nét vẽ Đinh Cường. Đẳng cấp ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là điều ai cũng thừa nhận. Nói cách khác, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là một người hát thơ mình bằng tiết tấu da diết. Vì vậy, chuyện Trịnh Công Sơn phổ thơ người khác rất hiếm hoi. Tổng cộng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chỉ phổ nhạc cho bốn bài thơ. Với mối quan hệ thân thiết, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã phổ hai bài thơ của họa sĩ Trịnh Cung thành ca khúc “Cuối cùng cho một tình yêu” và “Thiên sứ bâng khuâng”. Trường hợp ca khúc “Mẹ đi vắng” được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phổ thơ của Nguyễn Quang Dũng vào năm 1982, khá độc đáo. Chính xác hơn, khi ấy Nguyễn Quang Dũng mới 4 tuổi, đã cùng cha là nhà văn Nguyễn Quang Sáng đến thăm Trịnh Công Sơn. Từ những câu nói ngây ngô của Nguyễn Quang Dũng “mẹ đi vắng, con sang chơi nhà bạn, con cầm cây đàn con hát, cho mẹ về với con”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết ca khúc “Mẹ đi vắng” và trân trọng ghi tên tác giả phần lời lúc công bố tác phẩm. Ngoài ra, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn còn có ca khúc “Giọt nước cành sen” phổ thơ Thân Thị Ngọc Quế vào năm 1990: “ Ngàn năm giọt nước có buồn không/ Sao vẫn long lanh dưới ánh hồng/ Trên cánh sen vàng ai biết được/ Ngàn năm giọt nước có buồn không “. Sự nghiệp của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được đánh dấu từ ca khúc “Ướt mi” viết năm 1958. Vậy, ca khúc nào đánh dấu kết thúc hành trình sáng tác của ông? Ca khúc “Đồng dao 2000” được công bố trước khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời ít lâu, cũng không phải ca khúc cuối cùng của ông. Trong di cảo, có hai ca khúc được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết đầu năm 2001, là “Đốm lửa hồng” và “Hạt điều khăn điều”. Ca khúc “Đốm lửa hồng” trầm tư: “ Em đi tìm, tìm đời không gỗ đá/ Em đi tìm, tìm đời không cánh diều bay/ Hồng nhan giữa phố có khi hồng nhan lạ/ Hồng nhan giữa phố hồng nhan ơi/ Hồng nhan em là đốm lửa hồng “. Còn ca khúc “Hạt điều khăn điều” trăn trở: “ Những hạt điều nằm kề bên nhau/ Điệu không lụa đỏ/ Lụa đỏ thênh thang bay cùng khắp phố/ Phố em phố nhỏ đỏ đỏ mắt nhìn “. Sau 20 năm rời xa cõi tạm, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn phủ sóng trong mọi ngõ xóm ba miền. Thế nhưng, vẫn còn nhiều tâm tư của ông gửi gắm qua ca khúc, chưa được vang lên. Cho nên, nếu thực sự yêu mến Trịnh Công Sơn, thì đừng ăn theo tên tuổi Trịnh Công Sơn để công bố những bức thư tình sến súa mà ông đã giấu kín trong quá khứ, hoặc làm những bộ phim hư ảo như “Em và Trịnh”. Hãy hệ thống lại toàn bộ tác phẩm Trịnh Công Sơn và công bố một cách bài bản. Nhất là trong bối cảnh hội nhập, thực hiện một tuyển tập Trịnh Công Sơn để dịch sang các ngôn ngữ thịnh hành quốc tế, sẽ giúp thế giới có thêm một kênh thẩm mỹ về nghệ thuật Việt Nam. Không có gì phải nghi ngại, khi khẳng định rằng, qua ca khúc Trịnh Công Sơn, nhân loại sẽ thấu hiểu người Việt “nhân danh mơ ước ta quyết đòi hòa bình, nhân danh tình thương ta chống chiến tranh”. Từ năm 1968, Trịnh Công Sơn đã khao khát: “ Ta đã thấy gì trong đêm nay/ Bàn tay muôn vạn bàn tay/ Những ngón tay thơm nối tật nguyền, nối cuộc tình, nối lòng đổ nát/ Bàn tay đi nối anh em ” và Trịnh Công Sơn đã dự liệu: “ Nơi đây còn những thương binh/ Ngày mai ruộng xanh là niềm tin cấy trên lòng anh/ Vì quanh đây nhờ anh, người người đã sống trong yên lành “. Đồng thời, Trịnh Công Sơn cũng mong mỏi giữa người với người được kéo gần những cách biệt và những xa lạ: “ Người vinh quang mơ ước địa đàng/ Người gian nan mơ ước bình thường/ Làm sao đến gần hy vọng cuộc vui chung/ Đường hôm qua tôi thấy được rồi/ Đường hôm nay tôi đã cùng ngồi có gì vui/ Đường tương lai xin nhắc từ đầu/ Cùng anh em trên khắp địa cầu, hãy gần nhau/ Và riêng tôi xin có một ngày, ngồi thong dong trao đến mọi loài, chút tình tôi “.
Sau 19 năm, con người mới có thể chiêm ngưỡng các vành đai của Thiên Vương tinh chụp bởi kính viễn vọng không gian. Ảnh cận cảnh của Thiên Vương tinh chụp bởi kính viễn vọng James Webb. Ảnh: NASA. Ngày 6/4, Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) đã công bố hình ảnh mới của Thiên Vương tinh, được chụp hồi tháng 2 bởi camera hồng ngoại gần (NIRCam) trên kính viễn vọng James Webb. Bên cạnh màu xanh nhạt đặc trưng, bức ảnh còn cho thấy các vành đai mờ và 6 mặt trăng (vật thể vệ tinh) sáng nhất quanh Thiên Vương tinh. Theo Forbes , James Webb là kính viễn vọng thứ 3 trong lịch sử chụp lại các vành đai của Thiên Vương tinh. Những bức ảnh trước đây thuộc về tàu vũ trụ Voyager 2 (chụp năm 1986) và đài quan sát Keck (năm 2004). Bức ảnh của James Webb chụp 11 trên 13 vành đai đã biết của Thiên Vương tinh. Một số vành đai rất sáng nên khi nhìn trong ảnh, chúng dường như hợp nhất thành một. Góc nhìn toàn cảnh của NASA cho thấy 6 vệ tinh sáng nhất trong tổng số 27 mặt trăng đã biết của Thiên Vương tinh. Do chỉ sử dụng 2 bộ lọc trên NIRCam với tốc độ phơi sáng 12 phút, những vệ tinh còn lại khá nhỏ và mờ. Đốm trắng bên phải Thiên Vương tinh gọi là chỏm băng cực (polar cap) – vùng băng bao quanh cực của hành tinh. Theo NASA, điều đặc biệt là chỏm cực dường như chỉ xuất hiện khi được ánh sáng Mặt Trời chiếu trực tiếp vào mùa hè, sang mùa thu sẽ biến mất. Từ dữ liệu của James Webb, các nhà khoa học kỳ vọng có thể phân tích sâu hơn về cơ chế chỏm cực bí ẩn của Thiên Vương tinh. Ảnh toàn cảnh gồm Thiên Vương tinh và 6 vệ tinh sáng nhất. Ảnh: NASA. Độ nhạy và bước sóng dài của NIRCam cho thấy trung tâm chỏm cực sáng hơn, chi tiết không thể ghi nhận bởi kính viễn vọng Hubble hay đài quan sát Keck. Thiên Vương tinh thuộc nhóm hành tinh băng khổng lồ, có độ nghiêng trục quay đến 98 độ. Hành tinh này mất khoảng 84 năm (theo lịch Trái Đất) để hoàn thành một vòng quỹ đạo quanh Mặt Trời. Do độ nghiêng trục quay lớn, thời gian một mùa trên hành tinh này rất dài, dẫn đến điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Theo NASA, cực bắc của Thiên Vương tinh đang vào cuối mùa xuân, trong khi mùa hè sẽ đến vào năm 2028. Cũng như hầu hết hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời , Thiên Vương tinh ẩn chứa nhiều điều bí ẩn. Những hình ảnh của James Webb và Hubble đã tiết lộ một số thông tin thú vị, tuy nhiên giới khoa học nhận định vẫn cần đưa tàu vũ trụ vào bầu khí quyển mới có thể hiểu rõ hoạt động của hành tinh này.
After 19 years, people can admire the rings of Uranus captured by space telescopes. Close-up image of Uranus taken by the James Webb telescope. Photo: NASA. On April 6, the US Space Agency (NASA) announced a new image of Uranus, taken in February by the near infrared camera (NIRCam) on the James Webb telescope. Besides the characteristic pale blue color, the image also shows faint rings and six of the brightest moons (satellite objects) around Uranus. According to Forbes , James Webb is the third telescope in history to image the rings of Uranus. Previous photos belong to the Voyager 2 spacecraft (taken in 1986) and the Keck observatory (taken in 2004). James Webb's photo shows 11 of Uranus's 13 known rings. Some belts are so bright that when seen in photos, they appear to merge into one. NASA's panoramic view shows the six brightest of Uranus's 27 known moons. Because only 2 filters are used on NIRCam with an exposure speed of 12 minutes, the remaining satellites are quite small and blurry. The white spot to the right of Uranus is called the polar ice cap - the area of ​​ice surrounding the planet's poles. According to NASA, the special thing is that the polar cap only seems to appear when exposed to direct sunlight in the summer, and will disappear in the fall. From James Webb's data, scientists hope to be able to further analyze the mysterious polar cap mechanism of Uranus. Panoramic image includes Uranus and the six brightest satellites. Photo: NASA. NIRCam's sensitivity and long wavelength reveal the center of the polar cap brighter, details that cannot be captured by the Hubble telescope or the Keck observatory. Uranus belongs to the group of giant ice planets, with an axial tilt of up to 98 degrees. This planet takes about 84 years (according to the Earth's calendar) to complete an orbit around the Sun. Due to the large axial tilt, the season on this planet is very long, leading to extreme weather conditions. According to NASA, Uranus's north pole is in late spring, while summer will arrive in 2028. Like most other planets in Solar system , Uranus hides many mysteries. James Webb and Hubble's images have revealed some interesting information, but scientists say it is still necessary to put a spacecraft into the atmosphere to fully understand the planet's activities.
Tháng 3 vừa qua là tháng 3 nóng thứ hai trên Trái Đất, trong bối cảnh băng ở Nam Cực giảm mạnh. Băng trôi trên sông băng Collins, Nam Cực, ngày 1/2/2018. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN. Báo cáo của Cơ quan theo dõi biến đổi khí hậu Copernicus – cơ quan theo dõi khí hậu Liên minh châu Âu (EU) – công bố ngày 6/4 đã ghi nhận điều này dựa trên phân tích máy tính sử dụng hàng tỉ số đo từ vệ tinh, tàu biển, máy bay và các trạm thời tiết trên thế giới. Cũng theo báo cáo trên, nhiệt độ trong tháng 3 vừa qua cao hơn mức trung bình ở Nam và Trung Âu, trong khi dưới trung bình ở phần lớn khu vực Bắc Âu. Tại phần lớn Bắc Phi, Tây Nam Nga, châu Á và Đông Bắc Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Australia và vùng ven biển Nam Cực, thời tiết ấm hơn nhiều so với mức trung bình. Trái lại, ở Tây và Trung Bắc Mỹ, thời tiết lạnh hơn nhiều so với mức trung bình. Tình trạng ấm lên toàn cầu đang làm băng biển giảm và mực nước biển dâng cao, dẫn đến cảnh báo có thể đạt tới các điểm tới hạn nguy hiểm. Theo Copernicus, diện tích băng biển Nam Cực trong tháng 3 vừa qua ở mức thấp thứ 2 trong những tháng 3 hằng năm trong hồ sơ dữ liệu vệ tinh trong 45 năm qua, thấp hơn mức trung bình 28%. Diện tích băng biển ghi nhận mức nhỏ nhất vào tháng 2 vừa qua, tiếp tục đà giảm trong 1 thập niên qua. Trong khi đó, diện tích băng biển Bắc Cực thấp hơn mức trung bình 4% và ở mức thấp thứ 4 đối với các tháng 3 trong lịch sử, mặc dù mật độ cao hơn mức trung bình ở Biển Greenland. Số liệu của Copernicus cũng cho thấy 8 năm qua là 8 năm ấm nhất trong lịch sử.
Last March was the second hottest March on Earth, in the context of a sharp decrease in Antarctic ice. Icebergs on Collins Glacier, Antarctica, February 1, 2018. File photo: AFP/TTXVN. The report of the Copernicus Climate Change Monitoring Agency - the European Union's (EU) climate monitoring agency - published on April 6 noted this based on computer analysis using billions of measurements. from satellites, ships, airplanes and weather stations around the world. According to the above report, temperatures in March were above average in Southern and Central Europe, while below average in much of Northern Europe. In much of North Africa, southwestern Russia, Asia and northeastern North America, South America, Australia and coastal Antarctica, the weather was much warmer than average. In contrast, in Western and Central North America, the weather was much colder than average. Global warming is causing sea ice to decrease and sea levels to rise, leading to warnings that dangerous tipping points may be reached. According to Copernicus, the Antarctic sea ice area in March was the second lowest of any March in satellite data records over the past 45 years, 28% lower than average. Sea ice area recorded its smallest level last February, continuing a decline over the past decade. Meanwhile, Arctic sea ice extent was 4% below average and was the fourth lowest for March on record, although density was higher than average in the Greenland Sea. Copernicus data also show that the past 8 years have been the 8 warmest years in history.
Lũy kế 3 tháng, diện tích rừng trồng trên cả nước đạt 38,6 nghìn ha, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng trong lĩnh vực lâm nghiệp khá cao, ước đạt 3,66% so với cùng kỳ năm trước. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong thời gian qua, tăng trưởng trong lĩnh vực lâm nghiệp khá cao, ước đạt 3,66% so với cùng kỳ năm trước. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo, đôn đốc các địa phương chuẩn bị cây giống, hiện trường trồng rừng và phát động phong trào “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” trên cả nước. Tháng 3, cả nước chuẩn bị được 94,2 triệu cây giống, trồng rừng đạt 19,8 nghìn ha, tăng 11,8% so với tháng 3/2023. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1.305,4 nghìn m3, tăng 2,4%. Lũy kế 3 tháng, cả nước chuẩn bị được gần 419 triệu cây giống, giảm 20% so với cùng kỳ năm trước; trồng rừng đạt 38,6 nghìn ha, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 3.349,2 nghìn m3, tăng 4,2%. Bên cạnh đó, ngay từ đầu năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đôn đốc, chỉ đạo các địa phương tăng cường kiểm tra công tác quản lý bảo vệ rừng và đôn đốc xử lý vụ việc khai thác rừng trái pháp luật nhằm kịp thời xử lý các điểm nóng về chặt phá rừng. Trong quý I/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. Quý I/2023, cả nước thu 748,4 tỷ đồng tiền dịch vụ môi trường rừng, giảm 10% so với cùng kỳ năm trước; đã cấp chứng chỉ cho 419.582 ha rừng. Tính chung, đến nay có 718 chủ rừng quản lý 7,65 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp, 417 phương án quản lý rừng bền vững được phê duyệt, đạt 58% tổng số phương án cần phê duyệt. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, trong thời gian tới, sẽ tiếp tục theo dõi, đôn đốc các địa phương chuẩn bị đủ cây giống, hiện trường để trồng rừng theo kế hoạch, chủ động kiểm soát chất lượng giống cây trồng lâm nghiệp. Tuyên truyền, cảnh báo nguy cơ cháy rừng; chỉ đạo, đôn đốc hệ thống kiểm lâm cả nước thực hiện các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng, bố trí lực lượng thường trực tại các vùng rừng có nguy cơ cháy cao… Tính chung quý I/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán tăng 6,0%; sản lượng gỗ khai thác tăng 4,2%. Trước đó, tại Hội nghị Tổng kết công tác năm 2020 của Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, năm 2020, Việt Nam đã trồng được 230.000 rừng tập trung. Diện tích khoanh nuôi, bảo vệ, phục hồi rừng sản xuất diễn tiến theo hướng tích cực. Cùng với đó, tổng sản lượng nguyên liệu gỗ của Việt Nam ước tính đạt 21 triệu tấn, đáp ứng được 80% nhu cầu chế biến gỗ trong nước. Tổng diện tích rừng toàn quốc đạt trên 14,6 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc ước tính đạt 42%. Trong những năm qua, tác động của biến đổi khí hậu ngày càng rõ, thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai xảy ra ngày càng khốc liệt và thường xuyên đã ảnh hưởng không nhỏ tới tài nguyên rừng và hoạt động lâm nghiệp. Độ che phủ của rừng nước ta giảm sút đến mức báo động. Những tổn thất về rừng là không thể bù đắp được và gây ra nhiều tổn thất lớn về kinh tế, về công ăn việc làm và phát triển đất nước bền vững. Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, đề án 1 tỷ cây xanh (690 triệu cây phân tán ở đô thị và nông thôn, 310 triệu cây ở rừng phòng hộ, đặc dụng, trồng mới rừng sản xuất…) chính là một trong những tiền đề quan trọng để Việt Nam hướng đến phát triển bền vững, mang lại lợi ích môi trường và kinh tế. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện Đề án 1 tỷ cây xanh, trong hai năm 2021 và 2022, cả nước đã trồng mới được 450 triệu cây xanh, bao gồm: 227 triệu cây rừng trồng tập trung (tương đương 130.000ha rừng trồng mới) và 223 triệu cây xanh trồng phân tán, vượt 7,6% so với kế hoạch. Trong đó, nguồn kinh phí thực hiện từ xã hội hóa chiếm tỷ lệ tới 50%. Đây là kết quả rất tích cực, đáng khích lệ, cần được phát huy và nhân rộng trong những năm tới. Theo Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, Việt Nam đặt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Trong 5 lĩnh vực đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính quốc gia, lâm nghiệp là ngành duy nhất phát thải âm – do khả năng hấp thụ CO2 khổng lồ, vượt xa lượng phát thải. Đến năm 2030, lĩnh vực lâm nghiệp, sử dụng đất dự kiến sẽ giảm 70% lượng phát thải và tăng 20% lượng hấp thụ các-bon so với kịch bản phát triển thông thường, tổng lượng phát thải và hấp thụ đạt ít nhất -95 triệu tấn CO2tđ. Đến năm 2050, lượng phát thải sẽ giảm 90%, lượng hấp thụ các-bon tăng 30%, tổng lượng phát thải và hấp thụ đạt ít nhất -185 triệu tấn CO2tđ.
Accumulated in 3 months, the area of ​​planted forests nationwide reached 38.6 thousand hectares, an increase of 9.4% over the same period last year. Growth in the forestry sector is quite high, estimated at 3.66% over the same period last year. According to the Ministry of Agriculture and Rural Development, in recent times, growth in the forestry sector has been quite high, estimated at 3.66% over the same period last year. The Ministry of Agriculture and Rural Development has directed and urged localities to prepare seedlings and afforestation sites and launched the movement "Tree planting for eternal gratitude to Uncle Ho" nationwide. In March, the whole country prepared 94.2 million seedlings, afforestation reached 19.8 thousand hectares, an increase of 11.8% compared to March 2023. Timber output is estimated at 1,305.4 thousand m3, an increase of 2.4%. Accumulated in 3 months, the whole country prepared nearly 419 million seedlings, down 20% over the same period last year; Forest planting reached 38.6 thousand hectares, an increase of 9.4% over the same period last year. Timber output is estimated at 3,349.2 thousand m3, an increase of 4.2%. In addition, right from the beginning of the year, the Ministry of Agriculture and Rural Development has urged and directed localities to strengthen inspection of forest management and protection and urge the handling of illegal forest exploitation cases. to promptly handle deforestation hot spots. In the first quarter of 2023, the area of ​​newly planted forests nationwide is estimated to increase by 4.7% over the same period last year. In the first quarter of 2023, the whole country collected 748.4 billion VND in forest environmental services, down 10% over the same period last year; has certified 419,582 hectares of forest. Overall, to date there are 718 forest owners managing 7.65 million hectares of forests and forestry land, 417 sustainable forest management plans have been approved, reaching 58% of the total number of plans needing approval. The Ministry of Agriculture and Rural Development said that in the coming time, it will continue to monitor and urge localities to prepare enough seedlings and fields for afforestation according to plan, and proactively control the quality of seedlings. forestry planting. Propagate and warn of forest fire risks; Direct and urge the national forest ranger system to implement forest fire prevention and fighting measures, arrange permanent forces in forest areas with high fire risk... In the first quarter of 2023, the area of ​​newly planted forests nationwide is estimated to increase by 4.7% over the same period last year; The number of scattered forestry trees increased by 6.0%; Timber output increased by 4.2%. Previously, at the 2020 Summary Conference of the General Department of Forestry, the Ministry of Agriculture and Rural Development said that in 2020, Vietnam planted 230,000 concentrated forests. The area of ​​​​forest cultivation, protection, and restoration of production forests is progressing in a positive direction. Along with that, Vietnam's total wood material output is estimated to reach 21 million tons, meeting 80% of domestic wood processing needs. The total forest area nationwide reaches over 14.6 million hectares, the national forest coverage rate is estimated at 42%. In recent years, the impact of climate change has become increasingly clear, the weather has become more complicated, and natural disasters have become increasingly severe and frequent, significantly affecting forest resources and forestry activities. Our country's forest coverage has decreased to an alarming level. Forest losses are irreparable and cause great economic losses, jobs and sustainable national development. According to the assessment of many scientists, the project of 1 billion trees (690 million trees scattered in urban and rural areas, 310 million trees in protective forests, special-use forests, new production forests...) is one of important premises for Vietnam to move towards sustainable development, bringing environmental and economic benefits. According to the Ministry of Agriculture and Rural Development, implementing the 1 billion green trees project, in 2021 and 2022, the whole country has planted 450 million new trees, including: 227 million concentrated forest trees (equivalent to 130,000 hectares of newly planted forests) and 223 million scattered trees, 7.6% higher than the plan. Of which, funding from socialization accounts for up to 50%. This is a very positive and encouraging result that needs to be promoted and replicated in the coming years. According to the National Strategy on Climate Change for the period up to 2050, Vietnam sets a net emission target of "zero" by 2050. Among the 5 sectors contributing to the national greenhouse gas emission reduction target, Forestry is the only industry with negative emissions - due to its huge ability to absorb CO2, far exceeding emissions. By 2030, the forestry and land use sectors are expected to reduce emissions by 70% and increase carbon absorption by 20% compared to the normal development scenario, with total emissions and absorption reaching at least -95 million tons CO2eq. By 2050, emissions will decrease by 90%, carbon absorption will increase by 30%, total emissions and absorption will reach at least -185 million tons of CO2eq.
Nhiều người cứ băn khoăn thơ được sáng tác nhiều, in ấn phong phú đa dạng như vậy rất khó cho việc bao quát nhận định về thực trạng và chất lượng của phong trào thơ, của nền thơ hiện nay. Số lượng nhiều nhưng tác phẩm hay lại ít. Tiêu chí đánh giá thơ rất phân tán và tình trạng loạn chuẩn đáng báo động. Nhiều bài bình luận tác giả tác phẩm thơ chỉ là những lời tán tụng ồn ào bốc thơm vô căn cứ, có khi còn bộc lộ những hiểu biết thô sơ, thô thiển hoặc vênh váo sùng ngoại… Quả là như thế và không đơn giản như thế. Theo tôi, những năm qua, diện mạo chung của thơ nhưng không chỉ là thơ cần có nhiều quan tâm, suy nghĩ tâm huyết, nhiều tiếng nói mới hi vọng gợi mở được đôi điều. 1. Nếu đúng mỗi năm chúng ta có chừng một nghìn tập thơ được xuất bản thì từ đấy suy ra số người làm thơ là mấy nghìn người. Lực lượng sáng tác ấy từ nhiều nguồn, nhiều trình độ, tâm thế khác nhau. Có người lăn lộn với thơ, lấy thơ làm nghề sống, coi thơ là nghiệp. Có người đến với thơ, lấy thơ làm sang với đời nhất là khi “trong tay đã sẵn đồng tiền”. Có người nhờ thơ để dốc bầu tâm sự, sau những tháng năm miệt mài sống trách nhiệm; với họ thơ để giao hòa giao cảm, để chia sẻ trong những lúc có điều kiện. Cũng không ít người đến với thơ như một thú chơi, chơi chữ, chơi xếp đặt cắt dán, chơi trình diễn, xáo trộn thơ với các nghệ thuật khác. Họ quan niệm thơ trong tay tạo hóa, tự do tung hứng, chẳng bận tâm tới hậu quả. Vậy thì quan niệm thơ, quan niệm nhà thơ, trách nhiệm nhà thơ với xã hội phải khác đi. Cái thời xã hội tôn trọng nhà thơ, thơ có vai trò tác động vào tư tưởng tình cảm, kích thích hưng phấn mọi người lao động xây dựng chiến đấu đã qua rồi. Bây giờ là kinh tế. Tư duy kinh tế, hoạt động kinh tế trở thành trung tâm lấn át mọi hoạt động đời sống xã hội. Thơ có khi lạc lõng, may ra chỉ để cho người làm thơ đọc. Vậy thì đâu phải là lỗi ở thơ. Xã hội cần cái gì? Cần kinh tế phát triển, đời sống nâng cao, vật chất dồi dào, tinh thần sảng khoái. Sau những giờ lao động căng thẳng trong môi trường xô bồ sôi động, người ta cần nghỉ ngơi hơn, cần xem những gì bổ mắt, cần nghe những gì vui vẻ, yêu đời. Còn thơ, hàm súc, chữ nghĩa cao siêu với hình tượng, biểu tượng gợi cảm, có khi phải trầm tư tưởng tượng thì quả là mệt mỏi phiền toái thêm. Thế thì cần gì hàng nghìn người làm thơ đã nói ở trên? Hàng nghìn người làm thơ đa phần là ở các câu lạc bộ thơ rải rác ở phố phường và cả làng quê khắp đất nước. Họ cần có thơ nhưng là loại thơ dễ hiểu, có nhịp điệu ngôn ngữ đời thường, giản dị, phù hợp với thẩm mĩ người đọc người nghe. Thơ sáng tác theo yêu cầu thị hiếu công chúng đại chúng có chức năng giải trí nhiều hơn. Những tìm tòi cách tân trở nên xa lạ không cần thiết. Ở một phía ngược lại, nhiều nhà thơ muốn phá bỏ truyền thống, tìm cái mới cái lạ, khác người khác mình, bộc lộ mạnh mẽ quyết liệt bản ngã. Đây là lớp trẻ có nội lực phong phú, có trình độ, có giao lưu rộng với tâm nguyện đưa thơ Việt hòa vào mặt bằng thơ thế giới. Cần chia sẻ trân trọng. Không khí thơ quả thực có sôi động hơn, nhưng kết quả chưa nhiều, chưa tương xứng với tâm huyết sức lực bỏ ra. Có trường hợp ngộ nhận đưa thơ khỏi quỹ đạo, sa đà phá phách. Theo tôi, số tác giả trẻ này không nhiều so với phong trào chung và lượng tác phẩm xuất bản không lớn, có điều họ biết quảng bá, biết cách gây “sốc”. Kẹt ở giữa là lực lượng nền của thơ. Lực lượng được hình thành phát triển trong những năm kháng chiến chống Mĩ và đặc biệt lớp nhà thơ xuất hiện từ sau năm 1975, tạo nên phẩm chất mới cho thơ. Những cây bút 5x, 6x đã làm thay đổi diện mạo thơ, gặt hái được nhiều thành tựu. Từ truyền thống họ biết học tập, tiếp thu tinh hoa các nền thơ thế giới một cách chọn lọc có sáng tạo. Nhiều tập thơ của họ được đánh giá cao, được ghi nhận là những đóng góp thực sự, chắc chắn. 2. Chưa có thống kê đối sánh để nói thơ ồ ạt bung ra quá nhiều so với các loại hình in ấn khác. Đúng là nhiều và có nhiều tập thơ kém chất lượng. Nhưng có phải vì thế mà “loạn chuẩn”? Không nên đặt chuẩn, ép chuẩn theo trình độ thị hiếu của một vài người nào đó. Mỗi người làm thơ, đọc thơ có cái chuẩn của riêng mình. Bấy nhiêu người làm thơ, đọc thơ với những tâm trạng hoàn cảnh khác nhau, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp khác nhau sẽ hình thành rất nhiều cách đánh giá, định giá thang bậc cho thơ. Ở đây cũng không phải lỗi của thơ nhiều, ít. Cái loạn hiện nay là “loạn giá trị” mà trách nhiệm đầu tiên thuộc về những người viết phê bình giới thiệu. Một tập thơ thôi mà người viết nhận xét cho là có không khí hậu hiện đại, người thứ hai cho là thơ tượng trưng, người tiếp theo cho là thơ siêu thực… cứ thế khoác lên những chiếc áo cũ vay mượn, chẳng biết thơ có bị ô nhiễm không nhưng chắc là khó thở. Trên báo chí hiện nay rất nhiều bài phê bình giới thiệu thơ. Thơ in nhiều cũng cần có nhiều quảng bá thơ. Có nhà phê bình chuyên nghiệp, có nhà thơ, có người hứng chí tạt vào thơ đong đưa ít dòng cảm nhận. Thế nên phê bình thơ nhiều màu sắc và tạo được không khí dân chủ lành mạnh. Dù chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp, nghiên cứu hay sáng tác, bài phê bình cần có ý kiến thuyết phục cả về lí và tình, nói đúng và trúng những đặc sắc đặc trưng của thơ không thể chung chung hời hợt. Người đọc phàn nàn nhiều bài phê bình yếu kém không hiểu thơ, không cảm thụ được thơ, hoặc tâng bốc nhau vì những quan hệ tế nhị. Một tệ hại gần đây xuất hiện lấn át nhân cách người viết phê bình là gây nhiễu hoặc có thể do trình độ thẩm thơ, thị hiếu hạn hẹp của người viết. Dùng những thuật ngữ, từ ngữ sang trọng, khoa trương để tôn vinh những câu chữ quá bình thường, những thứ chưa thành phẩm nâng lên chất lượng cao quảng bá trên sách báo, trên trang mạng. Người đọc thờ ơ với thơ, luôn thể quay lưng với phê bình, không tin phê bình thơ nói được điều gì khả dĩ. 3. Mỗi năm có bao nhiêu chồng thơ bày ra trước mắt. Tôi chỉ có điều kiện, khả năng tập trung đọc những tập thơ của các tác giả đã được khẳng định. Số thơ đó chẳng thấm vào đâu so với khối lượng thơ khổng lồ hàng ngày hàng giờ được định hình trên sách báo. Nhưng tạm bằng lòng với phạm vi đọc như thế (khi cần thiết đọc mở rộng hơn) để có cái nhìn chung về thơ, về một giai đoạn thơ và những đặc sắc, sự vận động của thơ Việt. Cứ quan sát kĩ sẽ thấy các tác giả phong trào hầu hết ở tuổi hồi hưu thường trở về với những âm điệu nhẹ nhàng mực thước. Thanh điệu tiếng Việt phong phú lôi kéo các cây bút thơ này gắn bó với những gì quen thuộc cùng với những giãi bày tâm trạng nỗi niềm cá thể hồn nhiên làm nên đặc điểm thơ của họ. Ngay cả thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu nước (thế hệ 4x) sau những tìm tòi đổi mới sôi động, bây giờ cũng đã tạm yên lòng với những biểu đạt gọn gàng trong sáng. Gánh nặng sáng tạo, theo tôi đặt lên vai thế hệ 5x, 6x mà hướng đi, thành tựu đã rõ. Thế hệ này là nguồn, là động lực vẫy gọi các thế hệ sau hòa đồng và hướng tới những kì vọng mới. Tất nhiên còn phụ thuộc vào đời sống chính trị xã hội văn hóa con người. Thơ cũng như các hoạt động nghệ thuật khác không thể thoát li môi trường môi sinh đó. Người sáng tác, người phê bình cũng cần thực tế, tránh hoang tưởng, nhận chân thực trạng thơ, tham gia và có những ứng xử tích cực để thơ đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống.
Nhiều người cứ băn khoăn thơ được sáng tác nhiều, in ấn phong phú đa dạng như vậy rất khó cho việc bao quát nhận định về thực trạng và chất lượng của phong trào thơ, của nền thơ hiện nay. Số lượng nhiều nhưng tác phẩm hay lại ít. Tiêu chí đánh giá thơ rất phân tán và tình trạng loạn chuẩn đáng báo động. Nhiều bài bình luận tác giả tác phẩm thơ chỉ là những lời tán tụng ồn ào bốc thơm vô căn cứ, có khi còn bộc lộ những hiểu biết thô sơ, thô thiển hoặc vênh váo sùng ngoại… Quả là như thế và không đơn giản như thế. Theo tôi, những năm qua, diện mạo chung của thơ nhưng không chỉ là thơ cần có nhiều quan tâm, suy nghĩ tâm huyết, nhiều tiếng nói mới hi vọng gợi mở được đôi điều. 1. Nếu đúng mỗi năm chúng ta có chừng một nghìn tập thơ được xuất bản thì từ đấy suy ra số người làm thơ là mấy nghìn người. Lực lượng sáng tác ấy từ nhiều nguồn, nhiều trình độ, tâm thế khác nhau. Có người lăn lộn với thơ, lấy thơ làm nghề sống, coi thơ là nghiệp. Có người đến với thơ, lấy thơ làm sang với đời nhất là khi “trong tay đã sẵn đồng tiền”. Có người nhờ thơ để dốc bầu tâm sự, sau những tháng năm miệt mài sống trách nhiệm; với họ thơ để giao hòa giao cảm, để chia sẻ trong những lúc có điều kiện. Cũng không ít người đến với thơ như một thú chơi, chơi chữ, chơi xếp đặt cắt dán, chơi trình diễn, xáo trộn thơ với các nghệ thuật khác. Họ quan niệm thơ trong tay tạo hóa, tự do tung hứng, chẳng bận tâm tới hậu quả. Vậy thì quan niệm thơ, quan niệm nhà thơ, trách nhiệm nhà thơ với xã hội phải khác đi. Cái thời xã hội tôn trọng nhà thơ, thơ có vai trò tác động vào tư tưởng tình cảm, kích thích hưng phấn mọi người lao động xây dựng chiến đấu đã qua rồi. Bây giờ là kinh tế. Tư duy kinh tế, hoạt động kinh tế trở thành trung tâm lấn át mọi hoạt động đời sống xã hội. Thơ có khi lạc lõng, may ra chỉ để cho người làm thơ đọc. Vậy thì đâu phải là lỗi ở thơ. Xã hội cần cái gì? Cần kinh tế phát triển, đời sống nâng cao, vật chất dồi dào, tinh thần sảng khoái. Sau những giờ lao động căng thẳng trong môi trường xô bồ sôi động, người ta cần nghỉ ngơi hơn, cần xem những gì bổ mắt, cần nghe những gì vui vẻ, yêu đời. Còn thơ, hàm súc, chữ nghĩa cao siêu với hình tượng, biểu tượng gợi cảm, có khi phải trầm tư tưởng tượng thì quả là mệt mỏi phiền toái thêm. Thế thì cần gì hàng nghìn người làm thơ đã nói ở trên? Hàng nghìn người làm thơ đa phần là ở các câu lạc bộ thơ rải rác ở phố phường và cả làng quê khắp đất nước. Họ cần có thơ nhưng là loại thơ dễ hiểu, có nhịp điệu ngôn ngữ đời thường, giản dị, phù hợp với thẩm mĩ người đọc người nghe. Thơ sáng tác theo yêu cầu thị hiếu công chúng đại chúng có chức năng giải trí nhiều hơn. Những tìm tòi cách tân trở nên xa lạ không cần thiết. Ở một phía ngược lại, nhiều nhà thơ muốn phá bỏ truyền thống, tìm cái mới cái lạ, khác người khác mình, bộc lộ mạnh mẽ quyết liệt bản ngã. Đây là lớp trẻ có nội lực phong phú, có trình độ, có giao lưu rộng với tâm nguyện đưa thơ Việt hòa vào mặt bằng thơ thế giới. Cần chia sẻ trân trọng. Không khí thơ quả thực có sôi động hơn, nhưng kết quả chưa nhiều, chưa tương xứng với tâm huyết sức lực bỏ ra. Có trường hợp ngộ nhận đưa thơ khỏi quỹ đạo, sa đà phá phách. Theo tôi, số tác giả trẻ này không nhiều so với phong trào chung và lượng tác phẩm xuất bản không lớn, có điều họ biết quảng bá, biết cách gây “sốc”. Kẹt ở giữa là lực lượng nền của thơ. Lực lượng được hình thành phát triển trong những năm kháng chiến chống Mĩ và đặc biệt lớp nhà thơ xuất hiện từ sau năm 1975, tạo nên phẩm chất mới cho thơ. Những cây bút 5x, 6x đã làm thay đổi diện mạo thơ, gặt hái được nhiều thành tựu. Từ truyền thống họ biết học tập, tiếp thu tinh hoa các nền thơ thế giới một cách chọn lọc có sáng tạo. Nhiều tập thơ của họ được đánh giá cao, được ghi nhận là những đóng góp thực sự, chắc chắn. 2. Chưa có thống kê đối sánh để nói thơ ồ ạt bung ra quá nhiều so với các loại hình in ấn khác. Đúng là nhiều và có nhiều tập thơ kém chất lượng. Nhưng có phải vì thế mà “loạn chuẩn”? Không nên đặt chuẩn, ép chuẩn theo trình độ thị hiếu của một vài người nào đó. Mỗi người làm thơ, đọc thơ có cái chuẩn của riêng mình. Bấy nhiêu người làm thơ, đọc thơ với những tâm trạng hoàn cảnh khác nhau, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp khác nhau sẽ hình thành rất nhiều cách đánh giá, định giá thang bậc cho thơ. Ở đây cũng không phải lỗi của thơ nhiều, ít. Cái loạn hiện nay là “loạn giá trị” mà trách nhiệm đầu tiên thuộc về những người viết phê bình giới thiệu. Một tập thơ thôi mà người viết nhận xét cho là có không khí hậu hiện đại, người thứ hai cho là thơ tượng trưng, người tiếp theo cho là thơ siêu thực… cứ thế khoác lên những chiếc áo cũ vay mượn, chẳng biết thơ có bị ô nhiễm không nhưng chắc là khó thở. Trên báo chí hiện nay rất nhiều bài phê bình giới thiệu thơ. Thơ in nhiều cũng cần có nhiều quảng bá thơ. Có nhà phê bình chuyên nghiệp, có nhà thơ, có người hứng chí tạt vào thơ đong đưa ít dòng cảm nhận. Thế nên phê bình thơ nhiều màu sắc và tạo được không khí dân chủ lành mạnh. Dù chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp, nghiên cứu hay sáng tác, bài phê bình cần có ý kiến thuyết phục cả về lí và tình, nói đúng và trúng những đặc sắc đặc trưng của thơ không thể chung chung hời hợt. Người đọc phàn nàn nhiều bài phê bình yếu kém không hiểu thơ, không cảm thụ được thơ, hoặc tâng bốc nhau vì những quan hệ tế nhị. Một tệ hại gần đây xuất hiện lấn át nhân cách người viết phê bình là gây nhiễu hoặc có thể do trình độ thẩm thơ, thị hiếu hạn hẹp của người viết. Dùng những thuật ngữ, từ ngữ sang trọng, khoa trương để tôn vinh những câu chữ quá bình thường, những thứ chưa thành phẩm nâng lên chất lượng cao quảng bá trên sách báo, trên trang mạng. Người đọc thờ ơ với thơ, luôn thể quay lưng với phê bình, không tin phê bình thơ nói được điều gì khả dĩ. 3. Mỗi năm có bao nhiêu chồng thơ bày ra trước mắt. Tôi chỉ có điều kiện, khả năng tập trung đọc những tập thơ của các tác giả đã được khẳng định. Số thơ đó chẳng thấm vào đâu so với khối lượng thơ khổng lồ hàng ngày hàng giờ được định hình trên sách báo. Nhưng tạm bằng lòng với phạm vi đọc như thế (khi cần thiết đọc mở rộng hơn) để có cái nhìn chung về thơ, về một giai đoạn thơ và những đặc sắc, sự vận động của thơ Việt. Cứ quan sát kĩ sẽ thấy các tác giả phong trào hầu hết ở tuổi hồi hưu thường trở về với những âm điệu nhẹ nhàng mực thước. Thanh điệu tiếng Việt phong phú lôi kéo các cây bút thơ này gắn bó với những gì quen thuộc cùng với những giãi bày tâm trạng nỗi niềm cá thể hồn nhiên làm nên đặc điểm thơ của họ. Ngay cả thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu nước (thế hệ 4x) sau những tìm tòi đổi mới sôi động, bây giờ cũng đã tạm yên lòng với những biểu đạt gọn gàng trong sáng. Gánh nặng sáng tạo, theo tôi đặt lên vai thế hệ 5x, 6x mà hướng đi, thành tựu đã rõ. Thế hệ này là nguồn, là động lực vẫy gọi các thế hệ sau hòa đồng và hướng tới những kì vọng mới. Tất nhiên còn phụ thuộc vào đời sống chính trị xã hội văn hóa con người. Thơ cũng như các hoạt động nghệ thuật khác không thể thoát li môi trường môi sinh đó. Người sáng tác, người phê bình cũng cần thực tế, tránh hoang tưởng, nhận chân thực trạng thơ, tham gia và có những ứng xử tích cực để thơ đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống.
Vào hôm nay (7/4), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kỷ niệm 75 năm ngày thành lập. Sau 3/4 thế kỷ hoạt động, WHO đã giành được nhiều thành công lớn. Và dù vẫn còn một số hạn chế và thách thức, song vai trò của tổ chức y tế toàn cầu này thậm chí còn đang cần thiết hơn bao giờ hết. Vào tháng 4 năm 1945, các chính trị gia từ khắp nơi trên thế giới đã tập trung tại San Francisco để thành lập Liên hợp quốc. Và tại cuộc họp, các nhà lãnh đạo từ Brazil và Trung Quốc đã đề xuất thành lập một tổ chức toàn cầu khác: một tổ chức đặc biệt dành cho sức khỏe toàn cầu. Toàn cảnh cuộc họp của Hội nghị Liên hợp quốc về Tổ chức Quốc tế, được tổ chức tại Nhà hát lớn San Francisco. Ảnh: Liên hợp quốc. Từ đề xuất đó, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ra đời ba năm sau, khi hiến chương của cơ quan này có hiệu lực vào ngày 7 tháng 4 năm 1948. Nó tuyên bố rằng sức khỏe là một quyền của con người mà mọi người đều được hưởng, “không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị, điều kiện kinh tế hay xã hội” và rằng “sức khỏe của tất cả các dân tộc là nền tảng để đạt được hòa bình và an ninh”. Liên hợp quốc cũng lấy ngày 7/4 là Ngày Sức khỏe Thế giới. Trụ sở chính của WHO có trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ, với 6 văn phòng khu vực và 150 quốc gia trên khắp thế giới. Trong lịch sử 75 năm, WHO, hiện dưới sự lãnh đạo của Tổng giám đốc Tedros Adhanom Ghebreyesus kể từ năm 2017, đã đạt được một số thành công lớn, song cũng còn nhiều sứ mệnh lớn cần hoàn thành. Một trong những thành công lớn nhất của WHO là vào năm 1980, tổ chức y tế toàn cầu của Liên hợp quốc này đã chính thức tuyên bố xóa sổ một căn bệnh truyền nhiễm phổ biến và gây chết người hàng thế kỷ: Bệnh đậu mùa. Wafaa El-Sadr, lãnh đạo Sáng kiến Y tế Toàn cầu của Trường Đại học Mailman cho biết: “Có lẽ thành công đáng chú ý nhất là việc loại bỏ bệnh đậu mùa, căn bệnh duy nhất ở người bị loại bỏ. Mặc dù có những bên khác tham gia vào nỗ lực này, WHO đã đóng một vai trò quan trọng thúc đẩy thế giới xung quanh mục tiêu này”. Christoph Gradmann, giáo sư lịch sử y học tại Đại học Oslo của Na Uy, cho biết việc diệt trừ được bệnh đậu mùa là một ví dụ hoàn hảo về thời điểm WHO hoạt động tốt nhất. Gradmann nói: “Ngay trong Chiến tranh Lạnh, đã có sự đồng thuận rộng rãi giữa hai khối rằng việc loại trừ bệnh đậu mùa là một mục tiêu cần phải giải quyết. Đó là lúc WHO đạt được những thành công lớn nhất: Khi các thành viên đồng ý về dự án nào đáng được thực hiện và bằng cách nào”. Nhiều chuyên gia đã đồng ý rằng đợt bùng phát dịch Ebola năm 2014 ở Guinea, Liberia và Sierra Leone là một ví dụ về công việc của WHO chưa được thực hiện tốt. Tổ chức được cho rằng đã không phản ứng đủ nhanh để giải quyết dịch bệnh. Nhưng El-Sadr nói rằng rất nhiều lời chỉ trích sau đợt bùng phát, kết thúc vào năm 2016, là do sự hiểu lầm về cách thức hoạt động của WHO. El-Sadr nói: “Có những kỳ vọng không thực tế đối với WHO, với nhiều người mong đợi tổ chức sẽ có mặt tại các quốc gia bị ảnh hưởng để đối phó với dịch bệnh. Đây không phải là nhiệm vụ của WHO. Vai trò của họ là hướng dẫn phản ứng, phát triển hướng dẫn, nhưng không đi vào một quốc gia để giúp giải quyết một mối đe dọa sức khỏe cụ thể”. Giáo sư Gradmann cũng đồng ý với quan điểm này: “WHO là một tổ chức xã hội. Đây không phải là cảnh sát y tế thế giới được tạo ra để can thiệp nhanh chóng”. Trên thực tế, WHO không có thẩm quyền hành động ở một quốc gia thành viên trừ khi quốc gia thành viên đó yêu cầu giúp đỡ. Tuy nhiên, Rüdiger Krech, giám đốc thúc đẩy sức khỏe của WHO, nói rằng sau đại dịch Ebola từ năm 2014 đến 2016, tổ chức này đã thực hiện những thay đổi đáng kể đối với cấu trúc của mình. Một ví dụ: Giờ đây, họ ít phụ thuộc vào các chính phủ quốc gia hơn về thông tin y tế quan trọng, do đó làm giảm khả năng bỏ lỡ thời điểm bắt đầu một đợt bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng khác”. Krech cho biết thêm rằng: “Chúng tôi cũng hợp tác với các công ty công nghệ. Họ có thể cho chúng tôi biết về một đợt bùng phát trước khi có bất kỳ thông tin chính thức nào của chính phủ bằng cách nói rằng ‘chúng tôi thấy rất nhiều người tìm kiếm các triệu chứng của căn bệnh này trên Google’. Và chúng tôi sử dụng hình ảnh vệ tinh từ các cơ quan vũ trụ như ESA và NASA, những hình ảnh này có thể cho chúng tôi thấy những khu vực có nhiều người đang bị sốt cao”. WHO đã phát động Chương trình Loại trừ Sốt rét Toàn cầu (GMEP) vào năm 1955. Chương trình này ban đầu diễn ra đầu hứa hẹn với 15 quốc gia và một vùng lãnh thổ quản lý để loại trừ căn bệnh này. Nhưng có rất ít hoặc không có tiến triển nào ở châu Phi cận Sahara theo chương trình, và ở nhiều nơi, việc không duy trì GMEP thực sự đã dẫn đến sự bùng phát trở lại của bệnh sốt rét. Năm 1969, chương trình bị ngừng. Hình ảnh cổ động Chiến dịch lần thứ 75 của WHO. Ngày 7/4 cũng được gọi là Ngày Sức khỏe Thế giới. Ảnh: WHO Giáo sư Gradmann nói, một lý do khiến việc loại trừ bệnh sốt rét không hiệu quả là bệnh sốt rét không chỉ là bệnh của con người mà còn có các ổ chứa trong tự nhiên. Điều khác biệt này khiến nó khó diệt trừ tận gốc hơn so với bệnh đậu mùa. Một số nhà phê bình cũng đã phàn nàn khi bắt đầu đại dịch COVID-19 rằng WHO đã phản ứng không kịp thời để hỗ trợ các quốc gia thành viên trong cuộc chiến chống lại căn bệnh này. Nhưng các chuyên gia như El-Sadr và Gradmann nói rằng nhiệm vụ của WHO không phải là hành động và đưa ra các sáng kiến ở đỉnh điểm của đại dịch COVID. Gradmann nói: “Trong thời kỳ COVID, WHO đã cung cấp dữ liệu và thực hiện công việc hành chính. Nhưng các sáng kiến chống lại căn bệnh này phải đến từ từng quốc gia thành viên. Tôi không nghĩ WHO có thể đóng vai trò lớn hơn trong đại dịch COVID”. El-Sadr nhấn mạnh rằng chính phủ quốc gia của các thành viên chịu trách nhiệm đưa ra quyết định về cách tốt nhất để ngăn chặn đại dịch ở quốc gia của họ. Họ đã có lời khuyên từ WHO, nhưng những khuyến nghị đó không mang tính ràng buộc. Cũng theo ông, WHO “bị cản trở bởi một thế giới đang bị chia rẽ với các quốc gia theo đuổi những lợi ích khác nhau mà quên đi những nguyên tắc đã hình thành nên WHO” và “WHO không có thẩm quyền thực thi các khuyến nghị của mình – các quốc gia có thể chấp nhận hoặc từ bỏ nó”. Bởi vậy dù còn một số hạn chế do tính đặc thù, nhưng WHO về cơ bản đã hoàn thành tốt nhiệm vụ cốt lõi của mình và đặc biệt cho thấy vai trò ngày càng cần thiết trong thế giới với nhiều bất ổn từ chính trị cho đến khí hậu ngày nay. Trong 75 năm qua, WHO đã có những tiến bộ phi thường trong việc bảo vệ con người khỏi bệnh tật và sự tàn phá, bao gồm cả việc thanh toán bệnh đậu mùa, giảm 99% tỷ lệ mắc bệnh bại liệt, cứu sống hàng triệu người nhờ tiêm chủng cho trẻ em, giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và cải thiện sức khỏe cho hàng triệu người khác. Và trước thềm lễ kỷ niệm 75 năm ngày thành lập WHO, Tổng giám đốc Tedros Adhanom Ghebreyesus, cho biết: “Lịch sử của WHO cho thấy điều gì có thể xảy ra khi các quốc gia đoàn kết với nhau vì một mục đích chung. Chúng ta có nhiều điều để tự hào, nhưng còn nhiều việc phải làm để hiện thực hóa tầm nhìn sáng lập của chúng ta về tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất có thể đạt được cho tất cả mọi người”. Để giải quyết những thách thức này, WHO đang kêu gọi các quốc gia hành động khẩn cấp để bảo vệ, hỗ trợ và mở rộng lực lượng lao động y tế như một ưu tiên chiến lược. Cần ưu tiên đầu tư vào giáo dục, kỹ năng và việc làm bền vững cho y tế để đáp ứng nhu cầu y tế đang tăng nhanh và ngăn chặn tình trạng thiếu hụt 10 triệu nhân viên y tế theo dự báo vào năm 2030; chủ yếu ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Và trước những bất ổn hiện tại trên toàn cầu, gồm cả việc thông tin khoa học đang bị tấn công liên tục mỗi ngày, WHO đưa ra khuyến cáo tới các quốc gia phải bảo vệ công chúng khỏi thông tin sai lệch; tăng cường sức khỏe thông qua khoa học, nghiên cứu, đổi mới, dữ liệu, công nghệ kỹ thuật số và quan hệ đối tác.
Vào hôm nay (7/4), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kỷ niệm 75 năm ngày thành lập. Sau 3/4 thế kỷ hoạt động, WHO đã giành được nhiều thành công lớn. Và dù vẫn còn một số hạn chế và thách thức, song vai trò của tổ chức y tế toàn cầu này thậm chí còn đang cần thiết hơn bao giờ hết. Vào tháng 4 năm 1945, các chính trị gia từ khắp nơi trên thế giới đã tập trung tại San Francisco để thành lập Liên hợp quốc. Và tại cuộc họp, các nhà lãnh đạo từ Brazil và Trung Quốc đã đề xuất thành lập một tổ chức toàn cầu khác: một tổ chức đặc biệt dành cho sức khỏe toàn cầu. Toàn cảnh cuộc họp của Hội nghị Liên hợp quốc về Tổ chức Quốc tế, được tổ chức tại Nhà hát lớn San Francisco. Ảnh: Liên hợp quốc. Từ đề xuất đó, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ra đời ba năm sau, khi hiến chương của cơ quan này có hiệu lực vào ngày 7 tháng 4 năm 1948. Nó tuyên bố rằng sức khỏe là một quyền của con người mà mọi người đều được hưởng, “không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị, điều kiện kinh tế hay xã hội” và rằng “sức khỏe của tất cả các dân tộc là nền tảng để đạt được hòa bình và an ninh”. Liên hợp quốc cũng lấy ngày 7/4 là Ngày Sức khỏe Thế giới. Trụ sở chính của WHO có trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ, với 6 văn phòng khu vực và 150 quốc gia trên khắp thế giới. Trong lịch sử 75 năm, WHO, hiện dưới sự lãnh đạo của Tổng giám đốc Tedros Adhanom Ghebreyesus kể từ năm 2017, đã đạt được một số thành công lớn, song cũng còn nhiều sứ mệnh lớn cần hoàn thành. Một trong những thành công lớn nhất của WHO là vào năm 1980, tổ chức y tế toàn cầu của Liên hợp quốc này đã chính thức tuyên bố xóa sổ một căn bệnh truyền nhiễm phổ biến và gây chết người hàng thế kỷ: Bệnh đậu mùa. Wafaa El-Sadr, lãnh đạo Sáng kiến Y tế Toàn cầu của Trường Đại học Mailman cho biết: “Có lẽ thành công đáng chú ý nhất là việc loại bỏ bệnh đậu mùa, căn bệnh duy nhất ở người bị loại bỏ. Mặc dù có những bên khác tham gia vào nỗ lực này, WHO đã đóng một vai trò quan trọng thúc đẩy thế giới xung quanh mục tiêu này”. Christoph Gradmann, giáo sư lịch sử y học tại Đại học Oslo của Na Uy, cho biết việc diệt trừ được bệnh đậu mùa là một ví dụ hoàn hảo về thời điểm WHO hoạt động tốt nhất. Gradmann nói: “Ngay trong Chiến tranh Lạnh, đã có sự đồng thuận rộng rãi giữa hai khối rằng việc loại trừ bệnh đậu mùa là một mục tiêu cần phải giải quyết. Đó là lúc WHO đạt được những thành công lớn nhất: Khi các thành viên đồng ý về dự án nào đáng được thực hiện và bằng cách nào”. Nhiều chuyên gia đã đồng ý rằng đợt bùng phát dịch Ebola năm 2014 ở Guinea, Liberia và Sierra Leone là một ví dụ về công việc của WHO chưa được thực hiện tốt. Tổ chức được cho rằng đã không phản ứng đủ nhanh để giải quyết dịch bệnh. Nhưng El-Sadr nói rằng rất nhiều lời chỉ trích sau đợt bùng phát, kết thúc vào năm 2016, là do sự hiểu lầm về cách thức hoạt động của WHO. El-Sadr nói: “Có những kỳ vọng không thực tế đối với WHO, với nhiều người mong đợi tổ chức sẽ có mặt tại các quốc gia bị ảnh hưởng để đối phó với dịch bệnh. Đây không phải là nhiệm vụ của WHO. Vai trò của họ là hướng dẫn phản ứng, phát triển hướng dẫn, nhưng không đi vào một quốc gia để giúp giải quyết một mối đe dọa sức khỏe cụ thể”. Giáo sư Gradmann cũng đồng ý với quan điểm này: “WHO là một tổ chức xã hội. Đây không phải là cảnh sát y tế thế giới được tạo ra để can thiệp nhanh chóng”. Trên thực tế, WHO không có thẩm quyền hành động ở một quốc gia thành viên trừ khi quốc gia thành viên đó yêu cầu giúp đỡ. Tuy nhiên, Rüdiger Krech, giám đốc thúc đẩy sức khỏe của WHO, nói rằng sau đại dịch Ebola từ năm 2014 đến 2016, tổ chức này đã thực hiện những thay đổi đáng kể đối với cấu trúc của mình. Một ví dụ: Giờ đây, họ ít phụ thuộc vào các chính phủ quốc gia hơn về thông tin y tế quan trọng, do đó làm giảm khả năng bỏ lỡ thời điểm bắt đầu một đợt bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng khác”. Krech cho biết thêm rằng: “Chúng tôi cũng hợp tác với các công ty công nghệ. Họ có thể cho chúng tôi biết về một đợt bùng phát trước khi có bất kỳ thông tin chính thức nào của chính phủ bằng cách nói rằng ‘chúng tôi thấy rất nhiều người tìm kiếm các triệu chứng của căn bệnh này trên Google’. Và chúng tôi sử dụng hình ảnh vệ tinh từ các cơ quan vũ trụ như ESA và NASA, những hình ảnh này có thể cho chúng tôi thấy những khu vực có nhiều người đang bị sốt cao”. WHO đã phát động Chương trình Loại trừ Sốt rét Toàn cầu (GMEP) vào năm 1955. Chương trình này ban đầu diễn ra đầu hứa hẹn với 15 quốc gia và một vùng lãnh thổ quản lý để loại trừ căn bệnh này. Nhưng có rất ít hoặc không có tiến triển nào ở châu Phi cận Sahara theo chương trình, và ở nhiều nơi, việc không duy trì GMEP thực sự đã dẫn đến sự bùng phát trở lại của bệnh sốt rét. Năm 1969, chương trình bị ngừng. Hình ảnh cổ động Chiến dịch lần thứ 75 của WHO. Ngày 7/4 cũng được gọi là Ngày Sức khỏe Thế giới. Ảnh: WHO Giáo sư Gradmann nói, một lý do khiến việc loại trừ bệnh sốt rét không hiệu quả là bệnh sốt rét không chỉ là bệnh của con người mà còn có các ổ chứa trong tự nhiên. Điều khác biệt này khiến nó khó diệt trừ tận gốc hơn so với bệnh đậu mùa. Một số nhà phê bình cũng đã phàn nàn khi bắt đầu đại dịch COVID-19 rằng WHO đã phản ứng không kịp thời để hỗ trợ các quốc gia thành viên trong cuộc chiến chống lại căn bệnh này. Nhưng các chuyên gia như El-Sadr và Gradmann nói rằng nhiệm vụ của WHO không phải là hành động và đưa ra các sáng kiến ở đỉnh điểm của đại dịch COVID. Gradmann nói: “Trong thời kỳ COVID, WHO đã cung cấp dữ liệu và thực hiện công việc hành chính. Nhưng các sáng kiến chống lại căn bệnh này phải đến từ từng quốc gia thành viên. Tôi không nghĩ WHO có thể đóng vai trò lớn hơn trong đại dịch COVID”. El-Sadr nhấn mạnh rằng chính phủ quốc gia của các thành viên chịu trách nhiệm đưa ra quyết định về cách tốt nhất để ngăn chặn đại dịch ở quốc gia của họ. Họ đã có lời khuyên từ WHO, nhưng những khuyến nghị đó không mang tính ràng buộc. Cũng theo ông, WHO “bị cản trở bởi một thế giới đang bị chia rẽ với các quốc gia theo đuổi những lợi ích khác nhau mà quên đi những nguyên tắc đã hình thành nên WHO” và “WHO không có thẩm quyền thực thi các khuyến nghị của mình – các quốc gia có thể chấp nhận hoặc từ bỏ nó”. Bởi vậy dù còn một số hạn chế do tính đặc thù, nhưng WHO về cơ bản đã hoàn thành tốt nhiệm vụ cốt lõi của mình và đặc biệt cho thấy vai trò ngày càng cần thiết trong thế giới với nhiều bất ổn từ chính trị cho đến khí hậu ngày nay. Trong 75 năm qua, WHO đã có những tiến bộ phi thường trong việc bảo vệ con người khỏi bệnh tật và sự tàn phá, bao gồm cả việc thanh toán bệnh đậu mùa, giảm 99% tỷ lệ mắc bệnh bại liệt, cứu sống hàng triệu người nhờ tiêm chủng cho trẻ em, giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và cải thiện sức khỏe cho hàng triệu người khác. Và trước thềm lễ kỷ niệm 75 năm ngày thành lập WHO, Tổng giám đốc Tedros Adhanom Ghebreyesus, cho biết: “Lịch sử của WHO cho thấy điều gì có thể xảy ra khi các quốc gia đoàn kết với nhau vì một mục đích chung. Chúng ta có nhiều điều để tự hào, nhưng còn nhiều việc phải làm để hiện thực hóa tầm nhìn sáng lập của chúng ta về tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất có thể đạt được cho tất cả mọi người”. Để giải quyết những thách thức này, WHO đang kêu gọi các quốc gia hành động khẩn cấp để bảo vệ, hỗ trợ và mở rộng lực lượng lao động y tế như một ưu tiên chiến lược. Cần ưu tiên đầu tư vào giáo dục, kỹ năng và việc làm bền vững cho y tế để đáp ứng nhu cầu y tế đang tăng nhanh và ngăn chặn tình trạng thiếu hụt 10 triệu nhân viên y tế theo dự báo vào năm 2030; chủ yếu ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Và trước những bất ổn hiện tại trên toàn cầu, gồm cả việc thông tin khoa học đang bị tấn công liên tục mỗi ngày, WHO đưa ra khuyến cáo tới các quốc gia phải bảo vệ công chúng khỏi thông tin sai lệch; tăng cường sức khỏe thông qua khoa học, nghiên cứu, đổi mới, dữ liệu, công nghệ kỹ thuật số và quan hệ đối tác.
Theo dõi hàng năm đối với các sông băng mang tính biểu tượng ở New Zealand , các nhà khoa học đã rất sốc khi thấy chúng càng ngày càng bị thu hẹp. Các sông băng mang tính biểu tượng ở New Zealand đang ngày càng bị thu hẹp. Ảnh: CNN. Hàng năm, các nhà khoa học ở New Zealand đều bay qua một số sông băng mang tính biểu tượng của đất nước – những sông băng cổ xưa bắt nguồn từ dãy núi Alps phía Nam, một dãy núi kéo dài dọc theo Đảo Nam. Hầu như năm nào họ cũng nhận thấy chúng bị teo tóp lại. Năm nay cũng không ngoại lệ. Cuối tháng 3 vừa qua, nhóm các nhà khoa học đã dành 8 giờ bay qua các đỉnh núi, chụp hàng nghìn bức ảnh về các sông băng để khảo sát đường tuyết hàng năm. Ông Andrew Mackintosh – Giáo sư tại Đại học Monash ở Australia, người tham gia chuyến bay – cho biết, ông cảm thấy “sốc” trước những gì đã nhìn thấy. “Một số sông băng nhỏ hơn phần lớn đã biến mất, trong khi các sông băng nổi tiếng như Franz Josef và Fox có dấu hiệu thu hẹp rõ rệt” – ông Andrew Mackintosh nói . Ông Andrew Lorrey, nhà khoa học chính tại cơ quan nghiên cứu Viện Nghiên cứu Nước và Khí quyển Quốc gia (NIWA), đồng thời là điều phối viên của cuộc khảo sát, nói với CNN: “Kết quả quan sát năm nay cho thấy băng tiếp tục tan trên phía Nam dãy núi Alps”. Sông băng là những khối băng khổng lồ hình thành trong và xung quanh các ngọn núi. Chúng phát triển trong mùa đông lạnh giá, có tuyết và thu hẹp khi nhiệt độ ấm lên. Các sông băng là nguồn nước ngọt cho gần 2 tỷ người trên toàn cầu, nhưng sự tan chảy nhanh chóng của chúng đang gây ra nhiều rủi ro, không chỉ làm tăng nguy cơ lũ quét chết người mà nó còn khiến mực nước biển dâng cao. 2 năm nắng nóng kỷ lục, khắc nghiệt đã gây thiệt hại cho các sông băng – Năm 2022 là năm nóng nhất từ trước đến nay của New Zealand, đánh bại kỷ lục được thiết lập chỉ 1 năm trước đó. Nhưng xu hướng giảm băng là lâu dài. Cuộc khảo sát đường tuyết do NIWA tổ chức diễn ra hầu như hàng năm trong gần 5 thập kỷ nhằm mục đích ghi lại ảnh chụp nhanh của hơn 50 sông băng (có kích thước và độ cao khác nhau) càng gần thời điểm kết thúc băng tuyết càng tốt. Các nhà khoa học đang xem xét cụ thể lớp tuyết bao phủ chúng. Bằng cách hiểu vị trí của đường tuyết, “bạn sẽ nắm bắt được điều gì đó về tình trạng của các sông băng. Bởi tuyết cung cấp một lớp nuôi dưỡng và bảo vệ các sông băng, bắt đầu vào mùa thu và tiếp tục cho đến mùa xuân” – ông Lorrey nói. Ông Lorrey nhận định: Tuyết giống như một khoản tiền gửi tiết kiệm cho sông băng, một vùng đệm chống lại thời kỳ ấm hơn sắp tới. Khi mùa tan băng bắt đầu vào mùa xuân, nó phải trải qua “tài khoản tiết kiệm” tuyết mới này trước khi đến được phần thân của sông băng. Khi đường tuyết trên núi xuống thấp hơn, sông băng có thể đông lại. Nhưng khi đường tuyết lên cao hơn, nhiều sông băng sẽ bị tan chảy, chuyển sang màu đỏ và bị co lại. Kết quả từ chuyến bay năm nay sẽ được đưa vào một báo cáo về sự biến đổi dài hạn ở các sông băng, dự kiến được công bố vào cuối năm nay. Nói về nguyên nhân của hiện tượng băng tan, các nhà khoa học cho rằng, là do khủng hoảng khí hậu. Bà Lauren Vargo – nhà nghiên cứu về sông băng tại Đại học Victoria ở Wellington, người tham gia cuộc khảo sát – cho biết: “Sự thay đổi nhiệt độ là yếu tố chính thúc đẩy hoạt động của các sông băng ở New Zealand”. Theo một nghiên cứu năm 2020 do bà Vargo và ông Lorrey là đồng tác giả, sự tan chảy khắc nghiệt vào năm 2018, một trong những năm tồi tệ nhất được ghi nhận đối với các sông băng ở New Zealand, có khả năng xảy ra cao gấp 10 lần do biến đổi khí hậu. Theo ông Lorrey, nếu xu hướng nóng lên tiếp diễn, chúng ta sẽ mất thêm nhiều sông băng. Theo một nghiên cứu được công bố vào tháng 1, có tới một nửa sông băng trên thế giới có thể biến mất vào cuối thế kỷ này, ngay cả khi các mục tiêu khí hậu đầy tham vọng được đáp ứng. Ngoài các tác động của biến đổi khí hậu do con người gây ra, các biến đổi khí hậu tự nhiên cũng đóng một vai trò lớn. Những năm La Nina kéo dài bất thường khiến nhiệt độ nước biển và không khí ấm hơn mức trung bình, góp phần thúc đẩy sự tan chảy của sông băng. Trong khi đó, “đối tác” El Nino, thường mang lại điều kiện mát mẻ hơn cho khu vực này của New Zealand, được dự báo sẽ xảy ra vào cuối năm và có thể tạm thời giảm nhẹ. Ông Lorrey nói: “Tôi luôn mong chờ El Nino và nhìn thấy một đường tuyết ở nơi thường thấy. Tuy nhiên nó sẽ không cứu vãn được xu hướng tan chảy của sông băng. Bởi những El Nino xảy ra quá ít và cách xa nhau để có thể chống lại xu hướng ấm lên đang diễn ra mà chúng ta đang chứng kiến”. Bà Vargo cho biết, ban đầu, sự thay đổi mạnh mẽ của các sông băng “rất thú vị” theo một số cách. Nhưng khi xu hướng này kéo dài sẽ khó chấp nhận. Theo bà Vargo, việc mất dần các sông băng được cảm nhận sâu sắc, bởi người dân New Zealand có sự liên kết với chúng. Trước đây, người dân có thể đỗ xe trong bãi của công viên quốc gia và chỉ phải đi bộ một quãng ngắn để chạm vào sông băng, nhưng giờ đây điều đó trở nên khó khăn hơn khi họ cần phải đi sâu hơn vào trong núi, thậm chí phải bay đến đó trên những chiếc máy bay nhỏ. “Đó sẽ là một trải nghiệm nằm ngoài tầm với của nhiều người. Việc mất đi các sông băng sẽ có tác động đáng lo ngại tới môi trường” – ông Lorrey nói. Sông băng cũng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho các dòng suối trên núi cao, đặc biệt là trong những năm hạn hán. Sự thay đổi đang diễn ra là một lời nhắc nhở rằng, thiên nhiên đang thay đổi nhanh chóng. Sông băng là một yếu tố trực quan sinh động của sự thay đổi môi trường, giúp chúng ta hình dung rõ hơn về những thứ khác mà chúng ta không nhìn thấy.
Annual monitoring of iconic glaciers in New Zealand , scientists were shocked to see them shrinking more and more. New Zealand's iconic glaciers are shrinking. Photo: CNN. Every year, scientists in New Zealand fly over some of the country's iconic glaciers – ancient glaciers that originate in the Southern Alps, a mountain range that extends along the South Island. Almost every year they notice them shrinking. This year is no exception. At the end of March, a team of scientists spent 8 hours flying over mountain peaks, taking thousands of photos of glaciers to survey the annual snowline. Mr. Andrew Mackintosh - Professor at Monash University in Australia, who participated in the flight - said he felt "shocked" by what he saw. "Some smaller glaciers have largely disappeared, while famous glaciers such as Franz Josef and Fox show clear signs of shrinking," said Mr. Andrew Mackintosh. “This year's observation results show that Ice continues to melt across the Southern Alps.” Glaciers are giant blocks of ice that form in and around mountains. They grow during cold, snowy winters and shrink as temperatures warm. Glaciers are a source of fresh water for nearly 2 billion people globally, but their rapid melting is posing many risks, not only increasing the risk of deadly flash floods but also causing sea levels to rise. . 2 years of record, extreme heat have taken their toll on glaciers – 2022 is New Zealand's hottest year ever, beating the record set just 1 year earlier. But the trend of deglaciation is long-term. The NIWA Snowline Survey has taken place almost annually for nearly five decades and aims to record snapshots of more than 50 glaciers (varying in size and elevation) as close to the end of the ice sheet as possible. Snow is better. Scientists are looking specifically at the snow that covers them. By understanding where the snow line is, “you will grasp something about the condition of the glaciers. Because snow provides a layer of nourishment and protection for glaciers, starting in the fall and continuing until spring," said Mr. Lorrey. Snow is like a savings deposit for the glacier, a buffer against warmer periods to come, Lorrey said. When the thaw season begins in the spring, it must go through this new snow “savings account” before reaching the body of the glacier. As the snowline on the mountain gets lower, the glaciers can refreeze. But as the snow line gets higher, many glaciers will melt, turn red and shrink. Results from this year's flight will be included in a report on long-term change in glaciers, expected to be published later this year. Regarding the cause of the melting ice phenomenon, scientists say it is due to the climate crisis. "Temperature change is the main factor driving the activity of New Zealand's glaciers," said Lauren Vargo, a glaciologist at Victoria University of Wellington who participated in the survey. According to a 2020 study co-authored by Ms. Vargo and Mr. Lorrey, extreme melting in 2018, one of the worst years on record for New Zealand's glaciers, is likely. 10 times higher due to climate change. According to Mr. Lorrey, if the warming trend continues, we will lose more glaciers. According to a study published in January, up to half of the world's glaciers could disappear by the end of the century, even if ambitious climate goals are met. In addition to the impacts of human-caused climate change, natural climate variations also play a large role. Unusually long La Niña years cause warmer-than-average sea and air temperatures, contributing to the melting of glaciers. Meanwhile, "partner" El Nino, which usually brings cooler conditions to this part of New Zealand, is forecast to occur later in the year and may temporarily ease. “I always look forward to El Nino and seeing a line of snow where it usually is,” Mr. Lorrey said. However, it will not reverse the glacier's melting trend. Because El Niños happen too few and far between to counter the ongoing warming trend we are seeing.” Initially, Ms. Vargo said, the dramatic changes in the glaciers were “very interesting” in a number of ways. But when this trend lasts, it will be difficult to accept. According to Ms. Vargo, the loss of glaciers is deeply felt, because New Zealanders are connected to them. Previously, people could park their cars in the national park's lot and only have to walk a short distance to touch the glacier, but now that has become more difficult as they need to go deeper into the mountain. , even having to fly there on small planes. “It will be an experience that is out of reach for many people. The loss of glaciers will have a worrying impact on the environment," said Mr. Lorrey. Glaciers also play an important role in supplying water to alpine streams, especially during years of drought. The ongoing change is a reminder that nature is changing rapidly. Glaciers are a vivid visual element of environmental change, helping us better visualize other things we don't see.
Ngày 7/4, tại thành phố Vị Thanh ( Hậu Giang ), Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan chủ trì hội nghị ‘Định hướng phát triển hợp tác xã nông nghiệp bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long theo Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới’. Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan phát biểu tại hội nghị. Tại hội nghị, các đại biểu nêu những khó khăn, hạn chế của hợp tác xã (HTX), những yêu cầu đặt ra để phát triển vùng nguyên liệu gắn với phát triển HTX nông nghiệp; đánh giá thực trạng và kết quả triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể gắn với xây dựng các chuỗi giá trị nông sản chủ lực của các địa phương; chia sẻ kinh nghiệm chỉ đạo của lãnh đạo các tỉnh về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp thời gian qua. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp, HTX cũng đề xuất, kiến nghị nhiều giải pháp nhằm giúp phát triển HTX nông nghiệp bền vững, nhất là cần hỗ trợ hiệu quả cho HTX nông nghiệp và người dân trong chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu gắn với tổ chức sản xuất quy mô lớn, cơ giới hóa đồng bộ, ứng dụng công nghệ cao, liên kết chuỗi giá trị và xây dựng thương hiệu nông sản. Phát huy và lan tỏa mạnh mẽ những cách làm hay trong phát triển HTX, cũng như các ngành có liên quan của địa phương sớm xem xét cấp mã số vùng trồng, mã số nhà đóng gói khi có đề nghị của HTX nhằm tạo thuận lợi trong tiêu thụ, xuất khẩu nông sản. Quang cảnh hội nghị. Phát biểu kết luận hội nghị, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Lê Minh Hoan khẳng định, chỉ khi có HTX bền vững thì mới vượt qua tình trạng của nền nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, tự phát; hướng đến chuỗi ngành hàng, tạo ra giá trị gia tăng trong từng công đoạn của chuỗi; hướng đến nền kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp. Khi đó, thu nhập của nông dân được tăng thêm nhờ lợi thế quy mô; thật sự chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp; tối đa hóa giá trị tích hợp từ trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Do đó, các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long cần quan tâm đúng mức đối với HTX từ trong nhận thức đến hành động; lấy người dân làm trung tâm, truyền thông nâng cao nhận thức của cả xã hội về HTX bắt đầu từ trong hệ thống chính trị. Các trường chính trị địa phương cần đưa HTX vào giảng dạy cho đội ngũ cán bộ các cấp theo Kết luận số 70-KL/TW ngày 9/3/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Nghị quyết 20. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ chuẩn bị đề cương, giáo trình tập huấn cho giảng viên các trường chính trị trong vùng. Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho biết, bộ đang cùng các địa phương trong vùng thực hiện chuyển đổi số, số hóa các HTX, vùng nguyên liệu, truy xuất nguồn gốc, mã vùng trồng, mã vùng nuôi, phấn đấu cuối năm 2023 cơ bản có nền tảng dữ liệu chuyển đổi số nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bộ cũng phối hợp Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thiết kế các gói tín dụng riêng cho HTX ở vùng nằm trong Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến hết năm 2022, vùng đồng bằng sông Cửu Long có 2.615 HTX nông nghiệp và 20 Liên hiệp HTX nông nghiệp, chiếm 13,4% tổng số HTX nông nghiệp toàn quốc. Đây là vùng có tỷ lệ HTX tham gia liên kết tiêu thụ sản phẩm cho thành viên lớn nhất cả nước. Tuy nhiên, năng lực của các HTX nông nghiệp trong vùng nhìn chung còn hạn chế nhiều mặt. Sự hỗ trợ của nhà nước cho HTX trong quản trị, xây dựng và thực hiện chiến lược sản xuất kinh doanh còn hạn chế. Cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã từ tỉnh đến cơ sở thiếu và yếu. Thiếu đội ngũ chuyên gia có năng lực để tư vấn cho các HTX…
April 7, at Vi Thanh city ( Hau Giang ), Minister of Agriculture and Rural Development Le Minh Hoan chaired the conference 'Orientations for sustainable agricultural cooperative development in the Mekong Delta according to Resolution Không. 20-NQ/TW dated June 16/ 2022 on continuing to innovate, develop and improve collective economic efficiency in the new period'. Minister of Agriculture and Rural Development Le Minh Hoan spoke at the conference. At the conference, delegates stated the difficulties and limitations of cooperatives, the requirements for developing raw material areas associated with the development of agricultural cooperatives; Assess the current situation and results of implementing mechanisms and policies to support collective economic development associated with building key agricultural value chains of localities; Share the leadership experiences of provincial leaders on collective economic development and cooperatives in the agricultural sector in recent times. In addition, many businesses and cooperatives also proposed and recommended many solutions to help develop sustainable agricultural cooperatives, especially the need to effectively support agricultural cooperatives and people in converting agricultural production models. Climate change adaptation is associated with large-scale production organization, synchronous mechanization, high technology application, value chain linkage and branding of agricultural products. Strongly promote and spread good practices in cooperative development, as well as relevant local industries to soon consider granting planting area codes and packaging house codes when requested by the cooperative to create favorable conditions. in consumption and export of agricultural products. Conference scene. Speaking at the conclusion of the conference, Minister of Agriculture and Rural Development Le Minh Hoan affirmed that only when there are sustainable cooperatives can we overcome the situation of fragmented agriculture. small, spontaneous; targeting the commodity chain, creating added value in each stage of the chain; towards a circular economy in agriculture. At that time, farmers' income is increased thanks to economies of scale; truly shift from the mindset of agricultural production to agricultural economics; Maximize integrated value from farming, livestock, and aquaculture. Therefore, localities in the Mekong Delta need to pay due attention to cooperatives from awareness to action; Taking people as the center, communication raises awareness of the whole society about cooperatives starting from within the political system. Local political schools need to include cooperatives in teaching staff at all levels according to Conclusion Không. 70-KL/TW dated March 9, 2020 of the Politburo on continuing to implement Resolution 5 of the 5th Central Committee, term IX on continuing to innovate, develop and improve collective economic efficiency and Resolution 20. The Ministry of Agriculture and Rural Development will prepare training outlines and textbooks for lecturers at political schools in the region. Minister Le Minh Hoan said that the ministry is working with localities in the region to carry out digital transformation, digitizing cooperatives, raw material areas, traceability, planting area codes, farming area codes, striving to have the facility by the end of 2023. The village has an agricultural digital transformation data platform in the Mekong Delta. The Ministry also coordinated with the Bank for Agriculture and Rural Development to design separate credit packages for cooperatives in areas within the Project for sustainable development of 1 million hectares of high-quality specialized rice associated with green growth in the river delta. Kowloon. According to the Ministry of Agriculture and Rural Development, by the end of 2022, the Mekong Delta has 2,615 agricultural cooperatives and 20 Unions of agricultural cooperatives, accounting for 13.4% of the total number of agricultural cooperatives nationwide. This is the region with the largest proportion of cooperatives participating in product consumption partnerships for members in the country. However, the capacity of agricultural cooperatives in the region is generally limited in many aspects. State support for cooperatives in governance, building and implementing production and business strategies is still limited. State management officials for cooperatives from the province to the grassroots are lacking and weak. Lack of qualified experts to advise cooperatives...
Một góc Lý Sơn nhìn từ hải đăng. Không chỉ là một hòn đảo xinh đẹp với nhiều thắng cảnh thiên nhiên mê hoặc lòng người, Lý Sơn còn là quê hương của Hải đội Hoàng Sa. Nơi đây chứa đựng trầm tích lịch sử, văn hóa hàng trăm năm, là ‘bảo tàng sống’ khẳng định chủ quyền của Việt Nam với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đảo Lý Sơn, còn có tên Cù lao Ré, là huyện đảo tiền tiêu của tỉnh Quảng Ngãi . Nằm ở phía đông bắc Quảng Ngãi, cách đất liền 15 hải lý, trước kia Lý Sơn có 3 xã là An Vĩnh, An Hải (nằm trên đảo Lớn) và An Bình (đảo Bé). Từ năm 2020, chính quyền cấp xã tại đây được giải thể, song những cái tên An Vĩnh, An Hải, An Bình vẫn tồn tại để phân vùng địa lý trên đảo Lý Sơn. Đảo Lớn Lý Sơn được hình thành bởi 5 ngọn núi lửa đã ngừng hoạt động, có diện tích 10,39km2 với dân số hơn 20.000 người, là hòn đảo có mật độ dân cư đông nhất ở Việt Nam. Lý Sơn có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời. Những di chỉ khảo cổ cho thấy nền văn hóa Sa Huỳnh xuất hiện trên đảo Lý Sơn cách đây trên 2.500 năm. Lý Sơn được coi là quê hương của Hải đội Hoàng Sa. Từ khoảng thế kỷ XVII, các chúa Nguyễn đã cho thành lập Hải đội Hoàng Sa hoạt động trên vùng biển phía nam để bảo vệ và khai thác biển Đông. Những binh phu Hoàng Sa từ Lý Sơn đã vượt biển ra Hoàng Sa để xác lập chủ quyền của nước Việt. Đội Hoàng Sa, sau này là đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải (bao gồm cả Trường Sa) hoạt động liên tục trong thời gian dài, với nhiệm vụ ra Hoàng Sa đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, lượm bắt sản vật và cắm mốc, dựng bia thực thi chủ quyền. Thời kỳ chiến tranh Tây Sơn – chúa Nguyễn (1787 – 1802), hoạt động của đội Hoàng Sa bị gián đoạn. Sau khi lên ngôi (1803), vua Gia Long cho tái lập đội Hoàng Sa để tiếp tục nhiệm vụ. Đến giữa thế kỷ XIX, đội Hoàng Sa ngừng hoạt động khi nhà Nguyễn để mất độc lập, tự chủ vào tay người Pháp. Những người dân ở đảo Lý Sơn, những binh phu coi việc thực hiện nhiệm vụ ở đội Hoàng Sa là nhiệm vụ cao cả, dù rất nguy hiểm và phải đánh đổi cả tính mạng. Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa là nghi lễ thiêng liêng ở đảo Lý Sơn, được tổ chức trước khi đội Hoàng Sa đi làm nhiệm vụ, trong đó có nghi thức tế sống những binh phu Hoàng Sa. Người dân dùng những “hình nhân thế mạng” đặt trên thuyền, thả ra biển để cầu cho người đi biển được bình an trở về. Hiện nay, trên đảo Lý Sơn có tới hàng chục di tích liên quan đến Hải đội Hoàng Sa. Lý Sơn là “bảo tàng sống” và là lời khẳng định đanh thép về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Lý Sơn có nhiều điểm tham quan thú vị. Trong 5 ngọn núi lửa trên đảo, Giếng Tiền và Thới Lới là hai ngọn núi lớn nhất. Hang Câu và cổng Tò Vò là những điểm đến không thể bỏ qua. Tại đây, du khách có thể thấy sự kiến tạo địa chất kỳ diệu cách đây hàng triệu năm. Nếu là người yêu văn hóa lịch sử, du khách hãy tới Âm Linh tự – miếu thờ tưởng nhớ những binh phu Hoàng Sa đã hy sinh trên biển. Đình làng An Vĩnh được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII, là nơi diễn ra Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Còn đình làng An Hải được xây dựng từ năm 1820 dưới triều vua Minh Mạng nhà Nguyễn, là nơi diễn ra lễ tế lính Hoàng Sa. Cả ba di tích này đều được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nơi tiếp theo lưu giữ ký ức của đội Hoàng Sa là Nhà trưng bày đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải, nằm ở trung tâm đảo. Công trình mô phỏng kiến trúc truyền thống với bộ mái trang trí kiểu thời Nguyễn. Nơi đây trưng bày những hiện vật, tài liệu tái hiện hoạt động của đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc Hải cùng những hiện vật, tài liệu, hình ảnh liên quan đến quê hương Hải đội Hoàng Sa và chủ quyền đối với Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam. Phía trước nhà trưng bày có tượng đài đội Hoàng Sa. Tượng đài thể hiện nhóm 3 người, trong đó người đứng giữa là Đề công (đội trưởng nhóm ba thuyền trong một lượt ra Hoàng Sa) mặc áo quan triều đình với tấm bia chủ quyền đề 4 chữ “Vạn lý Hoàng Sa”; hai bên là hai dân binh mang giáo và lưới. Tượng đài được hoàn thành tháng 9- 2009 và là một biểu tượng về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Trên đảo còn những công trình tôn giáo như chùa Đục (xã An Vĩnh), chùa Hang (xã An Hải) mang dấu ấn Phật giáo của người Việt; hai đền thờ Thiên Y A Na ở hai xã An Vĩnh và An Hải là minh chứng rõ nét về tín ngưỡng và văn hóa của người dân Chăm Pa xưa… Hải đăng Lý Sơn cũng là điểm tham quan, từ trên đỉnh hải đăng có thể nhìn toàn bộ Đảo Lớn Lý Sơn. Công trình mới đáng chú ý nhất là cột cờ Tổ quốc trên đỉnh núi Thới Lới, được xây dựng và hoàn thành năm 2013. Tình yêu biển đảo quê hương được kết tinh, gửi gắm vào lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên cột cờ Tổ quốc ở Lý Sơn, là điểm tựa cho ngư dân mỗi khi vươn khơi bám biển.
A corner of Ly Son viewed from the lighthouse. Not only is it a beautiful island with many enchanting natural landscapes, Ly Son It is also the homeland of the Hoang Sa Flotilla. This place contains hundreds of years of historical and cultural sediments, and is a 'living museum' affirming Vietnam's sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos. Ly Son Island, also known as Cu Lao Re, is the frontier island district of the island Quang Ngai province . Located in the northeast of Quang Ngai, 15 nautical miles from the mainland, Ly Son previously had 3 communes: An Vinh, An Hai (located on Big island) and An Binh (Little island). Since 2020, the commune-level government here has been dissolved, but the names An Vinh, An Hai, An Binh still exist to define geographical zoning on Ly Son island. Ly Son Big Island is formed by 5 inactive volcanoes, has an area of ​​10.39km2 with a population of more than 20,000 people, and is the most densely populated island in Vietnam. Ly Son has a long cultural history. Archaeological sites show that the Sa Huynh culture appeared on Ly Son island over 2,500 years ago. Ly Son is considered the hometown of the Hoang Sa Flotilla. Since around the 17th century, the Nguyen lords established the Hoang Sa Flotilla to operate in the southern seas to protect and exploit the East Sea. Hoang Sa soldiers from Ly Son crossed the sea to Hoang Sa to establish Vietnamese sovereignty. The Hoang Sa team, later the Hoang Sa team cum North Sea manager (including Truong Sa) operated continuously for a long time, with the task of going to Hoang Sa to measure waterways, draw maps, collect products and Place landmarks and erect stele to exercise sovereignty. During the Tay Son - Lord Nguyen war (1787 - 1802), the activities of the Hoang Sa fleet were interrupted. After ascending the throne (1803), King Gia Long re-established the Hoang Sa fleet to continue the mission. By the mid-nineteenth century, the Hoang Sa fleet stopped operating when the Nguyen Dynasty lost its independence and autonomy to the French. The people of Ly Son island and the soldiers considered performing the mission of the Hoang Sa flotilla a noble task, even though it was very dangerous and had to risk their lives. The ceremony to pay tribute to Hoang Sa soldiers is a sacred ritual on Ly Son island, held before the Hoang Sa team goes on duty, including the ritual of sacrificing the lives of Hoang Sa soldiers. People use "life dolls" to place on boats and release them into the sea to pray for the safe return of seafarers. Currently, on Ly Son island there are dozens of relics related to the Hoang Sa Flotilla. Ly Son is a "living museum" and a strong affirmation of Vietnam's sovereignty over the Hoang Sa and Truong Sa archipelagos. Ly Son has many interesting attractions. Of the five volcanoes on the island, Gieng Tien and Thoi Loi are the two largest. Cau Cave and To Vo gate are destinations not to be missed. Here, visitors can see miraculous geological formations millions of years ago. If you are a lover of history and culture, you should go to Am Linh Tu - a shrine commemorating Hoang Sa soldiers who died at sea. An Vinh communal house was built at the end of the 18th century, where the Ceremony of honoring Hoang Sa soldiers took place. An Hai communal house was built in 1820 during the reign of King Minh Mang of the Nguyen Dynasty, and is where the sacrifice ceremony for Hoang Sa soldiers takes place. All three of these relics are ranked as national historical relics. The next place to preserve the memories of the Hoang Sa team is the Hoang Sa Team Exhibition House and Bac Hai Administration, located in the center of the island. The project simulates traditional architecture with a decorative roof in the style of the Nguyen Dynasty. This place displays artifacts and documents recreating the activities of the Hoang Sa flotilla and the North Sea manager, along with artifacts, documents and images related to the homeland of the Hoang Sa Flotilla and sovereignty over Hoang Sa - Truong Sa of Vietnam. In front of the exhibition house is a monument to the Hoang Sa team. The monument shows a group of 3 people, in which the person standing in the middle is De Cong (captain of a group of three boats in a trip to Hoang Sa) wearing royal official clothes with a sovereignty stele inscribed with 4 words "Van Ly Hoang Sa"; On either side are two militiamen carrying spears and nets. The monument was completed in September 2009 and is a symbol of Vietnam's sovereignty over the Hoang Sa archipelago. On the island, there are also religious works such as Duc pagoda (An Vinh commune), Hang pagoda (An Hai commune) bearing the mark of Vietnamese Buddhism; The two Thien Y A Na temples in An Vinh and An Hai communes are clear evidence of the beliefs and culture of the ancient Champa people... Ly Son lighthouse is also a tourist attraction, from the top of the lighthouse you can see the entire Ly Son Big Island. The most notable new project is the Fatherland flagpole on top of Thoi Loi mountain, built and completed in 2013. The love for the homeland's islands and seas is crystallized and enshrined in the red flag with yellow star flying on the flagpole. The Fatherland in Ly Son is a fulcrum for fishermen every time they venture out to sea.
Phượng vĩ là loài cây biểu tượng của thành phố Hải Phòng. Tuy nhiên, ít người biết phượng có mặt ở vùng đất Cảng từ bao giờ. 1. Vì sao Hải Phòng có tên gọi “Thành phố Hoa phượng đỏ”? Hải Phòng nổi tiếng là một trong những thành phố trồng nhiều phượng vĩ nhất Việt Nam. Ban đầu, phượng xuất hiện trong các trường học, sau đó, phượng được trồng trên đường phố và dần có mặt ở mọi ngóc ngách tại Hải Phòng. 2. Cây phượng có nguồn gốc từ khu vực nào? Cây phượng vĩ có nguồn gốc từ Madagascar, một đảo quốc thuộc châu Phi. Các nhà thám hiểm đã tìm ra nó ở những cánh rừng thuộc miền Tây Malagasy. Trong điều kiện tự nhiên, phượng là thực vật cần bảo tồn. Tuy nhiên, phượng lại được trồng rất nhiều trong môi trường nhân tạo, gần gũi với con người. Phượng vĩ là loài cây phù hợp với đô thị do tạo được nhiều bóng mát. Thân cây cao vừa phải (từ 10-20m), tán lá tỏa rộng và che ánh nắng tốt. Cây phượng nguồn gốc tự nhiên có hoa màu vàng (kim phượng), nhưng phượng vĩ ở Việt Nam phổ biến với hoa đỏ hoặc tím. 3. Ai đã mang phượng vĩ đến Hải Phòng? Trong giai đoạn Pháp thuộc, thành phố Hải Phòng được thành lập năm 1888. Đến năm 1889, Hải Phòng được triển khai xây dựng theo mô hình thành phố sinh thái quen thuộc của người Pháp. Phượng vĩ được người Pháp chọn để trở thành cây bóng mát chính cho thành phố từ sau năm 1890. Trước đó, họ đã nhập giống phượng về trồng thử nghiệm tại Hà Nội, những cây giống tốt được phân phối ra nhiều tỉnh thành lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng,… Khi trồng thử nghiệm, các nhà sinh vật học phát hiện những đặc tính thú vị của cây phượng như lớn nhanh, tán rộng nhưng lá nhỏ nên không làm tắc cống vào mùa mưa. Hoa và quả phượng có sắc đẹp, vì vậy phượng vĩ thích hợp để trồng đô thị. 4. Con đường nào tại Hải Phòng được công nhận là “Con đường trồng nhiều cây hoa phượng nhất Việt Nam”? Đường Phạm Văn Đồng tại thành phố Hải Phòng dài gần 20km, bắt đầu từ cầu Rào chạy qua quận Dương Kinh tới ngã ba Bốt Bà Thau, quận Đồ Sơn . Trên đoạn đường trồng hơn 3.000 cây phượng và hàng trăm cây bằng lăng. Hiện tại, đường Phạm Văn Đồng xác lập kỷ lục “Con đường trồng nhiều cây hoa phượng nhất Việt Nam”. Đây cũng là địa điểm được du khách ưa thích mỗi khi ghé thăm thành phố Cảng. 5. Nhạc sĩ nào đã sáng tác bài hát nổi tiếng “Thành phố Hoa phượng đỏ”? Đa phần người dân Hải Phòng đều từng nghe hoặc thuộc lòng bài hát “Thành phố Hoa phượng đỏ”. Đây là bài hát sáng tác bởi nhạc sĩ Lương Vĩnh, phổ theo bài thơ cùng tên của nhà thơ Hải Như. Khán giả thường biết đến bài hát qua giọng ca của nam ca sĩ Trọng Tấn.
Poinciana is the symbolic tree of Hai Phong city. However, few people know how long phoenixes have been present in the Port area. 1. Why is Hai Phong called "City of Red Royal Poinciana"? Hai Phong famous as one of the cities that grows the most Poinciana trees in Vietnam. Initially, phoenix appeared in schools, then, phoenix was planted on the streets and gradually appeared in every corner of Hai Phong. 2. What area does the phoenix tree originate from? The Poinciana tree originates from Madagascar, an island nation in Africa. Explorers discovered it in the forests of Western Malagasy. Under natural conditions, phoenix is ​​a plant that needs conservation. However, phoenix is ​​grown a lot in artificial environments, close to humans. Poinciana is a tree suitable for urban areas because it creates a lot of shade. The tree trunk is moderately tall (from 10-20m), the foliage is wide and covers the sunlight well. The naturally occurring poinciana tree has yellow flowers (golden poinciana), but the poinciana tree in Vietnam is popular with red or purple flowers. 3. Who brought the phoenix tail to Hai Phong? During the French colonial period, Hai Phong city was established in 1888. In 1889, Hai Phong was built according to the familiar French ecological city model. Poinciana was chosen by the French to become the main shade tree for the city after 1890. Before that, they imported poinciana varieties for trial planting in Hanoi, and good seedlings were distributed to many large provinces and cities such as Hai Phong, Da Nang,… When planting experiments, biologists discovered interesting characteristics of the phoenix tree such as fast growth, wide canopy but small leaves so it does not clog drains during the rainy season. Poinciana flowers and fruits are beautiful, so poinciana is suitable for urban planting. 4. Which street in Hai Phong is recognized as "The street with the most poinciana trees in Vietnam"? Pham Van Dong Street in Hai Phong city is nearly 20km long, starting from Rao bridge and running through Duong Kinh district to Bot Ba Thau intersection, Do Son district . On the road, more than 3,000 phoenix trees and hundreds of linden trees are planted. Currently, Pham Van Dong Street sets a record for "The street with the most poinciana trees in Vietnam". This is also a favorite place for tourists every time they visit the Port city. 5. Which musician composed the famous song "City of Red Royal Poinciana"? Most people in Hai Phong have heard or memorized the song "City of Red Royal Poinciana". This is a song composed by musician Luong Vinh, based on the poem of the same name by poet Hai Nhu. Audiences often know the song through the voice of male singer Trong Tan.
Nhà thơ Nguyễn Đắc Lập. Tâm sự về thơ Nguyễn Đắc Lập viết: Thơ là nhu cầu thể hiện nội tâm, là khát vọng khôn cùng về cái đep. Thơ ca sẽ biến những gì tốt đẹp thành bất tử. Còn Otavio Paz, nhà thơ Mexico viết “Thơ là cái còn lại để an ủi ta”. Có lẽ Nguyễn Đắc Lập đã tìm thấy cả nhu cầu cả khát vọng lẫn niềm an ủi cho mình qua thơ. Sông vẫn chảy dẫu biết mình gặp thác Dẫu biết mình sỏi đá dưới lòng sâu (Dòng sông) Đấy là hai câu thơ vừa chấp nhận vừa không chấp nhận, nó thể hiện sự thấu hiểu của nhà thơ trước hiện thực và tinh thần nhà thơ trong cuộc sống. Nhà thơ Nguyễn Đắc Lập, sinh ra và hiện sống ở Hà Đông , Hà Nội năm nay anh đã ngoại 70. Tôi quen biết anh cũng đã gần 20 năm. Hồi ấy, buổi trưa Nguyễn Đắc Lập hay từ Hà Đông ra Hà Nội bằng xe buýt rồi đến cơ quan chúng tôi. Tôi cũng hay gặp anh ở cuối phố Nguyễn Du, nơi giao cắt với đường Trần Bình Trọng. Tạng người xương xương gầy, quần áo tầm tầm giản dị, ăn nói hiền lành. Giữa phố xá tấp nập – nơi chỉ vài bước chân tới ga Hàng Cỏ – trông anh thấy ngay là người vất vả. Khi biết anh làm thơ sớm – có thơ in từ ngày mới học lớp 5 – tôi đã tự hỏi “giữa thời buổi kinh tế thị trường đang chộn rộn nhộn nhạo thơ là gì mà hấp dẫn con người này đến không thể buông bỏ được vậy. Vâng. Thơ ca là gì mà khiến ta phải đánh đổi cả số phận! Nó là một ly rượu, một bông hoa, một cơn bão hay duyên phận tiền định. Rồi qua vài người bạn tôi biết Nguyễn Đắc Lập vốn là kĩ sư lâm nghiệp từng lên rừng xuống núi lấy “mười năm trồng cây trăm năm trồng người” làm sự nghiệp, một người lính lấy tình yêu quê hương đất nước làm sức mạnh. Hết chiến tranh anh về dạy học tại trường trung cấp kinh tế lâm nghiệp. Một lần cùng về Hưng Yên tôi có gặp một nữ sinh viên cũ của anh đang làm việc ở tỉnh. Trong dịp đó anh kể tôi nghe về quãng đời làm thầy giáo. Rồi anh mời tôi vào Hà Đông thăm nhà, một ngôi nhà trong ngõ cũng tầm tầm và hơi khuất lấp. Tôi là con trưởng trong gia đình, anh cũng là con trưởng nhưng kém may mắn hơn, thế là bao chuyện về anh em nhà cửa lại được anh tâm sự. Chúng tôi dần dần thân hơn từ đấy. Trong buổi giao lưu giữa các nhà văn Việt Nam và các nhà văn Hàn Quốc tại Hội Nhà văn Việt Nam vừa qua, Nguyễn Đắc Lập tặng tôi tập “Thơ tuyển Nguyễn Đắc Lập” một cuốn sách dày hơn 200 trang, bìa cứng sang trọng. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã có một hình ảnh thật đẹp về anh trong lời giới thiệu tập thơ “ Hoa sa mạc ”. “Tôi hình dung anh (NĐL) như một cái cây thi thoảng những chiếc lá lại vang lên khi có ngọn gió đi qua. Anh làm thơ giản đơn như vậy”. Thật đáng để ta kính nể và yêu quí một thi sĩ làm thơ “giản đơn” như lẽ sống ở đời, tất nhiên như trời đã sinh ra nhất thiết cần phải vậy. Nhưng những ngọn gió nào luôn thổi qua tâm hồn thi sĩ của anh? Trong thơ Nguyễn Đắc Lập hay nhắc đến hai chữ Cuộc đời. Cuộc đời anh và cuộc sống còn nhiều buồn tủi xung quanh là ngọn gió không ngừng nghỉ thổi qua tâm hồn anh, qua cái – cây – số – phận – đời – anh làm rung lên những chiếc lá để thi ca vang vọng. Tâm sự về thơ Nguyễn Đắc Lập viết: Thơ là nhu cầu thể hiện nội tâm, là khát vọng khôn cùng về cái đep. Thơ ca sẽ biến những gì tốt đẹp thành bất tử. Còn Otavio Paz, nhà thơ Mexico viết “Thơ là cái còn lại để an ủi ta” Có lẽ Nguyễn Đắc Lập đã tìm thấy cả nhu cầu cả khát vọng lẫn niềm an ủi cho mình qua thơ. Tạng văn như tạng người. Thơ Nguyễn Đắc Lập hiền làn, mộc mạc, giản dị và nhiều nghĩ ngợi nhưng là sự giản dị thâm trầm và đắng đót. Thơ anh thấm đẫm một nỗi buồn man mác – hầu như bài nào cũng buồn – nỗi buồn sinh ra từ hoàn cảnh, từ nhân tình thế thái. Tôi đã đi gần cả cuộc đời để tìm hạnh phúc Hạnh phúc không thấy Bất hạnh như số phận Đeo đẳng cuộc đời Gần hết cuộc đời Tôi vẫn nhìn đời ngơ ngác Sao thì xa lắc Còn tôi đi gần hết cuộc đời (Hạnh phúc) Xa xót một đời cây chưa một lần hoa nở (Thơ bất chợt 1) Nhiều lúc Nguyễn Đắc Lập thảng thốt: Hạnh phúc Sao em cứ giấu mặt đi (Thơ bất chợt 1) Rừng vẫn đấy mà anh là người khác Em cũng vậy thôi rụng lá bao lần (Thơ bất chợt 2) Thơ Nguyễn Đắc Lập mạnh ở điệu buồn nhưng đó là nỗi buồn khiến ta trân trọng. Anh không chỉ buồn cho số phận riêng mình- mà rộng lớn hơn thế – còn buồn vì những số phận không may mắn khác và buồn cả vì “ Cái vách ngăn nằm giữa lòng người ” (Vách ngăn). Anh luôn nhớ tới cuộc đời gian truân của Mẹ nhưng nhớ hơn những lời Người dạy. Anh chia sẻ với Nguyễn Trãi những đau buốt khi nghĩ đến sự thâm hiểm của lòng người. Anh bồi hồi khi cuộc đời còn cay cực mà Cúc Phương vẫn bốn mùa xanh tốt và sáng nào anh cũng dậy sớm với mặt trời như để thanh lọc mình, như để được tiếp nhận những năng lượng mới, tiếp nhận nụ cười trẻ em ríu ran như mùa xuân phía trước (Sáng nào tôi cũng dậy sớm với mặt trời). Nhiều bất hạnh nhưng không kêu ca – dẫu đau quặn lòng vẫn “êm ả như không” – đấy là điều không phải ai cũng làm được. Anh luôn tin vào sự tốt đẹp của cuộc đời như tin sa mạc cũng có thể nở hoa. Bài “Hoa sa mạc” được anh lấy làm tên cho một tập thơ. Anh biết Cuộc đời luôn có những lối rẽ bất ngờ cho ai có niềm tin và biết kiên nhẫn chờ đợi. Nguyễn Đắc Lập hay làm thơ ngắn, có những bài thật ngắn, cô đúc giản dị như thơ Haiku Nhật Bản, toàn bài chỉ là những gợi mở như bài “ Hoa nở ”: Vời vợi trăng Dìu dịu hương Ngấn lệ Tính triết lý ẩn sau những câu thơ của anh cũng là điều bạn đọc dễ nhận ra. Đó là những triết lý gần gũi với đời sống và cũng khiêm nhường giản dị chứ không cao sang to tát, đôi khi cụ thể như một lời nói “vừa đi vừa ngủ là cách đi của kẻ đường dài” đôi khi lại mông lung tưng tửng: Đưa tay hứng tháng ngày rơi Chạnh thương bao áng mây trời xa xa … (Lịch) Tôi thích những bài như “Chiều”, “Một đoạn”, “Quán nghèo bia hơi”, “Ngõ nhỏ”, “Sáng nào tôi cũng dậy sớm với mặt trời”, “Một đoạn”… Ở “ Chiều” là sự đan xen trầm lắng giữa cảm xúc và trí tuệ. Điệp khúc “ Những người thân/ chẳng thấy quay về” và biến thể “ Chỉ Người đi mãi mãi không về” tạo nên sự da diết ám ảnh xa xót của mất mát. Ở “ Quán nghèo bia hơi ” là điệp khúc của những buồn đau lỡ làng hiện hữu ngay trong đời sống bao người hàng ngày bên ta. Ở “ Một đoạn ” lại là điệp khúc của những bất lực những trớ trêu bí ẩn ngăn cách ta với người, người với ta, ta với ước mơ, ước mơ với hiện thực “ tưởng vài bước chân mà đi không tới”. “Ngõ nhỏ ” kiệm lời mà ám ảnh. Nguyễn Đắc Lập có những câu thơ hay. Cái hay của thơ anh không phải cái hay của những vấn đề nóng bỏng thời sự, mới lạ của hình ảnh, độc đáo của ngôn ngữ hay tân kì của tứ mà là cái hay của những bộc bạch chân thành, những rủ rỉ rù rì cảm động, của những chuyện tưởng không có gì mà khiến ta day dứt. Nhưng công bằng mà nói, bên những câu hay vẫn có câu còn dễ dãi thiếu một chút công phu lao động nghệ thuật. Tài năng là vô cùng và mỗi người có một đóng góp riêng nhỏ bé. Trong bài “ Cảm nhận về thơ ” in đã lâu Nguyễn Đắc Lập viết “Sống thế nào thì thơ như thế. Bắt nhịp được cuộc sống, phát hiện được vẻ đẹp của nó với tấm lòng chân thực, nhà thơ mới mong có được một cái gì góp ích cho đời”. Uống hết vị đắng cuộc đời sẽ thấy vị ngọt ở đáy cốc (Thơ bất chợt 3) Cùng với nhà thơ tôi tin điều đó và chúc mừng anh.
Nhà thơ Nguyễn Đắc Lập. Tâm sự về thơ Nguyễn Đắc Lập viết: Thơ là nhu cầu thể hiện nội tâm, là khát vọng khôn cùng về cái đep. Thơ ca sẽ biến những gì tốt đẹp thành bất tử. Còn Otavio Paz, nhà thơ Mexico viết “Thơ là cái còn lại để an ủi ta”. Có lẽ Nguyễn Đắc Lập đã tìm thấy cả nhu cầu cả khát vọng lẫn niềm an ủi cho mình qua thơ. Sông vẫn chảy dẫu biết mình gặp thác Dẫu biết mình sỏi đá dưới lòng sâu (Dòng sông) Đấy là hai câu thơ vừa chấp nhận vừa không chấp nhận, nó thể hiện sự thấu hiểu của nhà thơ trước hiện thực và tinh thần nhà thơ trong cuộc sống. Nhà thơ Nguyễn Đắc Lập, sinh ra và hiện sống ở Hà Đông , Hà Nội năm nay anh đã ngoại 70. Tôi quen biết anh cũng đã gần 20 năm. Hồi ấy, buổi trưa Nguyễn Đắc Lập hay từ Hà Đông ra Hà Nội bằng xe buýt rồi đến cơ quan chúng tôi. Tôi cũng hay gặp anh ở cuối phố Nguyễn Du, nơi giao cắt với đường Trần Bình Trọng. Tạng người xương xương gầy, quần áo tầm tầm giản dị, ăn nói hiền lành. Giữa phố xá tấp nập – nơi chỉ vài bước chân tới ga Hàng Cỏ – trông anh thấy ngay là người vất vả. Khi biết anh làm thơ sớm – có thơ in từ ngày mới học lớp 5 – tôi đã tự hỏi “giữa thời buổi kinh tế thị trường đang chộn rộn nhộn nhạo thơ là gì mà hấp dẫn con người này đến không thể buông bỏ được vậy. Vâng. Thơ ca là gì mà khiến ta phải đánh đổi cả số phận! Nó là một ly rượu, một bông hoa, một cơn bão hay duyên phận tiền định. Rồi qua vài người bạn tôi biết Nguyễn Đắc Lập vốn là kĩ sư lâm nghiệp từng lên rừng xuống núi lấy “mười năm trồng cây trăm năm trồng người” làm sự nghiệp, một người lính lấy tình yêu quê hương đất nước làm sức mạnh. Hết chiến tranh anh về dạy học tại trường trung cấp kinh tế lâm nghiệp. Một lần cùng về Hưng Yên tôi có gặp một nữ sinh viên cũ của anh đang làm việc ở tỉnh. Trong dịp đó anh kể tôi nghe về quãng đời làm thầy giáo. Rồi anh mời tôi vào Hà Đông thăm nhà, một ngôi nhà trong ngõ cũng tầm tầm và hơi khuất lấp. Tôi là con trưởng trong gia đình, anh cũng là con trưởng nhưng kém may mắn hơn, thế là bao chuyện về anh em nhà cửa lại được anh tâm sự. Chúng tôi dần dần thân hơn từ đấy. Trong buổi giao lưu giữa các nhà văn Việt Nam và các nhà văn Hàn Quốc tại Hội Nhà văn Việt Nam vừa qua, Nguyễn Đắc Lập tặng tôi tập “Thơ tuyển Nguyễn Đắc Lập” một cuốn sách dày hơn 200 trang, bìa cứng sang trọng. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã có một hình ảnh thật đẹp về anh trong lời giới thiệu tập thơ “ Hoa sa mạc ”. “Tôi hình dung anh (NĐL) như một cái cây thi thoảng những chiếc lá lại vang lên khi có ngọn gió đi qua. Anh làm thơ giản đơn như vậy”. Thật đáng để ta kính nể và yêu quí một thi sĩ làm thơ “giản đơn” như lẽ sống ở đời, tất nhiên như trời đã sinh ra nhất thiết cần phải vậy. Nhưng những ngọn gió nào luôn thổi qua tâm hồn thi sĩ của anh? Trong thơ Nguyễn Đắc Lập hay nhắc đến hai chữ Cuộc đời. Cuộc đời anh và cuộc sống còn nhiều buồn tủi xung quanh là ngọn gió không ngừng nghỉ thổi qua tâm hồn anh, qua cái – cây – số – phận – đời – anh làm rung lên những chiếc lá để thi ca vang vọng. Tâm sự về thơ Nguyễn Đắc Lập viết: Thơ là nhu cầu thể hiện nội tâm, là khát vọng khôn cùng về cái đep. Thơ ca sẽ biến những gì tốt đẹp thành bất tử. Còn Otavio Paz, nhà thơ Mexico viết “Thơ là cái còn lại để an ủi ta” Có lẽ Nguyễn Đắc Lập đã tìm thấy cả nhu cầu cả khát vọng lẫn niềm an ủi cho mình qua thơ. Tạng văn như tạng người. Thơ Nguyễn Đắc Lập hiền làn, mộc mạc, giản dị và nhiều nghĩ ngợi nhưng là sự giản dị thâm trầm và đắng đót. Thơ anh thấm đẫm một nỗi buồn man mác – hầu như bài nào cũng buồn – nỗi buồn sinh ra từ hoàn cảnh, từ nhân tình thế thái. Tôi đã đi gần cả cuộc đời để tìm hạnh phúc Hạnh phúc không thấy Bất hạnh như số phận Đeo đẳng cuộc đời Gần hết cuộc đời Tôi vẫn nhìn đời ngơ ngác Sao thì xa lắc Còn tôi đi gần hết cuộc đời (Hạnh phúc) Xa xót một đời cây chưa một lần hoa nở (Thơ bất chợt 1) Nhiều lúc Nguyễn Đắc Lập thảng thốt: Hạnh phúc Sao em cứ giấu mặt đi (Thơ bất chợt 1) Rừng vẫn đấy mà anh là người khác Em cũng vậy thôi rụng lá bao lần (Thơ bất chợt 2) Thơ Nguyễn Đắc Lập mạnh ở điệu buồn nhưng đó là nỗi buồn khiến ta trân trọng. Anh không chỉ buồn cho số phận riêng mình- mà rộng lớn hơn thế – còn buồn vì những số phận không may mắn khác và buồn cả vì “ Cái vách ngăn nằm giữa lòng người ” (Vách ngăn). Anh luôn nhớ tới cuộc đời gian truân của Mẹ nhưng nhớ hơn những lời Người dạy. Anh chia sẻ với Nguyễn Trãi những đau buốt khi nghĩ đến sự thâm hiểm của lòng người. Anh bồi hồi khi cuộc đời còn cay cực mà Cúc Phương vẫn bốn mùa xanh tốt và sáng nào anh cũng dậy sớm với mặt trời như để thanh lọc mình, như để được tiếp nhận những năng lượng mới, tiếp nhận nụ cười trẻ em ríu ran như mùa xuân phía trước (Sáng nào tôi cũng dậy sớm với mặt trời). Nhiều bất hạnh nhưng không kêu ca – dẫu đau quặn lòng vẫn “êm ả như không” – đấy là điều không phải ai cũng làm được. Anh luôn tin vào sự tốt đẹp của cuộc đời như tin sa mạc cũng có thể nở hoa. Bài “Hoa sa mạc” được anh lấy làm tên cho một tập thơ. Anh biết Cuộc đời luôn có những lối rẽ bất ngờ cho ai có niềm tin và biết kiên nhẫn chờ đợi. Nguyễn Đắc Lập hay làm thơ ngắn, có những bài thật ngắn, cô đúc giản dị như thơ Haiku Nhật Bản, toàn bài chỉ là những gợi mở như bài “ Hoa nở ”: Vời vợi trăng Dìu dịu hương Ngấn lệ Tính triết lý ẩn sau những câu thơ của anh cũng là điều bạn đọc dễ nhận ra. Đó là những triết lý gần gũi với đời sống và cũng khiêm nhường giản dị chứ không cao sang to tát, đôi khi cụ thể như một lời nói “vừa đi vừa ngủ là cách đi của kẻ đường dài” đôi khi lại mông lung tưng tửng: Đưa tay hứng tháng ngày rơi Chạnh thương bao áng mây trời xa xa … (Lịch) Tôi thích những bài như “Chiều”, “Một đoạn”, “Quán nghèo bia hơi”, “Ngõ nhỏ”, “Sáng nào tôi cũng dậy sớm với mặt trời”, “Một đoạn”… Ở “ Chiều” là sự đan xen trầm lắng giữa cảm xúc và trí tuệ. Điệp khúc “ Những người thân/ chẳng thấy quay về” và biến thể “ Chỉ Người đi mãi mãi không về” tạo nên sự da diết ám ảnh xa xót của mất mát. Ở “ Quán nghèo bia hơi ” là điệp khúc của những buồn đau lỡ làng hiện hữu ngay trong đời sống bao người hàng ngày bên ta. Ở “ Một đoạn ” lại là điệp khúc của những bất lực những trớ trêu bí ẩn ngăn cách ta với người, người với ta, ta với ước mơ, ước mơ với hiện thực “ tưởng vài bước chân mà đi không tới”. “Ngõ nhỏ ” kiệm lời mà ám ảnh. Nguyễn Đắc Lập có những câu thơ hay. Cái hay của thơ anh không phải cái hay của những vấn đề nóng bỏng thời sự, mới lạ của hình ảnh, độc đáo của ngôn ngữ hay tân kì của tứ mà là cái hay của những bộc bạch chân thành, những rủ rỉ rù rì cảm động, của những chuyện tưởng không có gì mà khiến ta day dứt. Nhưng công bằng mà nói, bên những câu hay vẫn có câu còn dễ dãi thiếu một chút công phu lao động nghệ thuật. Tài năng là vô cùng và mỗi người có một đóng góp riêng nhỏ bé. Trong bài “ Cảm nhận về thơ ” in đã lâu Nguyễn Đắc Lập viết “Sống thế nào thì thơ như thế. Bắt nhịp được cuộc sống, phát hiện được vẻ đẹp của nó với tấm lòng chân thực, nhà thơ mới mong có được một cái gì góp ích cho đời”. Uống hết vị đắng cuộc đời sẽ thấy vị ngọt ở đáy cốc (Thơ bất chợt 3) Cùng với nhà thơ tôi tin điều đó và chúc mừng anh.
Mặc dù đã bị cấm từ năm 2010, lượng khí CFC có khả năng phá hủy tầng ozone ở bên trong máy lạnh, tủ lạnh vẫn tăng lên đột biến. Chẳng ai biết nguồn phát loại khí này đến từ đâu. CFC thải ra sẽ xâm nhập vào khí quyển và phá hủy tầng ozone. Ảnh: Science Photo Library. Nghiên cứu mới nhất đăng trên tạp chí khoa học Nature Geoscience hôm 3/4 đã chỉ ra CFC (chlorofluorocarbon), loại hóa chất từng bị cấm vì làm thủng tầng ozone, hiện vẫn tăng cao ở mức đáng báo động trên bầu khí quyển Trái Đất. Đây là loại hóa chất được con người ứng dụng để phục vụ các ngành công nghiệp, chủ yếu dùng trong ngành công nghiệp làm lạnh như tủ lạnh, máy lạnh. Tuy nhiên, lượng chất CFC thải ra sẽ xâm nhập vào khí quyển và phá hủy tầng ozone. Do đó, CFC đã bị cấm sử dụng từ năm 2010 theo Nghị định thư Montreal năm 1987 và dần được thay thế bởi HFC. Tuy nhiên, các nhà khoa học rất bất ngờ khi phát hiện ra lượng hóa chất này đã tăng cao trong một thời gian dài và đạt đỉnh vào năm 2020. Nguyên nhân có thể chính là do HFC, chất làm lạnh thay thế cho CFC trước đây. Nhưng vấn đề lớn hơn cả là các nhà khoa học không thể tìm ra nguồn thải những chất hóa học này. Trong những thập kỷ trở lại đây, tầng ozone bảo vệ Trái Đất đang trên đà hồi phục đáng kể. Song, nếu lượng chất thải môi trường như CFC vẫn tăng cao và không có dấu hiệu giảm sút, quá trình hồi phục sẽ bị giảm tốc trong khi tốc độ biến đổi khí hậu sẽ tăng cao. “Tổng lượng khí độc làm thủng tầng ozone bằng với lượng khí thải nhà kính ở Switzerland”, nhà nghiên cứu Stefan Reimann tại viện Materials Science and Technology nói với báo chí hôm 30/3. Trong nghiên cứu, Reimann và các đồng nghiệp đã phát hiện một lượng khí CFC đang được thải ra khí quyển ngày càng nhiều. Ngoài sử dụng như chất làm lạnh, CFC còn được tìm thấy trong các bình xịt, màng bọc nhựa, lớp cách nhiệt. Khí CFC được phân thành nhiều loại khác nhau như CFC-113a, CFC-114a, CFC-115, CFC-13, CFC-112a. Chúng đều đã bị cấm sử dụng toàn cầu vào năm 2010 theo Nghị định thư Montreal năm 1989. Đây là một thỏa thuận quốc tế đã giúp loại bỏ 99% các hóa chất làm suy giảm tầng ozone, chẳng hạn như CFC và được xem là thỏa thuận về môi trường thành công nhất trên bình diện quốc tế, với hy vọng có thể mang đến sự hồi phục hoàn toàn của tầng ozone vào giữa thế kỷ này. Nhờ Nghị định thư Montreal, tầng ozone của Trái Đất đã trên đà khôi phục, giảm thiểu nguy cơ ung thư da hay đục thủy tinh thể. Các nhà nghiên cứu còn kỳ vọng tầng ozone sẽ hồi phục hoàn toàn vào năm 2065. Theo kế hoạch, tầng ozone sẽ hồi phục hoàn toàn vào năm 2065. Ảnh: NASA. Đây chính là lý do khiến việc phát hiện lượng thải khí CFC tăng mới đây đã gây sốc trong giới khoa học. Nếu theo đúng nghị định, lượng phát thải phải giảm xuống kể từ khi hoạt động sản xuất và tiêu thụ các chất hóa học bị cấm năm 2010. Nghiên cứu hôm 3/4 trên tạp chí khoa học Nature Geoscience cũng chỉ ra một lỗ hổng trong Nghị định thư Montreal năm 1989, cho phép các loại khí CFC ngày càng phát triển. Trên danh nghĩa, CFC sẽ không hề xuất hiện trong bảng thành phần hay đề cập gì đến sản phẩm. Nhưng thực tế là các công ty vẫn sử dụng CFC trong quá trình sản xuất các chất thay thế. Điều này đồng nghĩa với việc CFC sẽ trở thành vật liệu thô hoặc nguyên liệu để tạo ra những chất hóa học mới. Đây chính là cách mà CFC-113a, CFC-114a và CFC-115 vẫn được sử dụng rộng rãi bất chấp lệnh cấm vào năm 2010. Họ dùng các chất này để tạo ra HFC, thay thế CFC trong máy lạnh, tủ lạnh hay bình chữa cháy. Song, HFC cũng là một chất có hại nếu bị rò rỉ. Đây có thể là loại khí thải nhà kính siêu độc, có uy lực làm Trái Đất nóng lên gấp hàng trăm nghìn lần so với CO2 . Do đó, Bản sửa đổi, bổ sung Kigali năm 2016 đã yêu cầu giảm 85% tiêu thụ HFC cho đến năm 2047. Tuy nhiên, điều đáng quan ngại là các nhà khoa học vẫn không thể tìm ra nguồn thải CFC từ đâu. Tác giả của nghiên cứu cho biết nguồn CFC đến từ 14 địa điểm khác nhau trên thế giới nhưng không rõ khu vực cụ thể. Ngay cả lượng thải hai loại khí CFC-13 và CFC-112a không tồn tại trong quy trình sản xuất HFC cũng tăng cao. “Chúng tôi không biết nó từ đâu tới và điều này thật đáng sợ”, nhà nghiên cứu Stefan Reimann cho biết. Khi lượng khí ngày càng tăng cao, chúng sẽ ảnh hưởng đến quá trình hồi phục tầng ozone và nguy cơ gây ra biến đổi khí hậu trầm trọng.
Although it has been banned since 2010, the amount of CFC gases capable of destroying the ozone layer inside air conditioners and refrigerators has still increased dramatically. No one knows where this gas comes from. Emitted CFCs will enter the atmosphere and destroy the ozone layer. Photo: Science Photo Library. Latest research published in scientific journals Nature Geoscience On April 3, it was pointed out that CFC (chlorofluorocarbon), a chemical once banned because it punctures the ozone layer, is still increasing at alarming levels in the Earth's atmosphere. This is a chemical used by humans to serve industries, mainly used in the refrigeration industry such as refrigerators and air conditioners. However, the amount of CFCs released will enter the atmosphere and destroy the ozone layer. Therefore, CFCs have been banned from use since 2010 under the 1987 Montreal Protocol and are gradually being replaced by HFCs. However, scientists were surprised to discover that the amount of this chemical had increased for a long time and peaked in 2020. The cause may be due to HFC, the refrigerant that previously replaced CFC. But the biggest problem is that scientists cannot find the source of these chemicals. In recent decades, the ozone layer that protects the Earth has been on the path to significant recovery. However, if the amount of environmental waste such as CFCs continues to increase and shows no signs of decreasing, the recovery process will decelerate while the rate of climate change will increase. "The total amount of toxic gases that puncture the ozone layer is equal to the amount of greenhouse gas emissions in Switzerland," researcher Stefan Reimann at the Institute of Materials Science and Technology told the press on March 30. In the study, Reimann and colleagues discovered that an increasing amount of CFC gases are being released into the atmosphere. In addition to being used as a refrigerant, CFCs are also found in aerosol cans, plastic wrap, and insulation. CFC gas is classified into many different types such as CFC-113a, CFC-114a, CFC-115, CFC-13, CFC-112a. They were all banned from use globally in 2010 under the 1989 Montreal Protocol. This is an international agreement that has eliminated 99% of ozone-depleting chemicals, such as CFCs, and is considered the most successful environmental agreement internationally, with the hope of bringing to the full recovery of the ozone layer by mid-century. Thanks to the Montreal Protocol, the Earth's ozone layer is on the verge of recovery, reducing the risk of skin cancer or cataracts. Researchers also expect the ozone layer to fully recover by 2065. According to the plan, the ozone layer will fully recover by 2065. Photo: NASA. This is the reason why the recent discovery of increased CFC emissions has shocked the scientific community. If the decree is followed, emissions should have decreased since the production and consumption of chemicals was banned in 2010. Research published on April 3 in the scientific journal Nature Geoscience also pointed out a loophole in the 1989 Montreal Protocol, which allowed CFC gases to grow. Nominally, CFCs will not appear in the ingredients list or mention anything about the product. But the reality is that companies still use CFCs in the production of substitutes. This means that CFCs will become raw materials or raw materials to create new chemicals. This is how CFC-113a, CFC-114a and CFC-115 are still widely used despite the ban in 2010. They use these substances to create HFCs, replacing CFCs in air conditioners, refrigerators or fire extinguisher. However, HFC is also a harmful substance if leaked. This can be a super toxic greenhouse gas, with the power to warm the Earth hundreds of thousands of times over CO2 . As a result, the 2016 Kigali Amendment required an 85% reduction in HFC consumption until 2047. However, what is worrying is that scientists still cannot find out where the CFC emissions come from. The author of the study said the CFC source came from 14 different locations around the world but the specific region was unknown. Even emissions of two non-existent gases CFC-13 and CFC-112a in the HFC production process also increased. "We don't know where it came from and this is scary," said researcher Stefan Reimann. As the amount of gases increases, they will affect the recovery process of the ozone layer and the risk of causing serious climate change.
Kính viễn vọng Không gian Hubble của NASA đã vô tình chụp được hố đen ‘chạy trốn’ với khối lượng siêu lớn đang lao nhanh trong không gian, tạo ra vệt sao dài gấp đôi dải Ngân Hà . Minh họa cho hố đen tạo ra vệt sao. Ảnh: NASA. Các nhà thiên văn lần đầu tiên phát hiện một hố đen đang bay qua không gian liên sao với tốc độ 5,6 triệu km/h (gấp 4.500 lần tốc độ âm thanh). Nếu ở trong Hệ Mặt Trời, hố đen này có thể di chuyển từ Trái Đất đến Mặt Trăng trong 14 phút, theo NASA . Nhóm nghiên cứu phát hiện hố đen khi đang sử dụng kính viễn vọng không gian Hubble để quan sát thiên hà lùn RCP 28, cách Trái Đất khoảng 7,5 tỷ năm ánh sáng. Hố đen này có thể đã bị hai hố đen khác đẩy ra khỏi thiên hà quê hương và lang thang trong vùng liên sao. Nghiên cứu đăng trên tạp chí Astrophysical Journal Letters ngày 6/4 cho biết thay vì nuốt chửng các ngôi sao, hố đen lao nhanh và tạo ra một vệt sao giữa không gian dài hơn 200.000 năm ánh sáng. Vệt này hướng ra từ trung tâm của một thiên hà, nơi thường có một hố đen siêu khối lượng. Các nhà nghiên cứu tin rằng khí có thể đang bị sốc và nóng lên từ chuyển động của hố đen, hoặc nó có thể là bức xạ từ một đĩa bồi tụ xung quanh hố đen. Hình ảnh vệt sao lạ được chụp bởi kính thiên văn Hubble. Ảnh: NASA. “Chúng tôi nghĩ rằng mình đang chứng kiến một sự hình thành sau hố đen, nơi khí nguội đi và có thể hình thành các ngôi sao, Chúng tôi đang quan sát chặt chẽ sự hình thành sao theo sau hố đen”, Pieter van Dokkum, nhà nghiên cứu thuộc Đại học Yale, cho biết. “Tôi chỉ quét qua hình ảnh Hubble và nhận thấy có một vệt nhỏ. Tôi nghĩ rằng đó là một tia vũ trụ chiếu vào máy ảnh. Nhưng khi loại bỏ các tia vũ trụ, chúng tôi nhận ra vệt sáng vẫn còn đó. Nó không giống những gì chúng ta từng thấy trước đây”, ông nói thêm. Nhận thấy sự kỳ lạ, van Dokkum và nhóm của ông đã thực hiện quan sát quang phổ với Đài thiên văn WM Keck ở Hawaii. Ông mô tả vệt sao là “khá đáng kinh ngạc, rất, rất sáng và rất bất thường”. Các nhà nghiên cứu sẽ thực hiện các quan sát tiếp theo với Kính viễn vọng Không gian James Webb của NASA và Đài quan sát Tia X Chandra để xác nhận lời giải thích về hố đen. Kính viễn vọng Không gian Nancy Grace Roman sắp tới của NASA sẽ cung cấp cái nhìn rõ ràng hơn về vũ trụ, có thể tìm thấy những vệt sao chưa từng có.
NASA's Hubble Space Telescope accidentally captured a super-massive 'runaway' black hole rushing through space, creating a star trail twice as long Galaxy . Illustration of a black hole creating a star trail. Photo: NASA. Astronomers for the first time discovered a black hole flying through interstellar space at a speed of 5.6 million km/h (4,500 times the speed of sound). If in the Solar System, this black hole could move from Earth to the Moon in 14 minutes, according to NASA . The research team discovered the black hole while using the Hubble space telescope to observe dwarf galaxy RCP 28, about 7.5 billion light years from Earth. This black hole may have been ejected from its home galaxy by two other black holes and wandered in the interstellar region. Research published in the journal Astrophysical Journal Letters April 6 said that instead of swallowing stars, the black hole rushed quickly and created a trail of stars in space more than 200,000 light years long. This streaks out from the center of a galaxy, where a supermassive black hole is often located. Researchers believe the gas could be being shocked and heated from the black hole's motion, or it could be radiation from an accretion disk around the black hole. Strange star trail image taken by the Hubble telescope. Photo: NASA. “We think we are witnessing a post-black hole formation, where gas cools and stars can form. We are closely observing star formation following the black hole,” Pieter van Dokkum , a researcher at Yale University, said. “I just scanned the Hubble image and noticed there was a small blip. I think it was a cosmic ray hitting the camera. But when we removed the cosmic rays, we realized the streak was still there. It's unlike anything we've seen before,” he added. Noticing the oddity, van Dokkum and his team performed spectroscopic observations with the WM Keck Observatory in Hawaii. He described the star trail as “quite astonishing, very, very bright and very unusual.” Researchers will perform follow-up observations with NASA's James Webb Space Telescope and the Chandra X-ray Observatory to confirm the black hole explanation. NASA's upcoming Nancy Grace Roman Space Telescope will provide a clearer view of the universe, possibly finding unprecedented star trails.
Thượng nghị sỹ Jeff Merkley và các nghị sỹ Hoa Kỳ khẳng định sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực hai bên cùng có lợi; mong muốn Việt Nam-Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược. Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thượng nghị sỹ bang Oregon Jeff Merkley. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN). Sáng 8/4, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tiếp đoàn các nghị sỹ Hoa Kỳ, do Thượng Nghị sỹ Jeff Merkley dẫn đầu đang thăm và làm việc tại Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng chuyến thăm có ý nghĩa, thắt chặt hợp tác giữa Quốc hội cũng như Chính phủ, nhân dân hai nước, góp phần thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ phát triển thực chất, hiệu quả. Thủ tướng đánh giá cao việc các nghị sỹ Hoa Kỳ trước đây và hiện nay đã thể hiện trách nhiệm cao trong việc giải quyết hậu quả chiến tranh; thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực quan trọng như thương mại-đầu tư, ứng phó với biến đổi khí hậu; mong muốn các nghị sỹ tiếp tục vun đắp và thúc đẩy cho quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước phát triển ngày càng sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam khẳng định Việt Nam luôn coi Hoa Kỳ là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại; vui mừng trước sự phát triển vượt bậc của quan hệ song phương Việt Nam-Hoa Kỳ thời gian qua, trong đó quan hệ kinh tế-thương mại là trụ cột, động lực thúc đẩy mạnh mẽ; đánh giá cao việc Chính phủ và chính giới Hoa Kỳ ủng hộ một Việt Nam “mạnh, thịnh vượng, tự cường và độc lập.” Thủ tướng bày tỏ vui mừng kết quả hợp tác Việt Nam – Hoa Kỳ sau 28 năm bình thường hóa quan hệ và 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện; cho biết, phát huy kết quả cuộc điện đàm rất thành công giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Biden vừa qua, Việt Nam sẵn sàng cùng Hoa Kỳ tiếp tục thúc đẩy quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả, thực chất trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thể chế chính trị của nhau; phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước và đóng góp cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực cũng như trên thế giới; mong muốn thúc đẩy Quan hệ Đối tác toàn diện với Việt Nam-Hoa Kỳ tiếp tục phát triển trên cơ sở cùng có lợi. Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp đoàn 5 nghị sỹ Liên bang Hoa Kỳ. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN). Thủ tướng thông tin với các nghị sỹ Hoa Kỳ về tình hình phát triển kinh tế-xã hội sau hơn 36 năm đổi mới, cũng như chiến lược phát triển đất nước và đường lối đối ngoại của Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ cũng đề nghị Quốc hội Hoa Kỳ tiếp tục quan tâm, dành nguồn lực và ngân sách để hỗ trợ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh như rà phá bom mìn, khắc phục hậu quả chất độc da cam; tiếp tục quan tâm, hỗ trợ để Chính phủ hai nước triển khai hiệu quả hợp tác trong lĩnh vực thương mại-đầu tư; quốc phòng-an ninh; giáo dục và đào tạo; khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo; chuyển đổi năng lượng, ứng phó với biến đổi khí hậu đảm bảo công bằng, công lý. Thượng nghị sỹ Jeff Merkley và các nghị sỹ Hoa Kỳ khẳng định Quốc hội Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu ở khu vực; nhất trí về tầm quan trọng của việc thúc đẩy trao đổi, tiếp xúc giữa Chính phủ và Quốc hội hai nước, nhất là nhân dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện trong năm 2023 cũng như việc duy trì đồng thuận lưỡng đảng Hoa Kỳ ủng hộ quan hệ với Việt Nam; khẳng định sẽ tiếp tục quan tâm hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực hai bên cùng có lợi ích; mong muốn Việt Nam-Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược. Các nghị sỹ Hoa Kỳ cho biết sẽ tập trung ưu tiên giải quyết hậu quả chiến tranh như hỗ trợ người bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, rà phá bom mìn, tẩy độc dioxin, tìm kiếm quân nhân mất tích; chống biến đổi khí hậu; xúc tiến đầu tư, thương mại, chuyển đổi năng lượng… Đồng thời tiếp tục quan tâm, tạo thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ sinh sống, làm ăn, lao động, học tập. Về các vấn đề khu vực và quốc tế, hai bên đánh giá đã phối hợp ngày càng hiệu quả trong khuôn khổ các thể chế đa phương, đặc biệt là trong ASEAN, các cơ chế khu vực liên quan; ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN, quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện ASEAN-Hoa Kỳ, quan hệ Đối tác Mekong-Hoa Kỳ. Phía Hoa Kỳ đề nghị Việt Nam ủng hộ Hoa Kỳ tăng cường hợp tác có trách nhiệm với khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp, phát triển tại khu vực và thế giới. Về vấn đề Biển Đông, hai bên khẳng định lập trường duy trì tự do, an toàn hàng hải – hàng không; giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982; thực hiện đầy đủ DOC và hướng tới một COC hiệu quả, thực chất và phù hợp với luật pháp quốc tế./.
Senator Jeff Merkley and US lawmakers affirmed that they will continue to support Vietnam in areas of mutual benefit; wishes Vietnam-US to upgrade relations to Strategic Partnership. Prime Minister Pham Minh Chinh and Oregon State Senator Jeff Merkley. (Photo: Duong Giang/TTXVN). On the morning of April 8, at Government Headquarters, Prime Minister Pham Minh Chinh received a delegation of US lawmakers, led by Senator Jeff Merkley, who are visiting and working in Vietnam. Prime Minister Pham Minh Chinh said that the visit was meaningful, tightening cooperation between the National Assembly as well as the Governments and people of the two countries, contributing to promoting the substantive development of the Vietnam-US Comprehensive Partnership. effective. The Prime Minister highly appreciated the fact that past and present US parliamentarians have shown high responsibility in resolving the consequences of war; promote cooperation between the two countries in important fields such as trade-investment and response to climate change; We hope that parliamentarians will continue to cultivate and promote the comprehensive partnership between the two countries to develop more deeply, substantially, and effectively. The Head of the Vietnamese Government affirmed that Vietnam always considers the United States as one of the most important partners in foreign policy; delighted with the outstanding development of bilateral relations between Vietnam and the United States in recent times, in which economic and trade relations are the pillar and strong driving force; Appreciate the US Government and political community's support for a "strong, prosperous, self-reliant and independent" Vietnam. The Prime Minister expressed his joy at the results of cooperation Vietnam – USA After 28 years of normalizing relations and 10 years of establishing a Comprehensive Partnership; said that, building on the results of the very successful phone call between General Secretary Nguyen Phu Trong and President Biden recently, Vietnam is ready to work with the United States to continue promoting relations in depth, efficiency, and substance. on the basis of respect for each other's independence, sovereignty, territorial integrity, and political institutions; consistent with the interests of the two peoples and contributing to peace, stability, cooperation and development in the region and the world; wishes to promote the Comprehensive Partnership with Vietnam-US to continue to develop on the basis of mutual benefit. Prime Minister Pham Minh Chinh received a delegation of 5 US federal lawmakers. (Photo: Duong Giang/TTXVN). The Prime Minister informed US lawmakers about the socio-economic development situation after more than 36 years of reform, as well as Vietnam's national development strategy and foreign policy. The Prime Minister also asked the US Congress to continue paying attention and devoting resources and budget to support Vietnam in overcoming the consequences of war such as clearing landmines and overcoming the consequences of Agent Orange; continue to pay attention and support the two governments to effectively implement cooperation in the field of trade and investment; defence security; education and training; science-technology, innovation; Energy conversion, response to climate change, ensuring fairness and justice. Senator Jeff Merkley and other US lawmakers affirmed that the US Congress considers Vietnam to be one of the most important partners in the region; agreed on the importance of promoting exchange and contact between the Governments and National Assembly of the two countries, especially on the occasion of the 10th anniversary of the establishment of Comprehensive Partnership in 2023 as well as maintaining consensus US bipartisan support for relations with Vietnam; affirmed that they will continue to pay attention and support Vietnam in areas of mutual benefit; wishes Vietnam-US to upgrade relations to Strategic Partnership. US lawmakers said they would focus on prioritizing resolving war consequences such as supporting people affected by war, clearing landmines, dioxin detoxification, and searching for missing soldiers; combat climate change; promoting investment, trade, energy conversion... At the same time, continuing to pay attention and create favorable conditions for the Vietnamese community in the United States to live, do business, work, and study. Regarding regional and international issues, the two sides assessed that they have coordinated increasingly effectively within the framework of multilateral institutions, especially within ASEAN, and related regional mechanisms; Support the central role of ASEAN, the ASEAN-US Comprehensive Strategic Partnership, and the Mekong-US Partnership. The US side asked Vietnam to support the US in strengthening responsible cooperation with the Asia-Pacific region, actively contributing to peace, stability, integration and development in the region and the world. Regarding the East Sea issue, both sides affirmed their stance on maintaining freedom and safety of navigation and aviation; peaceful resolution of disputes on the basis of international law, including UNCLOS 1982; fully implement the DOC and move towards an effective, substantive COC and in accordance with international law./.
Giải đua ghe ngo mừng Tết cổ truyền đồng bào dân tộc Khmer Chôl Chnăm Thmây năm 2023 diễn ra từ ngày 14-16/4, thu hút 25 đội đua, với 250 vận động viên. Các đội tham gia đua ghe ngo. (Ảnh: Lê Sen/TTXVN). Ngày 8/4 tại kênh Chắc Kha (ấp Bình Lợi, xã Minh Hòa), Ủy ban Nhân dân huyện Châu Thành ( tỉnh Kiên Giang ), tổ chức Giải đua ghe ngo mừng Tết cổ truyền đồng bào dân tộc Khmer Chôl Chnăm Thmây năm 2023 (diễn ra từ ngày 14-16/4). Ông Tân Thành Huy, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Châu Thành, cho biết đua ghe ngo là một nét văn hóa đặc trưng truyền thống của đồng bào Khmer trong tỉnh nói chung, huyện Châu Thành nói riêng. Đây là môn thể thao đặc biệt, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Năm nay, cuộc thi có sự tham dự của 25 đội đua, với 250 vận động viên đến từ các xã, thị trấn trong huyện. Ngoài cuộc đua ghe ngo, ủy ban nhân dân huyện còn kết hợp với Tỉnh đoàn Kiên Giang tổ chức các trò chơi dân gian (nhảy bao bố, đạp bong bóng, kéo co, chuyền chanh và bánh xe đoàn kết) tại Trung tâm hành chính xã Minh Hòa cho các đoàn viên, thanh niên, người dân trong huyện, du học sinh Campuchia đang theo học tại Trường Đại học Kiên Giang tham gia. Cùng ngày, Hội Chữ thập đỏ tỉnh Kiên Giang tổ chức đoàn y, bác sỹ khám bệnh, cấp phát thuốc, cắt tóc miễn phí, tặng quà hộ nghèo và tiệc chay miễn phí cho nhân dân xã Minh Hòa. Theo Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Châu Thành Tân Thành Huy, các hoạt động mừng Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer góp phần tôn vinh, quảng bá các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ trong nền văn hóa thống nhất, đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, các bên liên quan cũng được nâng cao nhận thức, ý thức trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Các đội đua về đích. (Ảnh: Lê Sen/TTXVN). Chôl Chnăm Thmây là Tết cổ truyền của người Khmer Nam Bộ, trong tiếng Khmer, “Chôl Chnăm Thmây” có nghĩa là “Mừng năm mới.” Ngày Tết này của đồng bào Khmer diễn ra vào giữa tháng 4 dương lịch hàng năm. Lúc này đồng bào dù đi đâu xa hoặc bận công việc làm ăn thì cũng đều về nhà, phum sóc để sum họp gia đình, đến chùa lễ Phật cầu an. Những ngày này, mọi người đến nhà nhau thăm hỏi sức khỏe, chúc nhau gặp nhiều may mắn. Mỗi gia đình đều dọn dẹp sạch sẽ nhà cửa, trang trí đẹp mắt. Người người mua sắm lễ vật, nhang đèn và hoa quả, mâm lễ đưa vào chùa để làm lễ đón năm mới. Người dân còn tổ chức nhiều cuộc vui văn nghệ với điệu dù kê, rô băm, múa lâm thôn… vui nhộn và đầm ấm tại các sân chùa./.
The 2023 Khmer Chol Chnam Thmay boat race to celebrate the traditional New Year of the Khmer ethnic group takes place from April 14-16, attracting 25 racing teams, with 250 athletes. Teams participate in boat racing. (Photo: Le Sen/TTXVN). April 8 at Chac Kha canal (Binh Loi hamlet, Minh Hoa commune), People's Committee Chau Thanh district ( Kien Giang Province ), organizes the Race boat Celebrate the traditional New Year of the Khmer ethnic group Chol Chnam Thmay in 2023 (taking place from April 14-16). Mr. Tan Thanh Huy, Vice Chairman of the People's Committee of Chau Thanh district, said that boat racing is a traditional cultural feature of the Khmer people in the province in general and Chau Thanh district in particular. This is a special sport that attracts a large number of people to participate. This year, the competition had the participation of 25 racing teams, with 250 athletes from communes and towns in the district. In addition to the boat race, the district People's Committee also cooperated with the Kien Giang Provincial Youth Union to organize folk games (sack jumping, balloon kicking, tug of war, lemon passing and solidarity wheel) at the Operation Center. Minh Hoa commune government allowed union members, young people, people in the district, and Cambodian international students studying at Kien Giang University to participate. On the same day, the Red Cross Association of Kien Giang province organized a team of doctors and medical examiners, distributed medicine, free hair cuts, gave gifts to poor households and a free vegetarian party to the people of Minh Hoa commune. According to Vice Chairman of Chau Thanh District People's Committee Tan Thanh Huy, Khmer people's activities to celebrate Chol Chnam Thmay Tet contribute to honoring and promoting the good traditional cultural values ​​of the Khmer Nam people. Ministry in the unified and diverse culture of the Vietnamese ethnic community. At the same time, relevant parties are also raised to raise awareness and awareness in preserving and promoting the traditional cultural values ​​of the Vietnamese ethnic community in the period of integration and development. Teams race to the finish line. (Photo: Le Sen/TTXVN). Chôl Chnam Thmay is the traditional New Year of the Southern Khmer people. In Khmer, "Chôl Chnam Thmay" means "Happy New Year." This New Year of the Khmer people takes place in mid-April every year. At this time, people, no matter how far away they are or are busy with work, always return home, take care of themselves for family reunions, and go to temples to worship Buddha and pray for peace. These days, people come to each other's houses to check on each other's health and wish each other good luck. Every family cleans their house and decorates it beautifully. People buy offerings, incense sticks, fruits, and offerings to bring to the temple to celebrate the New Year. People also organize many fun and musical performances with fun and warm dances such as du ke, ro hash, forestry dance, etc. in the temple yards./.
Kenzaburo Oe, nhà văn Nhật Bản đoạt giải Nobel văn chương 1994 đã qua đời vào ngày 3/3/2023, hưởng thọ 88 tuổi. Nhà xuất bản Kodansha đã đưa ra thông cáo về cái chết vào đầu tuần trước nhưng không nói rõ nguyên nhân. Ông được trao giải “vì đã tạo ra thế giới tưởng tượng nơi mà thực tế cùng với huyền thoại giao nhau, từ đó tạo nên một bức tranh vô cùng khắc nghiệt về con người ngày nay.” Mặc dù vẫn thường hay nói mỗi khi viết lách mình chỉ hướng đến độc giả Nhật Bản, thế nhưng Oe vẫn thu hút được đông đảo độc giả quốc tế vào những năm 1960 với 3 tác phẩm: Hiroshima Notes (tạm dịch: G hi chép về vụ Hiroshima ) – tuyển tập các bài tiểu luận về hậu quả lâu dài của các vụ tấn công bằng bom nguyên tử, hai cuốn tiểu thuyết A Personal Matter (tựa Việt: Một nỗi đau riêng ) và The Silent Cry (tựa Việt sắp ra mắt: Trận bóng năm Vạn Diên thứ nhất ) xoay quanh một cuộc khủng hoảng trong đời sống gia đình và sự ra đời của cậu con trai với một khối u trong hộp sọ. Kenzaburo Oe sinh ngày 31 tháng 1 năm 1935 tại một ngôi làng ở tỉnh Ehime, Shikoku. Cha ông là một địa chủ vô cùng nổi tiếng và đã chết đuối trong chiến tranh Thái Bình Dương. Vào buổi sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945, mẹ ông đang hái thảo mộc thì nhìn thấy một tia sáng lớn chớp trên bầu trời, và cũng khi đó quả bom nguyên tử ở Hiroshima cách đó 100 dặm bắt đầu phát nổ. Kenzaburo Oe. Tại Đại học Tokyo, Oe học ngành văn học Pháp hiện đại, nhưng suốt đời mình, ông lại chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Mĩ cũng như châu Âu với sự tôn kính đặc biệt dành cho W.B. Yeats. Trong khi ông tìm cảm hứng trong rất nhiều sách, từ Huckleberry Finn cho đến lí thuyết về hình ảnh hiện thực kì lạ của nhà phê bình người Nga Mikhail Bakhtin, thì có rất ít những sự “uyên bác” trong tiểu thuyết của ông. Ông cũng không hề thỏa hiệp khuynh hướng thuyết giáo trong các tác phẩm, do đó ông đã sử dụng nhiều bài tiểu luận cũng như bài giảng để kiên quyết phản đối năng lượng hạt nhân và nỗ lực sửa đổi Hiến pháp hòa bình của riêng Nhật Bản . Oe mâu thuẫn một cách khắc nghiệt đối với xã hội Nhật Bản. Ông lập luận rằng sau 25 năm dân chủ và tinh thần phục hưng thời hậu chiến tranh, đất nước hiện nay đã rơi vào trong đáy sâu của sự bạc nhược. Ông cho rằng đó là một thời kì được đánh dấu bởi sự cai trị độc đảng và thái độ “đóng cửa” ngăn cản các mối quan hệ mang tính xây dựng với các nước châu Á khác, ít có vai trò có ý nghĩa trong các vấn đề thế giới. Về mặt chính trị, ông là tiếng nói nổi bật của một thế hệ những người bất đồng chính kiến ​​và phản đối việc trang bị vũ khí cho lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Ông cũng ủng hộ chính sách bồi thường chiến tranh cho Trung Quốc , Hàn Quốc và các nước láng giềng châu Á khác. Ông thường xuyên bị các phần tử cực hữu phỉ báng, đôi khi còn đe dọa giết như khi ông từ chối nhận Huân chương Văn hóa Nhật Bản vào năm 1994 vì được Hoàng đế ban tặng. Ông nói: “ Tôi không công nhận bất kì quyền lực nào, bất kì giá trị nào cao hơn nền dân chủ”. Vào năm 2005, ông đã bị kiện vì một bài luận mà mình đã viết vào năm 1970 khi khẳng định rằng các sĩ quan Nhật Bản đã ép hàng trăm người dân vùng Okinawa tự sát bằng cách nói rằng họ sẽ bị hãm hiếp, tra tấn và sát hại khi quân đội Mĩ tiến vào trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nguyên đơn trong vụ kiện này là một cựu binh 91 tuổi và những người thân của một cựu binh khác, nhưng nó đã bị thẩm phán bác bỏ. Cho đến cuối cùng Tòa án đã ra phán quyết có lợi cho ông và công nhận rằng “Quân đội đã tham gia sâu vào các vụ tự sát hàng loạt”. Oe là nhà văn Nhật Bản đoạt giải Nobel văn chương thứ hai, sau tiểu thuyết gia Yasunari Kawabata vào năm 1968. Về phong cách và nội dung, cả hai vô cùng khác biệt. Trong khi Kawabata chủ yếu viết những “truyện ngắn trong lòng bàn tay” có phần tao nhã về các chủ đề truyền thống, thì Oe lại có khả năng mở rộng ngôn ngữ Nhật Bản cho đến giới hạn bằng những đề tài hướng trực tiếp đến tình dục, trầm cảm, bất ổn và đấu tranh cho phẩm giá con người. Nhà văn Hoa Kì, Henry Miller cũng đã ví ông như Dostoyevsky trong “hai thái cực hi vọng và tuyệt vọng”. Khi còn là một sinh viên đại học tại Đại học Tokyo, ông đã giành được một giải thưởng văn học lớn dành cho truyện ngắn. Năm 1958, ông cho xuất bản tiểu thuyết đầu tay rất đáng chú ý mang tên Nip the Buds, Shoot the Kids kể về một nhóm nam sinh di tản trong thời chiến đến ngôi làng ở vùng nông thôn, nơi họ được lệnh chôn xác động vật thối rữa bị giết bởi bệnh dịch. Các tác phẩm đã được chuyển ngữ của Kenzaburo Oe. Nhưng đến giữa năm của tuổi 20 thì ông rơi vào tuyệt vọng, thậm chí cũng từng có lúc cân nhắc đến việc tự tử, vì không nhìn thấy con đường tương lai nào cho việc viết lách. Sau đó, tháng 6 của 1963, một loạt sự kiện đã làm thay đổi cuộc đời ông một cách mãi mãi. Vào thời điểm đó, đứa con đầu lòng của ông chào đời với một khối u từ trong hộp sọ. Các bác sĩ đã chẩn đoán rằng nếu không phẫu thuật, đứa bé sẽ chết. Nhưng nếu lựa chọn xử lí hướng đó, thì cậu con trai sẽ phải sống trong trạng thái thiểu năng trí tuệ nghiêm trọng. Lúc đầu, Oe chỉ muốn chạy trốn, và ông thật sự cũng đã làm thế. Trong khi đứa trẻ sơ sinh vài tuần tuổi nằm trong bệnh viện, ông đã nhận lấy nhiệm vụ đưa tin về một hội nghị quốc tế về chống hạt nhân ở Hiroshima. “Tôi đang chạy trốn khỏi đứa bé ấy,” ông nói trong cuộc phỏng vấn sau này vào năm 1995 . “Đó là những ngày vô cùng xấu hổ. Tôi muốn chạy trốn đến chân trời khác”. Oe bắt đầu phỏng vấn những người sống sót sau vụ nổ 18 năm trước và bắt đầu lấy lại dũng khí từ chính những tấm gương này. Họ không muốn trở thành “một tập hợp dữ liệu các nạn nhân,” như ông đã viết trong phần giới thiệu. Họ muốn sống một cuộc sống như một cá nhân tự do. Ông đã gặp được những người phụ nữ lựa chọn sinh con bất chấp nguy cơ đứa bé có thể mắc bệnh bạch cầu và rồi chết đi. Ông cũng gặp được “người hùng thầm lặng”, những người mà ông đã tả là “không tự sát bất chấp mọi thứ.” Từ chính điều đó mà ông có đủ dũng khí để quay trở lại Tokyo và chọn phẫu thuật cho con của mình. Đứa trẻ lúc ấy được đặt tên là Hikari – nghĩa là “ánh sáng” trong tiếng Nhật. Hikari vẫn sống, mặc dù cậu bé cần được chăm sóc một cách liên tục và sẽ ngưng phát triển ở ngưỡng của một đứa trẻ lên 3. Nhưng cậu bé cũng dần bộc lộ năng khiếu âm nhạc khi Oe nhận ra có thể dùng nhạc Mozart cũng như Chopin để xoa dịu cậu. Theo thời gian, cậu bé đã có thể thể hiện những cảm xúc sâu sắc nhất trong âm nhạc và rồi trở thành một nhà soạn nhạc nổi tiếng cho các bản sáo và piano. Trong thời gian này, Oe đã viết Một nỗi đau riêng – cuốn tiểu thuyết trưởng thành đầu tiên của ông. Trong cuốn sách ấy, có một chàng trai phá hỏng cơ hội có được sự nghiệp học hành vững chắc bằng cách uống rượu say sưa, và giờ cậu ta có một đứa con được chẩn đoán mắc bệnh về não. Cậu ta trốn thoát nhưng không phải đến một hội nghị chống lại hạt nhân, mà là đến với người bạn gái cũ, người đã cùng anh “thám hiểm tình dục”. Sau những khoái lạc mà họ đã có, họ lên kế hoạch giao đứa trẻ ấy cho một bác sĩ, còn họ thì sẽ quăng mình mãi tận Phi Châu. Nhưng cậu đã không làm được điều đó. Y đưa đứa trẻ sơ sinh trở lại bệnh viện, tiến hành phẫu thuật, củng cố cuộc hôn nhân và thậm chí còn giành được sự tôn trọng của người mẹ vợ. Sau đó ông tiếp tục với Trận bóng năm Vạn Diên thứ nhất , một tác phẩm tham vọng hơn nhiều với cường độ tâm lí thấm đẫm mối quan tâm của ông về lịch sử Nhật Bản, tính toàn vẹn văn hóa và chủ nghĩa tiêu dùng lạnh lùng. Ở đây, “đứa trẻ suy vi” chính là nguồn gốc của cuộc hôn nhân lao đến vô vọng. Hai cuốn tiểu thuyết ban đầu này, với motif về cậu con trai bị thiểu năng trí tuệ và cuộc tìm kiếm ý nghĩa của Nhật Bản sau vụ đánh bom nguyên tử, cũng là nguồn gốc cho nhiều trong số hơn 40 tiểu thuyết và tuyển tập truyện ngắn tiếp theo của ông, bao gồm Aghwee the Sky Monster (tạm dịch: Quái vật bầu trời Aghwee , 1964), Rouse Up O Young Men of the New Ag e (tạm dịch: Hãy vực dậy hỡi những chàng trai trẻ của thời đại mới , 1986), A Quiet Life (tạm dịch: Cuộc sống trầm lặng , 1990) và Somersault (tạm dịch: Lật nhào , 1999)… Ông cũng cho biết một trong những phương pháp viết của mình là “sự lặp lại với các khác biệt”. Ông chia sẻ rằng “Tôi bắt đầu một tác phẩm mới bằng cách thử một cách tiếp cận mới đối với tác phẩm mà tôi đã viết trước đó. Sau đó, tôi lấy bản thảo và tiếp tục trau chuốt nó, và khi tôi làm vậy, dấu vết của tác phẩm cũ biến mất, và tác phẩm mới sẽ được hiện ra.” NGÔ MINH lược dịch từ bài viết của Daniel Lewis trên The New York Times
Kenzaburo Oe, nhà văn Nhật Bản đoạt giải Nobel văn chương 1994 đã qua đời vào ngày 3/3/2023, hưởng thọ 88 tuổi. Nhà xuất bản Kodansha đã đưa ra thông cáo về cái chết vào đầu tuần trước nhưng không nói rõ nguyên nhân. Ông được trao giải “vì đã tạo ra thế giới tưởng tượng nơi mà thực tế cùng với huyền thoại giao nhau, từ đó tạo nên một bức tranh vô cùng khắc nghiệt về con người ngày nay.” Mặc dù vẫn thường hay nói mỗi khi viết lách mình chỉ hướng đến độc giả Nhật Bản, thế nhưng Oe vẫn thu hút được đông đảo độc giả quốc tế vào những năm 1960 với 3 tác phẩm: Hiroshima Notes (tạm dịch: G hi chép về vụ Hiroshima ) – tuyển tập các bài tiểu luận về hậu quả lâu dài của các vụ tấn công bằng bom nguyên tử, hai cuốn tiểu thuyết A Personal Matter (tựa Việt: Một nỗi đau riêng ) và The Silent Cry (tựa Việt sắp ra mắt: Trận bóng năm Vạn Diên thứ nhất ) xoay quanh một cuộc khủng hoảng trong đời sống gia đình và sự ra đời của cậu con trai với một khối u trong hộp sọ. Kenzaburo Oe sinh ngày 31 tháng 1 năm 1935 tại một ngôi làng ở tỉnh Ehime, Shikoku. Cha ông là một địa chủ vô cùng nổi tiếng và đã chết đuối trong chiến tranh Thái Bình Dương. Vào buổi sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945, mẹ ông đang hái thảo mộc thì nhìn thấy một tia sáng lớn chớp trên bầu trời, và cũng khi đó quả bom nguyên tử ở Hiroshima cách đó 100 dặm bắt đầu phát nổ. Kenzaburo Oe. Tại Đại học Tokyo, Oe học ngành văn học Pháp hiện đại, nhưng suốt đời mình, ông lại chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Mĩ cũng như châu Âu với sự tôn kính đặc biệt dành cho W.B. Yeats. Trong khi ông tìm cảm hứng trong rất nhiều sách, từ Huckleberry Finn cho đến lí thuyết về hình ảnh hiện thực kì lạ của nhà phê bình người Nga Mikhail Bakhtin, thì có rất ít những sự “uyên bác” trong tiểu thuyết của ông. Ông cũng không hề thỏa hiệp khuynh hướng thuyết giáo trong các tác phẩm, do đó ông đã sử dụng nhiều bài tiểu luận cũng như bài giảng để kiên quyết phản đối năng lượng hạt nhân và nỗ lực sửa đổi Hiến pháp hòa bình của riêng Nhật Bản . Oe mâu thuẫn một cách khắc nghiệt đối với xã hội Nhật Bản. Ông lập luận rằng sau 25 năm dân chủ và tinh thần phục hưng thời hậu chiến tranh, đất nước hiện nay đã rơi vào trong đáy sâu của sự bạc nhược. Ông cho rằng đó là một thời kì được đánh dấu bởi sự cai trị độc đảng và thái độ “đóng cửa” ngăn cản các mối quan hệ mang tính xây dựng với các nước châu Á khác, ít có vai trò có ý nghĩa trong các vấn đề thế giới. Về mặt chính trị, ông là tiếng nói nổi bật của một thế hệ những người bất đồng chính kiến ​​và phản đối việc trang bị vũ khí cho lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Ông cũng ủng hộ chính sách bồi thường chiến tranh cho Trung Quốc , Hàn Quốc và các nước láng giềng châu Á khác. Ông thường xuyên bị các phần tử cực hữu phỉ báng, đôi khi còn đe dọa giết như khi ông từ chối nhận Huân chương Văn hóa Nhật Bản vào năm 1994 vì được Hoàng đế ban tặng. Ông nói: “ Tôi không công nhận bất kì quyền lực nào, bất kì giá trị nào cao hơn nền dân chủ”. Vào năm 2005, ông đã bị kiện vì một bài luận mà mình đã viết vào năm 1970 khi khẳng định rằng các sĩ quan Nhật Bản đã ép hàng trăm người dân vùng Okinawa tự sát bằng cách nói rằng họ sẽ bị hãm hiếp, tra tấn và sát hại khi quân đội Mĩ tiến vào trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nguyên đơn trong vụ kiện này là một cựu binh 91 tuổi và những người thân của một cựu binh khác, nhưng nó đã bị thẩm phán bác bỏ. Cho đến cuối cùng Tòa án đã ra phán quyết có lợi cho ông và công nhận rằng “Quân đội đã tham gia sâu vào các vụ tự sát hàng loạt”. Oe là nhà văn Nhật Bản đoạt giải Nobel văn chương thứ hai, sau tiểu thuyết gia Yasunari Kawabata vào năm 1968. Về phong cách và nội dung, cả hai vô cùng khác biệt. Trong khi Kawabata chủ yếu viết những “truyện ngắn trong lòng bàn tay” có phần tao nhã về các chủ đề truyền thống, thì Oe lại có khả năng mở rộng ngôn ngữ Nhật Bản cho đến giới hạn bằng những đề tài hướng trực tiếp đến tình dục, trầm cảm, bất ổn và đấu tranh cho phẩm giá con người. Nhà văn Hoa Kì, Henry Miller cũng đã ví ông như Dostoyevsky trong “hai thái cực hi vọng và tuyệt vọng”. Khi còn là một sinh viên đại học tại Đại học Tokyo, ông đã giành được một giải thưởng văn học lớn dành cho truyện ngắn. Năm 1958, ông cho xuất bản tiểu thuyết đầu tay rất đáng chú ý mang tên Nip the Buds, Shoot the Kids kể về một nhóm nam sinh di tản trong thời chiến đến ngôi làng ở vùng nông thôn, nơi họ được lệnh chôn xác động vật thối rữa bị giết bởi bệnh dịch. Các tác phẩm đã được chuyển ngữ của Kenzaburo Oe. Nhưng đến giữa năm của tuổi 20 thì ông rơi vào tuyệt vọng, thậm chí cũng từng có lúc cân nhắc đến việc tự tử, vì không nhìn thấy con đường tương lai nào cho việc viết lách. Sau đó, tháng 6 của 1963, một loạt sự kiện đã làm thay đổi cuộc đời ông một cách mãi mãi. Vào thời điểm đó, đứa con đầu lòng của ông chào đời với một khối u từ trong hộp sọ. Các bác sĩ đã chẩn đoán rằng nếu không phẫu thuật, đứa bé sẽ chết. Nhưng nếu lựa chọn xử lí hướng đó, thì cậu con trai sẽ phải sống trong trạng thái thiểu năng trí tuệ nghiêm trọng. Lúc đầu, Oe chỉ muốn chạy trốn, và ông thật sự cũng đã làm thế. Trong khi đứa trẻ sơ sinh vài tuần tuổi nằm trong bệnh viện, ông đã nhận lấy nhiệm vụ đưa tin về một hội nghị quốc tế về chống hạt nhân ở Hiroshima. “Tôi đang chạy trốn khỏi đứa bé ấy,” ông nói trong cuộc phỏng vấn sau này vào năm 1995 . “Đó là những ngày vô cùng xấu hổ. Tôi muốn chạy trốn đến chân trời khác”. Oe bắt đầu phỏng vấn những người sống sót sau vụ nổ 18 năm trước và bắt đầu lấy lại dũng khí từ chính những tấm gương này. Họ không muốn trở thành “một tập hợp dữ liệu các nạn nhân,” như ông đã viết trong phần giới thiệu. Họ muốn sống một cuộc sống như một cá nhân tự do. Ông đã gặp được những người phụ nữ lựa chọn sinh con bất chấp nguy cơ đứa bé có thể mắc bệnh bạch cầu và rồi chết đi. Ông cũng gặp được “người hùng thầm lặng”, những người mà ông đã tả là “không tự sát bất chấp mọi thứ.” Từ chính điều đó mà ông có đủ dũng khí để quay trở lại Tokyo và chọn phẫu thuật cho con của mình. Đứa trẻ lúc ấy được đặt tên là Hikari – nghĩa là “ánh sáng” trong tiếng Nhật. Hikari vẫn sống, mặc dù cậu bé cần được chăm sóc một cách liên tục và sẽ ngưng phát triển ở ngưỡng của một đứa trẻ lên 3. Nhưng cậu bé cũng dần bộc lộ năng khiếu âm nhạc khi Oe nhận ra có thể dùng nhạc Mozart cũng như Chopin để xoa dịu cậu. Theo thời gian, cậu bé đã có thể thể hiện những cảm xúc sâu sắc nhất trong âm nhạc và rồi trở thành một nhà soạn nhạc nổi tiếng cho các bản sáo và piano. Trong thời gian này, Oe đã viết Một nỗi đau riêng – cuốn tiểu thuyết trưởng thành đầu tiên của ông. Trong cuốn sách ấy, có một chàng trai phá hỏng cơ hội có được sự nghiệp học hành vững chắc bằng cách uống rượu say sưa, và giờ cậu ta có một đứa con được chẩn đoán mắc bệnh về não. Cậu ta trốn thoát nhưng không phải đến một hội nghị chống lại hạt nhân, mà là đến với người bạn gái cũ, người đã cùng anh “thám hiểm tình dục”. Sau những khoái lạc mà họ đã có, họ lên kế hoạch giao đứa trẻ ấy cho một bác sĩ, còn họ thì sẽ quăng mình mãi tận Phi Châu. Nhưng cậu đã không làm được điều đó. Y đưa đứa trẻ sơ sinh trở lại bệnh viện, tiến hành phẫu thuật, củng cố cuộc hôn nhân và thậm chí còn giành được sự tôn trọng của người mẹ vợ. Sau đó ông tiếp tục với Trận bóng năm Vạn Diên thứ nhất , một tác phẩm tham vọng hơn nhiều với cường độ tâm lí thấm đẫm mối quan tâm của ông về lịch sử Nhật Bản, tính toàn vẹn văn hóa và chủ nghĩa tiêu dùng lạnh lùng. Ở đây, “đứa trẻ suy vi” chính là nguồn gốc của cuộc hôn nhân lao đến vô vọng. Hai cuốn tiểu thuyết ban đầu này, với motif về cậu con trai bị thiểu năng trí tuệ và cuộc tìm kiếm ý nghĩa của Nhật Bản sau vụ đánh bom nguyên tử, cũng là nguồn gốc cho nhiều trong số hơn 40 tiểu thuyết và tuyển tập truyện ngắn tiếp theo của ông, bao gồm Aghwee the Sky Monster (tạm dịch: Quái vật bầu trời Aghwee , 1964), Rouse Up O Young Men of the New Ag e (tạm dịch: Hãy vực dậy hỡi những chàng trai trẻ của thời đại mới , 1986), A Quiet Life (tạm dịch: Cuộc sống trầm lặng , 1990) và Somersault (tạm dịch: Lật nhào , 1999)… Ông cũng cho biết một trong những phương pháp viết của mình là “sự lặp lại với các khác biệt”. Ông chia sẻ rằng “Tôi bắt đầu một tác phẩm mới bằng cách thử một cách tiếp cận mới đối với tác phẩm mà tôi đã viết trước đó. Sau đó, tôi lấy bản thảo và tiếp tục trau chuốt nó, và khi tôi làm vậy, dấu vết của tác phẩm cũ biến mất, và tác phẩm mới sẽ được hiện ra.” NGÔ MINH lược dịch từ bài viết của Daniel Lewis trên The New York Times
Là một trong những nhà văn lớn của Liên Bang Nga , Alexander Solzhenitsyn có một đời sống vô cùng biến động theo nhịp lịch sử. Từ việc bị lưu đày vĩnh viễn cho đến trục xuất ra khỏi quê hương, thế nhưng nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 1970 vì “sức mạnh đạo đức mà ông đã nối tiếp các truyền thống lâu đời của văn học Nga” luôn không thôi trăn trở về tự do, giá trị con người và các tác động có thể có của văn chương. Mới đây tuyển tập tác phẩm đặt dưới tên Ngôi nhà của Matryona đã được ra mắt độc giả Việt Nam. Gồm 4 truyện ngắn, các đoản văn, một tiểu luận và các diễn từ khi nhận giải Nobel và Templeton, đây chỉ là 1 trong 30 bộ phận làm thành tuyển tập Alexander Solzhenitsyn, tuy thế đã cho thấy rõ chân dung nhà văn luôn đứng lên vì lẽ phải và những giá trị cơ bản nhất của con người, để đúng như bản tuyên ngôn mà ông đã viết: “Sống không dối trá”. Alexander Solzhenitsyn, nhà văn đoạt giải Nobel 1970. Các truyện ngắn trong tác phẩm này đã làm rất đúng vai trò của mình, như trong diễn từ mà Solzhenitsyn đọc trước Uỷ ban Nobel (dù ông không đến do sợ sẽ không về được quê hương), rằng: “Tự thân tác phẩm nghệ thuật đã mang trong mình một sự kiểm chứng. Những tác phẩm đã đong đầy sự thật và thể hiện điều đó cho chúng ta một cách cô đọng, sinh động thì sẽ chinh phục, lôi cuốn chúng ta mạnh mẽ mà không ai, không đời nào, thậm chí sau nhiều thế kỉ có thể phủ nhận chúng”. Những tác phẩm như Ngôi nhà của Matryona hay Bàn tay phải, Vì lợi ích phục vụ… ít nhiều đều có dấu ấn hiện thực rất riêng. Truyện ngắn cùng tên được viết như những trải nghiệm sau giai đoạn cải tạo và bị trục xuất, khi ông dạy học ở miền Trung nước Nga hẻo lánh. Ở đó ông đã ở trọ nhà của Matryona, và bằng những quan sát trực quan và tinh tế, ông đã nhận thấy những đặc điểm chung của xã hội người, nơi những tị hiềm, đố kị… vẫn ẩn chứa sau lớp vỏ hào hoa, để từ đó con người ẩn mình và chờ nọc độc phát tiết. Matryona có điểm gì đó rất giống bà giúp việc Emerenc trong tác phẩm Cánh cửa của nữ nhà văn người Hungary – Szabó Magda. Đều là những phụ nữ luống tuổi, đều là những người không tiếc thân mình hướng về một cái đẹp chung… Thế nhưng họ có số phận hẩm hiu và cho đến cuối đều bị lợi dụng, không được nhận lại những gì xứng đáng với bản thân mình. Dù vậy Alexander Solzhenitsyn đã xây dựng được những nhân cách đẹp không tự thương thân, mà luôn ý thức về tính công bằng rồi sẽ bừng sáng một ngày nào đó. Là một phụ nữ ở tuổi 60 với những cơn bệnh trầm kha sẽ làm kiệt quệ vài lần trong tháng, thế nhưng Matryona luôn không từ chối những lần được mời giúp đỡ, như đào khoai, mót củi… Chạy vạy đi xin trợ cấp hưu trí sau cái chết của chồng với nền chuyên chính quan liêu, khi ngựa phải nuôi tập trung, khi củi phải được tập kết… Đứng trước sự ngặt nghèo đó, bà tự trở thành “phương tiện” của mình, với việc lần tìm cái ăn trong rừng, tự mình gùi củi, đào khoai, muối quả việt quất… Dù vậy bà không than thở bất cứ điều gì, và ngay cả khi sẻ bị lợi dụng, bà luôn cho đi vì nghĩ bản thân không cần một ngôi nhà lớn như thế. Matryona chính là đại diện cho cái đẹp mà Alexander Solzhenitsyn suốt đời theo đuổi. Bởi nhẽ “Mấu chốt cho sự tồn tại và không tồn tại của chúng ta chính là ở trong trái tim mỗi người, trong sự hướng về cái Thiện hay là cái Ác cụ thể”. Nên bà là người đạo hạnh mà nếu không có những con người ấy, thì chẳng làng mạc, thành phố hay thế gian nào còn tồn tại được. Và bởi hiểu được điều đó, nên trong các tác phẩm của ông, người đọc sẽ luôn thấy được cái thiện, cái đẹp luôn luôn hiện diện, mặc cho có bị kiềm kẹp hay trong tự do bức bối. Phép màu văn chương thông qua những người đạo hạnh trong số kiếp ngặt nghèo đã làm nên bản tuyên ngôn hướng tới trách nhiệm cao cả. Bởi nhẽ “Văn chương và nghệ thuật có phép màu như thế: khắc phục được tính khiếm khuyết của con người là chỉ học hỏi dựa trên kinh nghiệm của bản thân mình […] Nghệ thuật chuyển từ người này sang người kia toàn bộ gánh nặng kinh nghiệm sống lâu dài của người khác mà chưa nếm trải, và cho phép người nhận tiếp nhận như của chính mình”. Do đó có thể thấy rằng nghệ thuật của Alexander Solzhenitsyn không hướng về nền chuyên chính cụ thể nào, mà đó là hướng nhìn chung về những chế độ toàn trị, về ý thức tệ hại ở nơi con người. Vì vậy mà ta thấy rằng dẫu có bất công, dẫu có tàn bạo, thì quê hương Nga luôn sống trong ông bằng sự tuyệt diệu của những con người sống có trách nhiệm cũng như đạo hạnh. Tuyển tập tác phẩm Ngôi nhà của Matryona trong diện mạo mới. Thông qua cuộc đời và những gì bản thân gặp phải, Alexander Solzhenitsyn đã tố cáo những bất công của một thể chế mà bản thân ông đã bị nhấn chìm, để từ đó bạn đọc, những người đến từ những vùng đất khác… hiểu được bạo lực, dối trá, và chỉ duy nhất tự do là cứu con người ra khỏi đám cháy nhân tính giờ đã tràn lan. Mặc cho đớn đau, tuy thế Alexander Solzhenitsyn luôn tin vào trong cái đẹp. Tác phẩm của ông dù có đắng cay, dù có hờn tủi, dù chịu kìm kẹp bởi các ràng buộc… thì cũng không thiếu những người đạo hạnh, những người không chịu trở thành một “hèn đại nhân” miễn là cơm no ấm áp. Chẳng hạn như trong truyện Bàn tay phải – tác phẩm có thể được lấy cảm hứng từ những trải nghiệm mắc ung thư của ông, Solzhenitsyn đã cho thấy một người đồng bệnh và những phản kháng vươn lên của y, để bảo vệ cho một vị anh hùng chiến đấu vì nước Nga nhưng giờ không được trân trọng. Còn với Trường hợp tại nhà ga Kochetovka , người chỉ huy quân vận Zotov mặc cho bộ máy hành chính cồng kềnh… cũng đã giúp đỡ một đội vận chuyển mà 11 ngày rồi chưa có cái ăn. Bản thân anh coi đó là việc tốt, và cố gắng giúp dù cho có thể ảnh hưởng đến bản thân mình. Nhưng đó là việc dễ dàng phân định vì được chống đỡ bởi những nền tảng đạo đức, còn khi gặp phải những kẻ chống phá, những lời dối trá… khi mà đạo đức kình chống kịch liệt cùng với niềm tin, thì phải làm sao? Alexander Solzhenitsyn đưa con người ta vào trong tình cảnh ngặt nghèo, từ đó cho thấy giá trị nhân văn vẫn luôn tồn tại, dẫu cho những gì mà họ đã phải làm bởi một tình thế ép buộc và không thể khác. Bởi nhẽ “Bạo lực không sống một mình và không có khả năng tồn tại một mình, nó nhất thiết phải gắn kết với dối trá”, nên nghệ thuật của Alexander Solzhenitsyn mạnh mẽ, khẳng khái, ẩn sâu dưới lớp phông nền của những cái đẹp. Dối trá, lọc lừa luôn luôn được tả một cách trực diện và không khoan nhượng, để từ đó ai ai cũng tự nhận thấy. Trong khi trầm mặc là một vẻ đẹp mà Solzhenitsyn suốt đời theo đuổi. Ông tự biến mình thành điểm tham chiếu, một người nghiêm nghị có phần lặng lẽ, từ đó ngắm nhìn nhân tình thế thái. Trong những đoản văn được viết trong hai giai đoạn 1958-1963 (du hành bằng xe đạp ở miền Trung nước Nga) và 1996 – 1999 (được trở về Nga sau 20 năm lưu đày biệt xứ), những gì Nga nhất và trầm lắng nhất đã được Alexander Solzhenitsyn thai nghén và chắt lọc lại. Ở đây ta không còn thấy hiện thực chua xót mà chỉ còn lại nỗi đau câm lặng như một mặt hồ yên ả, của người chấp nhận được thứ hiện thực sẽ không thay đổi. Tuy thế trong sự im lặng, người ta lại phát hiện ra những vẻ đẹp khác, nhỏ nhoi, vừa vặn và rất sinh động, như khúc gỗ du cứng cáp, như chú vịt con đẹp đẽ, như những con kiến dù cho biết sẽ chết cũng không rời tổ… Cái đẹp thương đau thấm dần vào những hiện thực, để cho đến cuối ta phát hiện ra đời sống không thể thay đổi, và không thứ gì xoay chuyển được những hiện thực. Alexander Solzhenitsyn dành cả đời mình để viết về những cái đẹp, về tự do và những đấu tranh luôn không ngừng nghỉ chống lại dối trá. Nhưng quan trọng hơn, qua tác phẩm này, người ta thấy được cái đẹp của văn chương, của nghệ thuật và của đấu tranh luôn không ngừng nghỉ như những “cái mầm tươi rói, như nụ huệ trắng non tơ đang sắp nhô lên từ mặt hồ ngàn thu chưa gợn sóng”. Và cũng chỉ khi “sống không dối trá”, thì con người mới thật là người, và được giải thoát khỏi sự toàn trị, khỏi sự bất hạnh của chính chúng ta.
Là một trong những nhà văn lớn của Liên Bang Nga , Alexander Solzhenitsyn có một đời sống vô cùng biến động theo nhịp lịch sử. Từ việc bị lưu đày vĩnh viễn cho đến trục xuất ra khỏi quê hương, thế nhưng nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 1970 vì “sức mạnh đạo đức mà ông đã nối tiếp các truyền thống lâu đời của văn học Nga” luôn không thôi trăn trở về tự do, giá trị con người và các tác động có thể có của văn chương. Mới đây tuyển tập tác phẩm đặt dưới tên Ngôi nhà của Matryona đã được ra mắt độc giả Việt Nam. Gồm 4 truyện ngắn, các đoản văn, một tiểu luận và các diễn từ khi nhận giải Nobel và Templeton, đây chỉ là 1 trong 30 bộ phận làm thành tuyển tập Alexander Solzhenitsyn, tuy thế đã cho thấy rõ chân dung nhà văn luôn đứng lên vì lẽ phải và những giá trị cơ bản nhất của con người, để đúng như bản tuyên ngôn mà ông đã viết: “Sống không dối trá”. Alexander Solzhenitsyn, nhà văn đoạt giải Nobel 1970. Các truyện ngắn trong tác phẩm này đã làm rất đúng vai trò của mình, như trong diễn từ mà Solzhenitsyn đọc trước Uỷ ban Nobel (dù ông không đến do sợ sẽ không về được quê hương), rằng: “Tự thân tác phẩm nghệ thuật đã mang trong mình một sự kiểm chứng. Những tác phẩm đã đong đầy sự thật và thể hiện điều đó cho chúng ta một cách cô đọng, sinh động thì sẽ chinh phục, lôi cuốn chúng ta mạnh mẽ mà không ai, không đời nào, thậm chí sau nhiều thế kỉ có thể phủ nhận chúng”. Những tác phẩm như Ngôi nhà của Matryona hay Bàn tay phải, Vì lợi ích phục vụ… ít nhiều đều có dấu ấn hiện thực rất riêng. Truyện ngắn cùng tên được viết như những trải nghiệm sau giai đoạn cải tạo và bị trục xuất, khi ông dạy học ở miền Trung nước Nga hẻo lánh. Ở đó ông đã ở trọ nhà của Matryona, và bằng những quan sát trực quan và tinh tế, ông đã nhận thấy những đặc điểm chung của xã hội người, nơi những tị hiềm, đố kị… vẫn ẩn chứa sau lớp vỏ hào hoa, để từ đó con người ẩn mình và chờ nọc độc phát tiết. Matryona có điểm gì đó rất giống bà giúp việc Emerenc trong tác phẩm Cánh cửa của nữ nhà văn người Hungary – Szabó Magda. Đều là những phụ nữ luống tuổi, đều là những người không tiếc thân mình hướng về một cái đẹp chung… Thế nhưng họ có số phận hẩm hiu và cho đến cuối đều bị lợi dụng, không được nhận lại những gì xứng đáng với bản thân mình. Dù vậy Alexander Solzhenitsyn đã xây dựng được những nhân cách đẹp không tự thương thân, mà luôn ý thức về tính công bằng rồi sẽ bừng sáng một ngày nào đó. Là một phụ nữ ở tuổi 60 với những cơn bệnh trầm kha sẽ làm kiệt quệ vài lần trong tháng, thế nhưng Matryona luôn không từ chối những lần được mời giúp đỡ, như đào khoai, mót củi… Chạy vạy đi xin trợ cấp hưu trí sau cái chết của chồng với nền chuyên chính quan liêu, khi ngựa phải nuôi tập trung, khi củi phải được tập kết… Đứng trước sự ngặt nghèo đó, bà tự trở thành “phương tiện” của mình, với việc lần tìm cái ăn trong rừng, tự mình gùi củi, đào khoai, muối quả việt quất… Dù vậy bà không than thở bất cứ điều gì, và ngay cả khi sẻ bị lợi dụng, bà luôn cho đi vì nghĩ bản thân không cần một ngôi nhà lớn như thế. Matryona chính là đại diện cho cái đẹp mà Alexander Solzhenitsyn suốt đời theo đuổi. Bởi nhẽ “Mấu chốt cho sự tồn tại và không tồn tại của chúng ta chính là ở trong trái tim mỗi người, trong sự hướng về cái Thiện hay là cái Ác cụ thể”. Nên bà là người đạo hạnh mà nếu không có những con người ấy, thì chẳng làng mạc, thành phố hay thế gian nào còn tồn tại được. Và bởi hiểu được điều đó, nên trong các tác phẩm của ông, người đọc sẽ luôn thấy được cái thiện, cái đẹp luôn luôn hiện diện, mặc cho có bị kiềm kẹp hay trong tự do bức bối. Phép màu văn chương thông qua những người đạo hạnh trong số kiếp ngặt nghèo đã làm nên bản tuyên ngôn hướng tới trách nhiệm cao cả. Bởi nhẽ “Văn chương và nghệ thuật có phép màu như thế: khắc phục được tính khiếm khuyết của con người là chỉ học hỏi dựa trên kinh nghiệm của bản thân mình […] Nghệ thuật chuyển từ người này sang người kia toàn bộ gánh nặng kinh nghiệm sống lâu dài của người khác mà chưa nếm trải, và cho phép người nhận tiếp nhận như của chính mình”. Do đó có thể thấy rằng nghệ thuật của Alexander Solzhenitsyn không hướng về nền chuyên chính cụ thể nào, mà đó là hướng nhìn chung về những chế độ toàn trị, về ý thức tệ hại ở nơi con người. Vì vậy mà ta thấy rằng dẫu có bất công, dẫu có tàn bạo, thì quê hương Nga luôn sống trong ông bằng sự tuyệt diệu của những con người sống có trách nhiệm cũng như đạo hạnh. Tuyển tập tác phẩm Ngôi nhà của Matryona trong diện mạo mới. Thông qua cuộc đời và những gì bản thân gặp phải, Alexander Solzhenitsyn đã tố cáo những bất công của một thể chế mà bản thân ông đã bị nhấn chìm, để từ đó bạn đọc, những người đến từ những vùng đất khác… hiểu được bạo lực, dối trá, và chỉ duy nhất tự do là cứu con người ra khỏi đám cháy nhân tính giờ đã tràn lan. Mặc cho đớn đau, tuy thế Alexander Solzhenitsyn luôn tin vào trong cái đẹp. Tác phẩm của ông dù có đắng cay, dù có hờn tủi, dù chịu kìm kẹp bởi các ràng buộc… thì cũng không thiếu những người đạo hạnh, những người không chịu trở thành một “hèn đại nhân” miễn là cơm no ấm áp. Chẳng hạn như trong truyện Bàn tay phải – tác phẩm có thể được lấy cảm hứng từ những trải nghiệm mắc ung thư của ông, Solzhenitsyn đã cho thấy một người đồng bệnh và những phản kháng vươn lên của y, để bảo vệ cho một vị anh hùng chiến đấu vì nước Nga nhưng giờ không được trân trọng. Còn với Trường hợp tại nhà ga Kochetovka , người chỉ huy quân vận Zotov mặc cho bộ máy hành chính cồng kềnh… cũng đã giúp đỡ một đội vận chuyển mà 11 ngày rồi chưa có cái ăn. Bản thân anh coi đó là việc tốt, và cố gắng giúp dù cho có thể ảnh hưởng đến bản thân mình. Nhưng đó là việc dễ dàng phân định vì được chống đỡ bởi những nền tảng đạo đức, còn khi gặp phải những kẻ chống phá, những lời dối trá… khi mà đạo đức kình chống kịch liệt cùng với niềm tin, thì phải làm sao? Alexander Solzhenitsyn đưa con người ta vào trong tình cảnh ngặt nghèo, từ đó cho thấy giá trị nhân văn vẫn luôn tồn tại, dẫu cho những gì mà họ đã phải làm bởi một tình thế ép buộc và không thể khác. Bởi nhẽ “Bạo lực không sống một mình và không có khả năng tồn tại một mình, nó nhất thiết phải gắn kết với dối trá”, nên nghệ thuật của Alexander Solzhenitsyn mạnh mẽ, khẳng khái, ẩn sâu dưới lớp phông nền của những cái đẹp. Dối trá, lọc lừa luôn luôn được tả một cách trực diện và không khoan nhượng, để từ đó ai ai cũng tự nhận thấy. Trong khi trầm mặc là một vẻ đẹp mà Solzhenitsyn suốt đời theo đuổi. Ông tự biến mình thành điểm tham chiếu, một người nghiêm nghị có phần lặng lẽ, từ đó ngắm nhìn nhân tình thế thái. Trong những đoản văn được viết trong hai giai đoạn 1958-1963 (du hành bằng xe đạp ở miền Trung nước Nga) và 1996 – 1999 (được trở về Nga sau 20 năm lưu đày biệt xứ), những gì Nga nhất và trầm lắng nhất đã được Alexander Solzhenitsyn thai nghén và chắt lọc lại. Ở đây ta không còn thấy hiện thực chua xót mà chỉ còn lại nỗi đau câm lặng như một mặt hồ yên ả, của người chấp nhận được thứ hiện thực sẽ không thay đổi. Tuy thế trong sự im lặng, người ta lại phát hiện ra những vẻ đẹp khác, nhỏ nhoi, vừa vặn và rất sinh động, như khúc gỗ du cứng cáp, như chú vịt con đẹp đẽ, như những con kiến dù cho biết sẽ chết cũng không rời tổ… Cái đẹp thương đau thấm dần vào những hiện thực, để cho đến cuối ta phát hiện ra đời sống không thể thay đổi, và không thứ gì xoay chuyển được những hiện thực. Alexander Solzhenitsyn dành cả đời mình để viết về những cái đẹp, về tự do và những đấu tranh luôn không ngừng nghỉ chống lại dối trá. Nhưng quan trọng hơn, qua tác phẩm này, người ta thấy được cái đẹp của văn chương, của nghệ thuật và của đấu tranh luôn không ngừng nghỉ như những “cái mầm tươi rói, như nụ huệ trắng non tơ đang sắp nhô lên từ mặt hồ ngàn thu chưa gợn sóng”. Và cũng chỉ khi “sống không dối trá”, thì con người mới thật là người, và được giải thoát khỏi sự toàn trị, khỏi sự bất hạnh của chính chúng ta.
Tổng kết công lao và thành tích của “người mở đất Nam Bộ”, sử cũ chép rõ: “Nguyễn Hữu Cảnh đã mở rộng đất đai được nghìn dặm, dân hơn 4 vạn hộ!” Ngài trước hết là người có nhiều tên, “Kính” là nguyên danh. Kỵ húy, đọc thành “Kiếng”. Tên phổ thông là “Cảnh”, tránh tên của Hoàng tử Cảnh, đọc thành “Kiểng”. Những tên gọi khác là “Lễ”, là “Thành”. Từ đây mà có tước hiệu được phong là “Lễ Thành Hầu”. Biến danh ở các địa phương, thành ra là “Lễ Công”, “Thượng Đăng (Đẳng) Lễ”, “Chưởng binh Lễ”… Tuy nhiên, danh hiệu đúng nhất để nói về công lao, sự nghiệp của ngài thì đó là “người mở đất Nam Bộ” (từ cuối thế kỷ XVII). Nguyễn Hữu Cảnh có ông nội là Triều Văn Hầu, tước Nguyễn Triều Văn, người làng Gia Miêu (Tống Sơn – Thanh Hóa), làm quan nhà Lê Trung Hưng, đã theo Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa từ năm 1558. Thành kính dâng hương trong lễ giỗ Đức Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh tại TP HCM (Ảnh: QUỐC THANH). Định cư ở miền đất nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh , tỉnh Quảng Bình , được một thời gian Hầu tước Triều Văn trở ra miền Bắc, đưa con trai nhỏ 6 tuổi là Nguyễn Hữu Dật cùng mình vào miền hùng cứ của các chúa Nguyễn, bấy giờ là đời trị vì của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Trưởng thành vào lúc bùng nổ cuộc “Trịnh – Nguyễn phân tranh”, Nguyễn Hữu Dật nhanh chóng trở thành một trong 3 danh tướng trụ cột của “Xứ Đàng Trong” (là Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật) vào đời trị vì của Chúa Nguyễn Phúc Lan, được thăng chức Cai cơ, làm quan Ký lục dinh Bố Chính, khi cùng cha – Hầu tước Triều Văn – đánh thắng lớn quân nhà Trịnh vào năm 1648. Sau đến đời trị vì của Chúa Nguyễn Phúc Tần, vào năm 1650, Nguyễn Hữu Dật sinh hạ được con trai thứ 3 là Nguyễn Hữu Cảnh. Sống giữa thời “Trịnh – Nguyễn phân tranh”, Nguyễn Hữu Cảnh ngay từ tuổi niên thiếu và thanh niên đã rất chuyên tâm rèn văn luyện võ. Đặc biệt là đã rất sớm được theo cha – cùng cha “đi trận”, xông pha giữa mũi tên làn đạn, lập được nhiều chiến công. Vì thế mới vào độ tuổi 20, ông đã được Chúa Nguyễn Phúc Tần phong chức Cai cơ. Còn người đương thời thấy ngài có nước da ngăm đen, vóc dáng hùng dũng lại sinh vào năm Dần nên thường tôn gọi ngài là “Hắc Hổ”. Xứ Đàng Trong đến đời trị vì của Chúa Nguyễn Phúc Chu đã thực sự cần đến tài năng quân sự của “Hắc Hổ tướng quân”. Bấy giờ là mùa thu năm 1692, nước Chiêm Thành – sau các thời ngài Lương Văn Chánh mở đất Phú Yên, ngài Hùng Lộc Hầu mở đất Khánh Hòa – đã bị co hẹp lãnh thổ và quyền lực vào chỗ chỉ còn là vùng Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay. Quốc vương Chiêm Thành là Pô Thot – được sử sách nhiều triều Nguyễn chép tên Việt là Bà Tranh – sau hơn 30 năm ngồi ngai (từ năm 1660) đến lúc này chuyển đổi chính sách, bắt đầu “làm phản” – chữ của sách “Đại Nam thực lục, Tiền biên” – và cho hợp quân, đăng lũy cướp giết cư dân phủ Diên Ninh (tức sau là Diên Khánh) – vẫn là chữ của sách này. Chúa Nguyễn Phúc Chu trước tình huống ấy đã nhanh nhạy cử ngay tướng Nguyễn Hữu Cảnh – ở tuổi 42 và nhờ công trạng từ trước đấy đã được phong tước Lễ Tài (Thành) Hầu – dẫn quân đi ứng cứu, với chức “Thống binh”. Nhận nhiệm vụ trọng đại vào tháng giêng năm 1693, ngài Nguyễn Hữu Cảnh bắt đầu dẫn ba quân – Chính Dinh, Quảng Nam, Bình Khang – lên đường và đánh thẳng sang đất Chiêm Thành. Quốc vương Bà Tranh chống cự không nổi, bỏ thành chạy trốn về phía Nam. Nguyễn Hữu Cảnh liền dẫn quân truy kích và đến tháng 3-1693 thì bắt được Bà Tranh cùng cả triều đình, thân thuộc. Tháng 7-1693, Nguyễn Hữu Cảnh dẫn đoàn quân chiến thắng trở về. Chúa Nguyễn một mặt “kể tội” rồi đày ải nhưng vẫn nuôi dưỡng chu đáo Bà Tranh cùng triều đình và thân thuộc ở núi Ngọc Trản (vùng Điện Hòn Chén, ngoại vi TP Huế hiện nay), một mặt đổi gọi miền đất cuối cùng của nước Chiêm Thành là “trấn Thuận Thành”, rồi “phủ Bình Thuận”, cử các quan tướng của mình vào đóng quân, trấn giữ các thành Phan Rang, Phan Ri (nay là Ninh Thuận và Bình Thuận). Nước Chiêm Thành, sau các chiến công do ngài Nguyễn Hữu Cảnh, đến năm 1693, trên thực tế đã không tồn tại nữa. Nhưng sau năm 1694 thì dư đảng của vương quốc này, thêm sự khích bác và hợp tác của một Hoa kiều tên là A Ban – sau đổi thành Ngô Lãng – đã nổi dậy, đánh phá dữ dội. Các tướng trấn thủ của Chúa Nguyễn đều bị đánh bại hoặc bị giết chết. Tình thế khẩn cấp ấy một lần nữa khiến Chúa Nguyễn Phúc Chu phải nhờ đến ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Một lần nữa, ở tuổi 44 sung sức, vị tướng tài không hổ danh “Hổ phụ (Nguyễn Hữu Dật) sinh Hổ tử” lại ra quân và nhanh chóng đánh tan, dẹp yên cuộc nổi dậy cuối cùng của Chiêm Thành. Xứ Đàng Trong của nước Đại Việt với công lao đánh dẹp của ngài Nguyễn Hữu Cảnh ở các năm 1693, 1694 – mở mang đất đai tới vùng Phan Rang, Phan Ri (tức Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay) thì cương vực phía Nam đã sát đến nước Chân Lạp. Bấy giờ – như sự ghi chép của sách “Gia Định thành thông chí” – ở miền địa đầu nước Chân Lạp, đặc biệt là các xứ Mỗi Xoài (thuộc Bà Rịa ngày nay) và Đồng Nai (thuộc Biên Hòa ngày nay) “đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Miên để khai thác ruộng đất”. Và rộng ra là trên cả miền Nam Bộ ngày nay – trước sự hấp dẫn của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long, tuy có lầy lội và hoang vu nhưng hứa hẹn rất lớn sự phì nhiêu và phồn thịnh; còn dân cư Cao Miên ở đây thì vẫn như lời sách “Gia Định thành thông chí”, lại luôn sợ phục uy đức của triều đình (các chúa Nguyễn), thường nhường mà tránh, không dám tranh giành, ngăn trở – nhiều người Việt gốc Thuận Quảng, cả những người Hoa gốc Minh Hương nữa, ngày càng thêm đông đảo, tìm đến sinh sống, làm ăn. Trong khi đó, triều đình Chân Lạp vừa suy yếu vừa luôn mâu thuẫn nội bộ mà lục đục, thêm với sự uy hiếp, can thiệp, cả xâm lấn của nước Xiêm La láng giềng ở phía Tây nên cũng đã nhiều lần cầu cứu sự giúp đỡ, thậm chí đã phải nhiều lần thần phục các chúa Nguyễn. Đấy là cơ sở và điều kiện để Chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm 1698 ra một quyết định lịch sử, cực kỳ lớn lao và quan trọng là: Tổ chức đặt định bộ máy hành chính của người Việt trên toàn miền đất mà ngày nay là Nam Bộ. Và một lần nữa, ngài Nguyễn Hữu Cảnh, ở tuổi 48 lại được giao và nhận trọng trách thực hiện sự nghiệp này. Từ tháng 2-1698, với chức “Thống suất” làm nhiệm vụ “đi Kinh lược xứ Đồng Nai”, ngài Nguyễn Hữu Cảnh đã dẫn đầu đoàn thuyền vượt biển vào sông Đồng Nai, chọn địa điểm Cù Lao Phố đặt tổng hành dinh, để trước hết sáng tạo, kỳ công thành lập các đơn vị hành chính – chính quyền mà sách “Gia Định thành thông chí” đã ghi lại được: “Lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh trấn biên, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thư, Cai bạ và Ký lục để quản trị. Nha thuộc có hai ty là Xá sai ty (coi việc văn án, từ tụng dưới quyền quan Ký lục) và Lai ty (coi việc tài chính, do quan Cai bạ đứng đầu). Quân binh thì cơ, đội, thuyền, thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ”. Trong công cuộc tổ chức các đơn vị hành chính này, ngài Nguyễn Hữu Cảnh còn chu đáo tính đến cả việc quản lý số dân cư là người Hoa, như thấy chép trong sách “Đại Nam thực lục”: “Lấy người nước Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh Hương”. Đặc biệt là việc đưa dân các nơi vào định cư ở miền đất mới, trong đó rất khéo chiêu dụ người đồng hương Quảng Bình, như sách “Đại Nam Liệt truyện tiền biên” đã chép: “Cho chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chánh trở vô, đến ở khắp nơi, đặt ra phường, ấp, xã thôn, chia rõ địa phận, phân chia ruộng đất, chuẩn định các thuế đinh, thuế điền và lập bộ hộ tịch đinh, điền”. Tổng kết cụ thể, công lao và thành tích của “người mở đất Nam Bộ”, sử cũ chép rõ: “Nguyễn Hữu Cảnh đã mở rộng đất đai được nghìn dặm, dân hơn 4 vạn hộ!”. Lời tâm sự cuối cùng Trong cuộc mở đất Nam Bộ vào năm 1698 của ngài Nguyễn Hữu Cảnh đã yên bề nhưng “người mở đất” vẫn mẫn cán dẫn quân đi kinh lý các địa phương tiếp tục sự nghiệp mở đất sang đến năm 1699. Đến tháng 5-1700 thì được đưa vào sách “Đại Nam thực lục” với những dòng sử bút cổ truyền: “Thống suất Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính (tức Cảnh) chết. Đầu là Hữu Kính (Cảnh) đóng quân ở Lao Đôi, gặp mưa to, gió lớn. Núi Lao Đôi lở, tiếng kêu như sấm. Đêm ấy, mộng thấy một người mặt đỏ mày trắng tay cầm phủ việt bảo rằng: “Tướng quân nên kíp đem quân về. Ở đây lâu, không lợi”. Hữu Kính (Cảnh) cười, nói rằng: “Mệnh ở trời, đâu phải ở đất này”. Khi thức dậy, thân thể mỏi mệt nhưng vẫn cười nói như thường để giữ yên lòng quân. Đến khi bệnh nặng, bèn than rằng: “Ta muốn hết sức báo đền ơn nước nhưng sức trời có hạn, sức người không thể vượt được!” bèn kéo quân về, đi đến Sầm Khê (tức Rạch Gầm) thì chết, thọ 51 tuổi (tính cả tuổi mụ)!”.
Tổng kết công lao và thành tích của “người mở đất Nam Bộ”, sử cũ chép rõ: “Nguyễn Hữu Cảnh đã mở rộng đất đai được nghìn dặm, dân hơn 4 vạn hộ!” Ngài trước hết là người có nhiều tên, “Kính” là nguyên danh. Kỵ húy, đọc thành “Kiếng”. Tên phổ thông là “Cảnh”, tránh tên của Hoàng tử Cảnh, đọc thành “Kiểng”. Những tên gọi khác là “Lễ”, là “Thành”. Từ đây mà có tước hiệu được phong là “Lễ Thành Hầu”. Biến danh ở các địa phương, thành ra là “Lễ Công”, “Thượng Đăng (Đẳng) Lễ”, “Chưởng binh Lễ”… Tuy nhiên, danh hiệu đúng nhất để nói về công lao, sự nghiệp của ngài thì đó là “người mở đất Nam Bộ” (từ cuối thế kỷ XVII). Nguyễn Hữu Cảnh có ông nội là Triều Văn Hầu, tước Nguyễn Triều Văn, người làng Gia Miêu (Tống Sơn – Thanh Hóa), làm quan nhà Lê Trung Hưng, đã theo Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa từ năm 1558. Thành kính dâng hương trong lễ giỗ Đức Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh tại TP HCM (Ảnh: QUỐC THANH). Định cư ở miền đất nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh , tỉnh Quảng Bình , được một thời gian Hầu tước Triều Văn trở ra miền Bắc, đưa con trai nhỏ 6 tuổi là Nguyễn Hữu Dật cùng mình vào miền hùng cứ của các chúa Nguyễn, bấy giờ là đời trị vì của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Trưởng thành vào lúc bùng nổ cuộc “Trịnh – Nguyễn phân tranh”, Nguyễn Hữu Dật nhanh chóng trở thành một trong 3 danh tướng trụ cột của “Xứ Đàng Trong” (là Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật) vào đời trị vì của Chúa Nguyễn Phúc Lan, được thăng chức Cai cơ, làm quan Ký lục dinh Bố Chính, khi cùng cha – Hầu tước Triều Văn – đánh thắng lớn quân nhà Trịnh vào năm 1648. Sau đến đời trị vì của Chúa Nguyễn Phúc Tần, vào năm 1650, Nguyễn Hữu Dật sinh hạ được con trai thứ 3 là Nguyễn Hữu Cảnh. Sống giữa thời “Trịnh – Nguyễn phân tranh”, Nguyễn Hữu Cảnh ngay từ tuổi niên thiếu và thanh niên đã rất chuyên tâm rèn văn luyện võ. Đặc biệt là đã rất sớm được theo cha – cùng cha “đi trận”, xông pha giữa mũi tên làn đạn, lập được nhiều chiến công. Vì thế mới vào độ tuổi 20, ông đã được Chúa Nguyễn Phúc Tần phong chức Cai cơ. Còn người đương thời thấy ngài có nước da ngăm đen, vóc dáng hùng dũng lại sinh vào năm Dần nên thường tôn gọi ngài là “Hắc Hổ”. Xứ Đàng Trong đến đời trị vì của Chúa Nguyễn Phúc Chu đã thực sự cần đến tài năng quân sự của “Hắc Hổ tướng quân”. Bấy giờ là mùa thu năm 1692, nước Chiêm Thành – sau các thời ngài Lương Văn Chánh mở đất Phú Yên, ngài Hùng Lộc Hầu mở đất Khánh Hòa – đã bị co hẹp lãnh thổ và quyền lực vào chỗ chỉ còn là vùng Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay. Quốc vương Chiêm Thành là Pô Thot – được sử sách nhiều triều Nguyễn chép tên Việt là Bà Tranh – sau hơn 30 năm ngồi ngai (từ năm 1660) đến lúc này chuyển đổi chính sách, bắt đầu “làm phản” – chữ của sách “Đại Nam thực lục, Tiền biên” – và cho hợp quân, đăng lũy cướp giết cư dân phủ Diên Ninh (tức sau là Diên Khánh) – vẫn là chữ của sách này. Chúa Nguyễn Phúc Chu trước tình huống ấy đã nhanh nhạy cử ngay tướng Nguyễn Hữu Cảnh – ở tuổi 42 và nhờ công trạng từ trước đấy đã được phong tước Lễ Tài (Thành) Hầu – dẫn quân đi ứng cứu, với chức “Thống binh”. Nhận nhiệm vụ trọng đại vào tháng giêng năm 1693, ngài Nguyễn Hữu Cảnh bắt đầu dẫn ba quân – Chính Dinh, Quảng Nam, Bình Khang – lên đường và đánh thẳng sang đất Chiêm Thành. Quốc vương Bà Tranh chống cự không nổi, bỏ thành chạy trốn về phía Nam. Nguyễn Hữu Cảnh liền dẫn quân truy kích và đến tháng 3-1693 thì bắt được Bà Tranh cùng cả triều đình, thân thuộc. Tháng 7-1693, Nguyễn Hữu Cảnh dẫn đoàn quân chiến thắng trở về. Chúa Nguyễn một mặt “kể tội” rồi đày ải nhưng vẫn nuôi dưỡng chu đáo Bà Tranh cùng triều đình và thân thuộc ở núi Ngọc Trản (vùng Điện Hòn Chén, ngoại vi TP Huế hiện nay), một mặt đổi gọi miền đất cuối cùng của nước Chiêm Thành là “trấn Thuận Thành”, rồi “phủ Bình Thuận”, cử các quan tướng của mình vào đóng quân, trấn giữ các thành Phan Rang, Phan Ri (nay là Ninh Thuận và Bình Thuận). Nước Chiêm Thành, sau các chiến công do ngài Nguyễn Hữu Cảnh, đến năm 1693, trên thực tế đã không tồn tại nữa. Nhưng sau năm 1694 thì dư đảng của vương quốc này, thêm sự khích bác và hợp tác của một Hoa kiều tên là A Ban – sau đổi thành Ngô Lãng – đã nổi dậy, đánh phá dữ dội. Các tướng trấn thủ của Chúa Nguyễn đều bị đánh bại hoặc bị giết chết. Tình thế khẩn cấp ấy một lần nữa khiến Chúa Nguyễn Phúc Chu phải nhờ đến ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Một lần nữa, ở tuổi 44 sung sức, vị tướng tài không hổ danh “Hổ phụ (Nguyễn Hữu Dật) sinh Hổ tử” lại ra quân và nhanh chóng đánh tan, dẹp yên cuộc nổi dậy cuối cùng của Chiêm Thành. Xứ Đàng Trong của nước Đại Việt với công lao đánh dẹp của ngài Nguyễn Hữu Cảnh ở các năm 1693, 1694 – mở mang đất đai tới vùng Phan Rang, Phan Ri (tức Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay) thì cương vực phía Nam đã sát đến nước Chân Lạp. Bấy giờ – như sự ghi chép của sách “Gia Định thành thông chí” – ở miền địa đầu nước Chân Lạp, đặc biệt là các xứ Mỗi Xoài (thuộc Bà Rịa ngày nay) và Đồng Nai (thuộc Biên Hòa ngày nay) “đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Miên để khai thác ruộng đất”. Và rộng ra là trên cả miền Nam Bộ ngày nay – trước sự hấp dẫn của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long, tuy có lầy lội và hoang vu nhưng hứa hẹn rất lớn sự phì nhiêu và phồn thịnh; còn dân cư Cao Miên ở đây thì vẫn như lời sách “Gia Định thành thông chí”, lại luôn sợ phục uy đức của triều đình (các chúa Nguyễn), thường nhường mà tránh, không dám tranh giành, ngăn trở – nhiều người Việt gốc Thuận Quảng, cả những người Hoa gốc Minh Hương nữa, ngày càng thêm đông đảo, tìm đến sinh sống, làm ăn. Trong khi đó, triều đình Chân Lạp vừa suy yếu vừa luôn mâu thuẫn nội bộ mà lục đục, thêm với sự uy hiếp, can thiệp, cả xâm lấn của nước Xiêm La láng giềng ở phía Tây nên cũng đã nhiều lần cầu cứu sự giúp đỡ, thậm chí đã phải nhiều lần thần phục các chúa Nguyễn. Đấy là cơ sở và điều kiện để Chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm 1698 ra một quyết định lịch sử, cực kỳ lớn lao và quan trọng là: Tổ chức đặt định bộ máy hành chính của người Việt trên toàn miền đất mà ngày nay là Nam Bộ. Và một lần nữa, ngài Nguyễn Hữu Cảnh, ở tuổi 48 lại được giao và nhận trọng trách thực hiện sự nghiệp này. Từ tháng 2-1698, với chức “Thống suất” làm nhiệm vụ “đi Kinh lược xứ Đồng Nai”, ngài Nguyễn Hữu Cảnh đã dẫn đầu đoàn thuyền vượt biển vào sông Đồng Nai, chọn địa điểm Cù Lao Phố đặt tổng hành dinh, để trước hết sáng tạo, kỳ công thành lập các đơn vị hành chính – chính quyền mà sách “Gia Định thành thông chí” đã ghi lại được: “Lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh trấn biên, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thư, Cai bạ và Ký lục để quản trị. Nha thuộc có hai ty là Xá sai ty (coi việc văn án, từ tụng dưới quyền quan Ký lục) và Lai ty (coi việc tài chính, do quan Cai bạ đứng đầu). Quân binh thì cơ, đội, thuyền, thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ”. Trong công cuộc tổ chức các đơn vị hành chính này, ngài Nguyễn Hữu Cảnh còn chu đáo tính đến cả việc quản lý số dân cư là người Hoa, như thấy chép trong sách “Đại Nam thực lục”: “Lấy người nước Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh Hương”. Đặc biệt là việc đưa dân các nơi vào định cư ở miền đất mới, trong đó rất khéo chiêu dụ người đồng hương Quảng Bình, như sách “Đại Nam Liệt truyện tiền biên” đã chép: “Cho chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chánh trở vô, đến ở khắp nơi, đặt ra phường, ấp, xã thôn, chia rõ địa phận, phân chia ruộng đất, chuẩn định các thuế đinh, thuế điền và lập bộ hộ tịch đinh, điền”. Tổng kết cụ thể, công lao và thành tích của “người mở đất Nam Bộ”, sử cũ chép rõ: “Nguyễn Hữu Cảnh đã mở rộng đất đai được nghìn dặm, dân hơn 4 vạn hộ!”. Lời tâm sự cuối cùng Trong cuộc mở đất Nam Bộ vào năm 1698 của ngài Nguyễn Hữu Cảnh đã yên bề nhưng “người mở đất” vẫn mẫn cán dẫn quân đi kinh lý các địa phương tiếp tục sự nghiệp mở đất sang đến năm 1699. Đến tháng 5-1700 thì được đưa vào sách “Đại Nam thực lục” với những dòng sử bút cổ truyền: “Thống suất Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính (tức Cảnh) chết. Đầu là Hữu Kính (Cảnh) đóng quân ở Lao Đôi, gặp mưa to, gió lớn. Núi Lao Đôi lở, tiếng kêu như sấm. Đêm ấy, mộng thấy một người mặt đỏ mày trắng tay cầm phủ việt bảo rằng: “Tướng quân nên kíp đem quân về. Ở đây lâu, không lợi”. Hữu Kính (Cảnh) cười, nói rằng: “Mệnh ở trời, đâu phải ở đất này”. Khi thức dậy, thân thể mỏi mệt nhưng vẫn cười nói như thường để giữ yên lòng quân. Đến khi bệnh nặng, bèn than rằng: “Ta muốn hết sức báo đền ơn nước nhưng sức trời có hạn, sức người không thể vượt được!” bèn kéo quân về, đi đến Sầm Khê (tức Rạch Gầm) thì chết, thọ 51 tuổi (tính cả tuổi mụ)!”.
Theo nghiên cứu, các vụ cháy rừng ở Bắc bán cầu thải ra 23% tổng lượng khí thải CO2 từ các vụ cháy xảy ra trên toàn cầu vào năm 2021, trong khi tỷ lệ này thường chỉ là 10% ở thời điểm 20 năm về trước. Khói bốc lên tại đám cháy rừng ở vùng Ksar Sghir, miền Bắc Maroc ngày 14/7/2022. (Ảnh: AFP/TTXVN). Lượng khí thải carbon dioxide (CO2) từ các vụ cháy rừng ở Bắc bán cầu đã gia tăng đáng kể trong 20 năm qua, trong đó lên mức cao kỷ lục vào năm 2021. Đó là kết luận khoa học được các chuyên gia quốc tế công bố trên tạp chí Science số ra mới đây. Theo báo cáo nghiên cứu trên, sự gia tăng này một phần là do các đợt hạn hán khắc nghiệt, dẫn đến cháy rừng xảy ra thường xuyên hơn, ở các vĩ độ trung bình cao của Bắc bán cầu. Trong khi đó, cháy rừng tại Bắc bán cầu thường ít được chú ý hơn so với những vụ cháy tại các khu rừng nhiệt đới. Hiện tượng cháy rừng được xác định là những đám cháy xảy ra ở các vùng đất thiên nhiên như rừng và đồng cỏ. Hiện tượng này góp một phần lớn trong chu trình carbon toàn cầu. Các vụ cháy rừng nghiêm trọng gây ra mối đe dọa đối với sức khỏe con người và khí hậu toàn cầu, hủy hoại các hệ sinh thái và giải phóng các chất gây ô nhiễm và khí nhà kính ra môi trường. Các nhà khoa học quốc tế đã phát triển một hệ thống nghịch chuyển khí quyển dựa trên vệ tinh để theo dõi lượng khí thải phát sinh từ cháy rừng ở Bắc bán cầu trong giai đoạn 2000-2021. Kết quả cho thấy khí thải CO2 đã gia tăng tại đây trong suốt thời gian này. Theo báo cáo nghiên cứu, các vụ cháy rừng tại Bắc bán cầu thải ra 23% tổng lượng khí thải CO2 từ các vụ cháy xảy ra trên toàn cầu vào năm 2021, trong khi tỷ lệ này thường chỉ là 10% ở thời điểm 20 năm về trước. Chuyên gia Zheng Bo – trưởng nhóm nghiên cứu trường Cao học quốc tế Thanh Hoa Thâm Quyến (Trung Quốc) – cho biết khi tình trạng đất thiếu nước gia tăng, các vụ cháy rừng bắt đầu lan tới các khu rừng phương Bắc ở vĩ độ cao, vốn trước đây ít xảy ra cháy. Ông cũng lưu ý rằng các đám cháy đặc biệt thường xảy ra ở những khu vực có độ che phủ rừng cao trong khoảng từ 60 đến 70 độ vĩ Bắc, nơi lượng khí thải carbon từ cháy rừng vào năm 2021 đã tăng hơn gấp 3 lần so với mức trung bình từ năm 2000 đến năm 2020, trong khi mức tăng ở những khu vực gần 50 độ vĩ Bắc là 70%. Chuyên gia Zheng Bo cho biết: “Đất tại các khu rừng phương Bắc rất giàu carbon hữu cơ. Thảm thực vật và đất hữu cơ bị đốt cháy giải phóng một lượng lớn carbon, đe dọa nghiêm trọng đến chức năng hấp thụ carbon của khu vực này.” Nhóm nghiên cứu của ông đã tập trung nghiên cứu khí hậu toàn cầu và lượng khí thải carbon từ các vụ cháy rừng trong nhiều năm. Hệ thống giám sát CO2 mà các nhóm nghiên cứu phát triển khác với hệ thống thông thường. Hệ thống này nghịch chuyển một cách sáng tạo lượng khí thải carbon sinh ra từ cháy rừng thông qua nồng độ carbon monoxide (CO) dựa trên dữ liệu viễn thám vệ tinh, thay vì theo dõi trực tiếp lượng CO2. Theo ông Zheng, CO2 trong khí quyển có nồng độ nền tương đối cao, do được tích lũy trong thời gian dài. Do đó, sẽ khó khăn cho việc theo dõi chính xác các vụ cháy rừng dựa trên lượng khí thải CO2. Ngược lại, CO2 từ cháy rừng hoạt động mạnh hơn và có nồng độ nền thấp hơn. Điều này giúp các vệ tinh có thể giám sát một cách rõ ràng hơn. Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy diện tích cháy rừng toàn cầu giảm mạnh trong những năm qua. Tuy nhiên, lượng khí thải carbon từ các vụ cháy rừng hầu như không thay đổi. Phát hiện này đã từng được công bố trên tạp chí Science Advances vào năm 2021. Theo nghiên cứu, sự suy giảm diện tích cháy rừng chủ yếu xảy ra ở đồng cỏ, trong khi ở rừng – nơi tạo thành nguồn CO2 trên một đơn vị lớn hơn nhiều – diện tích bị đốt cháy lại có xu hướng tăng lên. Ông Zheng cho biết: “Vì vậy, chúng tôi đã nỗ lực tìm ra những khu rừng mà ở đó có diện tích cháy đang gia tăng và đây là cơ sở cho những phát hiện khoa học mới nhất của chúng tôi”./.
According to research, forest fires in the Northern Hemisphere release 23% of total emissions CO2 from fires occurring globally in 2021, while this rate was usually only 10% 20 years ago. Smoke rises from a forest fire in the Ksar Sghir region, northern Morocco on July 14, 2022. (Photo: AFP/TTXVN). Carbon dioxide (CO2) emissions from wildfires in the Northern Hemisphere have increased significantly over the past 20 years, reaching a record high in 2021. That is the scientific conclusion reached by international experts. Published in a recent issue of Science magazine. According to the above research report, this increase is partly due to extreme droughts, leading to more frequent wildfires, in the mid-high latitudes of the Northern Hemisphere. Meanwhile, forest fires in the Northern Hemisphere often receive less attention than fires in tropical forests. Wildfires are defined as fires that occur in natural lands such as forests and grasslands. This phenomenon plays a large part in the global carbon cycle. Severe wildfires pose a threat to human health and the global climate, damaging ecosystems and releasing pollutants and greenhouse gases into the environment. International scientists have developed a satellite-based atmospheric inversion system to monitor emissions from wildfires in the Northern Hemisphere during the period 2000-2021. The results show that CO2 emissions have increased here during this period. According to the research report, wildfires in the Northern Hemisphere emitted 23% of total CO2 emissions from fires occurring globally in 2021, while this proportion is usually only 10% in the 20s. years ago. Expert Zheng Bo - research team leader at Shenzhen Tsinghua International Graduate School (China) - said that as land water shortages increased, forest fires began to spread to northern forests at high latitudes. high, which in the past rarely occurred fires. He also noted that fires are especially common in areas with high forest cover between 60 and 70 degrees North latitude, where carbon emissions from wildfires in 2021 more than tripled. compared to the average from 2000 to 2020, while the increase in areas near 50 degrees North latitude is 70%. Expert Zheng Bo said: “Soil in boreal forests is rich in organic carbon. Burned vegetation and organic soil release large amounts of carbon, seriously threatening the carbon absorption function of this area.” His research group has focused on global climate and carbon emissions from wildfires for many years. The CO2 monitoring system the research teams developed is different from conventional systems. This system creatively inverts carbon emissions from wildfires through carbon monoxide (CO) concentrations based on satellite remote sensing data, instead of directly monitoring CO2 levels. According to Mr. Zheng, CO2 in the atmosphere has a relatively high background concentration, due to being accumulated over a long period of time. Therefore, it will be difficult to accurately monitor forest fires based on CO2 emissions. In contrast, CO2 from wildfires is more active and has lower background concentrations. This helps satellites monitor more clearly. The research team also found that the global forest fire area has decreased sharply in recent years. However, carbon emissions from wildfires remained largely unchanged. This finding was published in the journal Science Advances in 2021. According to the study, the decline in forest fire area mainly occurred in grasslands, while in forests - which constitute a much larger source of CO2 per unit - the area burned tended to increase. "So we have been making efforts to find forests where fire areas are increasing, and this is the basis for our latest scientific findings," said Mr. Zheng./.
Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998) đã quá nổi tiếng và quá nhiều người giới thiệu, bình phẩm; không ít chuyện thơ và chuyện đời của nhà thơ kỳ tài, độc đáo này đã thành giai thoại, biến hóa thành “văn học dân gian” được lan truyền rất rộng. Trong tình hình đó, “người đi sau” như nhà văn – dịch giả Bửu Ý đã có “phép lạ” nào để giữ được bạn đọc với cuốn sách dày gần 250 trang? Có phải điều nghi ngại này đã khiến Bùi Giáng, một đời thơ chậm đến với bạn đọc? Tôi nói vậy là do đã được nghe anh Bửu Ý tiết lộ một cách thích thú từ mấy năm trước rằng anh đã hoàn thành công trình này và đang tìm “đầu ra”. Thế rồi lặng đi…; đã tưởng tác giả thuộc hàng cao tuổi, vài năm qua ít khi xuất hiện trước công chúng sẽ bỏ cuộc trước thị trường xuất bản lộn xộn và đang khó mọi bề như hiện nay. Nhưng ‘vàng thật không sợ lửa”, nhờ có “duyên” sống cạnh Bùi Giáng nhiều năm, với góc nhìn gần, thân thiết, với sự thông tuệ của một chuyên gia Pháp ngữ, tác phẩm của Bửu Ý vẫn hấp dẫn với nhiều chi tiết, cách lý giải chuẩn xác, bất ngờ, giúp bạn đọc hiểu sâu thêm, đúng hơn về Bùi Giáng. Hơn thế, đúng như “Lời giới thiệu” của Nhà xuất bản, “ qua ngòi bút của Bửu Ý, chúng ta không chỉ thấy Bùi Giáng mà còn thấy cả hơi thở, không khí thời đại mà cả hai người đó đã dự phần vào… ” Điều đó, bạn đọc cảm nhận rõ ràng qua gần 70 trang Phần vào đầu cuốn sách với rất nhiều kỷ niệm cùng Bùi Giáng, trong khung cảnh Sài Gòn từ năm 1963, khi Bửu Ý “dời đô” từ Huế vô làm Thư ký tòa soạn báo Mai và Nhà xuất bản An Tiêm. Những cuộc gặp gỡ bàn luận nghệ thuật và thế sự với nhiều tên tuổi văn nghệ sĩ trí thức về sau hầu hết đều nổi tiếng (như Phạm Công Thiện, Đinh Cường, Trịnh Cung, Đặng Tiến, Lâm Triết, Rừng, Nguyễn Đức Sơn…) tại các nơi ở của Bửu Ý và Bùi Giáng thật thú vị. Hai người dễ thân thiết với nhau vì như Bửu Ý đã viết: “ Bùi Giáng nhớ Huế là chuyện bình thường, bởi năm 1939, anh rời quê ra Huế học ở một tư thục; sau đó, năm 1942, anh bảo “trở ra Huế vì nhớ những gái Huế… ”. Dưới đây là một cảnh hai người gặp nhau ở Sài Gòn: “ …Chúng tôi đã có một quán thường lui tới trên đường Lê Văn Duyệt. Quán nhỏ, thân tình, bán bún và phở. Ngồi yên chỗ, Bùi Giáng quen gọi cho mình một tô bún kèm thêm một tô phở và chép miệng: “Cái nào cũng ngon”. Bùi Giang ăn không giống ai. Bao nhiêu thịt thà, anh ăn ngoẻn hết. Lúc đầu tôi chột dạ: “Anh ăn chi lạ vậy?” Anh cười cười: “Cái gì ngon mình phải ăn trước, lỡ khi gió độc thổi ngang, chết nửa chừng, uổng lắm ”. Không chỉ là một chi tiết ăn uống của Bùi Giáng mà chỉ có Bửu Ý biết, mà nó bộc lộ cả tính cách, ngôn ngữ và tư tưởng nhà thơ kỳ dị – hai nội dung khá quan trọng, được Bửu Ý phân tích kỹ lưỡng ở phần sau cuốn sách. Con người ăn nói và làm thơ như đùa chơi, nghịch đời lại đã có một hoạt động cực kỳ nghiêm chỉnh – đó là năm 1965, khi Mỹ bắt đầu đổ quân vào miền Nam, Bùi Giáng đã tham gia cùng nhóm trí thức rất nổi tiếng của Đại học Vạn Hạnh, góp tiếng nói cứu nước “ bằng cách đối thoại với một số yếu nhân trên thế giới ” với những lá thư in thành sách Đối thoại bằng tiếng Anh và Pháp – Thượng tọa Thích Nhất Hạnh viết cho Marin Luther King; Phạm Công Thiên viết cho Henry Miller; Tam Ích viết cho Jean Paul Sartre và Bùi Giáng viết cho René Char. Phải là người có tầm cỡ thế nào mới có thể gửi thư cho các trí thức hàng đầu thế giới lúc đó! Cuốn sách gây tiếng vang lớn và René Char (bạn thân của Jean Paul Sartre) đã “đáp lời” bằng cách gửi tặng Bùi Giáng mấy tác phẩm… Có lẽ cũng chỉ Bửu Ý mới miêu tả “thế giới sách” của Bùi Giáng với những nét đặc sắc khi anh qua nơi ở của ông, “ thường xuyên lổn ngổn cà mèn, đũa chén, dấu tích của một hai bữa ăn hôm trước. Bước vào căn gỗ cót két, một hình ảnh bao trùm đập mạnh vào mắt: sách và sách! Sách khắp cùng; trên hai kệ sách to bằng gỗ, sách chồng chất trên chỗ nằm, và nhất là lớp trên lớp dưới tứ bề ngả nghiêng trên sàn gỗ […] Nhưng khốn cho ai buột miệng khen chủ nhân là người đọc sách, là người nhiều sách, là nhà nghiên cứu!… ”. Bùi Giáng không thích ai nói những điều đó. Ông nhiều sách còn vì “ có cái tật kỳ lạ ”: thấy sách ông quan tâm, dù đã có, ông mua thêm; đặc biệt ông còn hai cái rương “ rất chắc chắn, bằng kim loại và cả hai đều ken chặt bằng nhiều ống khóa mắc chéo vào nhau. Không cần phải hỏi, ta thừa biết đây là hai chiếc rương đựng tác phẩm của Bùi Giáng… ” Tôi nhắc chuyện sách hơi dài một chút vì nó gắn với vấn đề “thời sự” là khắp các diễn đàn, báo chí đang tìm mọi cách để “chữa bệnh”… lười đọc sách của hầu hết lớp người. Và nữa, năm 1969, một tai họa đau hơn Trời giáng, khiến Bùi Giáng phải vào nhà thương điên: nhà ông bị cháy, toàn bộ kho sách và cả hai cái rương “quý hơn vàng” bị thiêu hủy! Những trang sách của Bửu Ý cuốn hút bạn đọc không chỉ nhờ các chi tiết lạ lùng trong cuộc đời Bùi Giáng chưa phải ai cũng biết mà do sự liên tưởng sâu xa của một ngòi bút thông tuệ. Sau sự cố Bùi Giáng bị cháy kho sách quý đau lòng, Bửu Ý nhắc lại việc Bùi Giáng không học lên đại học và nêu một danh sách dài “ không thể viết ra hết ” những nhân tài lừng danh trong nước và thế giới mà chủ yếu nhờ tự học qua sách, chứ không theo trường lớp “nghiêm chỉnh”: Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, Nguyễn Văn Vinh… nhà thơ Pháp René Char, nhà văn André Malraux (một thời làm Bộ trưởng Văn hoá Pháp), nữ sĩ người Anh Virginia Woolf, nhà văn Argentine J.L. Borges… và vô số nghệ sĩ lẫy lừng khác như họa sĩ Léonard de Vinci… Ở Phần Tiểu sư – chân dung và tác phẩm , Bửu Ý cho biết Bùi Giáng hai lần bỏ học “ 1950: đỗ Tú tại toàn phần văn chương và ra Liên khu Bốn để theo học đại học, nhưng khi nghe Hiệu trưởng đọc diễn văn khai giảng, ông bỏ về quê “đọc sách chăn dê ”! Mà ông chăn cả trăm con chỉ để… rong chơi thôi, không thấy bán! Bửu Ý viết những chuyện này không phải để “xúi” trẻ em bỏ học, nhưng các tên tuổi nổi tiếng thành danh chủ yếu nhờ tự học qua sách thêm một lần nhắc nhở mọi người rằng những cuốn sách tốt mang lại những giá trị không thể đo đếm được; đồng thời đặt ra vấn đề hệ trọng cho ngành giáo dục là phải thật sự cải cách, hướng đến mục tiêu cao đẹp nhất là đào tạo nhân tài. Qua góc nhìn Bửu Ý, chuyện tình yêu và quan hệ với người khác giới của Bùi Giáng cũng thật kỳ lạ. “ Trong trường hợp Bùi Giáng, cái “như là tình yêu” ấy nó là tất cả, nó trùm lấy tất cả, nó vượt luôn qua biên giới quốc gia và chạm tới mọi họ tộc sắc dân, từ chóp đỉnh hoàng hậu Nam Phương đến cô em mọi nhỏ thông qua chị bán ve chai, nó vượt hết không gian thời gian, đánh thức cả nữ hoàng Ai Cập Cléopâtre suốt qua Huyền Trân công chúa. Bao nhiêu quốc sắc thiên hương, bấy nhiêu hồng nhan trắc trở, hàng hàng mẫu nghi thiên hạ, vô vàn mẹ hiền sinh hạ dưới thế… tất cả đều vui lòng trở về tề tựu giữa thành tâm trân quý của Bùi Giáng lập nên một “lục địa nữ” để cho mọi người yêu thương, thao thức, quý trọng … ” Trang sách trích đã dài mà tôi còn muốn trích thêm vì anh Bửu Ý viết hay như… một trường ca về tình yêu và phái đẹp. Đọc đoạn “tả cảnh” Bửu Ý dẫn Bùi Giáng đến gặp ca sĩ Hà Thanh, nhà thơ xúc động, luống cuống “ ánh mắt của Bùi Giáng hướng về người đẹp như những đường kiếm xẹt ngang xẹt dọc sát sườn nhưng vẫn không chạm phân ly nào vào gương mặt kiều mị của ca sĩ… ” , rồi còn cảnh “ ai nấy như ngưng thở ” khi nhà thơ “ vân vê… câu giờ ” xem chỉ tay cho ca sĩ nữa, có khi thú hơn… đọc thơ! Đây cũng là cách tôi “thanh minh” việc viết cả ngàn chữ về cuốn sách “một đời thơ” thi sĩ tài danh Bùi Giang mà chưa nhắc câu thơ nào của ông! Cũng vì với thơ, tôi là kẻ “ngoại đạo”; hơn nữa, hầu hết những trang sách của bậc thầy ngôn ngữ Bửu Ý đã chọn trích những câu thơ đặc sắc của ông (hai tiểu mục Những câu thơ đặc biệt , và Những bài thơ đặc biệt rất có ích cho những ai không có điều kiện đọc nhiều thơ Bùi Giáng) và nhiều câu thơ của ông, bạn đọc đã thuộc; ví như câu về Huế: “ Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương… ”. Vậy nên chỉ trích thêm đôi câu trong chương Bửu Ý phân tích tài năng của Bùi Giáng về “Ngôn ngữ”. Do là người thông thạo nhiều ngoại ngữ (Anh, Pháp, Hán, Đức…) Bùi Giáng “ trở thành điêu luyên trong sử dụng từ ngữ… anh vui chơi, đùa cợt với chữ nghĩa… anh nhào lộn, uốn dẻo, vặn vẹo, bẻ gãy, bẻ dấu, uốn giọng, giả giọng, co dãn câu, lắp ghép vần… một cách có khi quá đà nhưng vẫn tài tình, thông bác… ”. Tôi chỉ xin trích hai câu: “ Tôi gọi Bình Dương là Bình Dưỡng…/ Tôi gọi Cần Thơ là cần thở… ” Không chỉ là một kiểu chơi chữ nghĩa mà còn là sự tiên báo tài tình về những biến động đô thị hóa quá đà, đe dọa môi trường sinh thái mà cả nhân loại đang phải cấp cứu S.O.S!!! Điều cần nói thêm là với công phu chuẩn bị – thể hiện qua Danh mục tham khảo có đến 35 nguồn tư liệu, riêng tác giả có hẳn “Hồ sơ Bùi Giáng”, “Từ điển Bùi Giáng” và 5 cuốn sổ ghi chép, cuốn sách không chỉ có “góc nhìn” của Bửu Ý mà nó gần như là bộ sưu tập đầy đủ những bình luận về Bùi Giáng của nhiều nhà văn, nhà báo nhà nghiên cứu trong và ngoài nước; do đó, qua tác phẩm này, chân dung-nghệ thuật thi ca của Bùi Giáng đã hiện ra một cách khá toàn vẹn và chính xác nhất…
Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998) đã quá nổi tiếng và quá nhiều người giới thiệu, bình phẩm; không ít chuyện thơ và chuyện đời của nhà thơ kỳ tài, độc đáo này đã thành giai thoại, biến hóa thành “văn học dân gian” được lan truyền rất rộng. Trong tình hình đó, “người đi sau” như nhà văn – dịch giả Bửu Ý đã có “phép lạ” nào để giữ được bạn đọc với cuốn sách dày gần 250 trang? Có phải điều nghi ngại này đã khiến Bùi Giáng, một đời thơ chậm đến với bạn đọc? Tôi nói vậy là do đã được nghe anh Bửu Ý tiết lộ một cách thích thú từ mấy năm trước rằng anh đã hoàn thành công trình này và đang tìm “đầu ra”. Thế rồi lặng đi…; đã tưởng tác giả thuộc hàng cao tuổi, vài năm qua ít khi xuất hiện trước công chúng sẽ bỏ cuộc trước thị trường xuất bản lộn xộn và đang khó mọi bề như hiện nay. Nhưng ‘vàng thật không sợ lửa”, nhờ có “duyên” sống cạnh Bùi Giáng nhiều năm, với góc nhìn gần, thân thiết, với sự thông tuệ của một chuyên gia Pháp ngữ, tác phẩm của Bửu Ý vẫn hấp dẫn với nhiều chi tiết, cách lý giải chuẩn xác, bất ngờ, giúp bạn đọc hiểu sâu thêm, đúng hơn về Bùi Giáng. Hơn thế, đúng như “Lời giới thiệu” của Nhà xuất bản, “ qua ngòi bút của Bửu Ý, chúng ta không chỉ thấy Bùi Giáng mà còn thấy cả hơi thở, không khí thời đại mà cả hai người đó đã dự phần vào… ” Điều đó, bạn đọc cảm nhận rõ ràng qua gần 70 trang Phần vào đầu cuốn sách với rất nhiều kỷ niệm cùng Bùi Giáng, trong khung cảnh Sài Gòn từ năm 1963, khi Bửu Ý “dời đô” từ Huế vô làm Thư ký tòa soạn báo Mai và Nhà xuất bản An Tiêm. Những cuộc gặp gỡ bàn luận nghệ thuật và thế sự với nhiều tên tuổi văn nghệ sĩ trí thức về sau hầu hết đều nổi tiếng (như Phạm Công Thiện, Đinh Cường, Trịnh Cung, Đặng Tiến, Lâm Triết, Rừng, Nguyễn Đức Sơn…) tại các nơi ở của Bửu Ý và Bùi Giáng thật thú vị. Hai người dễ thân thiết với nhau vì như Bửu Ý đã viết: “ Bùi Giáng nhớ Huế là chuyện bình thường, bởi năm 1939, anh rời quê ra Huế học ở một tư thục; sau đó, năm 1942, anh bảo “trở ra Huế vì nhớ những gái Huế… ”. Dưới đây là một cảnh hai người gặp nhau ở Sài Gòn: “ …Chúng tôi đã có một quán thường lui tới trên đường Lê Văn Duyệt. Quán nhỏ, thân tình, bán bún và phở. Ngồi yên chỗ, Bùi Giáng quen gọi cho mình một tô bún kèm thêm một tô phở và chép miệng: “Cái nào cũng ngon”. Bùi Giang ăn không giống ai. Bao nhiêu thịt thà, anh ăn ngoẻn hết. Lúc đầu tôi chột dạ: “Anh ăn chi lạ vậy?” Anh cười cười: “Cái gì ngon mình phải ăn trước, lỡ khi gió độc thổi ngang, chết nửa chừng, uổng lắm ”. Không chỉ là một chi tiết ăn uống của Bùi Giáng mà chỉ có Bửu Ý biết, mà nó bộc lộ cả tính cách, ngôn ngữ và tư tưởng nhà thơ kỳ dị – hai nội dung khá quan trọng, được Bửu Ý phân tích kỹ lưỡng ở phần sau cuốn sách. Con người ăn nói và làm thơ như đùa chơi, nghịch đời lại đã có một hoạt động cực kỳ nghiêm chỉnh – đó là năm 1965, khi Mỹ bắt đầu đổ quân vào miền Nam, Bùi Giáng đã tham gia cùng nhóm trí thức rất nổi tiếng của Đại học Vạn Hạnh, góp tiếng nói cứu nước “ bằng cách đối thoại với một số yếu nhân trên thế giới ” với những lá thư in thành sách Đối thoại bằng tiếng Anh và Pháp – Thượng tọa Thích Nhất Hạnh viết cho Marin Luther King; Phạm Công Thiên viết cho Henry Miller; Tam Ích viết cho Jean Paul Sartre và Bùi Giáng viết cho René Char. Phải là người có tầm cỡ thế nào mới có thể gửi thư cho các trí thức hàng đầu thế giới lúc đó! Cuốn sách gây tiếng vang lớn và René Char (bạn thân của Jean Paul Sartre) đã “đáp lời” bằng cách gửi tặng Bùi Giáng mấy tác phẩm… Có lẽ cũng chỉ Bửu Ý mới miêu tả “thế giới sách” của Bùi Giáng với những nét đặc sắc khi anh qua nơi ở của ông, “ thường xuyên lổn ngổn cà mèn, đũa chén, dấu tích của một hai bữa ăn hôm trước. Bước vào căn gỗ cót két, một hình ảnh bao trùm đập mạnh vào mắt: sách và sách! Sách khắp cùng; trên hai kệ sách to bằng gỗ, sách chồng chất trên chỗ nằm, và nhất là lớp trên lớp dưới tứ bề ngả nghiêng trên sàn gỗ […] Nhưng khốn cho ai buột miệng khen chủ nhân là người đọc sách, là người nhiều sách, là nhà nghiên cứu!… ”. Bùi Giáng không thích ai nói những điều đó. Ông nhiều sách còn vì “ có cái tật kỳ lạ ”: thấy sách ông quan tâm, dù đã có, ông mua thêm; đặc biệt ông còn hai cái rương “ rất chắc chắn, bằng kim loại và cả hai đều ken chặt bằng nhiều ống khóa mắc chéo vào nhau. Không cần phải hỏi, ta thừa biết đây là hai chiếc rương đựng tác phẩm của Bùi Giáng… ” Tôi nhắc chuyện sách hơi dài một chút vì nó gắn với vấn đề “thời sự” là khắp các diễn đàn, báo chí đang tìm mọi cách để “chữa bệnh”… lười đọc sách của hầu hết lớp người. Và nữa, năm 1969, một tai họa đau hơn Trời giáng, khiến Bùi Giáng phải vào nhà thương điên: nhà ông bị cháy, toàn bộ kho sách và cả hai cái rương “quý hơn vàng” bị thiêu hủy! Những trang sách của Bửu Ý cuốn hút bạn đọc không chỉ nhờ các chi tiết lạ lùng trong cuộc đời Bùi Giáng chưa phải ai cũng biết mà do sự liên tưởng sâu xa của một ngòi bút thông tuệ. Sau sự cố Bùi Giáng bị cháy kho sách quý đau lòng, Bửu Ý nhắc lại việc Bùi Giáng không học lên đại học và nêu một danh sách dài “ không thể viết ra hết ” những nhân tài lừng danh trong nước và thế giới mà chủ yếu nhờ tự học qua sách, chứ không theo trường lớp “nghiêm chỉnh”: Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, Nguyễn Văn Vinh… nhà thơ Pháp René Char, nhà văn André Malraux (một thời làm Bộ trưởng Văn hoá Pháp), nữ sĩ người Anh Virginia Woolf, nhà văn Argentine J.L. Borges… và vô số nghệ sĩ lẫy lừng khác như họa sĩ Léonard de Vinci… Ở Phần Tiểu sư – chân dung và tác phẩm , Bửu Ý cho biết Bùi Giáng hai lần bỏ học “ 1950: đỗ Tú tại toàn phần văn chương và ra Liên khu Bốn để theo học đại học, nhưng khi nghe Hiệu trưởng đọc diễn văn khai giảng, ông bỏ về quê “đọc sách chăn dê ”! Mà ông chăn cả trăm con chỉ để… rong chơi thôi, không thấy bán! Bửu Ý viết những chuyện này không phải để “xúi” trẻ em bỏ học, nhưng các tên tuổi nổi tiếng thành danh chủ yếu nhờ tự học qua sách thêm một lần nhắc nhở mọi người rằng những cuốn sách tốt mang lại những giá trị không thể đo đếm được; đồng thời đặt ra vấn đề hệ trọng cho ngành giáo dục là phải thật sự cải cách, hướng đến mục tiêu cao đẹp nhất là đào tạo nhân tài. Qua góc nhìn Bửu Ý, chuyện tình yêu và quan hệ với người khác giới của Bùi Giáng cũng thật kỳ lạ. “ Trong trường hợp Bùi Giáng, cái “như là tình yêu” ấy nó là tất cả, nó trùm lấy tất cả, nó vượt luôn qua biên giới quốc gia và chạm tới mọi họ tộc sắc dân, từ chóp đỉnh hoàng hậu Nam Phương đến cô em mọi nhỏ thông qua chị bán ve chai, nó vượt hết không gian thời gian, đánh thức cả nữ hoàng Ai Cập Cléopâtre suốt qua Huyền Trân công chúa. Bao nhiêu quốc sắc thiên hương, bấy nhiêu hồng nhan trắc trở, hàng hàng mẫu nghi thiên hạ, vô vàn mẹ hiền sinh hạ dưới thế… tất cả đều vui lòng trở về tề tựu giữa thành tâm trân quý của Bùi Giáng lập nên một “lục địa nữ” để cho mọi người yêu thương, thao thức, quý trọng … ” Trang sách trích đã dài mà tôi còn muốn trích thêm vì anh Bửu Ý viết hay như… một trường ca về tình yêu và phái đẹp. Đọc đoạn “tả cảnh” Bửu Ý dẫn Bùi Giáng đến gặp ca sĩ Hà Thanh, nhà thơ xúc động, luống cuống “ ánh mắt của Bùi Giáng hướng về người đẹp như những đường kiếm xẹt ngang xẹt dọc sát sườn nhưng vẫn không chạm phân ly nào vào gương mặt kiều mị của ca sĩ… ” , rồi còn cảnh “ ai nấy như ngưng thở ” khi nhà thơ “ vân vê… câu giờ ” xem chỉ tay cho ca sĩ nữa, có khi thú hơn… đọc thơ! Đây cũng là cách tôi “thanh minh” việc viết cả ngàn chữ về cuốn sách “một đời thơ” thi sĩ tài danh Bùi Giang mà chưa nhắc câu thơ nào của ông! Cũng vì với thơ, tôi là kẻ “ngoại đạo”; hơn nữa, hầu hết những trang sách của bậc thầy ngôn ngữ Bửu Ý đã chọn trích những câu thơ đặc sắc của ông (hai tiểu mục Những câu thơ đặc biệt , và Những bài thơ đặc biệt rất có ích cho những ai không có điều kiện đọc nhiều thơ Bùi Giáng) và nhiều câu thơ của ông, bạn đọc đã thuộc; ví như câu về Huế: “ Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương… ”. Vậy nên chỉ trích thêm đôi câu trong chương Bửu Ý phân tích tài năng của Bùi Giáng về “Ngôn ngữ”. Do là người thông thạo nhiều ngoại ngữ (Anh, Pháp, Hán, Đức…) Bùi Giáng “ trở thành điêu luyên trong sử dụng từ ngữ… anh vui chơi, đùa cợt với chữ nghĩa… anh nhào lộn, uốn dẻo, vặn vẹo, bẻ gãy, bẻ dấu, uốn giọng, giả giọng, co dãn câu, lắp ghép vần… một cách có khi quá đà nhưng vẫn tài tình, thông bác… ”. Tôi chỉ xin trích hai câu: “ Tôi gọi Bình Dương là Bình Dưỡng…/ Tôi gọi Cần Thơ là cần thở… ” Không chỉ là một kiểu chơi chữ nghĩa mà còn là sự tiên báo tài tình về những biến động đô thị hóa quá đà, đe dọa môi trường sinh thái mà cả nhân loại đang phải cấp cứu S.O.S!!! Điều cần nói thêm là với công phu chuẩn bị – thể hiện qua Danh mục tham khảo có đến 35 nguồn tư liệu, riêng tác giả có hẳn “Hồ sơ Bùi Giáng”, “Từ điển Bùi Giáng” và 5 cuốn sổ ghi chép, cuốn sách không chỉ có “góc nhìn” của Bửu Ý mà nó gần như là bộ sưu tập đầy đủ những bình luận về Bùi Giáng của nhiều nhà văn, nhà báo nhà nghiên cứu trong và ngoài nước; do đó, qua tác phẩm này, chân dung-nghệ thuật thi ca của Bùi Giáng đã hiện ra một cách khá toàn vẹn và chính xác nhất…
“Mật mã Leicester” của Leonardo da Vinci là tập bản thảo đắt nhất thế giới. Đây là bản thảo duy nhất của một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất lịch sử nhân loại còn tồn tại đến ngày nay. Bản thảo này được da Vinci viết tại Milan vào năm 1506 – 1510. Đó là một cuốn vở gồm 72 trang. Các tờ giấy được viết trên cả hai mặt bằng phông chữ “gương” độc đáo do chính nhà khoa học phát minh ra. Một bản thảo hiếm hoi chứa đầy những ý tưởng và phát minh về nhiều chủ đề rất khác biệt. Trong vài thập kỷ qua, nội dung của nó đã có tác động rất lớn đến các nghệ sĩ cũng như các nhà khoa học. Leonardo da Vinci sinh năm 1452 tại một thị trấn tên là Vinci thuộc Cộng hòa Florence. Ông có xuất thân khá khiêm tốn. Cha ông là một công chứng viên và người mẹ là trẻ mồ côi. Leonardo học ở Florence với họa sĩ điêu khắc Andrea del Verrochio. Tại đây, ông bắt đầu sự nghiệp của mình, sau đó đến sống ở Rome, Milan và trong những năm cuối đời, ông đã chuyển sang Pháp và qua đời tại đó vào năm 1519. “Mật mã Leicester” của Leonardo da Vinci là tập bản thảo đắt nhất thế giới. Cái tên da Vinci sẽ gợi lên trong ký ức mỗi người hai bức tranh nổi tiếng “Mona Lisa” và “Bữa ăn tối cuối cùng”. Bản phác thảo “Người đàn ông Vitruvian” của họa sĩ giờ đã trở thành một biểu tượng văn hóa thực sự. Ngoài ra, người họa sĩ vĩ đại Leonardo da Vinci cũng trở nên nổi tiếng như một thiên tài kỹ thuật. Mặc dù thực tế là hầu hết các dự án của ông đều đi trước thời đại và không được sản xuất hàng loạt, nhưng ý tưởng của chúng thực sự rất ấn tượng và đáng giá. “Mật mã Leicester” được Leonardo da Vinci viết vào những năm 1500 khi họa sĩ và là nhà khoa học vĩ đại này đang sống ở Florence. Tại đây, ông đã làm việc lâu dài và bền bỉ với nhiều dự án khoa học và sáng tạo của mình. Bản thảo là hình mẫu rõ ràng nhất về tài năng của bậc thầy vĩ đại thời Phục hưng này. Đó là tập hợp những ý tưởng có nội dung hấp dẫn nhất của da Vinci. Cuốn sách được viết bằng một kỹ thuật đặc biệt đã được ông sử dụng để bảo mật các ý tưởng và chú giải của mình – phương pháp “viết trong gương”. Văn bản như vậy chỉ có thể được đọc bằng cách sử dụng chiếc gương. Điều này làm cho một tài liệu vốn đã hấp dẫn và vô giá lại càng trở nên bí ẩn hơn. Đối với những người đã quen với “Mật mã Leicester”, cuốn sách này không chỉ là một kiệt tác khoa học mà còn là một phần quan trọng của lịch sử nghệ thuật. Dường như việc kết hợp những khái niệm này là không thể nhưng da Vinci một lần nữa đã chứng minh cho mọi người thấy rằng, đối với ông thì không có gì là không thể trong cuộc sống này. Điều gì đã được mã hóa trong các văn bản bí ẩn của con người uyên bác nhất trong lịch sử nhân loại? “Mật mã Leicester” được đặt theo tên bá tước Anh Leicester, người đã mua nó vào năm 1717. Bản thảo chứa một bộ sưu tập ấn tượng các chú giải khoa học và các bản phác thảo của Leonardo da Vinci. Tất cả chúng đều được tác giả chia thành nhiều chương, mỗi chương dành cho một chủ đề khoa học riêng biệt. Trong phần đầu tiên, da Vinci đưa ra một số nhận xét sâu sắc về các đặc tính của nước. Chúng trở nên sống động với những bản phác thảo sinh động về xoáy nước, các con đập, dòng chảy trên sông và trên biển. Sau đó, nhà khoa học chú tâm vào việc nghiên cứu vũ trụ. Da Vinci luận bàn nhiều và chi tiết về thiên văn học và vũ trụ học, vẽ các miệng núi lửa trên mặt trăng, những quỹ đạo của các hành tinh và ghi dấu về bản chất của ánh sáng và bóng tối trên mặt trăng. Trong bản thảo có chứa thông tin vô giá về ngành địa chất. Nhà khoa học vĩ đại đã viết về sự hình thành hóa thạch, tính chất của tinh thể và bản chất của động đất. Phần tiếp theo là một loạt ký hiệu về tính chất của ánh sáng và quang học. Có một số hình vẽ và bản phác thảo minh họa các nguyên tắc phản xạ và khúc xạ ánh sáng, cũng như các ghi chép về đặc tính của thấu kính và hành vi của bóng đổ. Ngoài tất cả những điều trên, “Mật mã Leicester” còn bao gồm chủ đề về giải phẫu người, mà như đã biết, rất được nhà thiên tài thời Phục hưng này quan tâm. Bản thảo chứa các phác thảo và văn bản mô tả chi tiết cấu trúc và chức năng của cơ thể con người. Da Vinci đã phác thảo bộ xương và cơ bắp của con người, hệ thống tuần hoàn cũng như cấu trúc của mắt. Ngoài các mục đích nghiên cứu, theo các nhà khoa học, Leonardo da Vinci không có lý do nào khác. Trí tuệ say mê khám phá của ông đòi hỏi làm tài liệu về những ý tưởng mà ông chú tâm nghiên cứu. Một tài liệu phong phú như vậy là một ví dụ sinh động về sự hiếu kỳ vô cùng của bậc thầy này và sự đam mê tìm hiểu vũ trụ trong tất cả sự phức tạp và kỳ diệu của nó. Trong suốt cuộc đời mình, Leonardo đã quan tâm đến một số lượng lớn đáng kinh ngạc về các ngành khoa học. Sự hứng thú của ông bao gồm các lĩnh vực: Giải phẫu, thực vật học, thiên văn học, địa chất và nhiều thứ nữa. Cuốn mật mã được Leonardo da Vinci viết theo cách chỉ có thể đọc được với sự trợ giúp của một chiếc gương. Hơn thế, với tài năng của một họa sĩ, da Vinci đã truyền đạt những suy nghĩ và ý tưởng của mình, tạo ra những bức tranh minh họa đẹp và chi tiết vô cùng ấn tượng. Những bản phác thảo này là sự hiện thân thực sự các lý thuyết khoa học của ông. Chúng nổi bật cả về trực giác và trí tuệ. Do đó, bản thảo không chỉ trở thành một tài liệu khoa học mà còn được công nhận là kiệt tác nghệ thuật vĩ đại nhất. “Mật mã Leicester” cho đến ngày nay vẫn là một hình mẫu về hoạt động nghiên cứu khoa học độc đáo và sự kỳ diệu của tư duy. Xuyên suốt lịch sử, nhiều bộ óc khoa học đã cố gắng thâm nhập vào những bí mật của vũ trụ, tìm cách hiểu thế giới tự nhiên thông qua những sự quan sát và các thử nghiệm. Bản thảo của da Vinci không chỉ đóng góp cho khoa học bằng nội dung của nó, mà còn truyền cảm hứng cho nhiều người khác tiếp tục nghiên cứu những điều bí ẩn của vũ trụ. Những quan sát và lý thuyết của ông tiếp tục được các nhà khoa học ngày nay nghiên cứu và đánh giá cao, bởi chúng giúp tìm hiểu về tư duy của một trong những thiên tài khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử. “Mật mã Leicester” thực sự là kho báu vĩ đại nhất. Bởi đó là tập hợp những suy nghĩ và ý tưởng của một trong những thiên tài khoa học và nghệ thuật vĩ đại nhất mọi thời đại. Bản thảo độc đáo ở chỗ nó có giá trị không chỉ đối với khoa học và lịch sử, mà còn đối với giới nghệ thuật. Những bức vẽ tuyệt đẹp và những ý tưởng độc đáo tiếp tục truyền cảm hứng và mê hoặc các chuyên gia cũng như những người đam mê. Ngày nay, bản thảo thuộc về người đồng sáng lập Microsoft Bill Gates, một trong những người giàu nhất thế giới. Ông đã mua bản thảo nổi tiếng này vào năm 1994, trả một số tiền rất lớn vào thời điểm đó – gần 31 triệu đôla. Việc mua bán này đã khiến “Mật mã Leicester” trở nên nổi tiếng hơn, tạo ra một làn sóng quan tâm mới đối với bản thảo. Tất nhiên, nhật ký của da Vinci là bằng chứng quan trọng về sự đóng góp xuất sắc của bậc thầy vĩ đại thời Phục hưng đối với khoa học và sáng tạo. Tầm quan trọng của tài liệu lịch sử này chắc chắn sẽ được các thế hệ tương lai đánh giá cao. Thế giới khoa học không ngừng ngưỡng mộ thiên tài của da Vinci vĩ đại, hứng thú học hỏi những suy nghĩ và ý tưởng của ông, làm sáng tỏ nguyên tắc “viết trong gương”. Vẫn có những cuốn sách khoa học cổ điển đến mức ngay cả các nhà khoa học hiện đại cũng không thể giải mã được.
“Mật mã Leicester” của Leonardo da Vinci là tập bản thảo đắt nhất thế giới. Đây là bản thảo duy nhất của một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất lịch sử nhân loại còn tồn tại đến ngày nay. Bản thảo này được da Vinci viết tại Milan vào năm 1506 – 1510. Đó là một cuốn vở gồm 72 trang. Các tờ giấy được viết trên cả hai mặt bằng phông chữ “gương” độc đáo do chính nhà khoa học phát minh ra. Một bản thảo hiếm hoi chứa đầy những ý tưởng và phát minh về nhiều chủ đề rất khác biệt. Trong vài thập kỷ qua, nội dung của nó đã có tác động rất lớn đến các nghệ sĩ cũng như các nhà khoa học. Leonardo da Vinci sinh năm 1452 tại một thị trấn tên là Vinci thuộc Cộng hòa Florence. Ông có xuất thân khá khiêm tốn. Cha ông là một công chứng viên và người mẹ là trẻ mồ côi. Leonardo học ở Florence với họa sĩ điêu khắc Andrea del Verrochio. Tại đây, ông bắt đầu sự nghiệp của mình, sau đó đến sống ở Rome, Milan và trong những năm cuối đời, ông đã chuyển sang Pháp và qua đời tại đó vào năm 1519. “Mật mã Leicester” của Leonardo da Vinci là tập bản thảo đắt nhất thế giới. Cái tên da Vinci sẽ gợi lên trong ký ức mỗi người hai bức tranh nổi tiếng “Mona Lisa” và “Bữa ăn tối cuối cùng”. Bản phác thảo “Người đàn ông Vitruvian” của họa sĩ giờ đã trở thành một biểu tượng văn hóa thực sự. Ngoài ra, người họa sĩ vĩ đại Leonardo da Vinci cũng trở nên nổi tiếng như một thiên tài kỹ thuật. Mặc dù thực tế là hầu hết các dự án của ông đều đi trước thời đại và không được sản xuất hàng loạt, nhưng ý tưởng của chúng thực sự rất ấn tượng và đáng giá. “Mật mã Leicester” được Leonardo da Vinci viết vào những năm 1500 khi họa sĩ và là nhà khoa học vĩ đại này đang sống ở Florence. Tại đây, ông đã làm việc lâu dài và bền bỉ với nhiều dự án khoa học và sáng tạo của mình. Bản thảo là hình mẫu rõ ràng nhất về tài năng của bậc thầy vĩ đại thời Phục hưng này. Đó là tập hợp những ý tưởng có nội dung hấp dẫn nhất của da Vinci. Cuốn sách được viết bằng một kỹ thuật đặc biệt đã được ông sử dụng để bảo mật các ý tưởng và chú giải của mình – phương pháp “viết trong gương”. Văn bản như vậy chỉ có thể được đọc bằng cách sử dụng chiếc gương. Điều này làm cho một tài liệu vốn đã hấp dẫn và vô giá lại càng trở nên bí ẩn hơn. Đối với những người đã quen với “Mật mã Leicester”, cuốn sách này không chỉ là một kiệt tác khoa học mà còn là một phần quan trọng của lịch sử nghệ thuật. Dường như việc kết hợp những khái niệm này là không thể nhưng da Vinci một lần nữa đã chứng minh cho mọi người thấy rằng, đối với ông thì không có gì là không thể trong cuộc sống này. Điều gì đã được mã hóa trong các văn bản bí ẩn của con người uyên bác nhất trong lịch sử nhân loại? “Mật mã Leicester” được đặt theo tên bá tước Anh Leicester, người đã mua nó vào năm 1717. Bản thảo chứa một bộ sưu tập ấn tượng các chú giải khoa học và các bản phác thảo của Leonardo da Vinci. Tất cả chúng đều được tác giả chia thành nhiều chương, mỗi chương dành cho một chủ đề khoa học riêng biệt. Trong phần đầu tiên, da Vinci đưa ra một số nhận xét sâu sắc về các đặc tính của nước. Chúng trở nên sống động với những bản phác thảo sinh động về xoáy nước, các con đập, dòng chảy trên sông và trên biển. Sau đó, nhà khoa học chú tâm vào việc nghiên cứu vũ trụ. Da Vinci luận bàn nhiều và chi tiết về thiên văn học và vũ trụ học, vẽ các miệng núi lửa trên mặt trăng, những quỹ đạo của các hành tinh và ghi dấu về bản chất của ánh sáng và bóng tối trên mặt trăng. Trong bản thảo có chứa thông tin vô giá về ngành địa chất. Nhà khoa học vĩ đại đã viết về sự hình thành hóa thạch, tính chất của tinh thể và bản chất của động đất. Phần tiếp theo là một loạt ký hiệu về tính chất của ánh sáng và quang học. Có một số hình vẽ và bản phác thảo minh họa các nguyên tắc phản xạ và khúc xạ ánh sáng, cũng như các ghi chép về đặc tính của thấu kính và hành vi của bóng đổ. Ngoài tất cả những điều trên, “Mật mã Leicester” còn bao gồm chủ đề về giải phẫu người, mà như đã biết, rất được nhà thiên tài thời Phục hưng này quan tâm. Bản thảo chứa các phác thảo và văn bản mô tả chi tiết cấu trúc và chức năng của cơ thể con người. Da Vinci đã phác thảo bộ xương và cơ bắp của con người, hệ thống tuần hoàn cũng như cấu trúc của mắt. Ngoài các mục đích nghiên cứu, theo các nhà khoa học, Leonardo da Vinci không có lý do nào khác. Trí tuệ say mê khám phá của ông đòi hỏi làm tài liệu về những ý tưởng mà ông chú tâm nghiên cứu. Một tài liệu phong phú như vậy là một ví dụ sinh động về sự hiếu kỳ vô cùng của bậc thầy này và sự đam mê tìm hiểu vũ trụ trong tất cả sự phức tạp và kỳ diệu của nó. Trong suốt cuộc đời mình, Leonardo đã quan tâm đến một số lượng lớn đáng kinh ngạc về các ngành khoa học. Sự hứng thú của ông bao gồm các lĩnh vực: Giải phẫu, thực vật học, thiên văn học, địa chất và nhiều thứ nữa. Cuốn mật mã được Leonardo da Vinci viết theo cách chỉ có thể đọc được với sự trợ giúp của một chiếc gương. Hơn thế, với tài năng của một họa sĩ, da Vinci đã truyền đạt những suy nghĩ và ý tưởng của mình, tạo ra những bức tranh minh họa đẹp và chi tiết vô cùng ấn tượng. Những bản phác thảo này là sự hiện thân thực sự các lý thuyết khoa học của ông. Chúng nổi bật cả về trực giác và trí tuệ. Do đó, bản thảo không chỉ trở thành một tài liệu khoa học mà còn được công nhận là kiệt tác nghệ thuật vĩ đại nhất. “Mật mã Leicester” cho đến ngày nay vẫn là một hình mẫu về hoạt động nghiên cứu khoa học độc đáo và sự kỳ diệu của tư duy. Xuyên suốt lịch sử, nhiều bộ óc khoa học đã cố gắng thâm nhập vào những bí mật của vũ trụ, tìm cách hiểu thế giới tự nhiên thông qua những sự quan sát và các thử nghiệm. Bản thảo của da Vinci không chỉ đóng góp cho khoa học bằng nội dung của nó, mà còn truyền cảm hứng cho nhiều người khác tiếp tục nghiên cứu những điều bí ẩn của vũ trụ. Những quan sát và lý thuyết của ông tiếp tục được các nhà khoa học ngày nay nghiên cứu và đánh giá cao, bởi chúng giúp tìm hiểu về tư duy của một trong những thiên tài khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử. “Mật mã Leicester” thực sự là kho báu vĩ đại nhất. Bởi đó là tập hợp những suy nghĩ và ý tưởng của một trong những thiên tài khoa học và nghệ thuật vĩ đại nhất mọi thời đại. Bản thảo độc đáo ở chỗ nó có giá trị không chỉ đối với khoa học và lịch sử, mà còn đối với giới nghệ thuật. Những bức vẽ tuyệt đẹp và những ý tưởng độc đáo tiếp tục truyền cảm hứng và mê hoặc các chuyên gia cũng như những người đam mê. Ngày nay, bản thảo thuộc về người đồng sáng lập Microsoft Bill Gates, một trong những người giàu nhất thế giới. Ông đã mua bản thảo nổi tiếng này vào năm 1994, trả một số tiền rất lớn vào thời điểm đó – gần 31 triệu đôla. Việc mua bán này đã khiến “Mật mã Leicester” trở nên nổi tiếng hơn, tạo ra một làn sóng quan tâm mới đối với bản thảo. Tất nhiên, nhật ký của da Vinci là bằng chứng quan trọng về sự đóng góp xuất sắc của bậc thầy vĩ đại thời Phục hưng đối với khoa học và sáng tạo. Tầm quan trọng của tài liệu lịch sử này chắc chắn sẽ được các thế hệ tương lai đánh giá cao. Thế giới khoa học không ngừng ngưỡng mộ thiên tài của da Vinci vĩ đại, hứng thú học hỏi những suy nghĩ và ý tưởng của ông, làm sáng tỏ nguyên tắc “viết trong gương”. Vẫn có những cuốn sách khoa học cổ điển đến mức ngay cả các nhà khoa học hiện đại cũng không thể giải mã được.
Khi đọc thơ Bùi Giáng (1926-1998) ai cũng bị chìm ngập trong cảm xúc mộng mị và nỗi buồn xót xa. Nhưng nổi bật trong cảm xúc thi ca ông là tình yêu thương cuộc đời và con người. Tính Phật pháp ăn sâu trong từng con chữ: ‘Rồi tôi lớn lên đi vào đời chân bước/ Cỏ mùa xuân bị giẫm nát không hay/ Chợt có lúc hai bàn chân dừng lại/ Người đi đâu? Xưa chính ở chỗ này’. Cỏ mùa xuân ấy chính là linh hồn trong thơ ông. Điều kỳ lạ trong cả hai giai đoạn sáng tác “Tỉnh” và “Mê” của Bùi Giáng luôn hiện lên hình ảnh xuân xanh hay xuân nồng, hoặc xuân vui, xuân buồn. Trong không ít giai thoại của thi sĩ về những cuộc tình thơ vơ vẩn và rối loạn tâm trí nhưng luôn ánh xạ dịu dàng và ấm áp của sắc xuân bát ngát nắng vàng. Những cuộc tình trong ông không hề cay đắng và chẳng oán trách một ai. Tình yêu dẫn dắt cuộc đời ông. Cho dù đơn phương hay cô độc nhưng bao giờ cũng vậy ông ngất ngưởng trong cõi mộng tình ái của riêng mình. Thi sĩ tự hát: “ Ngồi đây một bận với ta thôi/ Ủ lại xuân phơi giữa bốn trời/ Gió có dặt dìu về thủ thỉ/ Ngàn tùng soi bóng nước vơi vơi ” (Hương bay suối cũ). Đặc biệt ông có tình yêu “Kim cương” sau khi vợ mất đã lâu. Vẻ đẹp kiêu sa của nghệ sĩ Kim Cương ở tuổi 19 đã làm say đắm tâm hồn ông. Cho dù bị xa cách trong tưởng nhớ nhưng suốt bốn mươi năm thi sĩ vẫn thủy chung nỗi cô đơn của mình. Những chồi xuân luôn bật lên trong cơn điên loạn: “ Muôn đóa ngàn hồng đua rực rỡ/ Hoa Xuân như lửa nở vì ai “. Thi sĩ Bùi Giáng. Phải chăng đó là suối nguồn dâng hiến đã ướp hương xuân trong tâm hồn thơ Bùi Giáng luôn đằm thắm xanh tươi. Trong bài “Phụng Hiến” nhà thơ đã khóc với sự chia xa cuộc tình: “ Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết/ Sẽ rồi ra vĩnh biệt với người thôi/ Ta chết lặng bó tay đầu lắc/ Đài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi “. Sự ngộ về thời khắc xuân bị rụng rơi đã làm tâm hồn thi sĩ càng thêm yêu cuộc sống. Cho dù nỗi buồn day dứt con tim nhưng nhà thơ luôn hướng tới hy vọng: “ Anh mơ ước với ngàn xuân mở rộng/ Quên não nùng sa mạc của yêu thương/ Chân cứ bước theo nhịp hồn cử động/ Em là em anh đợi khắp nẻo đường ” (Ly tao). Phải chăng đó là đạo trong thơ của Bùi Giáng . Ông luôn tìm ra một triết lý nhân sinh nơi cửa Phật và tìm tới sự “Tĩnh lặng” du dương khi: “ Lệ đã chảy ròng ròng rớt xuống/ Với xuân về oanh yến rộn bên tai ” (Mưa nguồn). Hay đâu đó thật nồng nàn: “ Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên trường phía sau/ Tóc xanh dù có phai màu/ Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng ” (Nguyên xuân). Thậm chí nhà thơ còn khẳng định: “ Thưa rằng ly biệt mai sau/ Là trùng ngộ giữa hương màu nguyên xuân ” (Chào nguyên xuân). Người ta nói Bùi Giáng là một đạo sĩ thơ là vì thế. Lại nhớ có chuyện đạo sĩ luôn ngộ ra những điều ẩn ức trong sự bất thường. Có lần thi sĩ Bùi Giáng tìm tới nhà của kỳ nữ Kim Cương đã phải nheo mắt nói chuyện và không nhìn rõ nụ cười của người mình yêu. Bởi lúc này ông đã cập kề tuổi lục tuần. Thấy thế nghệ sĩ Kim Cương bèn mua tặng ông một chiếc kính. Thi sĩ khấp khởi vui mừng đi khoe khắp phố phường và một tháng sau chiếc kính đã bị trẻ con nô đùa rơi vỡ một mắt. Ông tiếc hùi hụi, khi đến nhà người yêu trong mộng lòng buồn phiền nhưng không dám nói gì. Nghệ sĩ Kim Cương dỗ sẽ mua cho ông mắt kính khác nhưng thi sĩ lắc đầu mà rằng: “Thôi cô, nhìn đời bằng một con mắt đủ rồi”. Ai ngờ câu nói này đã đi vào thơ ông một cách kỳ lạ: “ Bỏ trăng gió lại cho đời/ Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa/ Bỏ người yêu bỏ bóng ma/ Bỏ hình hài của tiên nga trên trời/ Bây giờ đối diện riêng tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con ” (Mắt buồn). Chính cái tứ này đã trở thành âm thanh chủ đạo cho một ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, bạn thân của Bùi Giáng. Đó là tình khúc nổi tiếng “Con mắt còn lại” với sự ám ảnh qua “Mắt buồn” của Bùi Giáng. Người đời thường nghĩ ông là nhà thơ hồn nhiên còn sót lại của thế kỷ. Nhưng từ năm 1962, “Mưa nguồn” đã là tác phẩm điển hình cho phong cách thơ trữ tình của Bùi Giáng. Sự biến dạng “hồn nhiên” hay “ngộ nghĩnh” trong thơ ông chỉ xuất hiện từ thập niên 70 thế kỷ XX sau đó. Đặc biệt thơ tình của Bùi Giáng có phong cách độc đáo thể hiện ngôn ngữ tượng trưng hòa lẫn nét truyền thống tinh tế. Những bài thơ hay nhất của ông dành cho người vợ đã mất vì bệnh hiểm nghèo. Đó là tình yêu thấm đẫm “Nguyên xuân”. Người đọc luôn nhớ đến những thi phẩm nổi bật trong tập thơ “Mưa nguồn”. Những thi phẩm thể hiện tài năng của Bùi Giáng như: “Phụng hiến”, “Không đủ gọi”, “Bờ lúa”; Hay có thể là “Biểu tượng”, “Màu xuân”, “Ly tao”; và có thể kể đến “Biểu tượng”, “Người đi đâu”, “Mắt buồn”… Đây cũng là những bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc chia sẻ nét lãng mạn kỳ ảo của Bùi Giáng. Thi sĩ Bùi Giáng với tác phẩm “Mưa nguồn”. Mỗi bài thơ của ông luôn để lại sự ám ảnh mộng ảo hoặc ấn tượng dị biệt có một không hai. Nếu ở bài “Mắt buồn” tạo nên sự huyễn mộng ở “Còn hai con mắt khóc người một con” thì ở thi phẩm “Ly tao” Bùi Giáng lại đóng triện cho biểu tượng những ngón tay huyền mi: “ Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt/ Để nhìn em qua khe hở du dương/ Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt/ Ồ thưa em ta thấy mộng vô thường “. Vẻ đẹp của tình yêu được ông luôn gây dấu ấn say đắm cho dù luôn ủ giấu nỗi buồn: “ Em có nụ cười buồn buồn mây mộng/ Em có làn mi khép lá cây rung/ Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng/ Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng !” (Ly tao). Người vợ xinh đẹp hiền thục của nhà thơ mất sớm là nỗi đau khổ tột cùng đem lại sự vang dội lắng sâu. Hai người chỉ sống với nhau có ba năm (từ 1945-1948) nhưng tình yêu đối với vợ của ông luôn là điểm tựa cho sáng tạo mãnh liệt qua những tập thơ xuất bản trước năm 1969. Từ đó nhà thơ sống trong hoài niệm, ẩn ức và mơ mộng với những cuộc tình thực và ảo trong đời mình. Những ngón tay phù du luôn hiện lên cùng con mắt hút hồn: “ Con mắt ấy vì sao em khép lại/ Làn mi kia em thử ngước lên nhìn/ Vòng tay đẹp như cành xuân thơ dại/ Ngón la đà sao chẳng chịu đưa tin ” (Một buổi trưa). Nếu với 40 năm ông tri kỷ và nuôi mộng yêu trong nỗi cô đơn với nhan sắc Kim Cương, thì cả đời ông lại sống thủy chung và sâu thẳm với nghĩa nặng phu thê cùng người vợ bạc mệnh. Đó chính là tình yêu có thực trong ông: “ Chợt ngoảnh lại thấy rằng em ngủ mất/ Em ngủ quên phiền sương rộng trăng ngà/ Hồn bỏ lại mộng thừa trong thớ đất/ Anh nhìn em trong suốt giữa xương da ” (Mầu xuân). Và thi sĩ luôn nhớ lời vợ trong suối mơ rằng: “ Em bảo rằng – Đừng tuyệt vọng nghe không/ Còn trang thơ thắm lại với trời hồng ” (Phụng hiến). Trong cảm thức nhà thơ luôn hài hước và ung dung tự tại ngay cả những lúc bệnh tình phát hỏa. Sức lao động của Bùi Giáng quả là phi thường. Ông là bậc kỳ tài trong thi ca và sự nghiệp văn chương. Trong gần ba mươi năm khổ đau vì bệnh tật nhưng ông vẫn viết sách, dịch thuật và nghiên cứu văn học cho đến khi mất. Đặc biệt là trước tác “Đoạn trường tân thanh” của thi hào Nguyễn Du gắn bó với ông suốt cả cuộc đời. Số lượng sách ông xuất bản đã lên tới cả trăm cuốn trong mọi lĩnh vực nghiên cứu và sáng tác. Một cuộc đời du thủ du thực đó đây. Sự lộng lẫy trong thơ đã tôn vinh ông thành “Tiên thi” vượt qua sự bấn loạn và phá cách về tư duy sáng tạo. Thơ Bùi Giáng vẫn còn là một bí ẩn cần được khám phá. Sự khoan dung và ngộ được thân phận mình nên ông luôn luôn “ Tìm trong đau đớn có hân hoan/ Lạnh giá hay không giấc mộng vàng “. Bởi ông nghĩ giữa sa mạc bao la cuộc đời, mỗi bàn chân bé bỏng luôn tìm về chốn thiên thai mộng ước tình thân. Ông cất tiếng “Chào nguyên xuân” với nỗi lòng tịnh độ: “ Xin chào nhau giữa bàn tay/ Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con/ Thưa rằng: những ngón tay thon/ Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau “. Nỗi nhớ ấy chính là tình yêu cuộc đời chói sáng trong thơ ca Bùi Giáng.
Khi đọc thơ Bùi Giáng (1926-1998) ai cũng bị chìm ngập trong cảm xúc mộng mị và nỗi buồn xót xa. Nhưng nổi bật trong cảm xúc thi ca ông là tình yêu thương cuộc đời và con người. Tính Phật pháp ăn sâu trong từng con chữ: ‘Rồi tôi lớn lên đi vào đời chân bước/ Cỏ mùa xuân bị giẫm nát không hay/ Chợt có lúc hai bàn chân dừng lại/ Người đi đâu? Xưa chính ở chỗ này’. Cỏ mùa xuân ấy chính là linh hồn trong thơ ông. Điều kỳ lạ trong cả hai giai đoạn sáng tác “Tỉnh” và “Mê” của Bùi Giáng luôn hiện lên hình ảnh xuân xanh hay xuân nồng, hoặc xuân vui, xuân buồn. Trong không ít giai thoại của thi sĩ về những cuộc tình thơ vơ vẩn và rối loạn tâm trí nhưng luôn ánh xạ dịu dàng và ấm áp của sắc xuân bát ngát nắng vàng. Những cuộc tình trong ông không hề cay đắng và chẳng oán trách một ai. Tình yêu dẫn dắt cuộc đời ông. Cho dù đơn phương hay cô độc nhưng bao giờ cũng vậy ông ngất ngưởng trong cõi mộng tình ái của riêng mình. Thi sĩ tự hát: “ Ngồi đây một bận với ta thôi/ Ủ lại xuân phơi giữa bốn trời/ Gió có dặt dìu về thủ thỉ/ Ngàn tùng soi bóng nước vơi vơi ” (Hương bay suối cũ). Đặc biệt ông có tình yêu “Kim cương” sau khi vợ mất đã lâu. Vẻ đẹp kiêu sa của nghệ sĩ Kim Cương ở tuổi 19 đã làm say đắm tâm hồn ông. Cho dù bị xa cách trong tưởng nhớ nhưng suốt bốn mươi năm thi sĩ vẫn thủy chung nỗi cô đơn của mình. Những chồi xuân luôn bật lên trong cơn điên loạn: “ Muôn đóa ngàn hồng đua rực rỡ/ Hoa Xuân như lửa nở vì ai “. Thi sĩ Bùi Giáng. Phải chăng đó là suối nguồn dâng hiến đã ướp hương xuân trong tâm hồn thơ Bùi Giáng luôn đằm thắm xanh tươi. Trong bài “Phụng Hiến” nhà thơ đã khóc với sự chia xa cuộc tình: “ Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết/ Sẽ rồi ra vĩnh biệt với người thôi/ Ta chết lặng bó tay đầu lắc/ Đài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi “. Sự ngộ về thời khắc xuân bị rụng rơi đã làm tâm hồn thi sĩ càng thêm yêu cuộc sống. Cho dù nỗi buồn day dứt con tim nhưng nhà thơ luôn hướng tới hy vọng: “ Anh mơ ước với ngàn xuân mở rộng/ Quên não nùng sa mạc của yêu thương/ Chân cứ bước theo nhịp hồn cử động/ Em là em anh đợi khắp nẻo đường ” (Ly tao). Phải chăng đó là đạo trong thơ của Bùi Giáng . Ông luôn tìm ra một triết lý nhân sinh nơi cửa Phật và tìm tới sự “Tĩnh lặng” du dương khi: “ Lệ đã chảy ròng ròng rớt xuống/ Với xuân về oanh yến rộn bên tai ” (Mưa nguồn). Hay đâu đó thật nồng nàn: “ Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân phía trước miên trường phía sau/ Tóc xanh dù có phai màu/ Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng ” (Nguyên xuân). Thậm chí nhà thơ còn khẳng định: “ Thưa rằng ly biệt mai sau/ Là trùng ngộ giữa hương màu nguyên xuân ” (Chào nguyên xuân). Người ta nói Bùi Giáng là một đạo sĩ thơ là vì thế. Lại nhớ có chuyện đạo sĩ luôn ngộ ra những điều ẩn ức trong sự bất thường. Có lần thi sĩ Bùi Giáng tìm tới nhà của kỳ nữ Kim Cương đã phải nheo mắt nói chuyện và không nhìn rõ nụ cười của người mình yêu. Bởi lúc này ông đã cập kề tuổi lục tuần. Thấy thế nghệ sĩ Kim Cương bèn mua tặng ông một chiếc kính. Thi sĩ khấp khởi vui mừng đi khoe khắp phố phường và một tháng sau chiếc kính đã bị trẻ con nô đùa rơi vỡ một mắt. Ông tiếc hùi hụi, khi đến nhà người yêu trong mộng lòng buồn phiền nhưng không dám nói gì. Nghệ sĩ Kim Cương dỗ sẽ mua cho ông mắt kính khác nhưng thi sĩ lắc đầu mà rằng: “Thôi cô, nhìn đời bằng một con mắt đủ rồi”. Ai ngờ câu nói này đã đi vào thơ ông một cách kỳ lạ: “ Bỏ trăng gió lại cho đời/ Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa/ Bỏ người yêu bỏ bóng ma/ Bỏ hình hài của tiên nga trên trời/ Bây giờ đối diện riêng tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con ” (Mắt buồn). Chính cái tứ này đã trở thành âm thanh chủ đạo cho một ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, bạn thân của Bùi Giáng. Đó là tình khúc nổi tiếng “Con mắt còn lại” với sự ám ảnh qua “Mắt buồn” của Bùi Giáng. Người đời thường nghĩ ông là nhà thơ hồn nhiên còn sót lại của thế kỷ. Nhưng từ năm 1962, “Mưa nguồn” đã là tác phẩm điển hình cho phong cách thơ trữ tình của Bùi Giáng. Sự biến dạng “hồn nhiên” hay “ngộ nghĩnh” trong thơ ông chỉ xuất hiện từ thập niên 70 thế kỷ XX sau đó. Đặc biệt thơ tình của Bùi Giáng có phong cách độc đáo thể hiện ngôn ngữ tượng trưng hòa lẫn nét truyền thống tinh tế. Những bài thơ hay nhất của ông dành cho người vợ đã mất vì bệnh hiểm nghèo. Đó là tình yêu thấm đẫm “Nguyên xuân”. Người đọc luôn nhớ đến những thi phẩm nổi bật trong tập thơ “Mưa nguồn”. Những thi phẩm thể hiện tài năng của Bùi Giáng như: “Phụng hiến”, “Không đủ gọi”, “Bờ lúa”; Hay có thể là “Biểu tượng”, “Màu xuân”, “Ly tao”; và có thể kể đến “Biểu tượng”, “Người đi đâu”, “Mắt buồn”… Đây cũng là những bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc chia sẻ nét lãng mạn kỳ ảo của Bùi Giáng. Thi sĩ Bùi Giáng với tác phẩm “Mưa nguồn”. Mỗi bài thơ của ông luôn để lại sự ám ảnh mộng ảo hoặc ấn tượng dị biệt có một không hai. Nếu ở bài “Mắt buồn” tạo nên sự huyễn mộng ở “Còn hai con mắt khóc người một con” thì ở thi phẩm “Ly tao” Bùi Giáng lại đóng triện cho biểu tượng những ngón tay huyền mi: “ Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt/ Để nhìn em qua khe hở du dương/ Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt/ Ồ thưa em ta thấy mộng vô thường “. Vẻ đẹp của tình yêu được ông luôn gây dấu ấn say đắm cho dù luôn ủ giấu nỗi buồn: “ Em có nụ cười buồn buồn mây mộng/ Em có làn mi khép lá cây rung/ Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng/ Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng !” (Ly tao). Người vợ xinh đẹp hiền thục của nhà thơ mất sớm là nỗi đau khổ tột cùng đem lại sự vang dội lắng sâu. Hai người chỉ sống với nhau có ba năm (từ 1945-1948) nhưng tình yêu đối với vợ của ông luôn là điểm tựa cho sáng tạo mãnh liệt qua những tập thơ xuất bản trước năm 1969. Từ đó nhà thơ sống trong hoài niệm, ẩn ức và mơ mộng với những cuộc tình thực và ảo trong đời mình. Những ngón tay phù du luôn hiện lên cùng con mắt hút hồn: “ Con mắt ấy vì sao em khép lại/ Làn mi kia em thử ngước lên nhìn/ Vòng tay đẹp như cành xuân thơ dại/ Ngón la đà sao chẳng chịu đưa tin ” (Một buổi trưa). Nếu với 40 năm ông tri kỷ và nuôi mộng yêu trong nỗi cô đơn với nhan sắc Kim Cương, thì cả đời ông lại sống thủy chung và sâu thẳm với nghĩa nặng phu thê cùng người vợ bạc mệnh. Đó chính là tình yêu có thực trong ông: “ Chợt ngoảnh lại thấy rằng em ngủ mất/ Em ngủ quên phiền sương rộng trăng ngà/ Hồn bỏ lại mộng thừa trong thớ đất/ Anh nhìn em trong suốt giữa xương da ” (Mầu xuân). Và thi sĩ luôn nhớ lời vợ trong suối mơ rằng: “ Em bảo rằng – Đừng tuyệt vọng nghe không/ Còn trang thơ thắm lại với trời hồng ” (Phụng hiến). Trong cảm thức nhà thơ luôn hài hước và ung dung tự tại ngay cả những lúc bệnh tình phát hỏa. Sức lao động của Bùi Giáng quả là phi thường. Ông là bậc kỳ tài trong thi ca và sự nghiệp văn chương. Trong gần ba mươi năm khổ đau vì bệnh tật nhưng ông vẫn viết sách, dịch thuật và nghiên cứu văn học cho đến khi mất. Đặc biệt là trước tác “Đoạn trường tân thanh” của thi hào Nguyễn Du gắn bó với ông suốt cả cuộc đời. Số lượng sách ông xuất bản đã lên tới cả trăm cuốn trong mọi lĩnh vực nghiên cứu và sáng tác. Một cuộc đời du thủ du thực đó đây. Sự lộng lẫy trong thơ đã tôn vinh ông thành “Tiên thi” vượt qua sự bấn loạn và phá cách về tư duy sáng tạo. Thơ Bùi Giáng vẫn còn là một bí ẩn cần được khám phá. Sự khoan dung và ngộ được thân phận mình nên ông luôn luôn “ Tìm trong đau đớn có hân hoan/ Lạnh giá hay không giấc mộng vàng “. Bởi ông nghĩ giữa sa mạc bao la cuộc đời, mỗi bàn chân bé bỏng luôn tìm về chốn thiên thai mộng ước tình thân. Ông cất tiếng “Chào nguyên xuân” với nỗi lòng tịnh độ: “ Xin chào nhau giữa bàn tay/ Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con/ Thưa rằng: những ngón tay thon/ Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau “. Nỗi nhớ ấy chính là tình yêu cuộc đời chói sáng trong thơ ca Bùi Giáng.
Wisława Szymborska là nhà thơ Ba Lan đoạt Giải thưởng Nobel Văn học năm 1996. Bà sinh vào ngày 02/07/1923 tại Bnin (nay là Kórnik, gần Poznań) và mất vào ngày 01/02/2012 tại Kraków. Giai đoạn 1945-1947, Wisława Szymborska học văn học Ba Lan và xã hội học tại Đại học Jagielloński. Năm 1945, bà khởi đầu sự nghiệp sáng tác với bài thơ Szukam słowa (Tôi tìm lời). Năm 1952, Wisława Szymborska được kết nạp vào Hội Nhà văn Ba Lan. Trong thời gian từ năm 1953 đến năm 1981 bà làm biên tập viên thơ, viết xã luận trên tuần báo Życie Literackie (Đời sống văn học). Ngoài hoạt động sáng tác, biên tập thơ Wisława Szymborska còn dịch thơ tiếng Pháp, tiếng Nga ra tiếng Ba Lan. Vào năm 1952, Wisława Szymborska xuất bản tập thơ đầu tiên Dlatego żyjemy (Vì lẽ này chúng ta đang sống). Tiếp theo là các tập thơ: Pytania zadawane sobie (Những câu hỏi cho mình, 1954), Wołanie do yeti (Lời kêu gọi đối với người tuyết, 1957), Sól (Muối, 1962), Sili (1965), Poezje wybrane (Tuyển thơ, 1967), Sto pociech (Một trăm trò hề, 1967), Poezje (Thơ, 1970), Wszelki wypadek (Trư?ng h?p b?t k?, 1972), ờng hợp bất kì, 1972), Tarsjusz i inne wiersze (Tarsius và những bài thơ khác, 1976), Wielka liczba (Số lớn, 1976), Ludzie na moście (Những người trên cầu, 1985), Wieczór autorski (Buổi chiều của tác giả, 1992), Koniec i początek (Kết thúc và mở đầu, 1993), Dwukropek (Dấu hai chấm, 2005), Tutaj (Ở đây, 2012). Thơ của Wisława Szymborska đã được dịch ra gần 40 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Nhà thơ Wisława Szymborska đã được tặng nhiều giải thưởng văn học. Năm 1954 bà được tặng giải thưởng của thành phố Kraków; năm 1963 bà đoạt giải Văn học của Bộ trưởng Văn hóa Ba Lan; năm 1991 giải Goethe của Đức và năm 1995 giải thưởng Herder của Áo. Bà được trao giải thưởng Hội Văn bút Ba Lan (1996). Năm 1996, Nhà thơ Wisława Szymborska được trao giải thưởng Nobel Văn học. Nhà thơ Wisława Szymborska đã được Tổng thống nước Cộng hòa Ba Lan vinh danh và trao tặng Huân chương Đại bàng trắng – huân chương cao quý nhất của Ba Lan vì có đóng góp to lớn cho nền văn hóa dân tộc và thành tựu xuất sắc trong sáng tác văn học (2011). Wisława Szymborska được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Adam Mickiewicz tại Poznań (1995) và là Viện sĩ danh dự của Viện Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ từ năm 2001. Có thể coi hài hước là chất nổi bật nhất trong thơ Wisława Szymborska. Nhà thơ đã thể hiện chất hài hước đối với thế giới, đối với người khác và cả với chính mình. Xin gửi tới bạn đọc một số tác phẩm của nữ nhà thơ Ba Lan Wisława Szymborska do Hoàng Xuân Thường dịch chuyển ngữ. Nhà thơ Wisława Szymborska, nguồn ảnh: Pinterest. Rozwód Dla dzieci pierwszy w życiu koniec świata. Dla kotka nowy Pan. Dla pieska nowa Pani. Dla mebli schody, łomot, wóz i przewóz. Dla ścian jasne kwadraty po zdjętych obrazach. Dla sąsiadów z parteru temat, przerwa w nudzie. Dla samochodu lepiej gdyby były dwa. Dla powieści, poezji – zgoda, bierz co chcesz. Gorzej z encyklopedią i sprzętem wideo, no i z tym poradnikiem poprawnej pisowni, gdzie chyba są wskazówki w kwestii dwojga imion – czy jeszcze łączyć je spójnikiem “i”, czy już rozdzielać kropką. Ly hôn Đối với trẻ em là sự tận thế đầu tiên trong cuộc đời. Đối với con mèo là ông chủ mới. Đối với con chó là bà chủ mới. Đối với đồ nội thất là cầu thang, va chạm, xe đẩy và chuyển đồ. Đối với những bức tường là những ô vuông sáng sau khi những bức hình được tháo ra. Đối với những người hàng xóm ở tầng trệt là đề tài (đàm tiếu), một cuộc chia tay trong buồn chán. Đối với xe con sẽ tốt hơn nếu có hai chiếc. Đối với tiểu thuyết, thơ ca là sự đồng ý, hãy lấy thứ gì bạn muốn. Tệ hơn với bách khoa toàn thư và thiết bị video, và với sách hướng dẫn luật chính tả này, nơi có lẽ có các chỉ dẫn ghi họ tên hai người – hoặc chúng vẫn liên kết với nhau, hoặc đã cách ngăn bằng dấu chấm. Tranh “The Milkmaid” của Johannes Vermeer. Nguồn sothebys Vermeer Do­pó­ki ta ko­bie­ta z Rijk­smu­seum w na­ma­lo­wa­nej ci­szy i sku­pie­niu mle­ko z dzban­ka do mi­ski dzień po dniu prze­le­wa, nie za­słu­gu­je Świat na ko­niec świa­ta. Dịch ý: Vermeer Khi người phụ nữ này trong bức tranh ở bảo tàng Rijksmuseum (1) vẫn ngày lại ngày lặng lẽ tập trung vào việc rót sữa từ bình vào bát, thì thế giới không đáng chịu tận thế. Dịch thơ: Vermeer Khi cô gái trong tranh Tại bảo tàng Rijk (1) Trong tĩnh lặng ưa thích Tập trung rót sữa ngon Thì thế giới vẫn còn Không đáng là tận thế. ————– Bảo tàng Rijksmuseum ở Amsterdam, Hà Lan nơi trưng bày bức tranh “Cô gái vắt sữa” của họa sỹ Hà Lan Johannes Vermeer (1632-1675).
Wisława Szymborska is a Polish poet who won the Nobel Prize in Literature in 1996. She was born on July 2, 1923 in Bnin (now Kórnik, near Poznań) and died on February 1, 2012 in Kraków. During the period 1945-1947, Wisława Szymborska studied Polish literature and sociology at Jagielloński University. In 1945, she began her writing career with the poem Szukam słowa (I am looking for words). In 1952, Wisława Szymborska was admitted to the Polish Writers' Union. From 1953 to 1981 she worked as a poetry editor and editorial writer for the weekly Życie Literackie (Literary Life). In addition to composing and editing poetry, Wisława Szymborska also translated French and Russian poetry into Polish. In 1952, Wisława Szymborska published her first poetry collection Dlatego żyjemy (For This We Live). This was followed by poetry collections: Pytania zadawane sobie (Questions for myself, 1954), Wołanie do yeti (An appeal to the yeti, 1957), Sól (Salt, 1962), Sili (1965), Poezje wybrane ( Anthology of poetry, 1967), Sto pociech (One hundred farces, 1967), Poezje (Poetry, 1970), Wszelki wypadek (School of life, 1972), any case, 1972), Tarsjusz i inne wiersze (Tarsius and other poems, 1976), Wielka liczba (Large number, 1976), Ludzie na moście (People on the bridge, 1985), Wieczór autorski (The author's afternoon, 1992), Koniec i początek ( Ending and Beginning, 1993), Dwukropek (Colon, 2005), Tutaj (Here, 2012). Wisława Szymborska's poetry has been translated into nearly 40 languages, including Vietnamese. Poet Wisława Szymborska has been awarded many literary awards. In 1954 she was awarded a prize from the city of Kraków; in 1963 she won the Polish Minister of Culture's Literature Prize; in 1991 Germany's Goethe Prize and in 1995 Austria's Herder Prize. She was awarded the Polish Writers Association Award (1996). In 1996, Poet Wisława Szymborska was awarded the Nobel Prize in Literature. Poet Wisława Szymborska was elected President of the country Republic of Poland Honored and awarded the Order of the White Eagle - Poland's highest honor for great contributions to national culture and outstanding achievements in literary composition (2011). Wisława Szymborska was awarded an honorary Doctorate from Adam Mickiewicz University in Poznań (1995) and has been an Honorary Academician of the American Academy of Arts and Letters since 2001. Humor can be considered the most prominent quality in Wisława Szymborska's poetry. The poet showed humor towards the world, towards others and even towards himself. We would like to send to our readers some works of Polish female poet Wisława Szymborska translated by Hoang Xuan Thuong. Poet Wisława Szymborska, photo source: Pinterest. Rozwód Dla dzieci pierwszy w życiu koniec świata. Dla kotka nowy Pan. Dla pieska nowa Pani. Dla mebli schody, łomot, wóz i przewóz. Dla ścian jasne kwadraty po zdjętych obrazach. Dla sąsiadów z parteru temat, przerwa w nudzie. Dla samochodu lepiej gdyby były dwa. Dla powieści, poezji – zgoda, bierz co chcesz. Gorzej z encyklopedią i sprzętem wideo, no i z tym poradnikiem poprawnej pisowni, gdzie chyba są wskazówki w kwestii dwojga imion – czy jeszcze łączyć je spójnikiem “i”, czy już rozdzielać kropką. Divorce For children is the first apocalypse in life. For the cat is the new boss. For the dog is the new mistress. For furniture are stairs, collisions, carts and moving furniture. For the walls are bright squares after the pictures are removed. For the neighbors on the ground floor, it was a topic (of gossip), a boring farewell. For cars, it is better to have two. For novels, poetry is a yes, take what you want. Worse with encyclopedias and video equipment, and with this spelling rules guide, where there were probably instructions listing both of their names – or they're still linked together, or separated by dots. Painting “The Milkmaid” by Johannes Vermeer. Source sothebys Vermeer Dopóki ta kobieta z Rijksmuseum w namalowanej ciszy i skupieniu mleko z dzbanka do miski dzień po dniu przelewa, nie zasługuje Świat na koniec świata. Translation: Vermeer When this woman in the painting at the Rijksmuseum (first) still day after day Quietly focus on work pour milk from the jug into the bowl, then the world does not deserve the end of the world. Poetry translation: Vermeer When the girl in the painting At the Rijk museum (first) In preferred silence Focus on pouring delicious milk Then the world still exists It's not worth the end of the world. ————– The Rijksmuseum in Amsterdam, Netherlands displays the painting "The Milkmaid" by Dutch artist Johannes Vermeer (1632-1675).
Nói tới văn Phùng Cung nguời ta nghĩ đến truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” đăng trên báo Nhân Văn số 4 (10.1956). Vì cái truyện này mà ông bị cho là thuộc nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm” và bị lâm nạn. Thực sự ông không thuộc nhóm văn chương đó. Cái truyện đó là do nhà thơ Hoàng Cầm , một người trong nhóm lấy đăng (về sau trong hồi ký của mình Hoàng Cầm đã hối hận về việc này khiến bạn mình phải chịu nạn). Nhà văn Phùng Cung (1928 – 1998). Truyện kể về con tuấn mã Kim Bông của lão Nông ở làng Phương Lộ “có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thế “cao đầu phóng vĩ” của nòi ngựa chiến”. Con Kim Bông luôn giật giải đầu trong mọi cuộc đua ngựa. Tiếng tăm con ngựa hay truyền đến tai chúa Trịnh. Thế là Kim Bông được đưa vào cung, tuấn mã bị biến thành mã lệnh, hai bên mắt bị che hai chiếc lá đa chỉ để nhìn được một chiều. Nó không còn được sải vó trên đường đua mà chỉ chạy trong cung, ngày ngày kéo xe phục vụ các ông hoàng bà chúa cho đến lúc già yếu. Khi lại được đưa ra trận thì hỡi ôi sức tàn lực kiệt nó đã gục chết bên đường. “Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng hai chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế “cao đầu phóng vĩ”. Do truyện “Con ngựa già của chúa Trịnh”, Phùng Cung bị kỷ luật. Nhưng ông vẫn viết và sáng tác của ông vẫn theo tinh thần cái truyện đầu tay. Đầu những năm 1960 ông tập hợp khoảng ba mươi truyện thành một tập và đưa bản thảo cho một số bạn bè văn chương đọc. Bản thảo sau đó bị thất lạc, nhưng không hiểu sao lãnh đạo biết là có tập truyện này. Thế là Phùng Cung bị đi tù từ đầu 1961 đến cuối 1972 mới được thả. Ra tù ông cố nhớ lại cũng chỉ viết lại được mười truyện. Như vậy có thể nói cộng cả “Con ngựa già của chúa Trịnh” thì văn xuôi của Phùng Cung chỉ có mười một truyện. Những thông tin này có trong bài viết để đầu sách của PGS, TS Đỗ Lai Thuý, Viện trưởng Viện Nhân học Văn hoá. Tập sách này gồm chín truyện của Phùng Cung. Ngoài truyện “Con ngựa già của chúa Trịnh”, các truyện khác đều thể hiện cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc của nhà văn trước nguy cơ huỷ hoại các giá trị văn hoá dân tộc đã manh nha từ sớm. Truyện “Biệt tích” kể về phó Lâm, một người thợ mộc giỏi, “ một người thợ chẳng những cẩn thận trong công việc, đặc biệt chuộng vẻ đẹp, trân trọng vẻ đẹp, từ một nhát rìu đẽo, đến từng lỗ đục, phó vừa làm, vừa ngắm say sưa, cả đến cái cán đục, dùi đục cũng đều phải tốt, phải đẹp – đồ nghề đẹp khi làm không chán tay .” (tr. 142). Phó Lâm là người thợ mộc am tường tiếng nói của cây cối, của gỗ. Khi cái cây chết đi thành gỗ nó vẫn mong được để lại dấu tích mình trong những thứ đồ đạc tinh xảo, đẹp đẽ nhờ những người thợ giỏi có bàn tay vàng và lòng tự trọng. “ Bởi vậy, khi phó Lâm đã động tay cắt, dọc, đục bào một thanh gỗ nào dù to, nhỏ đều đắn đo, cân nhắc. Với phó Lâm, tua, mộng là tuyệt kỹ, khi đã vào mộng, không tháo ra, chêm lại làm đau gỗ. Chỉ một lần đã ghép lại, tưởng như thiên thành. Mọi chi tiết của từng loại được cắn mực, cắn chỉ, một nước bào lau cuối cùng là gỗ nổi mặt lụa, lên ngôi .” (tr. 150). Làm nghề với cái tâm, cái mỹ như vậy nên khi được uỷ ban giao đóng một lô bàn, tủ, phó Lâm đã dồn hết tâm huyết và tài nghệ của mình vào công việc để đáp lại tình người, tình gỗ. Nhưng ông không ngờ là các vị uỷ ban không cần đến cái đẹp của đồ gỗ, “ Bàn giấy Uỷ ban không cần chân công, chân lươn, không soi, chỉ” . Khi nhìn mấy chiếc bàn mẫu mà uỷ ban đưa ra cho mình theo để đóng, phó Lâm giật mình: “ Bàn không có tua, mộng gì cả, chỉ ghép lại bằng đinh năm phân chặt bỏ mũi, đóng ngậm “. Ông từ chối không làm kiểu bàn uỷ ban này vì trái với lương tâm nghề nghiệp, trái với thiên chức của nghề. Thế là ông bị vu dây dưa công việc để có “âm mưu” với kẻ xấu, phá hoại chính quyền. Rốt cuộc ông bỏ vợ con, biến khỏi làng, không biết đi đâu. Bà Lâm đi tìm chồng, được một người làng cho biết, “ bữa nọ, vào lúc mặt trời gác núi, chính mắt bà ta nhìn thấy ai như phó Lâm vai vác rìu, tay xách hòm đục đi ngược dòng sông hướng núi Tản Viên. Ông ta đi trên mặt nước như người đi trên đường vậy .” (tr. 162). Truyện “Mộ phách” kể về đôi vợ chồng kép Chản đào Khuê say nghề hát ca trù. Chồng đánh đàn đáy, vợ gõ phách, lời ca tiếng hát say nhau, say người một thuở. Nhưng thứ nghệ thuật cổ truyền này không được chấp nhận ở thời mới. Nó bị coi là thứ mê tín, dị đoan nhảm nhí, phải bị cấm đoán, bài trừ. Nhớ nghề xưa, vợ chồng Tư Chản đã chọn một đêm cúng tổ nghề bày một cuộc hát ở nhà sau khi đã nghe ngóng không cho âm vọng tiếng đàn tiếng hát lọt khỏi nhà mình. Nhưng nó vẫn lọt được vào tai ông uỷ viên văn hoá xã đứng rình nghe. “ Đêm ca bất hạnh! Hai vợ chồng xót xa nhặt lên tay những âm thanh giập nát. Những suy nghĩ còn ở trong lòng mà vẫn phải nhìn trước nhìn sau. Hai người nhìn nhau chứa chan nước mắt, nuối tiếc cái thời bước chân của đàn phách in dấu mọi nẻo đường bời bời nỗi nhớ tri âm .” (tr. 200). Bi kịch của họ ngờ đâu lại đến từ trong nhà. Đứa con trai của họ đang đi lính một lần về phép thăm nhà đã đập nát cây đàn đáy của bố như một quyết tâm từ bỏ quá khứ cũ lạc hậu của bố mẹ mình để sớm được đứng trong hàng ngũ Đảng. Ông Chản vì việc ấy mà mất. Bà Chản mất chồng mất người bạn tri âm nghệ thuật liền quyết định chôn cỗ kim phách mà bà coi là “phách mệnh” của mình. Bà đi chợ mua về ba vuông vải trắng làm đồ liệm. Phùng Cung viết về cuộc chôn phách thế này: “ Sau bữa cúng cơm chiều, bà Chản lấy phách ra lau rượu lần cuối; mùi rượu dâng men cuốn theo cả cái mùi tục luỵ của dĩ vãng đăng đắng tan bay. Bà Chản gói kín phách trong ba vuông vải trắng, bên ngoài bọc vuông nhiễu điều. Khâm liệm xong, bà Chản nâng phách lên đặt cạnh bát hương, đốt thêm ba nén, có ý để vong linh chồng chứng cảnh. Bà Chản lại hạ phách xuống khâm liệm lại; vuông nhiễu điều áo phách được gói bên trong, vải trắng gói bên ngoài; vẫn cứ băn khoăn, bối rối, không biết thế nào là phải. Chờ lúc chạng vạng, bà Chản mang cỗ phách ra phía bờ ao, tìm nơi mai táng. Nách bên trái ủ chặt phách; tay phải cầm một cái sén cấy rau, bà Chản vừa khóc vừa cạy đất. Cạy đến hai, ba chỗ, chưa thấy yên lòng, lại lấp đi, lại đào tiếp một huyệt, lấp đất và nói xuống huyệt: “Bạn không ở lại, đời đào Khuê chả biết ngày mai ra sao. Đào Khuê đặt bạn nằm yên đây để bạn khỏi bơ vơ!” – hai bàn tay bóp đất, vun một nấm mộ nhỏ vừa bằng chiếc gối đầu để có thể ở trong nhà vẫn nhìn thấy .” (tr. 236-237). Đọc truyện này có thể liên tưởng tới truyện “Mê thảo” của Nguyễn Tuân. Các truyện ngắn của Phùng Cung vừa có tính hiện thực vừa có tính dự báo. Được viết ra từ hơn sáu chục năm trước đọc chúng hôm nay để biết một thời và để suy ngẫm không chỉ một thời. Ông là một nhà văn quyết liệt, không khoan nhượng với những ai, những gì làm tha hoá con người, tha hoá văn hoá. Ông là một người khổ nạn chữ. Khi vào tù ông vẫn tiếp tục viết, cố nhiên là bằng cách nhẩm trong đầu. Nhưng cách này chỉ hợp với thơ hơn là với văn. Vì vậy khi ra tù ông đã có hàng trăm bài thơ được nhớ lại và một phần trong đó đã được in thành tập “Xem đêm” (Nhà xuất bản Văn hoá – Thông tin, 1995, tái bản 2012). Căn cứ vào sự xuất bản này, năm 2012 Hội Nhà Văn Hà Nội đã trao giải “Thành tựu về Thơ” cho Phùng Cung. Bây giờ tập truyện ngắn Phùng Cung lần đầu tiên được ra mắt độc giả. Nó cho thấy đầy đủ hơn sự nghiệp văn chương của ông. Nó cho thấy một nhân cách và văn cách của ông. Nó làm rõ thêm một giai đoạn văn học có nhiều u uẩn, khúc mắc. Đọc thơ và truyện của Phùng Cung ta càng thấy chất “Trà Tân Cương” ở ông: Quất mãi nước sôi Trà đau nát bã Không đổi giọng Tân Cương. Hà Nội, 31.12.2022
Nói tới văn Phùng Cung nguời ta nghĩ đến truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” đăng trên báo Nhân Văn số 4 (10.1956). Vì cái truyện này mà ông bị cho là thuộc nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm” và bị lâm nạn. Thực sự ông không thuộc nhóm văn chương đó. Cái truyện đó là do nhà thơ Hoàng Cầm , một người trong nhóm lấy đăng (về sau trong hồi ký của mình Hoàng Cầm đã hối hận về việc này khiến bạn mình phải chịu nạn). Nhà văn Phùng Cung (1928 – 1998). Truyện kể về con tuấn mã Kim Bông của lão Nông ở làng Phương Lộ “có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thế “cao đầu phóng vĩ” của nòi ngựa chiến”. Con Kim Bông luôn giật giải đầu trong mọi cuộc đua ngựa. Tiếng tăm con ngựa hay truyền đến tai chúa Trịnh. Thế là Kim Bông được đưa vào cung, tuấn mã bị biến thành mã lệnh, hai bên mắt bị che hai chiếc lá đa chỉ để nhìn được một chiều. Nó không còn được sải vó trên đường đua mà chỉ chạy trong cung, ngày ngày kéo xe phục vụ các ông hoàng bà chúa cho đến lúc già yếu. Khi lại được đưa ra trận thì hỡi ôi sức tàn lực kiệt nó đã gục chết bên đường. “Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng hai chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế “cao đầu phóng vĩ”. Do truyện “Con ngựa già của chúa Trịnh”, Phùng Cung bị kỷ luật. Nhưng ông vẫn viết và sáng tác của ông vẫn theo tinh thần cái truyện đầu tay. Đầu những năm 1960 ông tập hợp khoảng ba mươi truyện thành một tập và đưa bản thảo cho một số bạn bè văn chương đọc. Bản thảo sau đó bị thất lạc, nhưng không hiểu sao lãnh đạo biết là có tập truyện này. Thế là Phùng Cung bị đi tù từ đầu 1961 đến cuối 1972 mới được thả. Ra tù ông cố nhớ lại cũng chỉ viết lại được mười truyện. Như vậy có thể nói cộng cả “Con ngựa già của chúa Trịnh” thì văn xuôi của Phùng Cung chỉ có mười một truyện. Những thông tin này có trong bài viết để đầu sách của PGS, TS Đỗ Lai Thuý, Viện trưởng Viện Nhân học Văn hoá. Tập sách này gồm chín truyện của Phùng Cung. Ngoài truyện “Con ngựa già của chúa Trịnh”, các truyện khác đều thể hiện cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc của nhà văn trước nguy cơ huỷ hoại các giá trị văn hoá dân tộc đã manh nha từ sớm. Truyện “Biệt tích” kể về phó Lâm, một người thợ mộc giỏi, “ một người thợ chẳng những cẩn thận trong công việc, đặc biệt chuộng vẻ đẹp, trân trọng vẻ đẹp, từ một nhát rìu đẽo, đến từng lỗ đục, phó vừa làm, vừa ngắm say sưa, cả đến cái cán đục, dùi đục cũng đều phải tốt, phải đẹp – đồ nghề đẹp khi làm không chán tay .” (tr. 142). Phó Lâm là người thợ mộc am tường tiếng nói của cây cối, của gỗ. Khi cái cây chết đi thành gỗ nó vẫn mong được để lại dấu tích mình trong những thứ đồ đạc tinh xảo, đẹp đẽ nhờ những người thợ giỏi có bàn tay vàng và lòng tự trọng. “ Bởi vậy, khi phó Lâm đã động tay cắt, dọc, đục bào một thanh gỗ nào dù to, nhỏ đều đắn đo, cân nhắc. Với phó Lâm, tua, mộng là tuyệt kỹ, khi đã vào mộng, không tháo ra, chêm lại làm đau gỗ. Chỉ một lần đã ghép lại, tưởng như thiên thành. Mọi chi tiết của từng loại được cắn mực, cắn chỉ, một nước bào lau cuối cùng là gỗ nổi mặt lụa, lên ngôi .” (tr. 150). Làm nghề với cái tâm, cái mỹ như vậy nên khi được uỷ ban giao đóng một lô bàn, tủ, phó Lâm đã dồn hết tâm huyết và tài nghệ của mình vào công việc để đáp lại tình người, tình gỗ. Nhưng ông không ngờ là các vị uỷ ban không cần đến cái đẹp của đồ gỗ, “ Bàn giấy Uỷ ban không cần chân công, chân lươn, không soi, chỉ” . Khi nhìn mấy chiếc bàn mẫu mà uỷ ban đưa ra cho mình theo để đóng, phó Lâm giật mình: “ Bàn không có tua, mộng gì cả, chỉ ghép lại bằng đinh năm phân chặt bỏ mũi, đóng ngậm “. Ông từ chối không làm kiểu bàn uỷ ban này vì trái với lương tâm nghề nghiệp, trái với thiên chức của nghề. Thế là ông bị vu dây dưa công việc để có “âm mưu” với kẻ xấu, phá hoại chính quyền. Rốt cuộc ông bỏ vợ con, biến khỏi làng, không biết đi đâu. Bà Lâm đi tìm chồng, được một người làng cho biết, “ bữa nọ, vào lúc mặt trời gác núi, chính mắt bà ta nhìn thấy ai như phó Lâm vai vác rìu, tay xách hòm đục đi ngược dòng sông hướng núi Tản Viên. Ông ta đi trên mặt nước như người đi trên đường vậy .” (tr. 162). Truyện “Mộ phách” kể về đôi vợ chồng kép Chản đào Khuê say nghề hát ca trù. Chồng đánh đàn đáy, vợ gõ phách, lời ca tiếng hát say nhau, say người một thuở. Nhưng thứ nghệ thuật cổ truyền này không được chấp nhận ở thời mới. Nó bị coi là thứ mê tín, dị đoan nhảm nhí, phải bị cấm đoán, bài trừ. Nhớ nghề xưa, vợ chồng Tư Chản đã chọn một đêm cúng tổ nghề bày một cuộc hát ở nhà sau khi đã nghe ngóng không cho âm vọng tiếng đàn tiếng hát lọt khỏi nhà mình. Nhưng nó vẫn lọt được vào tai ông uỷ viên văn hoá xã đứng rình nghe. “ Đêm ca bất hạnh! Hai vợ chồng xót xa nhặt lên tay những âm thanh giập nát. Những suy nghĩ còn ở trong lòng mà vẫn phải nhìn trước nhìn sau. Hai người nhìn nhau chứa chan nước mắt, nuối tiếc cái thời bước chân của đàn phách in dấu mọi nẻo đường bời bời nỗi nhớ tri âm .” (tr. 200). Bi kịch của họ ngờ đâu lại đến từ trong nhà. Đứa con trai của họ đang đi lính một lần về phép thăm nhà đã đập nát cây đàn đáy của bố như một quyết tâm từ bỏ quá khứ cũ lạc hậu của bố mẹ mình để sớm được đứng trong hàng ngũ Đảng. Ông Chản vì việc ấy mà mất. Bà Chản mất chồng mất người bạn tri âm nghệ thuật liền quyết định chôn cỗ kim phách mà bà coi là “phách mệnh” của mình. Bà đi chợ mua về ba vuông vải trắng làm đồ liệm. Phùng Cung viết về cuộc chôn phách thế này: “ Sau bữa cúng cơm chiều, bà Chản lấy phách ra lau rượu lần cuối; mùi rượu dâng men cuốn theo cả cái mùi tục luỵ của dĩ vãng đăng đắng tan bay. Bà Chản gói kín phách trong ba vuông vải trắng, bên ngoài bọc vuông nhiễu điều. Khâm liệm xong, bà Chản nâng phách lên đặt cạnh bát hương, đốt thêm ba nén, có ý để vong linh chồng chứng cảnh. Bà Chản lại hạ phách xuống khâm liệm lại; vuông nhiễu điều áo phách được gói bên trong, vải trắng gói bên ngoài; vẫn cứ băn khoăn, bối rối, không biết thế nào là phải. Chờ lúc chạng vạng, bà Chản mang cỗ phách ra phía bờ ao, tìm nơi mai táng. Nách bên trái ủ chặt phách; tay phải cầm một cái sén cấy rau, bà Chản vừa khóc vừa cạy đất. Cạy đến hai, ba chỗ, chưa thấy yên lòng, lại lấp đi, lại đào tiếp một huyệt, lấp đất và nói xuống huyệt: “Bạn không ở lại, đời đào Khuê chả biết ngày mai ra sao. Đào Khuê đặt bạn nằm yên đây để bạn khỏi bơ vơ!” – hai bàn tay bóp đất, vun một nấm mộ nhỏ vừa bằng chiếc gối đầu để có thể ở trong nhà vẫn nhìn thấy .” (tr. 236-237). Đọc truyện này có thể liên tưởng tới truyện “Mê thảo” của Nguyễn Tuân. Các truyện ngắn của Phùng Cung vừa có tính hiện thực vừa có tính dự báo. Được viết ra từ hơn sáu chục năm trước đọc chúng hôm nay để biết một thời và để suy ngẫm không chỉ một thời. Ông là một nhà văn quyết liệt, không khoan nhượng với những ai, những gì làm tha hoá con người, tha hoá văn hoá. Ông là một người khổ nạn chữ. Khi vào tù ông vẫn tiếp tục viết, cố nhiên là bằng cách nhẩm trong đầu. Nhưng cách này chỉ hợp với thơ hơn là với văn. Vì vậy khi ra tù ông đã có hàng trăm bài thơ được nhớ lại và một phần trong đó đã được in thành tập “Xem đêm” (Nhà xuất bản Văn hoá – Thông tin, 1995, tái bản 2012). Căn cứ vào sự xuất bản này, năm 2012 Hội Nhà Văn Hà Nội đã trao giải “Thành tựu về Thơ” cho Phùng Cung. Bây giờ tập truyện ngắn Phùng Cung lần đầu tiên được ra mắt độc giả. Nó cho thấy đầy đủ hơn sự nghiệp văn chương của ông. Nó cho thấy một nhân cách và văn cách của ông. Nó làm rõ thêm một giai đoạn văn học có nhiều u uẩn, khúc mắc. Đọc thơ và truyện của Phùng Cung ta càng thấy chất “Trà Tân Cương” ở ông: Quất mãi nước sôi Trà đau nát bã Không đổi giọng Tân Cương. Hà Nội, 31.12.2022
Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trên cương vị mới. Nhận lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CHDCND Lào Thongloun Sisoulith, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sẽ thăm chính thức Lào từ ngày mai (10-4). Chuyến thăm kéo dài trong hai ngày (10 và 11-4). Đây cũng là chuyến thăm chính thức Lào đầu tiên của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trên cương vị mới. Việc Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chọn nước bạn Lào anh em là quốc gia thăm chính thức đầu tiên sau khi nhậm chức thể hiện Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn trước sau như một, coi trọng và dành ưu tiên cao nhất cho việc củng cố và vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam-Lào. Điều này cũng cho thấy tính chất đặc biệt “có một không hai” trong quan hệ giữa hai nước, cho thấy nỗ lực của hai Đảng, hai Nhà nước trong việc duy trì đà phát triển quan hệ song phương. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sẽ thăm chính thức Lào từ 10 đến 11-4. Ảnh: TTXVN. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh mối quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt Nam-Lào đang trên đà phát triển hết sức tốt đẹp, các thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, các tuyên bố chung nhân chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước, các hiệp định hợp tác giữa hai chính phủ đang được hai bên tích cực triển khai và đạt được nhiều kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Quan hệ chính trị giữa hai nước tiếp tục chặt chẽ, ổn định, với nhiều hình thức, tạo được lòng tin chính trị cao, giữ vai trò nòng cốt, định hướng trong tổng thể quan hệ hợp tác của Việt Nam và Lào trong các lĩnh vực khác. Hợp tác quốc phòng an ninh tiếp tục được củng cố. Hai bên phối hợp chặt chẽ đảm bảo an ninh trật tự dọc biên giới, phòng chống tội phạm xuyên biên giới; phối hợp tìm kiếm, quy tập và hồi hương hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào trong các thời kỳ chiến tranh… Hợp tác đầu tư của Việt Nam sang Lào đang có những chuyển biến tích cực. Việt Nam tiếp tục là một trong 3 nhà đầu tư lớn nhất tại Lào với tổng vốn đăng ký khoảng trên 5,3 tỉ USD. Tổng kim ngạch thương mại song phương Việt Nam – Lào năm 2022 đạt 1,703 tỉ USD, tăng 24,1% so với năm 2021… Để hỗ trợ Lào phát triển lâu dài, Việt Nam đã mở thị trường 100 triệu dân cho Lào, tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để Lào xuất, nhập khẩu hàng hóa qua tất cả các cảng biển của Việt Nam. Việt Nam và Lào cũng đang phối hợp nghiên cứu và thúc đẩy tìm kiếm nguồn vốn, các nhà đầu tư để triển khai các dự án trọng điểm như Đường cao tốc Vientiane-Hà Nội, đường sắt Vientiane-Thakhek-Tân Ấp-Vũng Áng, nâng cấp quốc lộ số 8 đoạn phía Lào và các tuyến đường quan trọng khác. Sau khi hoàn thành, các công trình này đi vào hoạt động sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và đi lại của người dân hai nước. Hợp tác giáo dục, phát triển nguồn nhân lực và đào tạo nghề tiếp tục được hai bên đặc biệt quan tâm, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao. Bên cạnh đó, Việt Nam và Lào cũng phối hợp chặt chẽ, hiệu quả tại các diễn đàn đa phương, nhất là trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các cơ chế do ASEAN dẫn dắt, Liên hợp quốc, Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu (ASEM) và các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mekong, góp phần nâng cao vị thế hai nước trên trường quốc tế. Chuyến thăm chính thức đầu tiên của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tới Lào trên cương vị mới cũng diễn ra trong bối cảnh người dân Lào anh em đang nô nức chuẩn bị đón Tết cổ truyền dân tộc Bunpimay. Điều này càng thể hiện rõ hơn tính chất đặc biệt của mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, đồng thời chắc chắn sẽ tạo động lực mạnh mẽ, giúp phát triển vững chắc, làm sâu sắc hơn quan hệ và sự hợp tác Việt Nam-Lào trong năm 2023 và những năm tới, đáp ứng mong mỏi và lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực cũng như trên thế giới. Một số hoạt động của Chủ tịch nước trong chuyến thăm Lào Dự kiến trong thời gian thăm Lào, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng sẽ dự lễ đón chính thức, hội đàm và cùng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào chứng kiến lễ ký văn kiện hợp tác. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cũng sẽ hội kiến Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội Lào; tiếp Chủ tịch Trung ương Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Chủ tịch Trung ương Hội hữu nghị Lào- Việt Nam; dự chiêu đãi chính thức của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào; thăm Đại sứ quán Việt Nam tại Lào và gặp một số đại diện cộng đồng Việt Nam tại Lào. Những hoạt động quan trọng này sẽ giúp tạo ra xung lực mới cho quan hệ hợp tác Việt Nam-Lào tất cả các kênh và lĩnh vực hợp tác; góp phần triển khai hiệu quả các thỏa thuận cấp cao của hai Đảng, hai nước, trong đó có Thỏa thuận Chiến lược hợp tác Việt Nam – Lào giai đoạn 2021 – 2030 và Hiệp định về hợp tác song phương Việt Nam – Lào giai đoạn 2021 – 2025. Chủ tịch nước cũng sẽ tới đặt vòng hoa tại Đài Tưởng niệm các liệt sĩ vô danh, tượng đài Chủ tịch Kaysone Phomvihane; tới thăm các nguyên lãnh đạo cấp cao của Lào, thể hiện sự tri ân đối với những đóng góp to lớn của các thế hệ lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Lào anh em dành cho mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào…
This is the first official visit of President Vo Van Thuong in his new position. Accepting the invitation of General Secretary and President of the Lao People's Democratic Republic Thongloun Sisoulith, President Vo Van Thuong and a high-ranking Vietnamese delegation will officially visit Laos from tomorrow (April 10). The visit lasted for two days (April 10 and 11). This is also the first official visit to Laos by President Vo Van Thuong in his new position. The fact that President Vo Van Thuong chose the fraternal country of Laos as the country to make his first official visit after taking office shows that the Vietnamese Party and State are always the same, valuing and giving the highest priority to strengthening consolidate and cultivate the great friendship, special solidarity and comprehensive cooperation between Vietnam and Laos. This also shows the special "unique" nature of the relationship between the two countries, showing the efforts of the two Parties and States in maintaining the development momentum of bilateral relations. President Vo Van Thuong and a high-ranking Vietnamese delegation will pay an official visit to Laos from April 10 to 11. Photo: TTXVN. The visit took place in the context of the cooperative relationship between Vietnam and Laos being on a very good path of development, agreements by senior leaders of the two Parties, and joint statements on the occasion of the leaders' visit. At the high level of the two countries, cooperation agreements between the two governments are being actively implemented by both sides and achieving many important results in all fields. Political relations between the two countries continue to be close and stable, with many forms, creating high political trust, playing a core role and orientation in the overall cooperative relationship of Vietnam and Laos in the other areas. Defense and security cooperation continues to be strengthened. The two sides closely coordinate to ensure security and order along the border and prevent cross-border crime; Coordinate the search, collection and repatriation of the remains of Vietnamese volunteer soldiers and experts who died in Laos during the war... Vietnam's investment cooperation in Laos is having positive changes. Vietnam continues to be one of the three largest investors in Laos with a total registered capital of over 5.3 billion USD. Total bilateral trade turnover Vietnam – Laos 2022 will reach 1.703 billion USD, an increase of 24.1% compared to 2021... To support Laos' long-term development, Vietnam has opened a market of 100 million people for Laos, continuing to create favorable conditions for Laos to export and import goods through all Vietnamese seaports. Vietnam and Laos are also coordinating research and promoting the search for capital sources and investors to implement key projects such as Vientiane-Hanoi Expressway, Vientiane-Thakhek-Tan Ap-Vung Ang railway. , upgrading Highway Không. 8 on the Lao side and other important routes. Once completed, these projects will come into operation and will create favorable conditions for the transportation of goods and travel of people of the two countries. Cooperation in education, human resource development and vocational training continues to receive special attention from both sides, especially highly qualified human resources. In addition, Vietnam and Laos also coordinate closely and effectively at multilateral forums, especially in the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) and mechanisms led by ASEAN, the United Nations, and the United Nations. The Asia-Europe Summit (ASEM) and Mekong sub-region cooperation mechanisms contribute to enhancing the position of the two countries in the international arena. The first official visit of President Vo Van Thuong to Laos in his new position also took place in the context that the Lao people are eagerly preparing to celebrate the traditional Bunpimay ethnic festival. This further demonstrates the special nature of the great friendship, special solidarity and comprehensive cooperation between Vietnam and Laos, and will certainly create a strong driving force, helping to develop steadily. , deepening relations and cooperation between Vietnam and Laos in 2023 and the coming years, meeting the expectations and interests of the two peoples, for peace, stability, cooperation and development in the region. region as well as around the world. Some activities of the President during his visit to Laos It is expected that during the visit to Laos, President Vo Van Thuong will attend the official welcoming ceremony, hold talks and witness the signing ceremony of cooperation documents with the General Secretary and President of Laos. President Vo Van Thuong will also meet with the Prime Minister and Chairman of the Lao National Assembly; received the Chairman of the Central Lao Front for National Construction and the Chairman of the Central Laos-Vietnam Friendship Association; Attend the official reception of the General Secretary and President of Laos; visited the Vietnamese Embassy in Laos and met a number of representatives of the Vietnamese community in Laos. These important activities will help create new momentum for Vietnam-Laos cooperation in all channels and fields of cooperation; contributing to the effective implementation of high-level agreements between the two Parties and two countries, including the Vietnam-Laos Cooperation Strategy Agreement for the period 2021 - 2030 and the Vietnam-Laos Bilateral Cooperation Agreement for the period 2021 – 2025. The President will also lay a wreath at the Monument to the Unknown Martyrs and the monument to President Kaysone Phomvihane; visited former senior leaders of Laos, expressing gratitude for the great contributions of generations of leaders, officers, soldiers and the fraternal Lao people to the special relationship with Vietnam. -Laos…
Phái đoàn lưỡng viện Mỹ đang ở Hà Nội cho biết cả Quốc hội và Chính phủ nước này ủng hộ việc nâng cấp quan hệ với Việt Nam từ đối tác toàn diện lên đối tác chiến lược. Mỹ đã cung cấp hai tàu cảnh sát biển cho Việt Nam, và sắp tới, sau khi hoàn tất thủ tục chi tiết, sẽ cung cấp thêm một tàu nữa, trên tinh thần hỗ trợ Việt Nam củng cố an ninh trên biển. Thượng nghị sĩ Jeff Merkley chia sẻ với báo chí Việt Nam tại Hà Nội, chiều nay, 8-4, trong chuyến công tác của phái đoàn lưỡng viện Hoa Kỳ tại ASEAN, do ông dẫn đầu. Thượng nghị sĩ Jeff Merkley (thứ hai từ bên phải) cùng Hạ nghị sĩ Pramila Jayapal (giữa) trong cuộc gặp gỡ báo chí chiều 8-4. ẢNH: TIẾN ANH. Thượng nghị sĩ Merkley cho biết phái đoàn nghị sĩ tới Việt Nam lần này với hai sứ mệnh: Thúc đẩy quá trình giải quyết hậu quả chiến tranh và nâng tầm quan hệ hợp tác Việt – Mỹ trên nhiều lĩnh vực khác nhau, từ biển Đông, biến đổi khí hậu đến hợp tác đầu tư. Thượng nghị sĩ Merkley một lần nữa nhắc lại quan điểm của mình đã đưa ra trước chuyến đi là mong muốn nâng tầm quan hệ song phương Việt – Mỹ từ đối tác toàn diện hiện tại lên lên tầm đối tác chiến lược. Ông cho biết, mong muốn này nhận được sự ủng hộ Quốc hội và Chính phủ Mỹ. “Trong thời gian qua, nhiều quan chức hành pháp Mỹ như Bộ trưởng Quốc phòng và Giám đốc USAID đã có những chuyến đi tới Việt Nam. Sự có mặt của phái đoàn Quốc hội chúng tôi cho thấy cả hệ thống hành pháp và lập pháp Mỹ đều ủng hộ sự phát triển của mối quan hệ Việt – Mỹ” – Thượng nghị sĩ Merkley chia sẻ. Tiếp lời ông Merkley, một thành viên khác trong phái đoàn nghị sĩ Mỹ, Thượng nghị sĩ Van Hollen nhấn mạnh mục đích của những ngày làm việc tại Việt Nam là tiếp nối nỗ lực của các thế hệ nghị sĩ đi trước trong việc củng cố và phát triển quan hệ song phương hai nước. “Đây là một sứ mệnh tiếp lửa từ những thế hệ nghị sĩ đi trước như cố Thượng nghị sĩ John McCain và cựu Thượng nghị sĩ Patrick Leahy” – ông Van Hollen nói. Chia sẻ với phóng viên về việc hỗ trợ an ninh hàng hải cho Việt Nam, ông Merkley cho biết, các diễn biến tại biển Đông đều liên quan đến an ninh của Việt Nam. Đây chính là lý do mà Hoa Kỳ những năm qua đã chuyển cho Việt Nam các tàu cảnh sát biển, và tới đây đang tiếp tục. Theo ông Van Hollen, các chương trình giải quyết hậu quả chiến tranh tiếp tục là trọng tâm của quan hệ song phương Việt – Mỹ trong thời gian tới. Bốn cột trụ của các chương trình này gồm hỗ trợ các cá nhân và gia đình bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, tẩy độc và ô nhiễm, rà phá bom mìn chưa phát nổ, cùng nhận dạng ADN và tìm kiếm hài cốt liệt sĩ. Trong thời gian tới, bên cạnh chương trình tẩy độc dioxin trị giá 300 triệu USD tại sân bay Biên Hòa và sân bay Đà Nẵng, Mỹ sẽ xem xét cung cấp các khoản viện trợ mới cho Việt Nam để tiến hành các chương trình tương tự. Bên lề họp báo, hạ nghị sĩ Jayapal, một trong năm thành viên phái đoàn lưỡng viện Mỹ chia sẻ bà đã từng có mặt tại Việt Nam trong một tháng vào năm 1995, trong một chương trình hỗ trợ phòng chống HIV/AIDS. Nay trở lại Hà Nội, bà cảm thấy “choáng ngợp” trước thay đổi và phát triển của Thủ đô. “Sự thay đổi của Hà Nội thật sự làm tôi choáng ngợp. Việt Nam là một đất nước quật cường. Chúng tôi cũng vô cùng ngưỡng mộ và biết ơn lòng vị tha của các bạn” – bà Jayapal nói. Đoàn nghị sĩ lưỡng viện Mỹ đang trong chuyến thăm Việt Nam năm ngày, từ 7 đến 11-4. Những ngày tới, đoàn nghị sĩ Hoa Kỳ sẽ bay sang Indonesia – nước chủ tịch luân phiên của ASEAN năm 2023. Dự kiến, trong chuyến thăm lần này đoàn sẽ có hơn 35 cuộc gặp với các quan chức, lãnh đạo ASEAN và một số tổ chức khác. Sáng 8-4, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tiếp đoàn 5 nghị sĩ Mỹ. Tại cuộc gặp, Thủ tướng đề nghị quốc hội Mỹ dành thêm nguồn lực và ngân sách hỗ trợ Việt Nam để thúc đẩy hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh và ứng phó biến đổi khí hậu, tiếp tục ủng hộ hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực quan trọng. Bên cạnh đó, tăng cường trao đổi đoàn và tiếp xúc các cấp, nhất là tiếp xúc cấp cao, trong năm 2023. Cũng trong ngày, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã có cuộc tiếp Thượng nghị sĩ Merkley cùng phái đoàn lưỡng viện Quốc hội Mỹ và trao đổi về một số vấn đề khu vực và quốc tế, trong đó có vấn đề biển Đông. Hai bên nhất trí về duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác, bảo đảm các quyền tự do hàng hải, hàng không trong vấn đề Biển Đông, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982 . Cũng trong buổi gặp, ông Merkley đã trao tặng Bộ Quốc phòng bộ tài liệu về bộ đội Việt Nam mất tích, mất tin trong chiến tranh. Ông thông báo Quốc hội Mỹ đã thông qua gói nâng hỗ trợ cho dự án tẩy độc dioxin tại sân bay Biên Hòa với số tiền 300 triệu USD.
The US bicameral delegation is here Hanoi said that both the National Assembly and the Government of this country support upgrading relations with Vietnam from a comprehensive partnership to a strategic partnership. The US has provided two coast guard ships to Vietnam, and in the near future, after completing detailed procedures, will provide one more ship, in the spirit of supporting Vietnam to strengthen security at sea. Senator Jeff Merkley shared with the Vietnamese press in Hanoi, this afternoon, April 8, during the business trip of the US bicameral delegation to ASEAN, led by him. Senator Jeff Merkley (second from right) with Representative Pramila Jayapal (center) during a press meeting on the afternoon of April 8. PHOTO: TIEN ANH. Senator Merkley said parliamentary delegation coming to Vietnam this time with two missions: Promoting the process of resolving war consequences and enhancing Vietnam-US cooperation in many different fields, from the East Sea, climate change to investment cooperation. . Senator Merkley once again reiterated his views expressed before the trip, which is the desire to elevate the bilateral relationship between Vietnam and the US from the current comprehensive partnership to a strategic partnership. He said this wish received support from the US Congress and Government. “In recent times, many US law enforcement officials such as the Secretary of Defense and the Director of USAID have made trips to Vietnam. The presence of our Congressional delegation shows that both the US executive and legislative systems support the development of the Vietnam - US relationship" - Senator Merkley shared. Following Mr. Merkley, another member of the US parliamentary delegation, Senator Van Hollen emphasized that the purpose of the working days in Vietnam is to continue the efforts of previous generations of parliamentarians in consolidating and develop bilateral relations between the two countries. "This is a mission carried forward by previous generations of senators such as the late Senator John McCain and former Senator Patrick Leahy" - Mr. Van Hollen said. Sharing with reporters about supporting maritime security for Vietnam, Mr. Merkley said that developments in the East Sea are all related to Vietnam's security. This is the reason why the United States has transferred coast guard ships to Vietnam in recent years, and is continuing to do so. According to Mr. Van Hollen, programs to address the consequences of war will continue to be the focus of bilateral relations between Vietnam and the US in the coming time. The four pillars of these programs include supporting individuals and families affected by war, detoxification and pollution, clearing unexploded bombs and mines, and DNA identification and searching for martyrs' remains. In the near future, in addition to the $300 million dioxin detoxification program at Bien Hoa airport and Da Nang airport, the US will consider providing new aid to Vietnam to conduct similar programs. . On the sidelines of the press conference, Congressman Jayapal, one of five members of the US bicameral delegation, shared that she had been in Vietnam for a month in 1995, in a program to support HIV/AIDS prevention. Now returning to Hanoi, she feels "overwhelmed" by the changes and development of the Capital. “The changes in Hanoi really overwhelmed me. Vietnam is a resilient country. We also greatly admire and thank you for your altruism" - Ms. Jayapal said. The US congressional delegation is on a five-day visit to Vietnam, from April 7 to 11. In the coming days, the US parliamentary delegation will fly to Indonesia - the rotating chair of ASEAN in 2023. It is expected that during this visit the delegation will have more than 35 meetings with ASEAN officials, leaders and a number of other organizations. On the morning of April 8, Prime Minister Pham Minh Chinh received a delegation of 5 US senators. At the meeting, the Prime Minister asked the US Congress to devote more resources and budget to support Vietnam to promote cooperation in overcoming war consequences and responding to climate change, continuing to support cooperation between the two countries. in important areas. In addition, increase delegation exchanges and contacts at all levels, especially high-level contacts, in 2023. Also on the same day, National Assembly Chairman Vuong Dinh Hue had a meeting with Senator Merkley and the US Congressional delegation and discussed a number of regional and international issues, including the East Sea issue. The two sides agreed to maintain peace, stability, cooperation, ensure freedom of navigation and aviation in the East Sea issue, not use or threaten to use force in international relations, and comply with international law. comply with international law, including United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS) 1982 . Also during the meeting, Mr. Merkley presented the Ministry of Defense with a set of documents on Vietnamese soldiers missing and lost information during the war. He announced that the US Congress had approved an increased support package for the dioxin detoxification project at Bien Hoa airport with an amount of 300 million USD.
Các nhà khoa học Đức và Brazil lần lượt tìm hiểu về một xác chết lang thang trong tàn dư siêu tân tinh HESS J1731-347 cách Trái đất 8.150 năm ánh sáng, song không thể hiểu nó là gì. Theo Science Alert, chắc chắn đó là “xác chết” của một ngôi sao nhưng đã tiến hóa theo cách chưa từng thấy trước đây. “Xác chết” vũ trụ bí ẩn mang tên XMMU J173203.3-344518, được mô tả là “kỳ quái” trong nghiên cứu của Đại học São Paulo và Đại học Liên bang ABC (Brazil), có khối lượng khoảng 3/4 Mặt Trời nhưng kích thước có thể lọt thỏm trong TP Manhattan (bang New York – Mỹ). Nó dày đặc một cách kỳ lạ nhưng “không phải theo cách bạn nghĩ” – các nhà nghiên cứu mô tả. Một “ngôi sao lạ” giả thuyết đã thực sự ra đời trong vũ trụ? – Ảnh: El Fronterizo. Năm ngoái, “xác chết” này từng được các nhà nghiên cứu từ Viện Thiên văn học và Vật lý thiên văn thuộc Đại học Tubingen ( Đức ) tìm hiểu, xác định cách chúng ta 8.150 năm ánh sáng và là một “xác chết” sao trong siêu tân tinh HESS J1731-347. Nó mang các đặc điểm của sao neutron và lẽ ra phải là sao neutron. Sao neutron vốn là “xác chết quái vật” của các ngôi sao khổng lồ bị cạn nhiên liệu. Khi đó, lực hấp dẫn của chính nó sẽ nghiền nát vật chết và sụp đổ thành vật thể dày đặc, nhỏ – gọi là sao neutron. Sao neutron dày đặc và rất nặng bởi các nguyên tử của nó bị ép chặt. Sâu trong lõi, các electron bị nhồi nhét vào hạt nhân, làm các proton mất điện và biến thành neutron. Nếu có đủ khối lượng, nó sẽ sụp đổ một lần nữa thành một lỗ đen. Giới hạn khối lượng của một ngôi sao neutron là chỉ hơn Mặt Trời của chúng ta một chút, với cái lập kỷ lục trước đó bằng 1,17 khối lượng Mặt Trời. Nhưng vật thể kỳ quái vừa nhận dạng chỉ có 77% Mặt Trời. Nó cũng không phải là sao lùn trắng – dạng “xác chết” của những ngôi sao nhẹ hơn. Nó cũng không thể là sao neutron. Cuộc điều tra mới tìm hiểu khối lượng, bán kính và cả nhiệt độ bề mặt và cho rằng nó chính là đại diện của cái gọi là “ngôi sao lạ”, với thành phần chủ yếu là các hạt quack lạ, một vật thể giả thuyết trong thiên văn. Hạt quack là loại hạt cơ bản có thể nhóm thành bộ ba để tạo ra baryon như proton hay neutron. Tuy nhiên trong một số điều kiện nhất định, bao gồm áp suất đủ lớn, chúng có thể xuất hiện dưới dạng một vật chất giả thiết là vật chất quark. Các nhà khoa học vẫn chưa lý giải được những điều gì có thể tạo ra “ngôi sao lạ” trong quá trình chết đi của một ngôi sao khác. Tuy nhiên, điều này cho thấy “xác chết” sao ma quái này đáng để cộng đồng thiên văn hướng ống kính quan sát về phía nó.
German and Brazilian scientists took turns learning about a corpse wandering in the supernova remnant HESS J1731-347 8,150 light years from Earth, but could not understand what it was. According to Science Alert, It is certainly the "corpse" of a star, but it has evolved in a way never seen before. The mysterious cosmic "corpse" named XMMU J173203.3-344518, described as "bizarre" in research by the University of São Paulo and ABC Federal University (Brazil), has a mass of about 3/4 The Sun but its size can fit inside Manhattan City (New York State - USA). It's strangely dense but "not in the way you think" – the researchers describe. Was a hypothetical "strange star" really born in the universe? – Photo: El Fronterizo. Last year, this "corpse" was discovered by researchers from the Institute of Astronomy and Astrophysics at the University of Tubingen ( Virtue ) learn and determine that we are 8,150 light years away and a “corpse” star in the supernova HESS J1731-347. It has the characteristics of a neutron star and should have been a neutron star. Neutron stars are inherently "monster corpses" of giant stars that have run out of fuel. Then, its own gravity will crush the dead object and collapse into a small, dense object - called a neutron star. Neutron stars are dense and very massive because their atoms are tightly packed. Deep in the core, electrons are crammed into the nucleus, causing protons to lose power and turn into neutrons. If there is enough mass, it will collapse again into a black hole. The mass limit for a neutron star is only slightly greater than that of our Sun, with the previous record holder being 1.17 solar masses. But the bizarre object just identified is only 77% of the Sun. It is also not a white dwarf - the "corpse" form of lighter stars. It also cannot be a neutron star. The new investigation explores the mass, radius and surface temperature and suggests that it is representative of a so-called "strange star", composed mainly of strange quack particles, a pseudo-object. theory in astronomy. Quack particles are elementary particles that can be grouped into triplets to create baryons such as protons or neutrons. However, under certain conditions, including high enough pressure, they can appear as a hypothetical quark matter. Scientists still cannot explain what could create a "strange star" during the death of another star. However, this shows that this ghostly "corpse" of stars is worth the astronomical community turning their observation lenses towards it.
Sau gần 1 năm im cờ giấu trống, Võ Duy Dương tung quân từ căn cứ Đồng Tháp Mười ra tấn công giặc Pháp, đặc biệt là ngày 22-7-1865 phá đồn Mỹ Trà, gây cho địch nhiều tổn thất. Võ Duy Dương sinh năm 1827 ở xã Nhơn Tân, thị xã An Nhơn , tỉnh Bình Định . Ông rất khỏe và giỏi võ, có thể cử được một lúc 5 trái linh bằng sắt, nên được nhân dân xưng tụng là “Ngũ Linh Dương”. Ông có công giúp triều đình Huế tiễu trừ giặc Tàu ô (cướp biển) ở Quảng Nam, được phong chức Thiên Hộ, nên cũng thường được gọi là “Thiên Hộ Dương”. Năm 1857, hưởng ứng chính sách “Đồn điền” (khai hoang lập ấp ở Nam Kỳ) được triều đình Huế giao cho tướng Nguyễn Tri Phương thực hiện, Võ Duy Dương – lúc này ở tuổi vừa 30 – đã vượt biển, vào định cư ở đất Ba Giồng (nay thuộc địa bàn các huyện Châu Thành , Cai Lậy , Cái Bè của tỉnh Tiền Giang , giáp với vùng Đồng Tháp Mười) giỏi làm ăn sinh sống, nên nhanh chóng trở thành hào phú trong miền. Đền thờ ông ở huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. (Ảnh: VĨNH KỲ) Tháng 2-1859, thực dân Pháp tiến đánh thành Gia Định. Võ Duy Dương đã đứng ra chiêu mộ “dân dõng” địa phương, kéo đến đánh trả, lập được nhiều chiến công, nên được phong làm Chánh quản đạo. Thành Gia Định bị vỡ, ông vượt biển ra Huế , bái yết vua Tự Đức, hiến kế đánh đuổi quân Pháp và tạm nhận việc tiễu phỉ ở Quảng Nam , để được phong chức Thiên Hộ vào năm 1860. Lẽ ra, chức Thiên Hộ phải được xếp vào trật Chánh thất (trên thang bậc Cửu phẩm của quan chức triều đình) nhưng Võ Duy Dương chỉ được xếp vào trật Chánh bát phẩm, là trật của chức “Bách Hộ” (dưới Thiên Hộ một bậc). Tuy nhiên, không hề lấy thế làm điều, Chánh bát phẩm Thiên Hộ Dương chỉ chăm chăm một niềm đánh giặc giữ đất mà thôi. Vì thế, vào tháng 5-1861, có lệnh triều đình Huế cho sung vào phái bộ của Khâm phái Quân vụ Đỗ Thúc Tỉnh đi Nam Kỳ lo liệu công việc, ông lập tức hăng hái lên đường trở lại chiến trường ngay. Được nhân dân miền đất lập nghiệp của ông từ trước đấy hưởng ứng, Võ Duy Dương chỉ trong một thời gian ngắn đã chiêu mộ được hàng ngàn dân binh. Lập căn cứ ở Bình Cách (nay thuộc xã Tân Bình Thạnh, huyện Chợ Gạo , tỉnh Tiền Giang), bắt liên lạc với Trương Định ở Gò Công , Trần Xuân Hòa (tức Phủ Cậu) ở Thuộc Nhiêu, hình thành một tuyến trận đánh Pháp, kéo dài từ Gò Công qua Bình Cách, tới Thuộc Nhiêu, bao gồm cả Mỹ Quới, Cai Lậy, Cái Bè… khiến giặc phải đối phó rất vất vả. Trong vòng 2 năm, từ 1862 đến 1863, nghĩa quân Võ Duy Dương phối hợp với các cánh nghĩa quân khác đã đánh thắng Pháp nhiều trận, đặc biệt là cuộc đồng loạt tấn công ngày 28-1-1862 đã khiến Pháp phải rút bỏ nhiều đồn trại ở Gò Công, Chợ Gạo, Tân An, Gia Thạnh, Cần Giuộc, Cái Bè… Nhưng chính vào lúc đó, triều đình Huế lại đã nhu nhược ký “Hàng ước 1862” với Pháp, “nhường” cho Pháp 3 tỉnh miền Đông và không những thế còn ra lệnh cho nghĩa quân phải ngừng chiến đấu, đồng thời điều các thủ lĩnh nghĩa quân ra khỏi chiến trường đi nơi khác “làm nhiệm vụ”. Võ Duy Dương, Trương Định là những người kiên quyết kháng mệnh triều đình, ở lại chiến trường, tiếp tục đánh giặc giữ đất. Những trận đánh lớn tiếp tục nổ ra, đặc biệt là vào đêm 17 rạng ngày 18-12-1862, ở Thuộc Nhiêu, khiến chỉ huy quân giặc phải thốt lên: Đây là một “vụ nghiêm trọng” khi có đến “1.200 quân phản nghịch đã – trong đêm – lao vào tấn công, cuồng nhiệt một cách mù quáng, dường như đã nhận được lệnh là phải đánh bật chúng ta ra khỏi Thuộc Nhiêu hoặc là họ phải chết dưới chân tường đồn”! Nhưng rồi thì “Hàng ước 1862” cộng với những thủ đoạn của quân Pháp, cuối cùng cũng đã gây ra những khó khăn ngày một lớn cho phía nghĩa quân. Trương Định bị đánh bật ra khỏi căn cứ Tân Hòa, và/rồi hy sinh vào năm 1864. Còn Võ Duy Dương thì phải rút khỏi Bình Cách, về cố thủ ở khu vực Xoài Tư, rạch Cây Gáo, rạch Ruộng… (nay thuộc các xã Mỹ Thạnh Nam, Mỹ Thạnh Bắc – Cai Lậy và Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Nam – Cái Bè) trên ngưỡng cửa vào Đồng Tháp Mười. Ngày ấy, Đồng Tháp Mười là một vùng trũng, sình lầy, ngập nước, mênh mông đến 700.000 ha, um tùm lau sậy, nhung nhúc rắn rết, muỗi, đỉa vây quanh mấy khu gò giồng hoang cô độc, mang các tên: gò Bắc Chiêng, gò Giồng Dung, giồng Sa Rây và đặc biệt là gò Tháp – với dấu tích điêu tàn của một tòa tháp 10 tầng, để lại từ thời vương quốc Phù Nam tự ngàn xưa. Không có đường ra vào, ngoại trừ một con kênh Tranh Giang (tức Rạch Chanh – đào vào năm 1815), nên xây dựng căn cứ thủ hiểm ở đây chính là một điều lý tưởng. Cuối năm 1864, Võ Duy Dương – với sự giúp đỡ của Đốc binh Kiều (tức người giữ chức Đốc binh tên Nguyễn Tấn Kiều) – quyết định đưa lực lượng vào trong Đồng Tháp Mười, xây dựng căn cứ. Đặt tổng hành dinh ở Gò Tháp (nay thuộc xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp), trước hết, Võ Duy Dương cho mở nhiều con đường mòn – gọi là “đường gạo” – để vận chuyển lương thực, tiếp tế cho căn cứ. Ở đầu mỗi đường mòn, đặt một đồn binh để canh giữ như: đồn Tiền ở trên gò Bái Liếp, án ngữ con đường từ Cái Nứa vào; đồn Tả ở trên gò Giông Dung, khống chế con đường từ Mộc Hóa sang; đồn Hữu trên gò Động Cát, canh giữ con đường từ Cân Lố tới… Ngoài ra, nhiều đồn binh nữa, cũng được xây dựng quanh/và trong miền như: đồn Ổ Bíp, đồn Sa Tiên, đồn Ấp Lý, đồn Doi… Lực lượng nghĩa quân được tập hợp lại, dần dà đông đúc đến trên 10.000 người. Sau gần một năm “Tức kỳ yểm cổ” (im cờ giấu trống), Võ Duy Dương bắt đầu tung quân từ căn cứ Đồng Tháp Mười ra tấn công giặc Pháp ở Cái Bè, Cai Lậy, Mỹ Quới…, đặc biệt là ngày 22-7-1865, phá đồn Mỹ Trà, gây cho địch nhiều tổn thất. Đối phó với những hoạt động của nghĩa quân Đồng Tháp Mười, vào tháng 11-1865, phía Pháp gây áp lực với Kinh Lược sứ Phan Thanh Giản, buộc họ Phan phải “giải quyết vấn đề Võ Duy Dương”, khiến sau đấy triều đình Huế phải ra chỉ dụ yêu cầu nghĩa quân ngừng hoạt động, cấm dân chúng không được tiếp tế, chứa chấp nghĩa quân. Mặt khác, vào tháng 4-1866, giặc huy động đại binh, chia ba mũi, mở cuộc tấn công tổng lực vào Đồng Tháp Mười. Sau 10 ngày quần thảo với giặc bằng đủ mọi cách đánh trận (như – theo truyền thuyết – ém đàn trâu cả trăm con dưới nước, chờ giặc tới thì bùng lên, dùng sừng nhọn mà húc hoặc thả loại ong cực độc cho đốt chết lính giặc…), đặc biệt là ở trận Đồn Tả (ngày 16-4-1866) – theo tài liệu của Pháp: Có đến 350 nghĩa quân và 40 khẩu đại bác tham chiến, làm chết và bị thương 2 tiểu đội lính Pháp… Cuối cùng, Võ Duy Dương quyết định: Bỏ căn cứ Đồng Tháp Mười, cho nghĩa quân rút ra ngoài, chỉ để lại Đốc binh Kiều, hy sinh khi chẹn đường truy kích của giặc. Người dân thắp hương tưởng nhớ Thiên Hộ Dương. “Chiều chiều mây giục gió vần Cảm thương Thiên Hộ xả thân cứu đời” Đó là câu ca dao lưu truyền ở Đồng Tháp, nói về chung cuộc của Võ Duy Dương, sau ngày rút quân ra khỏi căn cứ Đồng Tháp Mười. Người anh hùng của cuộc “Nam Kỳ kháng Pháp” còn có 6 tháng – từ tháng 4 đến tháng 10-1866 – để tiếp tục hoạt động đánh giặc giữ đất, liên kết với thủ lĩnh Trương Tuệ (tức Trương Quyền) là con của Bình Tây Nguyên Soái Trương Định và Thủ lĩnh A Soa (người Campuchia) ở vùng biên giới giữa hai nước Việt – Miên. Sau đó thì những thông tin khác nhau dồn dập đến. Chính sử triều Nguyễn – sách “Đại Nam thực lục, chính biên” – chép: “Bọn Võ Duy Dương nên cho ra đầu thú, dồn đi khai khẩn. Sắc cho tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hòa, hễ thấy tên Dương, tên Tuệ thì đem đổi tên, cấp cho ngựa trạm về Kinh đô, phái đi nơi khác, cho hết điều tiếng (với người Pháp)”. Như vậy là triều đình có chủ trương – chiều theo ý của Pháp – gọi Thiên Hộ Dương về Huế qua đường Bình Thuận, Khánh Hòa. Và dường như Võ Duy Dương đã chấp nhận điều này, với ý định: Sẽ về Huế để tiếp tục dâng kế sách đánh Pháp, lấy lại đất Nam Kỳ (bởi vì tài liệu của Pháp cho biết có tìm được 2 văn bản tấu nghị của Thiên Hộ Dương về việc này). Nhưng bất ngờ và không may – vẫn theo lời sách “Đại Nam thực lục”: “Duy Dương đi thuyền về tỉnh Bình Thuận đầu thú, gặp gió, bị đắm ở phần biển Thần Mẫu (tức Cần Giờ)”! Bấy giờ là tháng 10-1866. Võ Duy Dương mất, lúc mới 39 tuổi. Nhưng thủ lĩnh “Nam Kỳ kháng Pháp” ở căn cứ Đồng Tháp Mười vẫn vẻ vang mà sống mãi trong lòng dân, như thấy nói rõ ở đôi câu đối tại ngôi đền thờ ông (và Đốc binh Kiều), liền đấy đã mọc lên, ngay chính nơi đã đóng đại bản doanh của ông: “Sử sách sáng chói danh Thiên Hộ Bia miệng lưu truyền tiếng Đốc Binh”!
Sau gần 1 năm im cờ giấu trống, Võ Duy Dương tung quân từ căn cứ Đồng Tháp Mười ra tấn công giặc Pháp, đặc biệt là ngày 22-7-1865 phá đồn Mỹ Trà, gây cho địch nhiều tổn thất. Võ Duy Dương sinh năm 1827 ở xã Nhơn Tân, thị xã An Nhơn , tỉnh Bình Định . Ông rất khỏe và giỏi võ, có thể cử được một lúc 5 trái linh bằng sắt, nên được nhân dân xưng tụng là “Ngũ Linh Dương”. Ông có công giúp triều đình Huế tiễu trừ giặc Tàu ô (cướp biển) ở Quảng Nam, được phong chức Thiên Hộ, nên cũng thường được gọi là “Thiên Hộ Dương”. Năm 1857, hưởng ứng chính sách “Đồn điền” (khai hoang lập ấp ở Nam Kỳ) được triều đình Huế giao cho tướng Nguyễn Tri Phương thực hiện, Võ Duy Dương – lúc này ở tuổi vừa 30 – đã vượt biển, vào định cư ở đất Ba Giồng (nay thuộc địa bàn các huyện Châu Thành , Cai Lậy , Cái Bè của tỉnh Tiền Giang , giáp với vùng Đồng Tháp Mười) giỏi làm ăn sinh sống, nên nhanh chóng trở thành hào phú trong miền. Đền thờ ông ở huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. (Ảnh: VĨNH KỲ) Tháng 2-1859, thực dân Pháp tiến đánh thành Gia Định. Võ Duy Dương đã đứng ra chiêu mộ “dân dõng” địa phương, kéo đến đánh trả, lập được nhiều chiến công, nên được phong làm Chánh quản đạo. Thành Gia Định bị vỡ, ông vượt biển ra Huế , bái yết vua Tự Đức, hiến kế đánh đuổi quân Pháp và tạm nhận việc tiễu phỉ ở Quảng Nam , để được phong chức Thiên Hộ vào năm 1860. Lẽ ra, chức Thiên Hộ phải được xếp vào trật Chánh thất (trên thang bậc Cửu phẩm của quan chức triều đình) nhưng Võ Duy Dương chỉ được xếp vào trật Chánh bát phẩm, là trật của chức “Bách Hộ” (dưới Thiên Hộ một bậc). Tuy nhiên, không hề lấy thế làm điều, Chánh bát phẩm Thiên Hộ Dương chỉ chăm chăm một niềm đánh giặc giữ đất mà thôi. Vì thế, vào tháng 5-1861, có lệnh triều đình Huế cho sung vào phái bộ của Khâm phái Quân vụ Đỗ Thúc Tỉnh đi Nam Kỳ lo liệu công việc, ông lập tức hăng hái lên đường trở lại chiến trường ngay. Được nhân dân miền đất lập nghiệp của ông từ trước đấy hưởng ứng, Võ Duy Dương chỉ trong một thời gian ngắn đã chiêu mộ được hàng ngàn dân binh. Lập căn cứ ở Bình Cách (nay thuộc xã Tân Bình Thạnh, huyện Chợ Gạo , tỉnh Tiền Giang), bắt liên lạc với Trương Định ở Gò Công , Trần Xuân Hòa (tức Phủ Cậu) ở Thuộc Nhiêu, hình thành một tuyến trận đánh Pháp, kéo dài từ Gò Công qua Bình Cách, tới Thuộc Nhiêu, bao gồm cả Mỹ Quới, Cai Lậy, Cái Bè… khiến giặc phải đối phó rất vất vả. Trong vòng 2 năm, từ 1862 đến 1863, nghĩa quân Võ Duy Dương phối hợp với các cánh nghĩa quân khác đã đánh thắng Pháp nhiều trận, đặc biệt là cuộc đồng loạt tấn công ngày 28-1-1862 đã khiến Pháp phải rút bỏ nhiều đồn trại ở Gò Công, Chợ Gạo, Tân An, Gia Thạnh, Cần Giuộc, Cái Bè… Nhưng chính vào lúc đó, triều đình Huế lại đã nhu nhược ký “Hàng ước 1862” với Pháp, “nhường” cho Pháp 3 tỉnh miền Đông và không những thế còn ra lệnh cho nghĩa quân phải ngừng chiến đấu, đồng thời điều các thủ lĩnh nghĩa quân ra khỏi chiến trường đi nơi khác “làm nhiệm vụ”. Võ Duy Dương, Trương Định là những người kiên quyết kháng mệnh triều đình, ở lại chiến trường, tiếp tục đánh giặc giữ đất. Những trận đánh lớn tiếp tục nổ ra, đặc biệt là vào đêm 17 rạng ngày 18-12-1862, ở Thuộc Nhiêu, khiến chỉ huy quân giặc phải thốt lên: Đây là một “vụ nghiêm trọng” khi có đến “1.200 quân phản nghịch đã – trong đêm – lao vào tấn công, cuồng nhiệt một cách mù quáng, dường như đã nhận được lệnh là phải đánh bật chúng ta ra khỏi Thuộc Nhiêu hoặc là họ phải chết dưới chân tường đồn”! Nhưng rồi thì “Hàng ước 1862” cộng với những thủ đoạn của quân Pháp, cuối cùng cũng đã gây ra những khó khăn ngày một lớn cho phía nghĩa quân. Trương Định bị đánh bật ra khỏi căn cứ Tân Hòa, và/rồi hy sinh vào năm 1864. Còn Võ Duy Dương thì phải rút khỏi Bình Cách, về cố thủ ở khu vực Xoài Tư, rạch Cây Gáo, rạch Ruộng… (nay thuộc các xã Mỹ Thạnh Nam, Mỹ Thạnh Bắc – Cai Lậy và Hậu Mỹ Bắc, Hậu Mỹ Nam – Cái Bè) trên ngưỡng cửa vào Đồng Tháp Mười. Ngày ấy, Đồng Tháp Mười là một vùng trũng, sình lầy, ngập nước, mênh mông đến 700.000 ha, um tùm lau sậy, nhung nhúc rắn rết, muỗi, đỉa vây quanh mấy khu gò giồng hoang cô độc, mang các tên: gò Bắc Chiêng, gò Giồng Dung, giồng Sa Rây và đặc biệt là gò Tháp – với dấu tích điêu tàn của một tòa tháp 10 tầng, để lại từ thời vương quốc Phù Nam tự ngàn xưa. Không có đường ra vào, ngoại trừ một con kênh Tranh Giang (tức Rạch Chanh – đào vào năm 1815), nên xây dựng căn cứ thủ hiểm ở đây chính là một điều lý tưởng. Cuối năm 1864, Võ Duy Dương – với sự giúp đỡ của Đốc binh Kiều (tức người giữ chức Đốc binh tên Nguyễn Tấn Kiều) – quyết định đưa lực lượng vào trong Đồng Tháp Mười, xây dựng căn cứ. Đặt tổng hành dinh ở Gò Tháp (nay thuộc xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp), trước hết, Võ Duy Dương cho mở nhiều con đường mòn – gọi là “đường gạo” – để vận chuyển lương thực, tiếp tế cho căn cứ. Ở đầu mỗi đường mòn, đặt một đồn binh để canh giữ như: đồn Tiền ở trên gò Bái Liếp, án ngữ con đường từ Cái Nứa vào; đồn Tả ở trên gò Giông Dung, khống chế con đường từ Mộc Hóa sang; đồn Hữu trên gò Động Cát, canh giữ con đường từ Cân Lố tới… Ngoài ra, nhiều đồn binh nữa, cũng được xây dựng quanh/và trong miền như: đồn Ổ Bíp, đồn Sa Tiên, đồn Ấp Lý, đồn Doi… Lực lượng nghĩa quân được tập hợp lại, dần dà đông đúc đến trên 10.000 người. Sau gần một năm “Tức kỳ yểm cổ” (im cờ giấu trống), Võ Duy Dương bắt đầu tung quân từ căn cứ Đồng Tháp Mười ra tấn công giặc Pháp ở Cái Bè, Cai Lậy, Mỹ Quới…, đặc biệt là ngày 22-7-1865, phá đồn Mỹ Trà, gây cho địch nhiều tổn thất. Đối phó với những hoạt động của nghĩa quân Đồng Tháp Mười, vào tháng 11-1865, phía Pháp gây áp lực với Kinh Lược sứ Phan Thanh Giản, buộc họ Phan phải “giải quyết vấn đề Võ Duy Dương”, khiến sau đấy triều đình Huế phải ra chỉ dụ yêu cầu nghĩa quân ngừng hoạt động, cấm dân chúng không được tiếp tế, chứa chấp nghĩa quân. Mặt khác, vào tháng 4-1866, giặc huy động đại binh, chia ba mũi, mở cuộc tấn công tổng lực vào Đồng Tháp Mười. Sau 10 ngày quần thảo với giặc bằng đủ mọi cách đánh trận (như – theo truyền thuyết – ém đàn trâu cả trăm con dưới nước, chờ giặc tới thì bùng lên, dùng sừng nhọn mà húc hoặc thả loại ong cực độc cho đốt chết lính giặc…), đặc biệt là ở trận Đồn Tả (ngày 16-4-1866) – theo tài liệu của Pháp: Có đến 350 nghĩa quân và 40 khẩu đại bác tham chiến, làm chết và bị thương 2 tiểu đội lính Pháp… Cuối cùng, Võ Duy Dương quyết định: Bỏ căn cứ Đồng Tháp Mười, cho nghĩa quân rút ra ngoài, chỉ để lại Đốc binh Kiều, hy sinh khi chẹn đường truy kích của giặc. Người dân thắp hương tưởng nhớ Thiên Hộ Dương. “Chiều chiều mây giục gió vần Cảm thương Thiên Hộ xả thân cứu đời” Đó là câu ca dao lưu truyền ở Đồng Tháp, nói về chung cuộc của Võ Duy Dương, sau ngày rút quân ra khỏi căn cứ Đồng Tháp Mười. Người anh hùng của cuộc “Nam Kỳ kháng Pháp” còn có 6 tháng – từ tháng 4 đến tháng 10-1866 – để tiếp tục hoạt động đánh giặc giữ đất, liên kết với thủ lĩnh Trương Tuệ (tức Trương Quyền) là con của Bình Tây Nguyên Soái Trương Định và Thủ lĩnh A Soa (người Campuchia) ở vùng biên giới giữa hai nước Việt – Miên. Sau đó thì những thông tin khác nhau dồn dập đến. Chính sử triều Nguyễn – sách “Đại Nam thực lục, chính biên” – chép: “Bọn Võ Duy Dương nên cho ra đầu thú, dồn đi khai khẩn. Sắc cho tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hòa, hễ thấy tên Dương, tên Tuệ thì đem đổi tên, cấp cho ngựa trạm về Kinh đô, phái đi nơi khác, cho hết điều tiếng (với người Pháp)”. Như vậy là triều đình có chủ trương – chiều theo ý của Pháp – gọi Thiên Hộ Dương về Huế qua đường Bình Thuận, Khánh Hòa. Và dường như Võ Duy Dương đã chấp nhận điều này, với ý định: Sẽ về Huế để tiếp tục dâng kế sách đánh Pháp, lấy lại đất Nam Kỳ (bởi vì tài liệu của Pháp cho biết có tìm được 2 văn bản tấu nghị của Thiên Hộ Dương về việc này). Nhưng bất ngờ và không may – vẫn theo lời sách “Đại Nam thực lục”: “Duy Dương đi thuyền về tỉnh Bình Thuận đầu thú, gặp gió, bị đắm ở phần biển Thần Mẫu (tức Cần Giờ)”! Bấy giờ là tháng 10-1866. Võ Duy Dương mất, lúc mới 39 tuổi. Nhưng thủ lĩnh “Nam Kỳ kháng Pháp” ở căn cứ Đồng Tháp Mười vẫn vẻ vang mà sống mãi trong lòng dân, như thấy nói rõ ở đôi câu đối tại ngôi đền thờ ông (và Đốc binh Kiều), liền đấy đã mọc lên, ngay chính nơi đã đóng đại bản doanh của ông: “Sử sách sáng chói danh Thiên Hộ Bia miệng lưu truyền tiếng Đốc Binh”!
Kính viễn vọng James Webb giúp các nhà khoa học thu được hình ảnh ấn tượng từ tàn dư của vụ nổ siêu tân tinh trẻ nhất từng được biết đến. Hình ảnh chụp từ kính viễn vọng James Webb về tàn dư của vụ nổ siêu tân tinh Cas A. Ảnh: NASA/Space. Tàn dư của siêu tân tinh Cassiopeia A (hay Cas A) được hình thành vào khoảng 340 năm trước. Điều này biến Cas A thành đám mây mảnh vụn siêu tân tinh trẻ nhất từng biết. Trong công bố mới nhất, kính viễn vọng không gian James Webb thu được hình ảnh rìa ngoài là những vật chất bị siêu tân tinh thổi ra, những tấm màn màu cam và đỏ tượng trưng cho khí thải từ bụi ấm. Vật chất từ ngôi sao phát nổ bị đẩy vào bụi khí ở xung quanh, khiến nó nóng lên và phát sáng, theo Space . Điều này giúp giới khoa học có thể nghiên cứu kỹ hơn về điều gì xảy ra khi một ngôi sao chết đi. Vật chất thoát ra từ những vụ nổ siêu tân tinh sẽ phân tán khắp thiên hà, xây dựng nên những thế hệ sao hay hành tinh tiếp theo. Một vụ nổ siêu tân tinh cách đây 4,6 tỷ năm đã hình thành Mặt Trời và các hành tinh trong hệ Mặt trời, cũng như mở đường cho sự hình thành của các nguyên tố và sinh vật sống. Cas A cung cấp cái nhìn về giai đoạn đầu quá trình hình thành các hành tinh, do đó được các nhà thiên văn nghiên cứu kỹ lưỡng để hiểu cách những ngôi sao phát nổ. Giới khoa học đã hiểu về quá trình các siêu tân tinh phát tán những nguyên tố tạo nên ngôi sao hay hành tinh, song họ vẫn chưa nắm rõ cách những thiên hà ban đầu lại chứa lượng lớn bụi vũ trụ. Các nhà khoa học kỳ vọng việc nghiên cứu tàn dư siêu tân tinh Cas A bằng kính viễn vọng James Webb có thể khám phá bí ẩn này.
The James Webb Telescope helped scientists capture stunning images from the remnants of the youngest known supernova explosion. Image taken from the James Webb telescope of the remnants of the Cas A supernova explosion. Photo: NASA/Space. The remnants of the supernova Cassiopeia A (or Cas A) formed about 340 years ago. This makes Cas A the youngest known supernova debris cloud. In the latest announcement, the James Webb space telescope captured images of the outer edge of material blown out by the supernova, orange and red curtains representing emissions from warm dust. Material from the exploding star is pushed into the surrounding gas dust, causing it to heat up and glow, according to Space . This helps scientists study more closely what happens when a star dies. Material released from supernova explosions will disperse throughout the galaxy, building the next generation of stars or planets. A supernova explosion 4.6 billion years ago formed the Sun and planets in the solar system, as well as paved the way for the formation of elements and living organisms. Cas A provides a glimpse into the early stages of planet formation, and is therefore closely studied by astronomers to understand how stars explode. Scientists understand how supernovae spread the elements that make up stars or planets, but they still don't understand how early galaxies contained large amounts of cosmic dust. Scientists hope to study the Cas A supernova remnant using telescopes James Webb can uncover this mystery.
Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào Thongloun Sisoulith, sáng nay, 10/4, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng dẫn đầu Đoàn đại biểu Cấp cao Việt Nam rời Hà Nội, lên đường thăm chính thức Lào từ ngày 10 đến 11 tháng 4 năm 2023. Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng kể từ khi đảm nhiệm cương vị mới và được kỳ vọng tạo xung lực mới cho quan hệ Việt Nam-Lào. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng lên đường thăm chính thức Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN). Tháp tùng Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trong chuyến thăm có Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Lê Khánh Hải; Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn; Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoàng Xuân Chiến; Thứ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Tỏ; Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương; Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn. Tham gia Đoàn còn có Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội Trần Sỹ Thanh; Trợ lý Chủ tịch nước Dương Quốc Hưng; Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam-Lào Trần Văn Túy và Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Bá Hùng. Đại sứ Việt Nam tại Lào Nguyễn Bá Hùng cho biết: Chuyến công tác của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng diễn ra chỉ một thời gian ngắn sau khi được Quốc hội khóa XV bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 2/3/2023. Điều này một lần nữa cho thấy, lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam dành cho Lào những tình cảm và sự quan tâm đặc biệt như thế nào, thể hiện quyết tâm và cam kết mãnh liệt của lãnh đạo hai nước trong việc vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào và không ngừng phát triển lên tầm cao mới. Lễ tiễn Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tại Sân bay quốc tế Nội Bài. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN). Cũng theo Đại sứ Nguyễn Bá Hùng, chuyến thăm chính thức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng lần này gồm 3 mục đích chính: Một là khẳng định Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn trước sau như một, coi trọng và dành ưu tiên cao nhất cho việc củng cố và vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Hai là Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng sẽ hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Thongloun Sisoulith và trao đổi với các đồng chí lãnh đạo khác của Lào về các biện pháp nhằm làm sâu sắc hơn nữa, hiệu quả hơn nữa sự hợp tác toàn diện giữa hai nước. Đồng thời, lãnh đạo hai nước sẽ trao đổi các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm, đặc biệt là những diễn biến hết sức phức tạp đang diễn ra nhằm tăng cường sự hiểu biết chung, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ và hợp tác hiệu quả giữa Việt Nam-Lào trên các diễn đàn quốc tế và khu vực. Ba là chuyến thăm nhằm đem đến cho lãnh đạo và nhân dân Lào những tình cảm anh em, đồng chí thắm thiết của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đặc biệt trước dịp Tết cổ truyền Boun Pi May của Lào. Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Sonexay Siphandone công bố Tổng kết “Năm Đoàn kết Hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 2022”. Ảnh: Báo Điện tử ĐCS Việt Nam. Việt Nam và Lào có mối quan hệ đặc biệt, phát triển hết sức tốt đẹp trên mọi lĩnh vực, thường xuyên tổ chức các chuyến thăm, tiếp xúc của Lãnh đạo cấp cao và các cấp. Năm ngoái, hai nước tổ chức thành công: Kỳ họp lần thứ 44 Ủy ban liên Chính phủ, Lễ phát động “Năm Đoàn kết hữu nghị Việt Nam-Lào 2022”, Lễ khởi động dự án Công viên Hữu nghị Lào-Việt Nam tại thủ đô Viêng Chăn. Hai bên phối hợp tổ chức thành công Năm Đoàn kết Hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam 2022 với điểm nhấn là Lễ kỷ niệm trọng thể chào mừng 60 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 45 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam – Lào./.
Receiving the invitation of General Secretary of the Central Committee of the Lao People's Revolutionary Party, President of the Lao People's Democratic Republic Thongloun Sisoulith, this morning, April 10, President Vo Van Thuong led the delegation. Vietnamese high-ranking officials left Hanoi and set out for an official visit to Laos from April 10 to 11, 2023. This is the first foreign visit of President Vo Van Thuong since assuming his new position and is highly anticipated. hopes to create new momentum for Vietnam-Laos relations. President Vo Van Thuong went on an official visit to the Lao People's Democratic Republic. (Photo: Thong Nhat/TTXVN). Accompanying President Vo Van Thuong during the visit were Chairman of the Office of the President Le Khanh Hai; Minister of Foreign Affairs Bui Thanh Son; Minister of Science and Technology Huynh Thanh Dat; Deputy Minister of National Defense Hoang Xuan Chien; Deputy Minister of Public Security Tran Quoc To; Deputy Minister of Planning and Investment Tran Quoc Phuong; Deputy Minister of Education and Training Hoang Minh Son. Also participating in the delegation were Chairman of Hanoi People's Committee Tran Sy Thanh; Assistant to President Duong Quoc Hung; Chairman of the Vietnam-Laos Friendship Association Tran Van Tuy and Vietnamese Ambassador to Laos Nguyen Ba Hung. Vietnamese Ambassador to Laos Nguyen Ba Hung said: President Vo Van Thuong's business trip took place only a short time after being elected President of the Socialist Republic of Vietnam by the 15th National Assembly on November 11. March 2, 2023. This once again shows how much special affection and attention the Vietnamese Party and State leaders have for Laos, demonstrating the strong determination and commitment of the two countries' leaders in cultivating Laos. relationship of great friendship, special solidarity and comprehensive cooperation Vietnam – Laos and constantly develop to new heights. Sending off ceremony for President Vo Van Thuong at Noi Bai International Airport. (Photo: Thong Nhat/TTXVN). Also according to Ambassador Nguyen Ba Hung, the official visit to the Lao People's Democratic Republic by President Vo Van Thuong this time has 3 main purposes: One is affirming that the Party and State of Vietnam are always the same, valuing and giving highest priority to consolidating and cultivating the great friendship, special solidarity and comprehensive cooperation between the two countries. Two President Vo Van Thuong will hold talks with General Secretary and President Thongloun Sisoulith and discuss with other Lao leaders on measures to further deepen and make more effective global cooperation. interface between the two countries. At the same time, the leaders of the two countries will exchange international and regional issues of mutual concern, especially the extremely complex developments taking place to enhance common understanding and strengthen close coordination. and effective cooperation between Vietnam and Laos in international and regional forums. Third The visit aims to bring to the leaders and people of Laos the affectionate feelings of brotherhood and comradeship of the leaders of the Party, State and people of Vietnam, especially before the traditional Lao New Year Boun Pi May. Prime Minister Pham Minh Chinh and Prime Minister Sonexay Siphandone announced the Summary of "Year of Solidarity and Friendship Vietnam - Laos, Laos - Vietnam 2022". Photo: Vietnam Communist Party Electronic Newspaper. Vietnam and Laos have a special relationship, developing very well in all fields, regularly organizing visits and meetings of senior leaders and all levels. Last year, the two countries successfully organized: The 44th Session of the Intergovernmental Committee, the Launching Ceremony of the "Vietnam-Laos Solidarity and Friendship Year 2022", the Launching Ceremony of the Laos-Vietnam Friendship Park project in the capital Vientiane. The two sides successfully coordinated to organize the Year of Solidarity and Friendship between Vietnam - Laos and Laos - Vietnam 2022 with the highlight being the solemn celebration to celebrate the 60th anniversary of the establishment of diplomatic relations and the 45th anniversary of the signing of the Treaty. Friendship and Cooperation between Vietnam and Laos./.
Nhà văn Nguyễn Bình Phương trăn trở, dường như hiện nay nhân vật người tốt thuần túy đang vắng bóng hoặc thưa thớt dần trong các tác phẩm văn học. Ngày 8/4, Bộ Công an phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức lễ khai mạc trại sáng tác cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện và ký về đề tài Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống lần thứ 5 (giai đoạn 2022-2025). Trại sáng tác sẽ kết thúc vào ngày 21/4. Thiếu tướng Đỗ Triệu Phong, Cục trưởng Cục Truyền thông CAND, Phó chủ tịch thường trực Hội đồng chỉ đạo cuộc thi cho biết, đây là dịp để các tác giả sáng tạo nên những trang văn phản ánh chân thực nhất hình tượng người chiến sĩ CAND trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh Tổ quốc, vì bình yên cuộc sống, vì hạnh phúc của nhân dân. “Thông qua các tác phẩm văn chương, Bộ Công an và Cục Truyền thông CAND muốn chuyển thông điệp về cái đẹp, tính nhân văn đến đông đảo bạn đọc; góp phần tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào công tác đảm bảo an ninh trật tự, cùng với lực lượng Công an giữ gìn sự bình yên cho mỗi căn nhà, mỗi khu phố, xóm làng”, Thiếu tướng Đỗ Triệu Phong chia sẻ. Nhà văn Nguyễn Bình Phương. Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Bình Phương, Phó chủ tịch Hội đồng chỉ đạo cuộc thi cho rằng, văn học Việt Nam trong vài chục năm gần đây phát triển hết sức rầm rộ, nhiều khuynh hướng, đề tài, hệ thẩm mỹ, quan niệm khác nhau, đạt đến độ cởi mở gần như tuyệt đối. Nhưng có một vấn đề Hội Nhà văn Việt Nam nhận thấy cần lưu ý là dường như nhân vật người tốt đang vắng bóng hoặc thưa thớt dần trong các tác phẩm văn học. “Văn học của chúng ta ở giai đoạn trước, dù có những hạn chế về phương pháp sáng tác, quan điểm nhưng người tốt chiếm vai trò thượng phong. Họ đấu tranh với cái xấu, cái ác, kiềm chế nó, có thể khiến cái ác xấu hổ, cái xấu chùn bước, nhưng bây giờ họ vắng bóng dần. Đây là điều rất đáng suy nghĩ’, ông Phương nói. Trại sáng tác quy tụ 35 nhà văn đến từ các tỉnh, thành trong cả nước. Cũng theo nhà văn Nguyễn Bình Phương, trong lịch sử văn học Việt Nam và các nước trên thế giới, có rất nhiều người tốt thuần túy đáng quý vô cùng. Hệ thống nhân vật này cần quay trở lại vị trí trung tâm của văn học, vì ở một khía cạnh nào đó, đây chính là liều thuốc giảm đau cho xã hội. “Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam cũng như Bộ Công an, Cục Truyền thông CAND hi vọng các tác giả tham gia trại sáng tác sẽ cho ra đời những tác phẩm xứng đáng với nhận thức, tâm huyết, tài năng, sự nhạy cảm của từng người, để làm sao sau cuộc thi không chỉ có các tác phẩm đạt giải cao mà văn học Việt Nam phải có những nhân vật người tốt triệt để và cũng đầy thân phận khi viết về người chiến sĩ CAND”, ông Phương kỳ vọng.
Writer Nguyen Binh Phuong Concerned, it seems that currently, pure good characters are absent or sparse in literary works. On April 8, the Ministry of Public Security coordinated with the Vietnam Writers' Association to organize the opening ceremony of a creative camp for a contest to write novels, stories and essays on the topic. For national security and peace of life for the 5th time (period 2022-2025). The creative camp will end on April 21. Major General Do Trieu Phong, Director of the People's Public Security Department of Communications, Permanent Vice Chairman of the Contest Steering Council, said that this is an opportunity for authors to create pages that most truly reflect the image of soldiers. CAND in the struggle to protect national security, for peace of life, and for the happiness of the people. “Through literary works, the Ministry of Public Security and the Public Security Department of Communications want to convey the message of beauty and humanity to a large number of readers; contribute to propagandizing and mobilizing the masses to actively participate in the work of ensuring security and order, together with the police force to preserve peace for every house, every neighborhood, and village", Thieu General Do Trieu Phong shared. Writer Nguyen Binh Phuong. Vice Chairman of the Vietnam Writers Association Nguyen Binh Phuong, Vice Chairman of the Contest Steering Council, said that Vietnamese literature in recent decades has developed extremely rapidly, with many trends, themes, and aesthetic systems. aesthetics, different concepts, reaching an almost absolute openness. But there is an issue that the Vietnam Writers' Association recognizes that needs attention: it seems that good guy characters are absent or sparse in literary works. “In our literature in the previous period, although there were limitations in composition methods and perspectives, good people had the upper hand. They fight with evil, restrain it, can make evil ashamed, evil falter, but now they gradually disappear. This is something worth thinking about,' Mr. Phuong said. The creative camp brings together 35 writers from provinces and cities nationwide. Also according to writer Nguyen Binh Phuong, in the history of Vietnamese literature and countries around the world, there are many pure good people who are extremely precious. This character system needs to return to the central position of literature, because in some respects, this is a pain reliever for society. “The Executive Committee of the Vietnam Writers Association as well as the Ministry of Public Security and the People's Public Security Department of Communications hope that the authors participating in the creative camp will produce works worthy of their awareness, enthusiasm, talent, and sensitivity. feelings of each person, so that after the contest, not only will there be works that win high prizes, but Vietnamese literature must have characters who are thoroughly good people and also full of dignity when writing about People's Public Security soldiers", Mr. Phuong expected.
Hình ảnh kính thiên văn Hubble ghi lại chỏm cực sáng màu của sao Thiên Vương trong khi kính thiên văn James Webb cho thấy nhiều chi tiết hơn. Ảnh: NASA Kính thiên văn James Webb đã ghi lại hình ảnh ngoạn mục mới của hành tinh Thiên Vương băng giá với gần như tất cả vành đai của nó. Theo NASA, hình ảnh này đã cho thấy độ nhạy đáng kể của kính thiên văn James Webb bởi trước đó tàu vũ trụ Voyager 2 và Đài quan sát W.M. Keck ở Maunakea, Hawaii chỉ ghi lại được những hình ảnh tương đối mờ về các vành đai trên. Sao Thiên Vương có 13 vành đai với 11 vành đai trong số đó có thể quan sát được trong hình ảnh mới của kính thiên văn James Webb. 9 vành đai được xếp vào những vành đai chính trong khi 2 vành đai kia khó có thể ghi lại hơn do chúng được tạo thành từ bụi và phải tới khi tàu vũ trụ Voyager 2 được phóng vào quỹ đạo năm 1986 thì chúng mới được phát hiện. 2 vành đai ngoài cùng còn lại mờ hơn không xuất hiện trong bức ảnh mới đây. Chúng được phát hiện vào năm 2007 từ những hình ảnh do kính thiên văn Hubble ghi lại. Các nhà khoa học hy vọng James Webb sẽ chụp được chúng trong tương lai. “Hệ thống vành đai của một hành tinh nói với chúng ta nhiều điều về nguồn gốc và sự hình thành của nó”, Tiến sĩ Naomi Rowe-Gurney cho hay. Theo nhà khoa học này: “Sao Thiên Vương là một thế giới lạ lùng với góc nghiêng sang một bên và thiếu nhiệt ở bên trong. Bất kỳ bằng chứng nào chúng ta thu thập được về lịch sử của nó đều rất giá trị”. Các nhà khoa học dự đoán những hình ảnh tương lai của James Webb sẽ có thể ghi lại tất cả 13 vành đai của sao Thiên Vương. Tiến sĩ Rowe-Gurney cũng hy vọng kính thiên văn này có thể phát hiện nhiều thành phần hơn trong không khí của sao Thiên Vương nhằm giúp các nhà khoa học hiểu hơn về hành tinh khí bất thường này. Nằm cách Mặt trời gần 3 tỷ km, sao Thiên Vương mất 84 năm để hoàn thành một vòng quay. Hành tinh này nghiêng về một phía, tạo thành những vành đai theo chiều dọc, không giống với các vành đai theo chiều ngang của sao Thổ. Trong những bức ảnh ban đầu tàu vũ trụ Voyager 2 chụp sao Thiên Vương, hành tinh này dường như là một khối cầu xanh dương không có gì đặc biệt. Nhưng trong bức ảnh mới của kính thiên văn James Webb, tương tự như những bức ảnh gần đây của kính thiên văn Hubble, những đám mây có thể được thấy ở rìa chỏm cực./. Theo: CNN
The Hubble telescope image captures Uranus' brightly colored polar cap while the James Webb telescope shows more detail. Photo: NASA The James Webb Telescope has captured a breathtaking new image of the icy planet Uranus with nearly all of its rings. According to NASA, this image demonstrated the remarkable sensitivity of the James Webb telescope because the Voyager 2 spacecraft and the W.M. Keck in Maunakea, Hawaii recorded only relatively faint images of the above belts. Uranus has 13 rings, 11 of which can be seen in new images from the James Webb telescope. Nine rings are classified as the main rings while the other two rings are more difficult to record because they are made of dust and it was not until the Voyager 2 spacecraft was launched into orbit in 1986 that they were discovered. presently. The remaining two outermost rings are fainter and do not appear in the recent photo. They were discovered in 2007 from images recorded by the Hubble telescope. Scientists hope James Webb will capture them in the future. “A planet's ring system tells us a lot about its origin and formation,” said Dr. Naomi Rowe-Gurney. According to this scientist: “Uranus is a strange world with a sideways angle and a lack of heat inside. Any evidence we can gather about its history is very valuable.” Scientists predict James Webb's future images will be able to capture all 13 of Uranus's rings. Dr. Rowe-Gurney also hopes this telescope can detect more components in Uranus's atmosphere to help scientists better understand this unusual gas planet. Located nearly 3 billion km from the Sun, Uranus takes 84 years to complete one rotation. The planet tilts to one side, forming vertical rings, unlike Saturn's horizontal rings. In early images taken by the Voyager 2 spacecraft of Uranus, the planet appeared to be a featureless blue sphere. But in the new photo from the James Webb telescope, similar to recent images from the Hubble telescope, clouds can be seen at the edge of the polar cap./. According to: CNN
Dịch giả Giáp Văn Chung chia sẻ những câu chuyện về nền văn học Hungary, một đất nước nhỏ bé nhưng có số giải Nobel tính trên đầu người vào loại cao nhất trên thế giới. Vào năm 2011, dịch giả Giáp Văn Chung từng được Nhà nước Hungary trao tặng giải Vì nền văn hóa Hungary – giải thưởng Nhà nước trao cho các công dân nước ngoài có những cống hiến lớn trong hoạt động giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hóa Hungary, củng cố các mối quan hệ văn hóa giữa Hungary và các dân tộc khác trên thế giới. Dịch giả Giáp Văn Chung. * Xin chào dịch giả Giáp Văn Chung. Thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam đã nhiều lần được gặp ông trên làn sóng của Đài. Có lẽ trong cuộc nói chuyện lần này về văn học Hungary, một cái nền văn học rất vĩ đại mà ông đã theo đuổi việc chuyển ngữ tới bạn đọc Việt Nam, trước hết ông có thể chia sẻ câu chuyện tại sao mà Hungary là đất nước được rất nhiều giải Nobel, nhưng mà chỉ có một giải Nobel văn học? – Dịch giả Giáp Văn Chung: Vâng, thưa khán thính giả của đài VOV5, 15 người Hungary đoạt giải Nobel là một con số rất lớn, bởi vì với 9 – 10 triệu dân, có lẽ Hungary là dân tộc mà có số giải Nobel tính trên đầu người vào loại cao nhất trên thế giới, trong đó có một nhà văn là Imre Kertész. Người ta đánh giá với nền văn học lớn như thế, tại sao lại chỉ có một tác giả được Nobel văn chương? Thì cũng xin nói thêm, rất nhiều nhà văn Hungary đã được đề cử giải Nobel văn chương. Có những người đã lọt vào vòng cuối cùng năm người. Thí dụ như năm Mạc Ngôn của Trung Quốc được trao giải, tác giả của cuốn Chiến tranh và Chiến tranh (mà Nhã Nam ấn hành) là Krasznahorkai László cũng lọt vào vòng 5, để cuối cùng Mạc Ngôn được Nobel. Một điều nữa là tiếng Hungary rất khó, việc chuyển ngữ tiếng Hungary sang ngay cả tiếng các nước châu Âu cũng bị hạn chế, bởi nó là một ngôn ngữ đứng đơn lẻ trong đại gia đình các ngôn ngữ châu Âu. * Những đặc điểm nào về lịch sử đã làm nên đặc trưng của diện mạo văn học Hungary từ xưa tới nay, thưa ông? – Người ta cho rằng trong lịch sử thì người Hungary có gốc gác từ miền Trung Á bao la. Họ đã làm một cuộc di dân trải qua 500 năm đi dần về phương Tây và cuối cùng đến thế kỉ thứ 10 thì họ đến định cư tại vùng lòng chảo Carpat, tức là trung tâm, là mảnh đất Hungary hiện nay. Có một đặc điểm nữa làm nên cái tính cách hay là cái đặc trưng của văn học Hungary, đấy là lịch sử Hungary trải qua rất nhiều giai đoạn bi thương. Khi họ sang đến châu Âu thì họ là dân du mục. Họ có đội quân rất hùng mạnh, đi đánh phá các nước xung quanh. Hiện nay ở các nước phương Tây như ở Tây Ban Nha vẫn còn những câu ngạn ngữ như “Lạy chúa hãy cứu con khỏi mũi tên của người Hung”. Sau đến đời vua Isván đệ nhất, ông khuyên người dân Hung bỏ cuộc sống du mục, định cư và hướng họ đi theo Thiên chúa giáo. Đến thế kỉ thứ 10 Giáo hoàng mới phong vị vương đầu tiên cho nước Hung và họ thực sự hòa nhập vào cộng đồng Công giáo châu Âu. Thế nhưng, trải qua quá trình lịch sử, bởi vì vị trí Hungary ở điểm trung chuyển giữa Đông và Tây, cho nên liên tục bị các cuộc xâm lăng của các nước tràn qua. Ví dụ thời kỳ từ thế kỷ thứ 13 đến thế kỷ 18, khi mà đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ – đế quốc Ottoman hùng mạnh liên tục tràn qua nước Hung để đánh sang châu Âu. Từ đó các bạn thấy có tiểu thuyết “Những ngôi sao thành Ê ghe” đã được dựng thành phim, có một thời rất nổi tiếng ở Việt Nam. Họ luôn luôn bị xâm lăng, đất nước nhiều lần bị chia sẻ, có những giai đoạn chia làm ba và trở nên hỗn loạn, gần như là có nguy cơ là dân tộc không tồn tại được. Sau này, khi nổ ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1914 – 1918 thì Hungary lại đứng về phe Đức – Áo – Hung và đã bị các nước phe trục đánh bại. Và đến năm 1920 họ kí một hòa ước, mà cái hòa ước ấy để lại trong nhiều thế hệ Hungary, một nỗi chua xót, một nỗi đắng cay mà đến bây giờ vẫn chưa nguôi ngoai: Hiệp định đó đã chia nước Hung làm ba phần, cắt mất của Hungary 66 % diện tích và 5 triệu người Hung ở các vùng ven biên giới ngày một ngày hai sau Hiệp định đó trở thành các sắc dân thiểu số của các nước xung quanh. Bạn hãy tưởng tượng một đất nước mà bị cắt đi đến hai phần ba đất đai và mất 5 triệu người trong 10 triệu người cho các nước xung quanh… Là một tổn thất rất lớn. Đến chiến tranh thế giới lần thứ hai họ lại đứng về phe phát xít, Đức – Ý- Hung – Nhật… Sau Thế chiến thứ hai họ lại bị cắt xén một lần nữa, có thể nói là đất nước chia năm xẻ bảy. Và điều ấy đọng lại trong tâm thức, trong suy nghĩ của người Hung. Và chính điều đó đã làm nên đặc trưng của văn học Hungary: Đa số các tác phẩm mang một âm hưởng bi thương. Nếu chúng ta tìm những yếu tố lạc quan, hy vọng ở tiểu thuyết Hung thì rất ít. Tôi nghĩ các nhà văn lớn đều có một khả năng dự cảm, khả năng dự báo tương lai. Nếu chúng ta nhìn thế giới trong độ mươi, mười lăm năm nay, chúng ta cũng thấy khắp nơi chỉ là bạo lực, chiến tranh… Tôi nghĩ Krasznahorkai László với tác phẩm của mình đã góp phần dự báo, cảnh báo nhân loại là chúng ta đang đứng trước những nguy cơ rất lớn. Đấy là một trong những đặc điểm của văn học của Hungary. Một số tác phẩm văn học Hungary đã được dịch ra tiếng Việt. * Có thể thấy là văn học Hungary cũng có những cái tác phẩm đỉnh cao về đề tài Holocaust – về việc tàn sát người Do Thái trong chiến tranh thế giới thứ hai? – Hungary là nước ở đầu thế kỷ thứ 19 nhận rất đông người Do Thái. Trước đó người Do Thái lang thang ở các nước châu Âu với nhiều cộng đồng lẻ. Nhưng Chính phủ Hung lúc đó đã cho người Do Thái vào định cư. Có những lúc cao điểm người Do Thái ở Hungary được nhận tới 600- 700 nghìn người, trong 10 triệu dân thì tỉ lệ đấy rất cao. Chúng ta đã biết người Do Thái có quyết tâm rất lớn và cũng là một dân tộc rất trí tuệ. Họ đã đóng góp rất nhiều vào việc phát triển nước Hung trong những năm cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỉ 20. Nhưng đến khi xảy ra cuộc chiến thế giới lần thứ hai, thì người Do Thái ở Hung bị đưa vào các trại tập trung với tỷ lệ rất lớn, có những ngày tới 2-3 chuyến tàu toa chở súc vật nhét đầy người Do Thái và chở thẳng đến Auschwitz. (còn gọi là Oświęcim). Nếu chúng ta vào thăm trại Oświęcim sẽ thấy trong khoảng 1,1 triệu người bị đưa vào lò thiêu ở đó, có quá nửa là người Do Thái ở Hung. Đấy cũng là một tổn thất rất lớn và in đậm dấu ấn trong văn học Hung. Một đặc điểm nữa là thời kỳ sau năm 1947, sau khi Đảng Cộng sản lên nắm quyền, có nhiều tác giả sáng tạo nên rất nhiều tác phẩm có giá trị. * Vâng cũng như ông đã từng trao đổi, có thể thấy là tầm cỡ của một cái nền văn học hay nói rộng hơn là một nền văn hóa sẽ không phụ thuộc vào nước nhỏ hay nước lớn? – Rất nhiều người hỏi tôi là tại sao một nước nhỏ như thế mà có nhiều tác gia lớn như thế. Ví dụ như anh Trần Tiễn Cao Đăng rất mê các tác giả Hungary. Tôi cũng có trả lời: Tôi nghĩ nó giống như một cái cây cảnh, nếu được cắt tỉa nó mới lên được hình hài đẹp. Có lẽ Hungary cũng vì chịu rất nhiều tổn thất, đau thương như vậy, chia rẽ đất nước và số người bị bị mất mát rất lớn, liên tục có 160 năm nằm dưới ách thống trị của Thổ Nhĩ Kỳ, rồi sau đó lại có nhiều thế kỷ bị triều đình Habsburg của Áo thống trị, nên liên tục xảy ra những cuộc đấu tranh vì tự do. Cho nên dân tộc Hung cũng có ý chí quật cường bên cạnh một lịch sử bi thương. Người ta nói không phải những người chiến thắng mới anh hùng, nhiều khi nước mắt phải dành cho những người thất bại. Đấy có lẽ cũng là một điểm làm nên đặc tính của Văn học Hungary hiện nay. Kể từ sau năm 89 trở lại đây Hungary xuất hiện một lớp nhà văn rất tài hoa. Họ tự do viết. Có thể mình ngạc nhiên như Viện Hàn lâm nghệ thuật của Đức ở Berlin nhiều năm đều do những tác giả lớn của văn học Hung làm Giám đốc. Văn học Hung có quan hệ với nước Đức từ rất lâu, từ Thế chiến thứ nhất liên tục cho đến ngày nay. Các nhà văn Hung đến được với thế giới, đa phần đầu tiên qua độc giả người Đức, qua các bản dịch tiếng Đức, sau đó họ mới dịch ra các ngôn ngữ khác. Bởi vì ngay từ đầu tôi xác định chỉ chọn những tác phẩm có giá trị lâu bền, bất kể là khó hay như thế nào tôi vẫn làm, nên thực ra số đầu sách mình làm được không được nhiều. Nếu mình chọn sách nhẹ hơn thì có thể số đầu sách sẽ lớn hơn. Cho đến nay tôi cũng in được, chủ yếu là sách văn học ở nhà Nhã Nam. * Xin trân trọng cảm ơn dịch giả Giáp Văn Chung về cuộc trò chuyện này và rất mong chờ những cái tác phẩm dịch thuật tiếp theo của ông từ văn học Hungary. Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn ông .
Dịch giả Giáp Văn Chung chia sẻ những câu chuyện về nền văn học Hungary, một đất nước nhỏ bé nhưng có số giải Nobel tính trên đầu người vào loại cao nhất trên thế giới. Vào năm 2011, dịch giả Giáp Văn Chung từng được Nhà nước Hungary trao tặng giải Vì nền văn hóa Hungary – giải thưởng Nhà nước trao cho các công dân nước ngoài có những cống hiến lớn trong hoạt động giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hóa Hungary, củng cố các mối quan hệ văn hóa giữa Hungary và các dân tộc khác trên thế giới. Dịch giả Giáp Văn Chung. * Xin chào dịch giả Giáp Văn Chung. Thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam đã nhiều lần được gặp ông trên làn sóng của Đài. Có lẽ trong cuộc nói chuyện lần này về văn học Hungary, một cái nền văn học rất vĩ đại mà ông đã theo đuổi việc chuyển ngữ tới bạn đọc Việt Nam, trước hết ông có thể chia sẻ câu chuyện tại sao mà Hungary là đất nước được rất nhiều giải Nobel, nhưng mà chỉ có một giải Nobel văn học? – Dịch giả Giáp Văn Chung: Vâng, thưa khán thính giả của đài VOV5, 15 người Hungary đoạt giải Nobel là một con số rất lớn, bởi vì với 9 – 10 triệu dân, có lẽ Hungary là dân tộc mà có số giải Nobel tính trên đầu người vào loại cao nhất trên thế giới, trong đó có một nhà văn là Imre Kertész. Người ta đánh giá với nền văn học lớn như thế, tại sao lại chỉ có một tác giả được Nobel văn chương? Thì cũng xin nói thêm, rất nhiều nhà văn Hungary đã được đề cử giải Nobel văn chương. Có những người đã lọt vào vòng cuối cùng năm người. Thí dụ như năm Mạc Ngôn của Trung Quốc được trao giải, tác giả của cuốn Chiến tranh và Chiến tranh (mà Nhã Nam ấn hành) là Krasznahorkai László cũng lọt vào vòng 5, để cuối cùng Mạc Ngôn được Nobel. Một điều nữa là tiếng Hungary rất khó, việc chuyển ngữ tiếng Hungary sang ngay cả tiếng các nước châu Âu cũng bị hạn chế, bởi nó là một ngôn ngữ đứng đơn lẻ trong đại gia đình các ngôn ngữ châu Âu. * Những đặc điểm nào về lịch sử đã làm nên đặc trưng của diện mạo văn học Hungary từ xưa tới nay, thưa ông? – Người ta cho rằng trong lịch sử thì người Hungary có gốc gác từ miền Trung Á bao la. Họ đã làm một cuộc di dân trải qua 500 năm đi dần về phương Tây và cuối cùng đến thế kỉ thứ 10 thì họ đến định cư tại vùng lòng chảo Carpat, tức là trung tâm, là mảnh đất Hungary hiện nay. Có một đặc điểm nữa làm nên cái tính cách hay là cái đặc trưng của văn học Hungary, đấy là lịch sử Hungary trải qua rất nhiều giai đoạn bi thương. Khi họ sang đến châu Âu thì họ là dân du mục. Họ có đội quân rất hùng mạnh, đi đánh phá các nước xung quanh. Hiện nay ở các nước phương Tây như ở Tây Ban Nha vẫn còn những câu ngạn ngữ như “Lạy chúa hãy cứu con khỏi mũi tên của người Hung”. Sau đến đời vua Isván đệ nhất, ông khuyên người dân Hung bỏ cuộc sống du mục, định cư và hướng họ đi theo Thiên chúa giáo. Đến thế kỉ thứ 10 Giáo hoàng mới phong vị vương đầu tiên cho nước Hung và họ thực sự hòa nhập vào cộng đồng Công giáo châu Âu. Thế nhưng, trải qua quá trình lịch sử, bởi vì vị trí Hungary ở điểm trung chuyển giữa Đông và Tây, cho nên liên tục bị các cuộc xâm lăng của các nước tràn qua. Ví dụ thời kỳ từ thế kỷ thứ 13 đến thế kỷ 18, khi mà đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ – đế quốc Ottoman hùng mạnh liên tục tràn qua nước Hung để đánh sang châu Âu. Từ đó các bạn thấy có tiểu thuyết “Những ngôi sao thành Ê ghe” đã được dựng thành phim, có một thời rất nổi tiếng ở Việt Nam. Họ luôn luôn bị xâm lăng, đất nước nhiều lần bị chia sẻ, có những giai đoạn chia làm ba và trở nên hỗn loạn, gần như là có nguy cơ là dân tộc không tồn tại được. Sau này, khi nổ ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1914 – 1918 thì Hungary lại đứng về phe Đức – Áo – Hung và đã bị các nước phe trục đánh bại. Và đến năm 1920 họ kí một hòa ước, mà cái hòa ước ấy để lại trong nhiều thế hệ Hungary, một nỗi chua xót, một nỗi đắng cay mà đến bây giờ vẫn chưa nguôi ngoai: Hiệp định đó đã chia nước Hung làm ba phần, cắt mất của Hungary 66 % diện tích và 5 triệu người Hung ở các vùng ven biên giới ngày một ngày hai sau Hiệp định đó trở thành các sắc dân thiểu số của các nước xung quanh. Bạn hãy tưởng tượng một đất nước mà bị cắt đi đến hai phần ba đất đai và mất 5 triệu người trong 10 triệu người cho các nước xung quanh… Là một tổn thất rất lớn. Đến chiến tranh thế giới lần thứ hai họ lại đứng về phe phát xít, Đức – Ý- Hung – Nhật… Sau Thế chiến thứ hai họ lại bị cắt xén một lần nữa, có thể nói là đất nước chia năm xẻ bảy. Và điều ấy đọng lại trong tâm thức, trong suy nghĩ của người Hung. Và chính điều đó đã làm nên đặc trưng của văn học Hungary: Đa số các tác phẩm mang một âm hưởng bi thương. Nếu chúng ta tìm những yếu tố lạc quan, hy vọng ở tiểu thuyết Hung thì rất ít. Tôi nghĩ các nhà văn lớn đều có một khả năng dự cảm, khả năng dự báo tương lai. Nếu chúng ta nhìn thế giới trong độ mươi, mười lăm năm nay, chúng ta cũng thấy khắp nơi chỉ là bạo lực, chiến tranh… Tôi nghĩ Krasznahorkai László với tác phẩm của mình đã góp phần dự báo, cảnh báo nhân loại là chúng ta đang đứng trước những nguy cơ rất lớn. Đấy là một trong những đặc điểm của văn học của Hungary. Một số tác phẩm văn học Hungary đã được dịch ra tiếng Việt. * Có thể thấy là văn học Hungary cũng có những cái tác phẩm đỉnh cao về đề tài Holocaust – về việc tàn sát người Do Thái trong chiến tranh thế giới thứ hai? – Hungary là nước ở đầu thế kỷ thứ 19 nhận rất đông người Do Thái. Trước đó người Do Thái lang thang ở các nước châu Âu với nhiều cộng đồng lẻ. Nhưng Chính phủ Hung lúc đó đã cho người Do Thái vào định cư. Có những lúc cao điểm người Do Thái ở Hungary được nhận tới 600- 700 nghìn người, trong 10 triệu dân thì tỉ lệ đấy rất cao. Chúng ta đã biết người Do Thái có quyết tâm rất lớn và cũng là một dân tộc rất trí tuệ. Họ đã đóng góp rất nhiều vào việc phát triển nước Hung trong những năm cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỉ 20. Nhưng đến khi xảy ra cuộc chiến thế giới lần thứ hai, thì người Do Thái ở Hung bị đưa vào các trại tập trung với tỷ lệ rất lớn, có những ngày tới 2-3 chuyến tàu toa chở súc vật nhét đầy người Do Thái và chở thẳng đến Auschwitz. (còn gọi là Oświęcim). Nếu chúng ta vào thăm trại Oświęcim sẽ thấy trong khoảng 1,1 triệu người bị đưa vào lò thiêu ở đó, có quá nửa là người Do Thái ở Hung. Đấy cũng là một tổn thất rất lớn và in đậm dấu ấn trong văn học Hung. Một đặc điểm nữa là thời kỳ sau năm 1947, sau khi Đảng Cộng sản lên nắm quyền, có nhiều tác giả sáng tạo nên rất nhiều tác phẩm có giá trị. * Vâng cũng như ông đã từng trao đổi, có thể thấy là tầm cỡ của một cái nền văn học hay nói rộng hơn là một nền văn hóa sẽ không phụ thuộc vào nước nhỏ hay nước lớn? – Rất nhiều người hỏi tôi là tại sao một nước nhỏ như thế mà có nhiều tác gia lớn như thế. Ví dụ như anh Trần Tiễn Cao Đăng rất mê các tác giả Hungary. Tôi cũng có trả lời: Tôi nghĩ nó giống như một cái cây cảnh, nếu được cắt tỉa nó mới lên được hình hài đẹp. Có lẽ Hungary cũng vì chịu rất nhiều tổn thất, đau thương như vậy, chia rẽ đất nước và số người bị bị mất mát rất lớn, liên tục có 160 năm nằm dưới ách thống trị của Thổ Nhĩ Kỳ, rồi sau đó lại có nhiều thế kỷ bị triều đình Habsburg của Áo thống trị, nên liên tục xảy ra những cuộc đấu tranh vì tự do. Cho nên dân tộc Hung cũng có ý chí quật cường bên cạnh một lịch sử bi thương. Người ta nói không phải những người chiến thắng mới anh hùng, nhiều khi nước mắt phải dành cho những người thất bại. Đấy có lẽ cũng là một điểm làm nên đặc tính của Văn học Hungary hiện nay. Kể từ sau năm 89 trở lại đây Hungary xuất hiện một lớp nhà văn rất tài hoa. Họ tự do viết. Có thể mình ngạc nhiên như Viện Hàn lâm nghệ thuật của Đức ở Berlin nhiều năm đều do những tác giả lớn của văn học Hung làm Giám đốc. Văn học Hung có quan hệ với nước Đức từ rất lâu, từ Thế chiến thứ nhất liên tục cho đến ngày nay. Các nhà văn Hung đến được với thế giới, đa phần đầu tiên qua độc giả người Đức, qua các bản dịch tiếng Đức, sau đó họ mới dịch ra các ngôn ngữ khác. Bởi vì ngay từ đầu tôi xác định chỉ chọn những tác phẩm có giá trị lâu bền, bất kể là khó hay như thế nào tôi vẫn làm, nên thực ra số đầu sách mình làm được không được nhiều. Nếu mình chọn sách nhẹ hơn thì có thể số đầu sách sẽ lớn hơn. Cho đến nay tôi cũng in được, chủ yếu là sách văn học ở nhà Nhã Nam. * Xin trân trọng cảm ơn dịch giả Giáp Văn Chung về cuộc trò chuyện này và rất mong chờ những cái tác phẩm dịch thuật tiếp theo của ông từ văn học Hungary. Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn ông .
Dân số Việt Nam dự kiến chạm ngưỡng 100 triệu người trong tháng 4 năm nay. Ngay từ bây giờ, Việt Nam cần định hướng chiến lược dân số giai đoạn 2031-2045, bảo đảm cho dân tộc phát triển bền vững đến năm 2100. Việc sau khi thoát nghèo, càng giàu lên càng mất khả năng duy trì nòi giống không chỉ là quá trình xảy ra ở Nhật Bản mà còn tại tất cả các nước ở châu Âu và Bắc Mỹ. Trước khi bàn về những thành tựu quan trọng của chiến lược phát triển dân số của Việt Nam, hãy cùng nhìn lại xu hướng phát triển dân số của các nước trong 50 năm qua. Theo quan sát ở các nước trên thế giới, trong thế kỷ XIX và XX, bình quân cứ 100 bé gái được sinh ra thì có 104-106 bé trai chào đời trong cùng thời kỳ. Do khả năng sống sót sau sinh của các bé trai thấp hơn bé gái nên ở tuổi trưởng thành, tỉ lệ bé trai và bé gái xấp xỉ 100/100. Nếu các bé gái sau này lấy chồng khi trưởng thành và tính bình quân mỗi phụ nữ trong tuổi sinh đẻ (khoảng 20 – 45 tuổi) có bình quân 2,1 con thì đến lúc đó, do một số ít đã mất nên số người ở tuổi trưởng thành bình quân sẽ là 2 – tức là nếu bình quân mỗi phụ nữ sinh được 2,1 con và sống cùng người phụ nữ đó luôn có một người đàn ông trong xã hội (tỉ lệ nam, nữ trưởng thành là 100/100), khi người phụ nữ và người đàn ông cùng thời sau này hết tuổi lao động và chết đi thì đã có 2 người con của người phụ nữ thay thế 2 người này, bảo đảm số lao động trong xã hội không bị thay đổi, dân số ổn định. Nếu tuổi thọ bình quân ở một đất nước tăng thì dân số sẽ tăng, dù số lao động không tăng và số người dưới 18 tuổi không tăng. Vì vậy, người ta gọi số con mà một phụ nữ sinh ra trong đời (thường ở tuổi 20 – 45) bằng 2,1 con là tỉ suất sinh thay thế: thay thế chính mình và một người đàn ông cùng thời khi hai người này chết đi. Một quốc gia mà tỉ suất sinh lớn hơn 2,1 thì trong điều kiện bình thường, số lao động, dân số của quốc gia đó sẽ tăng. Nếu tỉ suất sinh bằng tỉ suất sinh thay thế thì số lao động không tăng (không tính nếu thay đổi tuổi lao động), còn dân số tăng nhẹ do tuổi thọ tăng. Ngược lại, khi tỉ suất sinh dưới tỉ suất sinh thay thế (không có người nhập cư) sẽ dẫn tới số lao động giảm (sau khoảng 18 năm, nếu tuổi làm việc là 18). Trong trường hợp này, dân số có thể vẫn tăng một thời gian, do tuổi thọ tăng và tỉ suất sinh thấp hơn tỉ suất sinh thay thế không nhiều (1,9 đến dưới 2,1); hoặc dân số sẽ giảm sau một thời gian dài (khoảng 25 – 35 năm) do tỉ suất sinh thấp hơn đáng kể tỉ suất sinh thay thế (dưới 1,8 đến 1). Tức là khi tỉ suất sinh dưới tỉ suất sinh thay thế một thời gian dài (trên 20 năm), số người mới sinh ra không thay thế được hết số lao động nghỉ hưu, làm cho số lao động giảm và sau một thời gian, dân số sẽ giảm và mức độ dân số giảm nhanh hay chậm tùy thuộc vào mức độ giảm của tỉ suất sinh so với tỉ suất sinh thay thế (1,8 đến 1 so với 2,1). Lúc này những quốc gia như vậy mất khả năng duy trì nòi giống. Nhật Bản là một trường hợp điển hình. Năm 1950, tỉ suất sinh ở Nhật Bản là 3,5, đến năm 1960 giảm bằng tỉ suất sinh thay thế, đến năm 1970 tỉ suất sinh là 2,07 (hình 1). Con số này cho thấy Nhật Bản đã duy trì cơ cấu dân số vàng được khoảng 10 năm (khi tỉ suất sinh xấp xỉ 2,1, số người trong độ tuổi đi làm – từ 15 tuổi đến 64 tuổi sẽ lớn gấp hơn 2 lần số người dưới 15 tuổi và từ 65 tuổi trở lên). Tuy nhiên, sau 10 năm, tỉ suất sinh ở Nhật Bản đảo chiều: Năm 1975 là 1,95; năm 1980 là 1,8 và sau đó giảm liên tục. Trong 20 năm, từ 2000 – 2020, tỉ suất sinh của nước này xuống mức 1,34 – 1,36; dự báo còn khoảng 1,67 sau 80 năm nữa, vào năm 2100. Khi tỉ suất sinh đã xuống tới 1,8 (năm 1980) thì sau 120 năm nữa, tức vào năm 2100, Nhật Bản cũng không tăng trở lại mức 1,8, càng không thể đạt tỉ suất sinh thay thế (2,1; hình 1). Năm 1995, tức là 20 năm sau khi tỉ suất sinh thấp dưới tỉ suất sinh thay thế đáng kể (1,95 vào năm 1975), số người trong độ tuổi lao động ở Nhật Bản bắt đầu giảm song dân số còn tăng và đạt đỉnh vào năm 2010 (128 triệu dân) do tuổi thọ của người Nhật rất cao và liên tục gia tăng. Chính việc số lao động chỉ giảm sau 20 năm (1975 – 1995) và dân số chỉ giảm sau 35 năm (1975-2010) đã che mờ nguy cơ thiếu lao động và dân số giảm do tỉ suất sinh giảm dưới tỉ suất sinh thay thế. Do đó, chính phủ Nhật Bản đã không kịp thời đề ra và thực hiện các giải pháp hiệu quả để đảo ngược xu thế tỉ suất sinh giảm liên tục. Dự báo sau hơn 120 năm (1975-2100), nước này vẫn không thể đảo ngược được tình hình (tỉ suất sinh vào năm 2100 khoảng 1,67) nếu không có các biện pháp quyết liệt, khác về chất so với các giải pháp đã thực hiện 20 năm qua (hình 1). Hậu quả của việc tỉ suất sinh thấp “bền vững” 45 năm dưới tỉ suất sinh thay thế (1,95 vào năm 1975 và 1,36 năm 2020) là đến năm 2100, tức là 90 năm sau khi dân số Nhật Bản đạt đỉnh cao nhất (128 triệu người vào năm 2010), dân số nước này sẽ chỉ còn 50 triệu người, bằng 39% dân số lúc cao nhất (hình 1) và sau đó 900 năm, vào năm 3000 còn khoảng 500 người. Nghiên cứu của Đại học Tohoku (Nhật Bản) đã chỉ ra sau khoảng 1.000 năm, tính từ năm 2010, nước Nhật sẽ tuyệt chủng. Năm 3011, đứa trẻ cuối cùng sẽ được sinh ra ở Nhật Bản. Một nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới (sau Mỹ và Trung Quốc), dân số đứng thứ 11 thế giới (Việt Nam đứng thứ 15) đang đối diện với nguy cơ bị tuyệt chủng sau 1.000 năm nữa, sau khi trong 1.000 năm trước đã tăng dân số từ 4,5 triệu người lên 128 triệu người (hình 2). Nếu xem xét diễn biến của tỉ suất sinh và GDP/người của Nhật Bản giai đoạn 1960-2020 (hình 3), sẽ thấy mối quan hệ ngược chiều rất lạ. Trong 10 năm, 1960-1970, tỉ suất sinh ổn định ở mức tỉ suất sinh thay thế (2,1-2,08) và ở giai đoạn này, năm 1960, thu nhập bình quân đầu người (GDP) của Nhật Bản là 474 USD, năm 1965 là 929 USD, tức là sắp vượt ngưỡng thu nhập thấp. Từ năm 1966 trở đi, Nhật Bản là nước thu nhập trung bình, đến năm 1986 đạt mức thu nhập cao với 17.113 USD/người (ngưỡng thu nhập cao là trên 12.000 USD/người) và đến năm 1995 đạt 44.200 USD. Như vậy, sau khi Nhật Bản thoát nghèo, càng giàu lên thì tỉ suất sinh càng giảm, từ 2,1 vào năm 1960 còn 1,43 vào năm 1995 (hình 3). 25 năm tiếp theo, 1995-2020, GDP bình quân đầu người không tăng, dao động ở mức bình quân 40.000 USD thì tỉ suất sinh cũng ổn định ở mức thấp là 1,34-1,36. Nói cách khác, sau khi thoát nghèo (1996), nước Nhật càng giàu thì càng mất khả năng duy trì nòi giống. Nếu không có các giải pháp đột phá về chất để đảo ngược tình hình thì dân số 128 triệu người từ năm 2010 sẽ giảm dần (hình 1), còn 100 triệu người vào năm 2050, 50 triệu người vào năm 2100 và sau năm 3000, nước Nhật không tồn tại nữa (hình 2). Ngày 17-3 vừa qua, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã nói: “Khoảng 6-7 năm tới là cơ hội cuối cùng để Nhật Bản đảo ngược tình trạng tỉ lệ sinh giảm sâu” và công bố một loạt chính sách mới. Tất cả các nước giàu đứng trước hai lựa chọn Việc sau khi thoát nghèo, càng giàu càng giảm tỉ suất sinh dưới tỉ suất sinh thay thế, mất khả năng duy trì nòi giống không chỉ là quá trình xảy ra ở Nhật Bản mà còn ở tất cả các nước tại châu Âu, Singapore, Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Mỹ, Canada. Tỉ suất sinh bình quân của 27 nước trong Liên minh châu Âu (EU) năm 1960 là 2,6, năm 1976 là 2,1 và sau đó giảm liên tục, năm 2000 còn 1,4 và năm 2020 là 1,5. Theo dự báo của EU năm 2019, đến năm 2100 tổng số người chết khoảng 391 triệu, tổng số người sinh 308 triệu. Như vậy, EU sẽ thiếu hụt dân số 83 triệu người trong 80 năm. Lúc đó, bình quân mỗi năm EU phải nhập cư ròng khoảng 1 triệu người – nếu muốn dân số EU năm 2100 không đổi so với năm 2019. Dân số EU đã tăng từ 354,6 triệu năm 1960 lên 448 triệu năm 2020, sau đó đã giảm 2 năm liên tiếp, năm 2022 là 446,8 triệu. Với việc rơi vào tình trạng trên, không có khả năng tự duy trì nòi giống, tái tạo đất nước về mặt con người, Nhật Bản, EU cùng nhiều quốc gia khác chỉ có 2 lựa chọn: Không chấp nhận nhập cư ở mức cần thiết thì số lao động và dân số sẽ ngày càng giảm, đất nước sẽ tuyệt chủng sau khoảng 500 đến 1.000 năm (Hàn Quốc và Nhật Bản) hoặc phải khuyến khích nhập cư để bù số người sinh thiếu so với đòi hỏi của tỉ suất sinh thay thế. ————- Kỳ tới: 22 năm giữ vững cơ cấu dân số vàng
Dân số Việt Nam dự kiến chạm ngưỡng 100 triệu người trong tháng 4 năm nay. Ngay từ bây giờ, Việt Nam cần định hướng chiến lược dân số giai đoạn 2031-2045, bảo đảm cho dân tộc phát triển bền vững đến năm 2100. Việc sau khi thoát nghèo, càng giàu lên càng mất khả năng duy trì nòi giống không chỉ là quá trình xảy ra ở Nhật Bản mà còn tại tất cả các nước ở châu Âu và Bắc Mỹ. Trước khi bàn về những thành tựu quan trọng của chiến lược phát triển dân số của Việt Nam, hãy cùng nhìn lại xu hướng phát triển dân số của các nước trong 50 năm qua. Theo quan sát ở các nước trên thế giới, trong thế kỷ XIX và XX, bình quân cứ 100 bé gái được sinh ra thì có 104-106 bé trai chào đời trong cùng thời kỳ. Do khả năng sống sót sau sinh của các bé trai thấp hơn bé gái nên ở tuổi trưởng thành, tỉ lệ bé trai và bé gái xấp xỉ 100/100. Nếu các bé gái sau này lấy chồng khi trưởng thành và tính bình quân mỗi phụ nữ trong tuổi sinh đẻ (khoảng 20 – 45 tuổi) có bình quân 2,1 con thì đến lúc đó, do một số ít đã mất nên số người ở tuổi trưởng thành bình quân sẽ là 2 – tức là nếu bình quân mỗi phụ nữ sinh được 2,1 con và sống cùng người phụ nữ đó luôn có một người đàn ông trong xã hội (tỉ lệ nam, nữ trưởng thành là 100/100), khi người phụ nữ và người đàn ông cùng thời sau này hết tuổi lao động và chết đi thì đã có 2 người con của người phụ nữ thay thế 2 người này, bảo đảm số lao động trong xã hội không bị thay đổi, dân số ổn định. Nếu tuổi thọ bình quân ở một đất nước tăng thì dân số sẽ tăng, dù số lao động không tăng và số người dưới 18 tuổi không tăng. Vì vậy, người ta gọi số con mà một phụ nữ sinh ra trong đời (thường ở tuổi 20 – 45) bằng 2,1 con là tỉ suất sinh thay thế: thay thế chính mình và một người đàn ông cùng thời khi hai người này chết đi. Một quốc gia mà tỉ suất sinh lớn hơn 2,1 thì trong điều kiện bình thường, số lao động, dân số của quốc gia đó sẽ tăng. Nếu tỉ suất sinh bằng tỉ suất sinh thay thế thì số lao động không tăng (không tính nếu thay đổi tuổi lao động), còn dân số tăng nhẹ do tuổi thọ tăng. Ngược lại, khi tỉ suất sinh dưới tỉ suất sinh thay thế (không có người nhập cư) sẽ dẫn tới số lao động giảm (sau khoảng 18 năm, nếu tuổi làm việc là 18). Trong trường hợp này, dân số có thể vẫn tăng một thời gian, do tuổi thọ tăng và tỉ suất sinh thấp hơn tỉ suất sinh thay thế không nhiều (1,9 đến dưới 2,1); hoặc dân số sẽ giảm sau một thời gian dài (khoảng 25 – 35 năm) do tỉ suất sinh thấp hơn đáng kể tỉ suất sinh thay thế (dưới 1,8 đến 1). Tức là khi tỉ suất sinh dưới tỉ suất sinh thay thế một thời gian dài (trên 20 năm), số người mới sinh ra không thay thế được hết số lao động nghỉ hưu, làm cho số lao động giảm và sau một thời gian, dân số sẽ giảm và mức độ dân số giảm nhanh hay chậm tùy thuộc vào mức độ giảm của tỉ suất sinh so với tỉ suất sinh thay thế (1,8 đến 1 so với 2,1). Lúc này những quốc gia như vậy mất khả năng duy trì nòi giống. Nhật Bản là một trường hợp điển hình. Năm 1950, tỉ suất sinh ở Nhật Bản là 3,5, đến năm 1960 giảm bằng tỉ suất sinh thay thế, đến năm 1970 tỉ suất sinh là 2,07 (hình 1). Con số này cho thấy Nhật Bản đã duy trì cơ cấu dân số vàng được khoảng 10 năm (khi tỉ suất sinh xấp xỉ 2,1, số người trong độ tuổi đi làm – từ 15 tuổi đến 64 tuổi sẽ lớn gấp hơn 2 lần số người dưới 15 tuổi và từ 65 tuổi trở lên). Tuy nhiên, sau 10 năm, tỉ suất sinh ở Nhật Bản đảo chiều: Năm 1975 là 1,95; năm 1980 là 1,8 và sau đó giảm liên tục. Trong 20 năm, từ 2000 – 2020, tỉ suất sinh của nước này xuống mức 1,34 – 1,36; dự báo còn khoảng 1,67 sau 80 năm nữa, vào năm 2100. Khi tỉ suất sinh đã xuống tới 1,8 (năm 1980) thì sau 120 năm nữa, tức vào năm 2100, Nhật Bản cũng không tăng trở lại mức 1,8, càng không thể đạt tỉ suất sinh thay thế (2,1; hình 1). Năm 1995, tức là 20 năm sau khi tỉ suất sinh thấp dưới tỉ suất sinh thay thế đáng kể (1,95 vào năm 1975), số người trong độ tuổi lao động ở Nhật Bản bắt đầu giảm song dân số còn tăng và đạt đỉnh vào năm 2010 (128 triệu dân) do tuổi thọ của người Nhật rất cao và liên tục gia tăng. Chính việc số lao động chỉ giảm sau 20 năm (1975 – 1995) và dân số chỉ giảm sau 35 năm (1975-2010) đã che mờ nguy cơ thiếu lao động và dân số giảm do tỉ suất sinh giảm dưới tỉ suất sinh thay thế. Do đó, chính phủ Nhật Bản đã không kịp thời đề ra và thực hiện các giải pháp hiệu quả để đảo ngược xu thế tỉ suất sinh giảm liên tục. Dự báo sau hơn 120 năm (1975-2100), nước này vẫn không thể đảo ngược được tình hình (tỉ suất sinh vào năm 2100 khoảng 1,67) nếu không có các biện pháp quyết liệt, khác về chất so với các giải pháp đã thực hiện 20 năm qua (hình 1). Hậu quả của việc tỉ suất sinh thấp “bền vững” 45 năm dưới tỉ suất sinh thay thế (1,95 vào năm 1975 và 1,36 năm 2020) là đến năm 2100, tức là 90 năm sau khi dân số Nhật Bản đạt đỉnh cao nhất (128 triệu người vào năm 2010), dân số nước này sẽ chỉ còn 50 triệu người, bằng 39% dân số lúc cao nhất (hình 1) và sau đó 900 năm, vào năm 3000 còn khoảng 500 người. Nghiên cứu của Đại học Tohoku (Nhật Bản) đã chỉ ra sau khoảng 1.000 năm, tính từ năm 2010, nước Nhật sẽ tuyệt chủng. Năm 3011, đứa trẻ cuối cùng sẽ được sinh ra ở Nhật Bản. Một nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới (sau Mỹ và Trung Quốc), dân số đứng thứ 11 thế giới (Việt Nam đứng thứ 15) đang đối diện với nguy cơ bị tuyệt chủng sau 1.000 năm nữa, sau khi trong 1.000 năm trước đã tăng dân số từ 4,5 triệu người lên 128 triệu người (hình 2). Nếu xem xét diễn biến của tỉ suất sinh và GDP/người của Nhật Bản giai đoạn 1960-2020 (hình 3), sẽ thấy mối quan hệ ngược chiều rất lạ. Trong 10 năm, 1960-1970, tỉ suất sinh ổn định ở mức tỉ suất sinh thay thế (2,1-2,08) và ở giai đoạn này, năm 1960, thu nhập bình quân đầu người (GDP) của Nhật Bản là 474 USD, năm 1965 là 929 USD, tức là sắp vượt ngưỡng thu nhập thấp. Từ năm 1966 trở đi, Nhật Bản là nước thu nhập trung bình, đến năm 1986 đạt mức thu nhập cao với 17.113 USD/người (ngưỡng thu nhập cao là trên 12.000 USD/người) và đến năm 1995 đạt 44.200 USD. Như vậy, sau khi Nhật Bản thoát nghèo, càng giàu lên thì tỉ suất sinh càng giảm, từ 2,1 vào năm 1960 còn 1,43 vào năm 1995 (hình 3). 25 năm tiếp theo, 1995-2020, GDP bình quân đầu người không tăng, dao động ở mức bình quân 40.000 USD thì tỉ suất sinh cũng ổn định ở mức thấp là 1,34-1,36. Nói cách khác, sau khi thoát nghèo (1996), nước Nhật càng giàu thì càng mất khả năng duy trì nòi giống. Nếu không có các giải pháp đột phá về chất để đảo ngược tình hình thì dân số 128 triệu người từ năm 2010 sẽ giảm dần (hình 1), còn 100 triệu người vào năm 2050, 50 triệu người vào năm 2100 và sau năm 3000, nước Nhật không tồn tại nữa (hình 2). Ngày 17-3 vừa qua, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã nói: “Khoảng 6-7 năm tới là cơ hội cuối cùng để Nhật Bản đảo ngược tình trạng tỉ lệ sinh giảm sâu” và công bố một loạt chính sách mới. Tất cả các nước giàu đứng trước hai lựa chọn Việc sau khi thoát nghèo, càng giàu càng giảm tỉ suất sinh dưới tỉ suất sinh thay thế, mất khả năng duy trì nòi giống không chỉ là quá trình xảy ra ở Nhật Bản mà còn ở tất cả các nước tại châu Âu, Singapore, Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Mỹ, Canada. Tỉ suất sinh bình quân của 27 nước trong Liên minh châu Âu (EU) năm 1960 là 2,6, năm 1976 là 2,1 và sau đó giảm liên tục, năm 2000 còn 1,4 và năm 2020 là 1,5. Theo dự báo của EU năm 2019, đến năm 2100 tổng số người chết khoảng 391 triệu, tổng số người sinh 308 triệu. Như vậy, EU sẽ thiếu hụt dân số 83 triệu người trong 80 năm. Lúc đó, bình quân mỗi năm EU phải nhập cư ròng khoảng 1 triệu người – nếu muốn dân số EU năm 2100 không đổi so với năm 2019. Dân số EU đã tăng từ 354,6 triệu năm 1960 lên 448 triệu năm 2020, sau đó đã giảm 2 năm liên tiếp, năm 2022 là 446,8 triệu. Với việc rơi vào tình trạng trên, không có khả năng tự duy trì nòi giống, tái tạo đất nước về mặt con người, Nhật Bản, EU cùng nhiều quốc gia khác chỉ có 2 lựa chọn: Không chấp nhận nhập cư ở mức cần thiết thì số lao động và dân số sẽ ngày càng giảm, đất nước sẽ tuyệt chủng sau khoảng 500 đến 1.000 năm (Hàn Quốc và Nhật Bản) hoặc phải khuyến khích nhập cư để bù số người sinh thiếu so với đòi hỏi của tỉ suất sinh thay thế. ————- Kỳ tới: 22 năm giữ vững cơ cấu dân số vàng
Đây là dãy núi nổi tiếng ở Việt Nam cũng như bán đảo Đông Dương, song song với bờ biển và có độ dài hơn 1.000km. 1. Dãy núi này có tên là gì? Dãy núi Trường Sơn là biên giới tự nhiên của 3 nước Việt Nam , Lào và Campuchia . Đồng thời, đây cũng là dãy núi dài nhất Việt Nam với chiều dài khoảng 1.100 km. Dãy núi có cấu trúc liên tục, dốc phía Đông cao hơn và ép sát đồng bằng duyên hải hẹp nhỏ. Dãy Trường Sơn kéo dài từ thượng nguồn sông Cả bên trong nước Lào đến miền Đông Nam Bộ Việt Nam. 2. Dãy núi này đi qua bao nhiêu tỉnh thành của Việt Nam? Dài hơn 1.100km, dãy núi Trường Sơn chạy qua 21 tỉnh, thành của nước ta như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế… Dãy núi này cũng được xem là “xương sống” của bán đảo Đông Dương. 3. Phần phía Bắc và phía Nam của dãy núi này được chia bởi ranh giới giữa 2 địa phương nào? Dãy núi Trường Sơn được chia thành 2 phần Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam theo chiều dài, ranh giới giữa 2 phần thuộc địa phận Đà Nẵng – Quảng Nam. Phía Bắc chủ yếu do đá vôi, sa thạch, đá hoa cương tạo thành; phía Nam có nếp uốn làm lộ ra nền đá aplit, ở một số khu vực bị dòng dung nham bazan che lấp. Dòng dung nham này cũng hình thành cao nguyên Kon Tum, cao nguyên Đà Lạt ở Việt Nam. 4. Thời Pháp thuộc, dãy Trường Sơn có tên là gì? Tên gọi dãy Trường Sơn dần trở nên phổ biến sau khi Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp vào năm 1954. Trước đó, vì dãy núi chủ yếu chạy trên địa phận Trung Kỳ theo cách phân chia hành chính của người Pháp, nên Trường Sơn được gọi là dãy Trung Kỳ. 5. Ngọn núi cao nhất thuộc dãy Trường Sơn nằm trên biên giới Việt Nam – Lào có tên gì? Dãy Trường Sơn có nhiều đỉnh núi cao hơn 2.000m, trong đó đỉnh cao nhất là Phou Bia (2.819m), thuộc tỉnh Xiengkhoang, Lào. Trên biên giới Việt Nam – Lào, đỉnh cao nhất của dãy Trường Sơn là Phu Xai Lai Leng, cao 2.720m, thuộc địa phận Nghệ An. Ngọc Linh cũng là một đỉnh núi nổi tiếng thuộc dãy Trường Sơn và nằm hoàn toàn trong lãnh thổ Việt Nam. Nơi đây cao 2.598m và có loại Sâm Ngọc Linh quý hiếm.
This is a famous mountain range in Vietnam as well as the Indochina peninsula, parallel to the coast and more than 1,000km long. 1. What is the name of this mountain range? The Truong Son Mountains are the natural border of the three countries Vietnam , Laos and Cambodia . At the same time, this is also the longest mountain range in Vietnam with a length of about 1,100 km. The mountain range has a continuous structure, the eastern slope is higher and presses close to the narrow coastal plain. Truong Son mountains extending from the upper Ca River in Laos to the Southeast of Vietnam. 2. How many provinces and cities in Vietnam does this mountain range pass through? More than 1,100km long, the Truong Son mountain range runs through 21 provinces and cities of our country such as Thanh Hoa, Nghe An, Ha Tinh, Quang Binh, Quang Tri, Thua Thien Hue... This mountain range is also considered the "backbone" of Indochina peninsula. 3. The northern and southern parts of this mountain range are divided by the boundary between which two localities? The Truong Son mountain range is divided into two parts Truong Son North and Truong Son South according to the length, the boundary between the two parts belongs to the territory of Da Nang - Quang Nam. The North is mainly made up of limestone, sandstone, and marble; In the south, there are folds that expose the aplite bedrock, which in some areas is covered by basalt lava flows. This lava flow also formed the Kon Tum plateau and Da Lat plateau in Vietnam. 4. During the French colonial period, what was the name of the Truong Son range? The name Truong Son range gradually became popular after Vietnam defeated the French colonialists in 1954. Before that, because the mountain range mainly ran in the territory of Central Vietnam according to the administrative division of the French, Truong Son range called the Trung Ky range. 5. What is the name of the highest mountain in the Truong Son range located on the Vietnam - Laos border? The Truong Son range has many peaks higher than 2,000m, of which the highest peak is Phou Bia (2,819m), in Xiengkhoang province, Laos. On the Vietnam - Laos border, the highest peak of the Truong Son range is Phu Xai Lai Leng, 2,720m high, located in Nghe An. Ngoc Linh is also a famous mountain peak in the Truong Son range and located entirely within Vietnamese territory. This place is 2,598m high and has the rare Ngoc Linh Ginseng.
Nhà thơ Trần Nhuận Minh khi bàn về Thơ có nói: “Tôi không quan tâm đến các chủ nghĩa, các trường phái chỉ quan tâm đến Thơ hay […] Và khi đã đạt đến cái hay thì mọi giá trị ngang nhau. Nhưng hay thế nào thì tôi không giải thích được” (báo Văn nghệ số 40 tháng 10/2022). Một nhà thơ từng trải đã nói vậy, chúng tôi nghĩ khó có thể giải thích thêm, tuy nhiên trên con đường đi đến cái lĩnh vực “ thơ hay đầy hoang hoải mịt mờ ” đó chỉ mong nói đến vài ngã rẽ ngõ hầu có thể tự nhắc mình và các bạn trẻ đi vào cái lối chính để tìm đến “thơ hay” đỡ phần ngộ nhận! Thử làm vài cuộc khảo sát chân thành và thiết thực: Nhớ lại cuộc hội thảo năm nào về Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, rồi hội thảo về Thơ Nguyễn Quang Thiều, Thơ Hà Nội 45 năm …, gần đây là Cuộc thi Thơ của báo Văn nghệ , người ta ghi nhận sự thành công của chúng về mặt tổ chức, về sự tham gia của người yêu thơ nhưng về sự nhận thức sáng tỏ hơn về cái gọi là thơ hay , để bổ sung cho sự cảm thụ của công chúng thì quả thật chưa thỏa mãn. Tự ám thị, thấy “cái chuẩn” của thơ hay không dừng lại tình yêu của các fan hâm mộ về các phong cách sáng tạo kỹ thuật thơ độc đáo, của các sở thích cá nhân về cái mới lạ và kể cả sự đề cao của một bộ phận độc giả cộng đồng mà dấu ấn thi ca đã thành nếp. Nó là một cái gì sâu sắc và bao quát hơn nhiều. Nhà thơ lớn nào cũng là bậc thầy về ngôn ngữ, về kỹ thuật thơ ca, nhưng cái người ta suy tôn trựớc hết là ở cái nội dung lớn lao, cao cả mà nhà thơ làm rung động tâm hồn nguời đọc chứ không phải ở cái phép “phù thủy” của kỹ thuật. Nguyễn Trãi , Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương … sống mãi trong lòng mọi người là ở tấm lòng nhân mênh mông của các vị. Độc giả muốn tìm một ý nghĩa gì đó về thân phận con người về thế giới đa sắc đa hương được các tác giả thể hiện làm cho tâm hồn mình thêm giàu có chứ không phải để ngạc nhiên trước các thủ thuật thơ ca. Ở Phương Đông và Việt Nam nói riêng thời nào cũng có những nhà thơ coi trọng hình thức, những nhà thơ duy mỹ ưa chuộng sự kỳ dị hiểm tích trong việc dùng chữ, gieo vần. Vào cuối thế kỷ trước bên Âu Mỹ có các trường phái Thơ Ngôn Ngữ, Thơ Tân Hình thức, với khuynh hướng trau chuốt hình thức, tuyệt đối hóa ngôn ngữ, nó lan nhanh sang các nước và thịnh hành trong một số nhà thơ Việt Nam hải ngoại cũng như quốc nội và không phải không có những thành công nhất định, nhưng cũng có không ít những vấn đề khiến người đọc băn khoăn, suy nghĩ khi những đặc tính của nó được áp dụng vội vã. Sự phát triển của Văn học – Nghệ thuật đương đại hướng đến hai tính chất thoáng nhìn như “trái ngược” nhưng thực ra có một quan hệ biện chứng, là đồ thị một hệ phương trình mà trục tung là tính dân tộc (truyền thống) trục hoành là tính hiện đại (cái mới), tuy có hai tham số nhưng tích hợp lại cùng một phương. Cái khó là tìm ra phương tích hợp của đồ thị, cũng tức là tìm ra chân giá trị của tác phẩm, sự thống nhất hai phẩm tính đó trong một hình tượng nghệ thuật thơ. Vì giữa các khái niệm Mới , Đẹp , Hay của thơ ca không phải lúc nào cũng chồng khít lên nhau. Có người nặng về cái mới, cái lạ, có người thiên về cái truyền thống và cho đó chính là cái đẹp, cái hay của thi pháp Thơ. Rồi mối quan hệ giữa những cái đó với hiện thực… Sự bộn bề của Thơ bắt nguồn từ đó. Thơ hiện nay quả thật đang trong “cuộc kiếm tìm, thử nghiệm” và phê bình thơ cũng vậy, trước mắt là những câu hỏi lớn về truyền thống và cách tân, về sự hội nhập và bản sắc dân tộc, về cái đẹp chân chính của thơ ở nội dung đời sống hay kỹ thuật ngôn từ. Theo chúng tôi, đó chính là vấn đề còn nhiều “khoảng mờ” của Thơ về cái sự đọc cũng như lý luận – phê bình thơ hiện nay và quả thật chưa có công trình nào giải thích một cách khả tín, tạo được sự tin tưởng về cái điều mà nhà thơ Trần Nhuận Minh đã nêu. Con đường gập ghềnh của sự đi tìm “cái khác lạ” đã thành vệt tự ngàn xưa, phê bình giúp thơ và cũng tự giúp mình khỏi vấp ngã sa vào các ngã rẽ cực đoan và phiến diện mà đi vào cái lối chính để đến với cái chuẩn của thơ hay , thỏa mãn những yêu cầu trong cuộc phối sinh giữa đời sống với những khả thể của thơ. Dẫu rằng Thơ có những đặc tính và sức mạnh có “chân lý riêng” nhưng Thơ không tự đặt ra một cái chuẩn“tự mình”. Để thực sự còn lại với thời gian, thơ và phê bình thơ đừng quá ham thanh chuộng lạ chạy về phía các “Chủ nghĩa” này nọ mà xa rời các yêu cầu trong đời sống thực tế, có nhiều ngã đến với Thơ hay nhưng tất yếu ngã nào cũng không thể tách rời các nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng đặt ra trong thực tại. Trong những tiêu chí tạo nên cái chuẩn thơ hay chúng tôi cho rằng tính lý tưởng toát lên từ cuộc sống hiện tại vẫn là hàng đầu, thứ mới đến những vấn đề của thi pháp, của hình thức, ngôn ngữ. Chế Lan Viên , một đỉnh cao của siêu thực một thời cũng đã tỉnh ngộ: Vạt áo nhà thơ không đựng hết bạc vàng mà đời rơi vãi/ Hãy nhặt những chữ trong đời mà viết nên chương. Hay: Máu thấm vào lòng đất đã sâu/ Sao trang giấy lòng anh suy nghĩ cạn. Tất thảy đều muốn nói đến quan hệ, sự gắn bó thơ ca với cuộc sống. Thơ cần có mục đích, cần có tư tưởng. Thơ cần hướng đến độc giả số đông chứ không chỉ hướng đến số ít “tầng lớp ưu tú”, thậm chí “chỉ viết cho tôi” như có người nghĩ! Các bậc thi bá xưa nay đều mong thơ mình lan tới các hang cùng ngõ hẽm, UNESCO công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa cái tiêu chí đầu tiên là sức lan tỏa của nó trong cộng đồng, người đời có thể quên tác giả nhưng không quên thơ! Một hệ luận nảy sinh: Hồn thơ phải rung động hồn người. Cái chuẩn thơ hay phải chăng có thể xa lạ với điều này! Cái chuẩn này nó vượt mọi định chế xã hội, thời gian và không gian. Một nhà thơ bậc thầy thuộc thế hệ các nhà thơ trau chuốt hình thức Trung Hoa cổ là Giả Đảo khi nói cái kỳ khu của thơ cũng phải cho rằng: Ba năm làm hai câu thơ, đọc lên hai hàng lệ chảy (Nhị cú tam niên đắc, nhất ngâm song lệ lưu), tức là ông vẫn đề cao cái hồn thơ trên cái uyển ảo câu chữ! Để chiếm lĩnh tình cảm người đọc không nên dừng lại nơi thói quen cảm thụ đã thành nếp nhưng cũng không phải bằng sự hướng chú ý của họ vào “cái mới” qua ngôn ngữ kỳ khu hoặc qua những hình thái tổng hợp bí hiểm vô thức. Sau ngày thống nhất trong sự giao lưu văn hóa thế giới, nhiều thứ chủ nghĩa lan vào văn hóa ta, có một phương cách sáng tạo thơ mà có nhà phê bình đã nhắc đến, đó là “trốn vào ngôn ngữ”, từ cái luận điểm “thế giới là văn bản” họ lái đến “thơ ca là ngôn ngữ”, ngôn ngữ là trên hết, tạo cái khác lạ, khó hiểu ở cách nói, ở ngôn ngữ, có vẻ như có chiều sâu suy cảm, thực ra đó chỉ là một thứ lãng mạn mới, thoát ly những mâu thuẩn khó khăn trong cuộc sống trốn vào ma trận ngôn ngữ gây ảo giác cho người đọc! Vả lại hiện đại trong sự phát triển cúa các chương trình “trí thông minh nhân tạo” nếu chỉ thuần ghép chữ thì thơ của Chat GPT làm nhanh và khéo hơn chúng ta nhiều (!?) Đối chiếu các chặng đường phát triển nghệ thuật thời gian qua cho thấy tác phẩm nào mà có tiếng vang, nhiều độc giả tìm đến, đều có gốc rễ từ việc luôn đề cập đến những vấn đề độc giả quan tâm, với một hình thức độc giả ưa thích, nó không hề vượt ra ngoài “ tầm đón nhận ” của công chúng. Nói về ý nghĩa, sự ảnh hưởng của cái “mới”, “cái lạ” của ngôn ngữ nói riêng và các hình thức nghệ thuật nói chung, chúng tôi rất tâm đắc với câu nói được J.P. Sartre trích dẫn trong tác phẩm của mình: “ Các từ là những khẩu súng đã nạp đạn. Nếu ông nói nó sẽ nổ. Ông có thể nín lặng, song bởi vì ông đã quyết định bắn cho nên đấy phải là một con người nhắm đích mà bắn chứ không phải là một đứa bé hú họa nhắm mắt mà bắn và chỉ để thích thú vì nghe tiếng nổ ” 1 Các phương cách làm mới Thơ, các hình thức ngôn ngữ, suy cho cùng đó không nên là mục đích của thơ, đó chỉ là phương tiện, cái mục đích, cái cuối cùng của thơ, cái đích bắn là sự tác động vào tâm hồn người đọc là lý tưởng nhân văn với cái nhìn mới có tính phát hiện, tính sáng tạo vào cuộc sống, còn tiếng nổ – các kiểu ngôn từ – có thể làm thích thú chốc lát nhưng đó không phải là cái đích của thơ ca. Đi tìm cái hay của Thơ nên chăng nghĩ về điều đó. _______ 1. J.P.Sartre – Văn học là gì – NXB Hội Nhà văn 1999- Tr31
Nhà thơ Trần Nhuận Minh khi bàn về Thơ có nói: “Tôi không quan tâm đến các chủ nghĩa, các trường phái chỉ quan tâm đến Thơ hay […] Và khi đã đạt đến cái hay thì mọi giá trị ngang nhau. Nhưng hay thế nào thì tôi không giải thích được” (báo Văn nghệ số 40 tháng 10/2022). Một nhà thơ từng trải đã nói vậy, chúng tôi nghĩ khó có thể giải thích thêm, tuy nhiên trên con đường đi đến cái lĩnh vực “ thơ hay đầy hoang hoải mịt mờ ” đó chỉ mong nói đến vài ngã rẽ ngõ hầu có thể tự nhắc mình và các bạn trẻ đi vào cái lối chính để tìm đến “thơ hay” đỡ phần ngộ nhận! Thử làm vài cuộc khảo sát chân thành và thiết thực: Nhớ lại cuộc hội thảo năm nào về Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, rồi hội thảo về Thơ Nguyễn Quang Thiều, Thơ Hà Nội 45 năm …, gần đây là Cuộc thi Thơ của báo Văn nghệ , người ta ghi nhận sự thành công của chúng về mặt tổ chức, về sự tham gia của người yêu thơ nhưng về sự nhận thức sáng tỏ hơn về cái gọi là thơ hay , để bổ sung cho sự cảm thụ của công chúng thì quả thật chưa thỏa mãn. Tự ám thị, thấy “cái chuẩn” của thơ hay không dừng lại tình yêu của các fan hâm mộ về các phong cách sáng tạo kỹ thuật thơ độc đáo, của các sở thích cá nhân về cái mới lạ và kể cả sự đề cao của một bộ phận độc giả cộng đồng mà dấu ấn thi ca đã thành nếp. Nó là một cái gì sâu sắc và bao quát hơn nhiều. Nhà thơ lớn nào cũng là bậc thầy về ngôn ngữ, về kỹ thuật thơ ca, nhưng cái người ta suy tôn trựớc hết là ở cái nội dung lớn lao, cao cả mà nhà thơ làm rung động tâm hồn nguời đọc chứ không phải ở cái phép “phù thủy” của kỹ thuật. Nguyễn Trãi , Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương … sống mãi trong lòng mọi người là ở tấm lòng nhân mênh mông của các vị. Độc giả muốn tìm một ý nghĩa gì đó về thân phận con người về thế giới đa sắc đa hương được các tác giả thể hiện làm cho tâm hồn mình thêm giàu có chứ không phải để ngạc nhiên trước các thủ thuật thơ ca. Ở Phương Đông và Việt Nam nói riêng thời nào cũng có những nhà thơ coi trọng hình thức, những nhà thơ duy mỹ ưa chuộng sự kỳ dị hiểm tích trong việc dùng chữ, gieo vần. Vào cuối thế kỷ trước bên Âu Mỹ có các trường phái Thơ Ngôn Ngữ, Thơ Tân Hình thức, với khuynh hướng trau chuốt hình thức, tuyệt đối hóa ngôn ngữ, nó lan nhanh sang các nước và thịnh hành trong một số nhà thơ Việt Nam hải ngoại cũng như quốc nội và không phải không có những thành công nhất định, nhưng cũng có không ít những vấn đề khiến người đọc băn khoăn, suy nghĩ khi những đặc tính của nó được áp dụng vội vã. Sự phát triển của Văn học – Nghệ thuật đương đại hướng đến hai tính chất thoáng nhìn như “trái ngược” nhưng thực ra có một quan hệ biện chứng, là đồ thị một hệ phương trình mà trục tung là tính dân tộc (truyền thống) trục hoành là tính hiện đại (cái mới), tuy có hai tham số nhưng tích hợp lại cùng một phương. Cái khó là tìm ra phương tích hợp của đồ thị, cũng tức là tìm ra chân giá trị của tác phẩm, sự thống nhất hai phẩm tính đó trong một hình tượng nghệ thuật thơ. Vì giữa các khái niệm Mới , Đẹp , Hay của thơ ca không phải lúc nào cũng chồng khít lên nhau. Có người nặng về cái mới, cái lạ, có người thiên về cái truyền thống và cho đó chính là cái đẹp, cái hay của thi pháp Thơ. Rồi mối quan hệ giữa những cái đó với hiện thực… Sự bộn bề của Thơ bắt nguồn từ đó. Thơ hiện nay quả thật đang trong “cuộc kiếm tìm, thử nghiệm” và phê bình thơ cũng vậy, trước mắt là những câu hỏi lớn về truyền thống và cách tân, về sự hội nhập và bản sắc dân tộc, về cái đẹp chân chính của thơ ở nội dung đời sống hay kỹ thuật ngôn từ. Theo chúng tôi, đó chính là vấn đề còn nhiều “khoảng mờ” của Thơ về cái sự đọc cũng như lý luận – phê bình thơ hiện nay và quả thật chưa có công trình nào giải thích một cách khả tín, tạo được sự tin tưởng về cái điều mà nhà thơ Trần Nhuận Minh đã nêu. Con đường gập ghềnh của sự đi tìm “cái khác lạ” đã thành vệt tự ngàn xưa, phê bình giúp thơ và cũng tự giúp mình khỏi vấp ngã sa vào các ngã rẽ cực đoan và phiến diện mà đi vào cái lối chính để đến với cái chuẩn của thơ hay , thỏa mãn những yêu cầu trong cuộc phối sinh giữa đời sống với những khả thể của thơ. Dẫu rằng Thơ có những đặc tính và sức mạnh có “chân lý riêng” nhưng Thơ không tự đặt ra một cái chuẩn“tự mình”. Để thực sự còn lại với thời gian, thơ và phê bình thơ đừng quá ham thanh chuộng lạ chạy về phía các “Chủ nghĩa” này nọ mà xa rời các yêu cầu trong đời sống thực tế, có nhiều ngã đến với Thơ hay nhưng tất yếu ngã nào cũng không thể tách rời các nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của cộng đồng đặt ra trong thực tại. Trong những tiêu chí tạo nên cái chuẩn thơ hay chúng tôi cho rằng tính lý tưởng toát lên từ cuộc sống hiện tại vẫn là hàng đầu, thứ mới đến những vấn đề của thi pháp, của hình thức, ngôn ngữ. Chế Lan Viên , một đỉnh cao của siêu thực một thời cũng đã tỉnh ngộ: Vạt áo nhà thơ không đựng hết bạc vàng mà đời rơi vãi/ Hãy nhặt những chữ trong đời mà viết nên chương. Hay: Máu thấm vào lòng đất đã sâu/ Sao trang giấy lòng anh suy nghĩ cạn. Tất thảy đều muốn nói đến quan hệ, sự gắn bó thơ ca với cuộc sống. Thơ cần có mục đích, cần có tư tưởng. Thơ cần hướng đến độc giả số đông chứ không chỉ hướng đến số ít “tầng lớp ưu tú”, thậm chí “chỉ viết cho tôi” như có người nghĩ! Các bậc thi bá xưa nay đều mong thơ mình lan tới các hang cùng ngõ hẽm, UNESCO công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa cái tiêu chí đầu tiên là sức lan tỏa của nó trong cộng đồng, người đời có thể quên tác giả nhưng không quên thơ! Một hệ luận nảy sinh: Hồn thơ phải rung động hồn người. Cái chuẩn thơ hay phải chăng có thể xa lạ với điều này! Cái chuẩn này nó vượt mọi định chế xã hội, thời gian và không gian. Một nhà thơ bậc thầy thuộc thế hệ các nhà thơ trau chuốt hình thức Trung Hoa cổ là Giả Đảo khi nói cái kỳ khu của thơ cũng phải cho rằng: Ba năm làm hai câu thơ, đọc lên hai hàng lệ chảy (Nhị cú tam niên đắc, nhất ngâm song lệ lưu), tức là ông vẫn đề cao cái hồn thơ trên cái uyển ảo câu chữ! Để chiếm lĩnh tình cảm người đọc không nên dừng lại nơi thói quen cảm thụ đã thành nếp nhưng cũng không phải bằng sự hướng chú ý của họ vào “cái mới” qua ngôn ngữ kỳ khu hoặc qua những hình thái tổng hợp bí hiểm vô thức. Sau ngày thống nhất trong sự giao lưu văn hóa thế giới, nhiều thứ chủ nghĩa lan vào văn hóa ta, có một phương cách sáng tạo thơ mà có nhà phê bình đã nhắc đến, đó là “trốn vào ngôn ngữ”, từ cái luận điểm “thế giới là văn bản” họ lái đến “thơ ca là ngôn ngữ”, ngôn ngữ là trên hết, tạo cái khác lạ, khó hiểu ở cách nói, ở ngôn ngữ, có vẻ như có chiều sâu suy cảm, thực ra đó chỉ là một thứ lãng mạn mới, thoát ly những mâu thuẩn khó khăn trong cuộc sống trốn vào ma trận ngôn ngữ gây ảo giác cho người đọc! Vả lại hiện đại trong sự phát triển cúa các chương trình “trí thông minh nhân tạo” nếu chỉ thuần ghép chữ thì thơ của Chat GPT làm nhanh và khéo hơn chúng ta nhiều (!?) Đối chiếu các chặng đường phát triển nghệ thuật thời gian qua cho thấy tác phẩm nào mà có tiếng vang, nhiều độc giả tìm đến, đều có gốc rễ từ việc luôn đề cập đến những vấn đề độc giả quan tâm, với một hình thức độc giả ưa thích, nó không hề vượt ra ngoài “ tầm đón nhận ” của công chúng. Nói về ý nghĩa, sự ảnh hưởng của cái “mới”, “cái lạ” của ngôn ngữ nói riêng và các hình thức nghệ thuật nói chung, chúng tôi rất tâm đắc với câu nói được J.P. Sartre trích dẫn trong tác phẩm của mình: “ Các từ là những khẩu súng đã nạp đạn. Nếu ông nói nó sẽ nổ. Ông có thể nín lặng, song bởi vì ông đã quyết định bắn cho nên đấy phải là một con người nhắm đích mà bắn chứ không phải là một đứa bé hú họa nhắm mắt mà bắn và chỉ để thích thú vì nghe tiếng nổ ” 1 Các phương cách làm mới Thơ, các hình thức ngôn ngữ, suy cho cùng đó không nên là mục đích của thơ, đó chỉ là phương tiện, cái mục đích, cái cuối cùng của thơ, cái đích bắn là sự tác động vào tâm hồn người đọc là lý tưởng nhân văn với cái nhìn mới có tính phát hiện, tính sáng tạo vào cuộc sống, còn tiếng nổ – các kiểu ngôn từ – có thể làm thích thú chốc lát nhưng đó không phải là cái đích của thơ ca. Đi tìm cái hay của Thơ nên chăng nghĩ về điều đó. _______ 1. J.P.Sartre – Văn học là gì – NXB Hội Nhà văn 1999- Tr31
Giới thiệu khái quát thị xã Tân Uyên Thực hiện Nghị quyết 136/NQ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về chia tách địa giới hành chính của huyện Tân Uyên thành thị xã Tân Uyên và huyện Bắc Tân Uyên và thị xã Tân Uyên chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/4/2014. Thị xã Tân Uyên có lịch sử hình thành và phát triển gắn liền với vùng đất miền Đông Nam bộ. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, bao thế hệ người Việt Nam trên mọi miền đất nước đã về đây khai hoang, lập ấp, dựng làng, mở mang đất đai để sinh sống và sản xuất; nhiều phong tục, tập quán đã được du nhập tạo nên nền văn hóa đa dạng. Với diện tích 19.175,72 ha, nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Bình Dương, với 12 xã – phường, bao gồm 06 phường: Uyên Hưng, Tân Phước Khánh, Thái Hòa, Thạnh Phước, Tân Hiệp, Khánh Bình và 06 xã: Hội Nghĩa, Vĩnh Tân, Phú Chánh, Tân Vĩnh Hiệp, Thạnh Hội, Bạch Đằng. Thị xã Tân Uyên nối liền với các huyện, thị, thành phố đang phát triển của tỉnh Bình Dương như Thuận An, Dĩ An, thành phố Thủ Dầu Một, Bắc Tân Uyên, Phú Giáo; tiếp giáp với huyện Vĩnh Cữu, tỉnh Đồng Nai. Tài nguyên thiên nhiên không phong phú, đa dạng, nhưng với vị trí, địa lý đặc biệt, thị xã Tân Uyên trở thành địa bàn quan trọng của Tỉnh cả về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa, xã hội. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thị xã Tân Uyên luôn bị tác động, tàn phá bởi các trận chiến diễn ra liên tục trong suốt 30 năm, là căn cứ quan trọng của miền Đông Nam bộ – Chiến khu Đ anh hùng. Những năm sau ngày giải phóng, kinh tế của Tân Uyên chủ yếu là thuần nông, lạc hậu. Tuy nhiên, với tinh thần vượt khó khăn, dám nghĩ, dám làm, cùng với quá trình đổi mới, thị xã Tân Uyên từng bước chuyển đổi nền kinh tế theo hướng công nghiệp – thương mại, dịch vụ – nông nghiệp và trở thành địa bàn quan trọng của tỉnh Bình Dương. Những năm gần đây, thị xã Tân Uyên có tốc độ tăng trưởng cao, thu hút nhiều dự án đầu tư trong nước và ngoài nước vào các khu, cụm công nghiệp; giá trị sản xuất công nghiệp và thu ngân sách đạt cao. Cùng hướng tới mục tiêu xây dựng thị xã Tân Uyên trở thành thị xã văn minh hiện đại và là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Bình Dương vào năm 2020. Thị ủy, UBND thị xã đã đề nghị Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh phê duyệt các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xây dựng các công trình cơ bản, quy hoạch các khu chức năng để phát triển kinh tế của thị xã Tân Uyên. DI TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ TÂN UYÊN Tính đến tháng 09/2017, trên địa bàn thị xã Tân Uyên có 10 di tích được xếp hạng, trong đó có 01 di tích cấp quốc gia và 09 di tích cấp tỉnh. Niên đại các di tích: Di tích khảo cổ học Cù lao Rùa có niên đại hơn 2.000 năm; Các di tích Lịch sử – Văn hóa có niên đại gần 200 năm (có sắc phong của vua Tự Đức); Các di tích Lịch sử Cách mạng có niên đại gần 100 năm (từ thời kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ). Tại mỗi di tích đều thành lập Tổ quản lý Di tích để trực tiếp điều hành công việc khi tổ chức lễ hội, dâng hương, giữ gìn vệ sinh thường xuyên, bảo vệ và giữ gìn tài sản di tích. Riêng tại khu di tích Chiến khu Vĩnh Lợi đã thành lập Ban quản lý Khu di tích đảm bảo hoạt động theo Đề án được phê duyệt. Danh sách 10 di tích được công nhận là di tích cấp tỉnh và cấp quốc gia: 1. Cầu Bà Kiên 2. Chiến Khu Vĩnh Lợi 3. Đình Tân Trạch 4. Cù Lao Rùa 5. Hưng Long Tự 6. Nhà cổ Ông Đỗ Cao Thứa 7. Đình Vĩnh Phước 8. Đình Dư Khánh 9. Đình Bưng Cù 10. Miếu Ông © Văn phòng HĐND và UBND Thị xã Tân Uyên, Tỉnh Bình Dương Địa chỉ: Phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương Điện thoại: (0274) 3656241
General introduction of Tan Uyen town Implementing Resolution 136/NQ-CP dated December 29, 2013 of the Prime Minister on dividing the administrative boundaries of Tan Uyen district into Tan Uyen town and Bac Tan Uyen district and Tan Uyen town officially entered Operational from April 1, 2014. Tan Uyen town has a history of formation and development associated with the Southeast region. Through many historical periods, many generations of Vietnamese people from all over the country have come here to reclaim land, establish hamlets, build villages, and expand the land for living and production; Many customs and practices have been introduced, creating a diverse culture. With an area of ​​19,175.72 hectares, located in the Southeast of Binh Duong province, with 12 communes - wards, including 06 wards: Uyen Hung, Tan Phuoc Khanh, Thai Hoa, Thanh Phuoc, Tan Hiep, Khanh Binh and 06 communes. : Hoi Nghia, Vinh Tan, Phu Chanh, Tan Vinh Hiep, Thanh Hoi, Bach Dang. Tan Uyen town connects with developing districts, towns and cities of Binh Duong province such as Thuan An, Di An, Thu Dau Mot city, Bac Tan Uyen, Phu Giao; adjacent to Vinh Cuu district, Dong Nai province. Natural resources are not rich or diverse, but with its special location and geography, Tan Uyen town has become an important area of ​​the Province in terms of politics, military, economics, culture and society. During the two resistance wars against the French colonialists and the American imperialists, Tan Uyen town was always affected and devastated by battles that took place continuously for 30 years, and was an important base of the Southeast region. – Heroic War Zone D. In the years after liberation, Tan Uyen's economy was mainly agricultural and backward. However, with the spirit of overcoming difficulties, daring to think, daring to do, along with the innovation process, Tan Uyen town gradually transformed its economy towards industry - trade, service - agriculture and became important area of ​​Binh Duong province. In recent years, Tan Uyen town has had a high growth rate, attracting many domestic and foreign investment projects in industrial zones and clusters; Industrial production value and budget revenue reached high levels. Working towards the goal of building Tan Uyen town to become a modern civilized town and a class III urban area under Binh Duong province by 2020. The Town Party Committee and People's Committee of the town have requested the Provincial Party Committee and People's Committee to The province approves investment projects in technical infrastructure, construction of basic works, and planning of functional areas for economic development of Tan Uyen town. MONUMENTS IN TAN UYEN TOWN As of September 2017, there are 10 ranked relics in Tan Uyen town, including 01 national relic and 09 provincial relics. Chronology of relics: Cu Lao Rua archaeological relic dates back more than 2,000 years; Historical - Cultural relics dating back nearly 200 years (ordained by King Tu Duc); The Revolutionary History relics date back nearly 100 years (from the resistance war against the French colonialists and the American Empire). At each relic, a Monument Management Team is established to directly manage the work when organizing festivals, offering incense, maintaining regular hygiene, protecting and preserving relic assets. Particularly at the Vinh Loi War Zone relic site, a Relic Site Management Board has been established to ensure operations according to the approved Project. List of 10 relics recognized as provincial and national relics: 1. Ba Kien Bridge 2. Vinh Loi War Zone 3. Tan Trach Communal House 4. Cu Lao Rua 5. Hung Long Tu 6. Mr. Do Cao Thua's ancient house 7. Vinh Phuoc Communal House 8. Dinh Du Khanh 9. Bung Cu communal house 10. Ong Temple © Office of the People's Council and People's Committee of Tan Uyen Town, Binh Duong Province Address: Uyen Hung Ward, Tan Uyen Town, Binh Duong Province Phone: (0274) 3656241
Ông có phẩm chất cùng tài năng quân sự của một thượng tướng, sức vóc của một nhà kinh bang tế thế, được dân ở tỉnh Phú Yên thờ phụng làm thần Thành hoàng làng từ năm 1611. Ở cách không xa TP Tuy Hòa – tỉnh lỵ Phú Yên bây giờ, trên đất xã Hòa Trị thuộc huyện Phú Hòa, cùng hướng mặt ra sông Bến Lội, chọn dòng nước thơ mộng này làm “tiền án” và cùng tựa lưng vào ngọn núi Cấm, lấy cao điểm linh thiêng này làm “hậu chẩm”, ngôi mộ cổ hình mai rùa của Lương Văn Chánh nằm trầm mặc dưới vòm mái che hình búp sen. Đền thờ với pho tượng vàng của Lương Văn Chánh khang trang, uy nghi tỏa khói hương lên vòm cây bồ đề ba thân mấy trăm năm tuổi, làm nên bộ đôi của một di tích lịch sử quốc gia (được Bộ Văn hóa – Thông tin cấp bằng chứng nhận vào năm 1996). Dân Phú Yên xem ông Lương Văn Chánh là thần Thành hoàng làng mở mang vùng đất này nên lập đền thờ tại xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa để thờ ông. Hằng năm đến mùng 6 tháng 2 âm lịch là tổ chức lễ tưởng niệm ngày ông nhận sắc lệnh chúa Nguyễn vào mở mang vùng đất này. (Ảnh: HỒNG ÁNH). Sách “Đại Nam nhất thống chí” ở thế kỷ XIX viết: “Lương Văn Chánh là người huyện Tuy Hòa” bởi căn cứ vào những di tích trên, nhưng thật ra, Lương Văn Chánh chỉ chọn miền Tuy Hòa làm chỗ gửi lại thân xác lúc lìa đời vào năm 1611 mà thôi, còn lúc bắt đầu cuộc đời thì lại ở từ một nơi xa khác. Lương Văn Chánh là người gốc tỉnh Thanh Hóa. Trong khi giáo sư Nguyễn Đình Đầu nói “đã tìm thấy quê hương của Lương Văn Chánh ở xã Phượng Lịch, huyện Hoằng Hóa” thì tác giả Trần Viết Ngạc khẳng định “quê hương của Lương Văn Chánh ở xã Ngọc Lĩnh, huyện Tĩnh Gia”. Có đôi chút xuất nhập nhưng đều là ở trên đất Xứ Thanh. Nhưng người họ Lương của Xứ Thanh này, sinh vào năm nào thì chưa ai biết rõ. Các tài liệu hiện có cho đến lúc này chỉ đưa ra được hai khung thời gian rộng: Hoặc là vào những năm 40 của thế kỷ XVI, hoặc vào những năm 30 của thế kỷ đầy biến động ấy. Bây giờ thì ta thử suy luận, dựa trên hai cứ liệu chắc chắn: Thứ nhất, năm 1558 Lương Văn Chánh đã có mặt trong số hàng ngàn đồng hương Xứ Thanh và nghĩa dũng Thanh Nghệ theo Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vượt dải Hoành Sơn, vào “Xứ Đàng Trong”; thứ hai, khi ấy họ Lương đã được “Nam Triều” của nhà Lê Trung Hưng phong chức Thiên Vũ vệ Đô chỉ huy sứ, tức: Đứng đầu một đơn vị quân đội chủ lực thân tín của “Nam Triều”, chống đánh thế lực “Bắc Triều” của nhà Mạc. Nếu sinh vào những năm 40 của thế kỷ XVI, ngay cả khi sinh vào năm đầu của thập kỷ ấy, thì đến năm 1558 Lương Văn Chánh mới 18 tuổi! Trẻ quá để có thể giữ chức Thiên Võ vệ Đô chỉ huy sứ của đạo quân Thiên Vũ! Vậy, ít nhất thì vào năm 1558, người đứng đầu Thiên Võ vệ, cũng phải 20 tuổi, nếu không hơn thế. Cho nên, vị tướng trẻ Lương Văn Chánh có thể phải sinh sớm nhất thì cũng là năm 1538. Bấy giờ, nhà Lê chỉ mới được “trung hưng” có 5 năm, đang phải vừa lao đao chống cự nhà Mạc, đồng thời vừa phải “xử lý nội bộ” những mâu thuẫn, tranh chấp, thậm chí hãm hại lẫn nhau giữa hai thế lực “trung hưng” trụ cột là họ Nguyễn và họ Trịnh. Và Lương Văn Chánh – nếu đúng sinh vào năm 1538 thì 20 tuổi, khi ấy vừa đánh trận, chỉ huy, rèn luyện tài quân sự, vừa đứng ngả vào phe họ Nguyễn về phương diện thái độ chính trị, tức khi theo hẳn chủ tướng Nguyễn Hoàng (sinh năm 1525, hơn mình khoảng một giáp tuổi) làm cuộc trường chinh vào “Xứ Đàng Trong” (Thuận Hóa – Quảng Nam), năm 1558. Thuận Hóa và Quảng Nam từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVIII là hai địa danh hành chính của một miền đất rộng dài từ Quảng Bình vào tới Bình Định ngày nay. Tài liệu về những hoạt động quân sự, đặc biệt là về những trận chiến chống lại quan quân nhà Mạc từ “Bắc Triều” vượt biển vào đánh phá mạn bắc Thuận Quảng, ở thời gian 20 năm đầu Lương Văn Chánh theo Nguyễn Hoàng vào đây, không cho thấy có sự hiện diện của vị tướng trẻ họ Lương. Cho nên, có thể suy đoán: Từ năm 1558 đến năm 1578, Lương Văn Chánh là người đã được Chúa Tiên Nguyễn Hoàng biệt phái vào trấn giữ mạn phía Nam của đất Thuận Quảng, với trọng trách: Lo việc phòng thủ đối phó với nước Chiêm Thành vào lúc ấy đã bị dồn lãnh thổ và quyền lực xuống bên kia, phía Nam đèo Cù Mông, sát với ranh giới cực Nam đất Thuận Quảng. Ở miền đất phương Nam Cù Mông ấy, ngay từ thế kỷ thứ IV sau Công nguyên, các vương triều Chiêm Thành đã cho xây đắp một tòa thành kiên cố lớn, sát bờ Bắc sông Đà Rằng (nay thuộc thị trấn Phú Hòa của huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên). Sử cũ viết: Đó là thành An Nghiệp, còn dân gian thì quen gọi là Thành Hồ. Năm 1578, từ tòa thành này, Chiêm Thành đã đưa quan quân vượt đèo Cù Mông ra đánh phá mạn nam đất Thuận Quảng. Tin dữ báo về dinh tổng trấn Thuận Quảng và Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã nghĩ ngay đến việc cử Lương Văn Chánh đối phó. Thế là lập tức xuất quân. Lương Văn Chánh nhằm thẳng vào tòa Thành Hồ, tiến binh. Bấy giờ, trong quân ngũ, có người khuyên vị chủ tướng họ Lương nên nghe ngóng, thăm dò địch tình trước đã rồi hãy vào trận. Nhưng, để ngoài tai ý kiến này, Lương Văn Chánh vừa nói “đánh giặc thì phải tốc chiến”, vừa thực hiện ngay đường lối đó: Ầm ầm, rầm rộ, tấn công thẳng vào tòa Thành Hồ và đánh tan quân Chiêm, chiếm được ngay tòa thành lợi hại này. Cả mừng nghe tin báo tiệp, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng lập tức phong cho Lương Văn Chánh làm Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, tước Phù Nghĩa hầu và chính thức thăng chức làm quan trấn An Biên, huyện Tuy Viễn (nay là vùng huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Danh tiếng Thượng tướng quân Lương Văn Chánh từ đó nổi như cồn. Vì thế, từ năm 1593, khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đưa lực lượng Thuận Quảng của mình ra Bắc giúp nhà Lê Trung Hưng (khi ấy vừa đánh đuổi được “Bắc triều” nhà Mạc chạy khỏi Thăng Long) trấn dẹp dư đảng nhà Mạc, thì cũng đưa Lương Văn Chánh đi theo. Và không hổ danh “Hổ tướng Xứ Đàng Trong” khi tung hoành trên đất Bắc. Những năm 1593, 1594, Lương Văn Chánh đã đánh những trận thắng lớn, ở Sơn Nam và Hải Dương. Do đó, được vua Lê Thế Tông chính thức hóa các chức tước mà họ Lương đã nhận được từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng trước đấy tấn phong làm “Đặc tiến Phụng quốc Thượng tướng quân, Phù Nghĩa hầu”, đồng thời gia phong cho làm Đô chỉ huy sứ – không phải chỉ một “vệ” quân Thiên Vũ như trước năm 1558, mà tăng lên đến bốn “vệ” quân Thần Vũ. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng còn ở lại đất Bắc cho đến năm 1600. Nhưng từ trước đấy, sau những chiến công mà Lương Văn Chánh đã lập được ở Sơn Nam, Hải Dương, người đứng đầu miền Thuận Quảng đã thấy cần phải lệnh cho viên hổ tướng họ Lương của mình trở về để gánh vác sứ mệnh trọng đại: Mở thêm cõi đất xa hơn nữa về phương Nam. Lương Văn Chánh vâng mệnh trở về, tiếp tục làm Quan trấn An Biên, huyện Tuy Viễn. Đến năm 1597 nhận được sắc chỉ của Nguyễn Hoàng (lúc này vẫn đang ở ngoài Bắc) truyền mệnh lệnh lịch sử: Đưa dân chúng vượt đèo Cù Mông vào khai thác các miền đất ở phía Nam, “Trên từ vùng cao của người thiểu số, dưới đến tận cửa biển, kết lập gia cư, khai canh thôn làng, làm ruộng thu tô” và đặc biệt là: “Không được nhũng nhiễu dân!”. Công cuộc và sự nghiệp “Nam tiến” thần thánh của dân tộc ở thế kỷ thứ XVI tạo đất đai và thế lực mới cho “Xứ Đàng Trong” chính thức bắt đầu từ đây, do Lương Văn Chánh – đã có phẩm chất cùng tài năng quân sự của một thượng tướng, nay thêm đức độ và sức vóc của một nhà kinh bang tế thế – tiến hành. Những miền đất mới mà Lương Văn Chánh đưa dân cư vào khai thác được ghi rõ nguyên văn trong mệnh lệnh của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng năm 1597, lần lượt là: Cù Mông (vùng thị xã Sông Cầu và huyện Đồng Xuân ngày nay), Bà Đài (tức Xuân Đài về sau, chính là huyện Tuy An bây giờ), Bà Diễn (là tên gọi khác của những miền đất có sông Đà Rằng chảy qua, tức các huyện Sơn Hòa, Sông Hinh, Tây Hòa, Phú Hòa cùng TP Tuy Hòa hiện nay) và cuối cùng là: Bà Niễu (từ Tuy Hòa vào qua Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia) tới Bắc Đèo Cả (Đại Lãnh) bây giờ. Trên những miền ấy, trong vòng hơn 10 năm, từ năm 1597 đến 1611, bằng tài năng của một nhà tổ chức và quản trị xã hội, với tinh thần kiên trì và kiên quyết khắc phục khó khăn từ tự nhiên – đất đai – khí hậu, sẵn tấm lòng vì dân và thương dân, Lương Văn Chánh đã “lấp đầy khoảng trống” bằng sự nghiệp thành lập được gần 100 ngôi làng trù phú, trong đó có làng Phụng Các (nay là thôn Phụng Tường, thuộc xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa) – chính là nơi mà người chỉ huy công cuộc “Mang gươm đi mở cõi” hơn 10 năm cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII chọn làm nơi định cư lúc cuối đời của chính mình và nơi để lại thân xác lúc lìa đời. Đây cũng là nơi sau này đã mọc lên ngôi đền thờ phụng ông làm thần Thành hoàng làng, vào năm 1611.
Ông có phẩm chất cùng tài năng quân sự của một thượng tướng, sức vóc của một nhà kinh bang tế thế, được dân ở tỉnh Phú Yên thờ phụng làm thần Thành hoàng làng từ năm 1611. Ở cách không xa TP Tuy Hòa – tỉnh lỵ Phú Yên bây giờ, trên đất xã Hòa Trị thuộc huyện Phú Hòa, cùng hướng mặt ra sông Bến Lội, chọn dòng nước thơ mộng này làm “tiền án” và cùng tựa lưng vào ngọn núi Cấm, lấy cao điểm linh thiêng này làm “hậu chẩm”, ngôi mộ cổ hình mai rùa của Lương Văn Chánh nằm trầm mặc dưới vòm mái che hình búp sen. Đền thờ với pho tượng vàng của Lương Văn Chánh khang trang, uy nghi tỏa khói hương lên vòm cây bồ đề ba thân mấy trăm năm tuổi, làm nên bộ đôi của một di tích lịch sử quốc gia (được Bộ Văn hóa – Thông tin cấp bằng chứng nhận vào năm 1996). Dân Phú Yên xem ông Lương Văn Chánh là thần Thành hoàng làng mở mang vùng đất này nên lập đền thờ tại xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa để thờ ông. Hằng năm đến mùng 6 tháng 2 âm lịch là tổ chức lễ tưởng niệm ngày ông nhận sắc lệnh chúa Nguyễn vào mở mang vùng đất này. (Ảnh: HỒNG ÁNH). Sách “Đại Nam nhất thống chí” ở thế kỷ XIX viết: “Lương Văn Chánh là người huyện Tuy Hòa” bởi căn cứ vào những di tích trên, nhưng thật ra, Lương Văn Chánh chỉ chọn miền Tuy Hòa làm chỗ gửi lại thân xác lúc lìa đời vào năm 1611 mà thôi, còn lúc bắt đầu cuộc đời thì lại ở từ một nơi xa khác. Lương Văn Chánh là người gốc tỉnh Thanh Hóa. Trong khi giáo sư Nguyễn Đình Đầu nói “đã tìm thấy quê hương của Lương Văn Chánh ở xã Phượng Lịch, huyện Hoằng Hóa” thì tác giả Trần Viết Ngạc khẳng định “quê hương của Lương Văn Chánh ở xã Ngọc Lĩnh, huyện Tĩnh Gia”. Có đôi chút xuất nhập nhưng đều là ở trên đất Xứ Thanh. Nhưng người họ Lương của Xứ Thanh này, sinh vào năm nào thì chưa ai biết rõ. Các tài liệu hiện có cho đến lúc này chỉ đưa ra được hai khung thời gian rộng: Hoặc là vào những năm 40 của thế kỷ XVI, hoặc vào những năm 30 của thế kỷ đầy biến động ấy. Bây giờ thì ta thử suy luận, dựa trên hai cứ liệu chắc chắn: Thứ nhất, năm 1558 Lương Văn Chánh đã có mặt trong số hàng ngàn đồng hương Xứ Thanh và nghĩa dũng Thanh Nghệ theo Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vượt dải Hoành Sơn, vào “Xứ Đàng Trong”; thứ hai, khi ấy họ Lương đã được “Nam Triều” của nhà Lê Trung Hưng phong chức Thiên Vũ vệ Đô chỉ huy sứ, tức: Đứng đầu một đơn vị quân đội chủ lực thân tín của “Nam Triều”, chống đánh thế lực “Bắc Triều” của nhà Mạc. Nếu sinh vào những năm 40 của thế kỷ XVI, ngay cả khi sinh vào năm đầu của thập kỷ ấy, thì đến năm 1558 Lương Văn Chánh mới 18 tuổi! Trẻ quá để có thể giữ chức Thiên Võ vệ Đô chỉ huy sứ của đạo quân Thiên Vũ! Vậy, ít nhất thì vào năm 1558, người đứng đầu Thiên Võ vệ, cũng phải 20 tuổi, nếu không hơn thế. Cho nên, vị tướng trẻ Lương Văn Chánh có thể phải sinh sớm nhất thì cũng là năm 1538. Bấy giờ, nhà Lê chỉ mới được “trung hưng” có 5 năm, đang phải vừa lao đao chống cự nhà Mạc, đồng thời vừa phải “xử lý nội bộ” những mâu thuẫn, tranh chấp, thậm chí hãm hại lẫn nhau giữa hai thế lực “trung hưng” trụ cột là họ Nguyễn và họ Trịnh. Và Lương Văn Chánh – nếu đúng sinh vào năm 1538 thì 20 tuổi, khi ấy vừa đánh trận, chỉ huy, rèn luyện tài quân sự, vừa đứng ngả vào phe họ Nguyễn về phương diện thái độ chính trị, tức khi theo hẳn chủ tướng Nguyễn Hoàng (sinh năm 1525, hơn mình khoảng một giáp tuổi) làm cuộc trường chinh vào “Xứ Đàng Trong” (Thuận Hóa – Quảng Nam), năm 1558. Thuận Hóa và Quảng Nam từ cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVIII là hai địa danh hành chính của một miền đất rộng dài từ Quảng Bình vào tới Bình Định ngày nay. Tài liệu về những hoạt động quân sự, đặc biệt là về những trận chiến chống lại quan quân nhà Mạc từ “Bắc Triều” vượt biển vào đánh phá mạn bắc Thuận Quảng, ở thời gian 20 năm đầu Lương Văn Chánh theo Nguyễn Hoàng vào đây, không cho thấy có sự hiện diện của vị tướng trẻ họ Lương. Cho nên, có thể suy đoán: Từ năm 1558 đến năm 1578, Lương Văn Chánh là người đã được Chúa Tiên Nguyễn Hoàng biệt phái vào trấn giữ mạn phía Nam của đất Thuận Quảng, với trọng trách: Lo việc phòng thủ đối phó với nước Chiêm Thành vào lúc ấy đã bị dồn lãnh thổ và quyền lực xuống bên kia, phía Nam đèo Cù Mông, sát với ranh giới cực Nam đất Thuận Quảng. Ở miền đất phương Nam Cù Mông ấy, ngay từ thế kỷ thứ IV sau Công nguyên, các vương triều Chiêm Thành đã cho xây đắp một tòa thành kiên cố lớn, sát bờ Bắc sông Đà Rằng (nay thuộc thị trấn Phú Hòa của huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên). Sử cũ viết: Đó là thành An Nghiệp, còn dân gian thì quen gọi là Thành Hồ. Năm 1578, từ tòa thành này, Chiêm Thành đã đưa quan quân vượt đèo Cù Mông ra đánh phá mạn nam đất Thuận Quảng. Tin dữ báo về dinh tổng trấn Thuận Quảng và Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã nghĩ ngay đến việc cử Lương Văn Chánh đối phó. Thế là lập tức xuất quân. Lương Văn Chánh nhằm thẳng vào tòa Thành Hồ, tiến binh. Bấy giờ, trong quân ngũ, có người khuyên vị chủ tướng họ Lương nên nghe ngóng, thăm dò địch tình trước đã rồi hãy vào trận. Nhưng, để ngoài tai ý kiến này, Lương Văn Chánh vừa nói “đánh giặc thì phải tốc chiến”, vừa thực hiện ngay đường lối đó: Ầm ầm, rầm rộ, tấn công thẳng vào tòa Thành Hồ và đánh tan quân Chiêm, chiếm được ngay tòa thành lợi hại này. Cả mừng nghe tin báo tiệp, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng lập tức phong cho Lương Văn Chánh làm Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, tước Phù Nghĩa hầu và chính thức thăng chức làm quan trấn An Biên, huyện Tuy Viễn (nay là vùng huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Danh tiếng Thượng tướng quân Lương Văn Chánh từ đó nổi như cồn. Vì thế, từ năm 1593, khi Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đưa lực lượng Thuận Quảng của mình ra Bắc giúp nhà Lê Trung Hưng (khi ấy vừa đánh đuổi được “Bắc triều” nhà Mạc chạy khỏi Thăng Long) trấn dẹp dư đảng nhà Mạc, thì cũng đưa Lương Văn Chánh đi theo. Và không hổ danh “Hổ tướng Xứ Đàng Trong” khi tung hoành trên đất Bắc. Những năm 1593, 1594, Lương Văn Chánh đã đánh những trận thắng lớn, ở Sơn Nam và Hải Dương. Do đó, được vua Lê Thế Tông chính thức hóa các chức tước mà họ Lương đã nhận được từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng trước đấy tấn phong làm “Đặc tiến Phụng quốc Thượng tướng quân, Phù Nghĩa hầu”, đồng thời gia phong cho làm Đô chỉ huy sứ – không phải chỉ một “vệ” quân Thiên Vũ như trước năm 1558, mà tăng lên đến bốn “vệ” quân Thần Vũ. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng còn ở lại đất Bắc cho đến năm 1600. Nhưng từ trước đấy, sau những chiến công mà Lương Văn Chánh đã lập được ở Sơn Nam, Hải Dương, người đứng đầu miền Thuận Quảng đã thấy cần phải lệnh cho viên hổ tướng họ Lương của mình trở về để gánh vác sứ mệnh trọng đại: Mở thêm cõi đất xa hơn nữa về phương Nam. Lương Văn Chánh vâng mệnh trở về, tiếp tục làm Quan trấn An Biên, huyện Tuy Viễn. Đến năm 1597 nhận được sắc chỉ của Nguyễn Hoàng (lúc này vẫn đang ở ngoài Bắc) truyền mệnh lệnh lịch sử: Đưa dân chúng vượt đèo Cù Mông vào khai thác các miền đất ở phía Nam, “Trên từ vùng cao của người thiểu số, dưới đến tận cửa biển, kết lập gia cư, khai canh thôn làng, làm ruộng thu tô” và đặc biệt là: “Không được nhũng nhiễu dân!”. Công cuộc và sự nghiệp “Nam tiến” thần thánh của dân tộc ở thế kỷ thứ XVI tạo đất đai và thế lực mới cho “Xứ Đàng Trong” chính thức bắt đầu từ đây, do Lương Văn Chánh – đã có phẩm chất cùng tài năng quân sự của một thượng tướng, nay thêm đức độ và sức vóc của một nhà kinh bang tế thế – tiến hành. Những miền đất mới mà Lương Văn Chánh đưa dân cư vào khai thác được ghi rõ nguyên văn trong mệnh lệnh của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng năm 1597, lần lượt là: Cù Mông (vùng thị xã Sông Cầu và huyện Đồng Xuân ngày nay), Bà Đài (tức Xuân Đài về sau, chính là huyện Tuy An bây giờ), Bà Diễn (là tên gọi khác của những miền đất có sông Đà Rằng chảy qua, tức các huyện Sơn Hòa, Sông Hinh, Tây Hòa, Phú Hòa cùng TP Tuy Hòa hiện nay) và cuối cùng là: Bà Niễu (từ Tuy Hòa vào qua Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia) tới Bắc Đèo Cả (Đại Lãnh) bây giờ. Trên những miền ấy, trong vòng hơn 10 năm, từ năm 1597 đến 1611, bằng tài năng của một nhà tổ chức và quản trị xã hội, với tinh thần kiên trì và kiên quyết khắc phục khó khăn từ tự nhiên – đất đai – khí hậu, sẵn tấm lòng vì dân và thương dân, Lương Văn Chánh đã “lấp đầy khoảng trống” bằng sự nghiệp thành lập được gần 100 ngôi làng trù phú, trong đó có làng Phụng Các (nay là thôn Phụng Tường, thuộc xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa) – chính là nơi mà người chỉ huy công cuộc “Mang gươm đi mở cõi” hơn 10 năm cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII chọn làm nơi định cư lúc cuối đời của chính mình và nơi để lại thân xác lúc lìa đời. Đây cũng là nơi sau này đã mọc lên ngôi đền thờ phụng ông làm thần Thành hoàng làng, vào năm 1611.
PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái cho rằng khả năng của tiếng Việt là vô tận và đủ phong phú để làm nên những tác phẩm văn học dịch xuất sắc, thuần Việt. Tác phẩm Những kẻ phiêu lưu do dịch giả Lê Văn Viện chuyển ngữ và được “nhuận sắc tiếng Việt” bởi PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái. Ảnh: Thanh Trần. Nhân dịp ra mắt bộ sách Những kẻ phiêu lưu của nhà văn Harold Robbins được dịch bởi dịch giả Lê Văn Viện, ngày 9/4 tại Đường sách TP.HCM, PGS Văn học – TS Nghệ thuật học Nguyễn Thị Minh Thái đã có buổi chia sẻ về chủ đề nét đẹp của tiếng Việt trong văn học dịch. Tác phẩm Những kẻ phiêu lưu được viết bởi một trong những nhà văn bán chạy nhất mọi thời đại: Harold Robbins (1916 – 1997). Theo nhà xuất bản kỳ cựu Hodder & Stoughton, trong thời của mình, Robbins là một “gã playboy và là một sư phụ trong xuất bản”. Ông là một tiểu thuyết gia nổi tiếng, nhưng những câu chuyện về chính cuộc đời ông thậm chí còn đậm chất tiểu thuyết hơn cả những cuốn tiểu thuyết của ông. Ông là một tác giả của cuộc cách mạng xã hội và tình dục. Những kẻ phiêu lưu là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của nhà văn, được xuất bản sau khi ông qua đời, ghi dấu lòng khâm phục và nỗi tiếc thương của triệu triệu bạn đọc thế giới dành tặng ông. Đó là câu chuyện về ba đời của một dòng họ được kể theo những thăng trầm của Dax, nhân vật chính, từ 6 tuổi cho đến ngày nhắm mắt lìa đời. Lớn lên với một tuổi thơ đầy ám ảnh về cái chết bi thảm của mẹ và người chị gái, cuộc đời Dax trải qua nhiều sóng gió nhưng cũng không kém phần oanh liệt với triền miên những cay cực, mưu mô, bạo lực và cả cuộc tình hoang dại, mê đắm. Với bối cảnh của một quốc gia Nam Mỹ, nó ghi dấu một giai đoạn lịch sử vào trước, trong và sau Chiến tranh Thế giới thứ 2 với những âm mưu chính trị, ngoại giao, kinh tế, những bữa tiệc xa hoa, những ông trùm dầu lửa, những ông trùm ngân hàng… Được xem là một tác giả của cuộc cách mạng xã hội và tình dục, dễ hiểu khi nhà văn Harold Robbins và tác phẩm của ông có nhiều miêu tả về những hành động “nhạy cảm”, “táo bạo”. Không những thế, tác giả còn dựng lên một loạt nhân vật với đủ loại thân phận, từ các chính khách, tài phiệt, quân phiệt, bọn buôn súng và thuốc phiện, các tay ký còm ranh mãnh đến những nông dân thuần phác và nhiệt huyết, các cô gái điếm khổ đau và tình cảm, bọn đầu trâu mặt ngựa… PGS Văn học, TS Nghệ thuật học Nguyễn Thị Minh Thái tại chương trình. Ảnh: Thanh Trần. Vì thế, để chuyển thể được tác phẩm này sang tiếng Việt một cách trọn vẹn, đầy đủ là cả một thách thức đối với dịch giả và người biên tập. Đó là lý do sau khi được chuyển ngữ bởi dịch giả Lê Văn Viện, tác phẩm Những kẻ phiêu lưu lại tiếp tục được “nhuận sắc” ngôn ngữ bởi PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái – người có nhiều năm giảng dạy về văn hóa, nghệ thuật. “Cái khó ở tác phẩm này thứ nhất là về chính trị, thứ hai là những yếu tố tình dục. Chúng xuất hiện dày đặc trong tác phẩm, và thách thức trong việc chuyển ngữ là làm sao để mọi người đều hiểu nhưng vẫn đủ tinh tế, nhã nhặn”, bà chia sẻ. Khi đọc, chúng ta phải hiểu được khí hậu của ngôn từ để hiểu được chính nó. PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái Trao đổi về nét đẹp của tiếng Việt trong văn học dịch, nhà thơ Lê Minh Quốc cho rằng dịch một tác phẩm tiếng nước ngoài qua tiếng Việt là điều chưa bao giờ dễ dàng. Bao giờ người dịch cũng hướng đến tiêu chí “Đạt, Tín, Nhã” và cho dù dịch như thế nào đi nữa thì người đọc phải có cảm giác như đọc một tác phẩm của người Việt viết cho người Việt. Đối với những tình tiết nhạy cảm, PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái sử dụng nhiều cách nói ẩn dụ quen thuộc với người Việt như trong ca dao hay thơ ca. Bà cho rằng điều quan trọng nhất của dịch giả trước hết là phải giỏi ngôn ngữ của đất nước mình rồi mới đến ngôn ngữ được dịch. Vì thế, người dịch giả trước tiên phải xuất sắc trong tiếng Việt. “Khi dịch sang tiếng Việt thì phải Việt hóa nó, và kho tàng ca dao dân ca Việt Nam nhiều vô cùng. Là người Việt và yêu tiếng Việt, tôi biết khả năng của nó là vô tận. Tiếng Việt đầy đủ các thứ để cho ta chuyển ngữ”, bà nói. “Tiếng Việt rất mạnh về động từ và tính từ, nhưng lại hạn chế về danh từ, đặc biệt là phải vay mượn những từ ngữ, thuật ngữ về khoa học. Vì vậy, tiếng Việt thực ra là một ngôn ngữ văn học có thể nói được sử dụng rất tốt, nếu biết sử dụng sẽ cho ra những tác phẩm văn học có chất lượng”, TS Ngữ văn Hà Thanh Vân chia sẻ thêm.
Associate Professor, Dr. Nguyen Thi Minh Thai believes that the possibilities of Vietnamese are endless and rich enough to create excellent, pure Vietnamese translated literary works. The work The Adventurers was translated by translator Le Van Vien and "translated into Vietnamese" by Associate Professor, Dr. Nguyen Thi Minh Thai. Photo: Thanh Tran. On the occasion of the book launch Adventurers by writer Harold Robbins translated by translator Le Van Vien, on April 9 at Ho Chi Minh City Book Street, Associate Professor of Literature - Doctor of Arts Nguyen Thi Minh Thai had a session to share on the topic of the beauty of Vietnamese in translated literature. Work Adventurers written by one of the best-selling writers of all time: Harold Robbins (1916 – 1997). According to veteran publisher Hodder & Stoughton, in his day, Robbins was a “playboy and a publishing guru.” He is a famous novelist, but the stories about his own life are even more novelistic than his novels. He was an author of social and sexual revolution. Adventurers is the writer's last novel, published after his death, marking the admiration and grief of millions of readers around the world for him. It is the story of three generations of a family told through the ups and downs of Dax, the main character, from the age of 6 until the day he dies. Growing up with a childhood haunted by the tragic deaths of his mother and sister, Dax's life went through many storms but was no less heroic with constant bitterness, intrigue, violence and even wild, passionate love. With the context of a South American country, it marks a historical period before, during and after World War II with political, diplomatic, economic intrigues, lavish parties, and events. Oil tycoons, banking tycoons... Considered an author of social and sexual revolution, it is understandable that writer Harold Robbins and his works have many descriptions of "sensitive" and "bold" actions. Not only that, the author also created a series of characters with all kinds of backgrounds, from politicians, tycoons, warlords, gun and opium traffickers, cunning signers to simple farmers and passionate, miserable and emotional prostitutes, horse-headed people... Associate Professor of Literature, Doctor of Arts Nguyen Thi Minh Thai at the program. Photo: Thanh Tran. Therefore, to fully and completely adapt this work into Vietnamese is a challenge for the translator and editor. That is the reason, after being translated by translator Le Van Vien, the work Adventurers The language continued to be "enriched" by Associate Professor, Dr. Nguyen Thi Minh Thai - who has many years of teaching culture and art. “The difficulty in this work is firstly the politics, secondly the sexual elements. They appear densely in the work, and the challenge in translating is how to make it understandable to everyone but still be subtle and elegant enough," she shared. When reading, we must understand the climate of words in order to understand them. Associate Professor, Dr. Nguyen Thi Minh Thai Discussing the beauty of Vietnamese in translated literature, poet Le Minh Quoc said that translating a foreign language work into Vietnamese is never easy. Translators always aim for the criteria "Achieving, Trusting, and Elegance" and no matter how the translation is done, the reader must feel like reading a work written by Vietnamese people for Vietnamese people. For sensitive details, Associate Professor, Dr. Nguyen Thi Minh Thai uses many metaphors familiar to Vietnamese people such as in folk songs or poetry. She believes that the most important thing for a translator is to first be good at his or her own country's language and then the language being translated. Therefore, the translator must first be excellent in Vietnamese. “When translating into Vietnamese, we must Vietnameseize it, and the treasure trove of Vietnamese folk songs is extremely rich. Being Vietnamese and loving Vietnamese, I know its possibilities are endless. Vietnamese is full of things for us to translate," she said. “Vietnamese is very strong in verbs and adjectives, but is limited in nouns, especially having to borrow scientific words and terms. Therefore, Vietnamese is actually a literary language that can be spoken and used very well. If you know how to use it, it will produce quality literary works," Dr. Ha Thanh Van added.
Với việc thành lập TP Tân Uyên, Bình Dương sẽ có 4 thành phố trực thuộc tỉnh cùng 1 thị xã và 4 huyện. Trước đó vào chiều 13/2, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định thành lập một số đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của một số tỉnh, trong đó có quyết định thành lập TP Tân Uyên trực thuộc tỉnh Bình Dương. TP Tân Uyên được thành lập trên cơ sở nguyên trạng thị xã Tân Uyên với diện tích 191,76km2, dân số 466.053 người, có 12 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 10 phường và 2 xã. Trụ sở của TP Tân Uyên sử dụng trụ sở làm việc của thị xã Tân Uyên trước đây. Với việc thành lập TP Tân Uyên, tính đến thời điểm này, tỉnh Bình Dương có 4 TP gồm TP Thủ Dầu Một, TP Thuận An, TP Dĩ An, TP Tân Uyên; 1 thị xã là Bến Cát và 4 huyện gồm Phú Giáo, Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Bắc Tân Uyên. Tân Uyên là một trong những đô thị có tốc độ phát triển kinh tế mạnh của tỉnh Bình Dương, đi đầu trong phát triển công nghiệp với 5 khu, cụm công nghiệp, 1.866 doanh nghiệp trong nước, tổng vốn đăng ký là 32.560,507 tỷ đồng và 637 doanh nghiệp nước ngoài, tổng vốn đăng ký là 5,2 tỉ USD. Ngoài ra, địa phương này cũng đang triển khai dự án khu công nghiệp lớn nhất cả nước là KCN VSIP III với quy mô hơn 1.000ha, có tổng mức đầu tư hạ tầng dự kiến là 6.407 tỷ đồng. Đây cũng là địa phương có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế với vị trí địa lý thuận lợi, nằm ven sông Đồng Nai, hạ tầng giao thông đồng bộ kết nối với TP.HCM và Đồng Nai. Theo dự kiến, lễ công bố Nghị quyết về việc thành lập TP Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương sẽ được tổ chức vào ngày 12/4/2023 tới. Thực hiện Nghị quyết 136/NQ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về chia tách địa giới hành chính của huyện Tân Uyên thành thị xã Tân Uyên và huyện Bắc Tân Uyên và thị xã Tân Uyên chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/4/2014. Thị xã Tân Uyên có lịch sử hình thành và phát triển gắn liền với vùng đất miền Đông Nam bộ. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, bao thế hệ người Việt Nam trên mọi miền đất nước đã về đây khai hoang, lập ấp, dựng làng, mở mang đất đai để sinh sống và sản xuất; nhiều phong tục, tập quán đã được du nhập tạo nên nền văn hóa đa dạng. Với diện tích 19.175,72 ha, nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Bình Dương, với 12 xã – phường, bao gồm 06 phường: Uyên Hưng, Tân Phước Khánh, Thái Hòa, Thạnh Phước, Tân Hiệp, Khánh Bình và 06 xã: Hội Nghĩa, Vĩnh Tân, Phú Chánh, Tân Vĩnh Hiệp, Thạnh Hội, Bạch Đằng. Thị xã Tân Uyên nối liền với các huyện, thị, thành phố đang phát triển của tỉnh Bình Dương như Thuận An, Dĩ An, thành phố Thủ Dầu Một, Bắc Tân Uyên, Phú Giáo; tiếp giáp với huyện Vĩnh Cữu, tỉnh Đồng Nai. Tài nguyên thiên nhiên không phong phú, đa dạng, nhưng với vị trí, địa lý đặc biệt, thị xã Tân Uyên trở thành địa bàn quan trọng của Tỉnh cả về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa, xã hội. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thị xã Tân Uyên luôn bị tác động, tàn phá bởi các trận chiến diễn ra liên tục trong suốt 30 năm, là căn cứ quan trọng của miền Đông Nam bộ – Chiến khu Đ anh hùng. Những năm sau ngày giải phóng, kinh tế của Tân Uyên chủ yếu là thuần nông, lạc hậu. Tuy nhiên, với tinh thần vượt khó khăn, dám nghĩ, dám làm, cùng với quá trình đổi mới, thị xã Tân Uyên từng bước chuyển đổi nền kinh tế theo hướng công nghiệp – thương mại, dịch vụ – nông nghiệp và trở thành địa bàn quan trọng của tỉnh Bình Dương. Những năm gần đây, thị xã Tân Uyên có tốc độ tăng trưởng cao, thu hút nhiều dự án đầu tư trong nước và ngoài nước vào các khu, cụm công nghiệp; giá trị sản xuất công nghiệp và thu ngân sách đạt cao. Cùng hướng tới mục tiêu xây dựng thị xã Tân Uyên trở thành thị xã văn minh hiện đại và là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Bình Dương vào năm 2020. Thị ủy, UBND thị xã đã đề nghị Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh phê duyệt các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xây dựng các công trình cơ bản, quy hoạch các khu chức năng để phát triển kinh tế của thị xã Tân Uyên. DI TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ TÂN UYÊN Tính đến tháng 09/2017, trên địa bàn thị xã Tân Uyên có 10 di tích được xếp hạng, trong đó có 01 di tích cấp quốc gia và 09 di tích cấp tỉnh. Niên đại các di tích: Di tích khảo cổ học Cù lao Rùa có niên đại hơn 2.000 năm; Các di tích Lịch sử – Văn hóa có niên đại gần 200 năm (có sắc phong của vua Tự Đức); Các di tích Lịch sử Cách mạng có niên đại gần 100 năm (từ thời kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ). Tại mỗi di tích đều thành lập Tổ quản lý Di tích để trực tiếp điều hành công việc khi tổ chức lễ hội, dâng hương, giữ gìn vệ sinh thường xuyên, bảo vệ và giữ gìn tài sản di tích. Riêng tại khu di tích Chiến khu Vĩnh Lợi đã thành lập Ban quản lý Khu di tích đảm bảo hoạt động theo Đề án được phê duyệt. Danh sách 10 di tích được công nhận là di tích cấp tỉnh và cấp quốc gia: 1. Cầu Bà Kiên 2. Chiến Khu Vĩnh Lợi 3. Đình Tân Trạch 4. Cù Lao Rùa 5. Hưng Long Tự 6. Nhà cổ Ông Đỗ Cao Thứa 7. Đình Vĩnh Phước 8. Đình Dư Khánh 9. Đình Bưng Cù 10. Miếu Ông © Văn phòng HĐND và UBND Thị xã Tân Uyên, Tỉnh Bình Dương Địa chỉ: Phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương Điện thoại: (0274) 3656241
With the establishment of Tan Uyen City, Binh Duong will have 4 cities under the province, 1 town and 4 districts. Previously on the afternoon of February 13, the National Assembly Standing Committee considered and decided to establish a number of district and commune-level administrative units of a number of provinces, including the decision to establish Tan Uyen City directly under the province. Binh Duong. Tan Uyen City was established on the basis of the original status quo of Tan Uyen town with an area of ​​191.76km2, population of 466,053 people, and 12 affiliated administrative units including 10 wards and 2 communes. The headquarters of Tan Uyen City uses the headquarters of the former Tan Uyen town. With the establishment of Tan Uyen City, up to this point, Binh Duong province has 4 cities including Thu Dau Mot City, Thuan An City, Di An City, Tan Uyen City; 1 town is Ben Cat and 4 districts including Phu Giao, Bau Bang, Dau Tieng, Bac Tan Uyen. Tan Uyen is one of the urban areas with strong economic growth in Binh Duong province, a leader in industrial development with 5 industrial zones and clusters, 1,866 domestic enterprises, total registered capital of 32,560,507 billion VND and 637 foreign enterprises, total registered capital of 5.2 billion USD. In addition, this locality is also implementing the largest industrial park project in the country, VSIP III Industrial Park with a scale of more than 1,000 hectares, with a total expected infrastructure investment of 6,407 billion VND. This is also a locality with many strengths for economic development with a favorable geographical location, located along the Dong Nai River, and synchronous transportation infrastructure connecting with Ho Chi Minh City and Dong Nai. As expected, the ceremony to announce the Resolution on the establishment of Tan Uyen City in Binh Duong province will be held on April 12, 2023. Implementing Resolution 136/NQ-CP dated December 29, 2013 of the Prime Minister on dividing the administrative boundaries of Tan Uyen district into Tan Uyen town and Bac Tan Uyen district and Tan Uyen town officially entered Operational from April 1, 2014. Tan Uyen town has a history of formation and development associated with the Southeast region. Through many historical periods, many generations of Vietnamese people from all over the country have come here to reclaim land, establish hamlets, build villages, and expand the land for living and production; Many customs and practices have been introduced, creating a diverse culture. With an area of ​​19,175.72 hectares, located in the Southeast of Binh Duong province, with 12 communes - wards, including 06 wards: Uyen Hung, Tan Phuoc Khanh, Thai Hoa, Thanh Phuoc, Tan Hiep, Khanh Binh and 06 communes. : Hoi Nghia, Vinh Tan, Phu Chanh, Tan Vinh Hiep, Thanh Hoi, Bach Dang. Tan Uyen town connects with developing districts, towns and cities of Binh Duong province such as Thuan An, Di An, Thu Dau Mot city, Bac Tan Uyen, Phu Giao; adjacent to Vinh Cuu district, Dong Nai province. Natural resources are not rich or diverse, but with its special location and geography, Tan Uyen town has become an important area of ​​the Province in terms of politics, military, economics, culture and society. During the two resistance wars against the French colonialists and the American imperialists, Tan Uyen town was always affected and devastated by battles that took place continuously for 30 years, and was an important base of the Southeast region. – Heroic War Zone D. In the years after liberation, Tan Uyen's economy was mainly agricultural and backward. However, with the spirit of overcoming difficulties, daring to think, daring to do, along with the innovation process, Tan Uyen town gradually transformed its economy towards industry - trade, service - agriculture and became important area of ​​Binh Duong province. In recent years, Tan Uyen town has had a high growth rate, attracting many domestic and foreign investment projects in industrial zones and clusters; Industrial production value and budget revenue reached high levels. Working towards the goal of building Tan Uyen town to become a modern civilized town and a class III urban area under Binh Duong province by 2020. The Town Party Committee and People's Committee of the town have requested the Provincial Party Committee and People's Committee to The province approves investment projects in technical infrastructure, construction of basic works, and planning of functional areas for economic development of Tan Uyen town. MONUMENTS IN TAN UYEN TOWN As of September 2017, there are 10 ranked relics in Tan Uyen town, including 01 national relic and 09 provincial relics. Chronology of relics: Cu Lao Rua archaeological relic dates back more than 2,000 years; Historical - Cultural relics dating back nearly 200 years (ordained by King Tu Duc); The Revolutionary History relics date back nearly 100 years (from the resistance war against the French colonialists and the American Empire). At each relic, a Monument Management Team is established to directly manage the work when organizing festivals, offering incense, maintaining regular hygiene, protecting and preserving relic assets. Particularly at the Vinh Loi War Zone relic site, a Relic Site Management Board has been established to ensure operations according to the approved Project. List of 10 relics recognized as provincial and national relics: 1. Ba Kien Bridge 2. Vinh Loi War Zone 3. Tan Trach Communal House 4. Cu Lao Rua 5. Hung Long Tu 6. Mr. Do Cao Thua's ancient house 7. Vinh Phuoc Communal House 8. Dinh Du Khanh 9. Bung Cu communal house 10. Ong Temple © Office of the People's Council and People's Committee of Tan Uyen Town, Binh Duong Province Address: Uyen Hung Ward, Tan Uyen Town, Binh Duong Province Phone: (0274) 3656241
Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) sẽ đánh dấu một bước tiến lớn trong công cuộc khai phá các hành tinh khác trong tháng 4 này bằng việc phóng tàu JUICE, thứ sẽ dùng Sao Kim lấy đà để bay đến Sao Mộc. Dự kiến tàu JUICE – hiện đang được bọc trong tên lửa Ariane 5, cùng loại với tên lửa phóng kính viễn vọng không gian James Webb – sẽ chính thức rời Trái Đất vào lúc 9 giờ 15 phút sáng ngày 13-4 (giờ địa phương) từ Sân bay Vũ trụ châu Âu (Kourou, Guiana thuộc Pháp ). Thời điểm phóng này tương ứng với 19 giờ 15 phút tối 13-4 và sẽ được phát trực tiếp trên website của ESA (esa.int). Tàu JUICE dự kiến lên đường đến Sao Mộc vài ngày tới – Ảnh đồ họa từ ESA. Theo Space, tàu JUICE sẽ thực hiện một chuyến bay vòng qua Sao Kim, Trái Đất và Mặt Trăng để “lấy đà”, trước khi tiến thẳng đến Sao Mộc xa xôi. Để cú lấy đà thành công, ESA đã tính toán để tàu JUICE thực hiện được nó khi Sao Kim, Trái Đất và Mặt Trăng thẳng hàng trong tháng tư năm nay và cuối mùa hè này, cũng là 2 lần duy nhất 3 thiên thể này thẳng hàng trong năm. Trở ngại duy nhất cho vụ phóng là thời tiết không được tốt trong ngày phóng tàu, dự báo 76% có mưa, nhưng thường điều đó không gây khó khăn đặc biệt. Nếu nhiệm vụ bị trì hoãn, ESA sẽ phải cố phóng lại tàu JUICE trong tháng kèm một chút điều chỉnh trong đường đi của nó, hoặc đợi đến tháng 4 năm sau. Tàu JUICE, chiến binh được ESA chuẩn bị nhiều năm qua sở hữu tới 10 tấm pin Mặt Trời đủ để nó thực hiện nhiệm vụ lâu dài ở nơi thiếu ánh nắng như Sao Mộc. Nó được giao nhiệm vụ thu thập dữ liệu về từ trường của hành tinh lớn nhất hệ Mặt Trời này cũng như 3 “mặt trăng sự sống” lừng danh của nó là Ganymede, Calisto và Europa. Đó là ba mặt trăng rất to lớn của Sao Mộc, được nhà bác học Galileo Galilei phát hiện từ thế kỷ thứ XVII cùng với mặt trăng núi lửa Io, được gọi chung là 4 mặt trăng Galileo. Ngoại trừ Io như địa ngục do hoạt động núi lửa quá khủng khiếp, 3 mặt trăng còn lại mà nhà bác học Ý đã tìm ra đều được xác định là có các yếu tố có thể giúp sự sống phát triển và sinh sôi ở một đại dương ngầm tiềm năng bên dưới vỏ băng. Các bằng chứng về sự sống tiềm năng đã được phát hiện bởi tàu vũ trụ khám phá Sao Mộc Juno của NASA (phóng năm 2009), trong đó cơ quan vũ trụ của Mỹ gần như tin chắc rằng Europa có sự sống và cũng đang chuẩn bị phóng tàu Europa Clipper vào tháng 10-2024 để nghiên cứu riêng mặt trăng này. Sự tham chiến của ESA, một đối tác thường xuyên của NASA, hứa hẹn đem đến thêm nhiều phát hiện đột phá về Sao Mộc và các mặt trăng sự sống của nó.
The European Space Agency (ESA) will mark a major step forward in the exploration of other planets this April with the launch of the JUICE spacecraft, which will use Venus to gain momentum to fly to Jupiter. It is expected that the JUICE ship - currently encased in an Ariane 5 rocket, the same type as the James Webb space telescope launch rocket - will officially leave Earth at 9:15 a.m. on April 13 (local time). ) from the European Spaceport (Kourou, Guiana in France ). This launch time corresponds to 7:15 p.m. on April 13 and will be broadcast live on ESA's website (esa.int). The JUICE spacecraft is expected to depart for Jupiter in the next few days - Graphic image from ESA. According to Space, The JUICE spacecraft will make a flight around Venus, Earth and the Moon to "gain momentum", before heading straight to distant Jupiter. For the strike to be successful, ESA has calculated that the JUICE spacecraft will perform it when Venus, Earth and the Moon align in April this year and later this summer, which are also the only two times these three celestial bodies are aligned. straight during the year. The only obstacle to the launch was the bad weather on the day of the launch, with a 76% forecast of rain, but usually that did not cause special difficulties. If the mission is delayed, ESA will have to try to relaunch JUICE within the month with slight adjustments to its path, or wait until April next year. The JUICE ship, a warrior prepared by ESA for many years, possesses up to 10 solar panels, enough for it to carry out long-term missions in places with a lack of sunlight like Jupiter. It is tasked with collecting data about the magnetic field of the largest planet in the solar system as well as its three famous "life moons", Ganymede, Calisto and Europa. Those are three very large moons of Jupiter, discovered by scientist Galileo Galilei in the 17th century along with the volcanic moon Io, collectively known as the four Galileo moons. Except for hell-like Io due to terrible volcanic activity, the remaining 3 moons that the Italian scientist discovered were all determined to have elements that could help life develop and proliferate in an ocean. Potential underground ocean beneath the ice crust. Evidence of potential life has been discovered by NASA's Juno Jupiter exploration spacecraft (launched in 2009), in which the US space agency is almost convinced that Europa is habitable and is also preparing for life. Europa Clipper will be launched in October 2024 to specifically study this moon. The participation of ESA, a regular partner of NASA, promises to bring more groundbreaking discoveries about Jupiter and its habitable moons.
Một góc TP Tân Uyên, tỉnh Bình Dương - Ảnh: H.T Với việc thành lập TP Tân Uyên , Bình Dương sẽ có 4 thành phố trực thuộc tỉnh cùng 1 thị xã và 4 huyện. Thông tin từ UBND tỉnh Bình Dương cho hay, bắt đầu từ hôm nay (10/4), Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập thành phố Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương có hiệu lực thi hành. Trước đó vào chiều 13/2, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định thành lập một số đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của một số tỉnh, trong đó có quyết định thành lập TP Tân Uyên trực thuộc tỉnh Bình Dương. TP Tân Uyên được thành lập trên cơ sở nguyên trạng thị xã Tân Uyên với diện tích 191,76km2, dân số 466.053 người, có 12 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 10 phường và 2 xã. Trụ sở của TP Tân Uyên sử dụng trụ sở làm việc của thị xã Tân Uyên trước đây. Với việc thành lập TP Tân Uyên, tính đến thời điểm này, tỉnh Bình Dương có 4 TP gồm TP Thủ Dầu Một, TP Thuận An, TP Dĩ An, TP Tân Uyên; 1 thị xã là Bến Cát và 4 huyện gồm Phú Giáo, Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Bắc Tân Uyên. Tân Uyên là một trong những đô thị có tốc độ phát triển kinh tế mạnh của tỉnh Bình Dương, đi đầu trong phát triển công nghiệp với 5 khu, cụm công nghiệp, 1.866 doanh nghiệp trong nước, tổng vốn đăng ký là 32.560,507 tỷ đồng và 637 doanh nghiệp nước ngoài, tổng vốn đăng ký là 5,2 tỉ USD. Ngoài ra, địa phương này cũng đang triển khai dự án khu công nghiệp lớn nhất cả nước là KCN VSIP III với quy mô hơn 1.000ha, có tổng mức đầu tư hạ tầng dự kiến là 6.407 tỷ đồng. Đây cũng là địa phương có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế với vị trí địa lý thuận lợi, nằm ven sông Đồng Nai, hạ tầng giao thông đồng bộ kết nối với TP.HCM và Đồng Nai. Theo dự kiến, lễ công bố Nghị quyết về việc thành lập TP Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương sẽ được tổ chức vào ngày 12/4 tới.
A corner of Tan Uyen city, Binh Duong province - Photo: H.T With the establishment of the City Tan Uyen , Binh Duong will have 4 cities under the province, 1 town and 4 districts. Information from the People's Committee of Binh Duong province said that starting today (April 10), the Resolution of the National Assembly Standing Committee on the establishment of Tan Uyen city in Binh Duong province will take effect. Previously on the afternoon of February 13, the National Assembly Standing Committee considered and decided to establish a number of district and commune-level administrative units of a number of provinces, including the decision to establish Tan Uyen City directly under the province. Binh Duong. Tan Uyen City was established on the basis of the original status quo of Tan Uyen town with an area of ​​191.76km2, population of 466,053 people, and 12 affiliated administrative units including 10 wards and 2 communes. The headquarters of Tan Uyen City uses the headquarters of the former Tan Uyen town. With the establishment of Tan Uyen City, up to this point, Binh Duong province has 4 cities including Thu Dau Mot City, Thuan An City, Di An City, Tan Uyen City; 1 town is Ben Cat and 4 districts including Phu Giao, Bau Bang, Dau Tieng, Bac Tan Uyen. Tan Uyen is one of the urban areas with strong economic growth in Binh Duong province, a leader in industrial development with 5 industrial zones and clusters, 1,866 domestic enterprises, total registered capital of 32,560,507 billion VND and 637 foreign enterprises, total registered capital of 5.2 billion USD. In addition, this locality is also implementing the largest industrial park project in the country, VSIP III Industrial Park with a scale of more than 1,000 hectares, with a total expected infrastructure investment of 6,407 billion VND. This is also a locality with many strengths for economic development with a favorable geographical location, located along the Dong Nai River, and synchronous transportation infrastructure connecting with Ho Chi Minh City and Dong Nai. As expected, the ceremony to announce the Resolution on the establishment of Tan Uyen City Binh Duong Province will be held on April 12.
Trước tác động của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, các nhà vận động đang thúc đẩy tái cấu trúc tài chính toàn cầu để giúp các nước ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong những năm qua, các tác động của biến đổi khí hậu đang gây ra những thiệt hại ngày càng tăng về con người, tài chính và môi trường, làm trầm trọng thêm tình trạng đói nghèo và an ninh lương thực, đồng thời kìm hãm sự phát triển bền vững trên toàn thế giới. Riêng năm 2021, các hiểm họa liên quan đến thời tiết và khí hậu đã gây thiệt hại 35,6 tỷ USD, ảnh hưởng đến gần 50 triệu người ở châu Á. Lũ lụt là nguy hiểm nhất, chiếm 75% các sự kiện thiên tai trong khu vực. Thời gian tới, Ngân hàng Thế giới (WB) sẽ tổ chức một cuộc họp liên quan đến nội dung xung đột và lạm phát. Trong bối cảnh đó, các nhà vận động đang thúc đẩy tái cấu trúc tài chính toàn cầu để giúp các nước ứng phó với biến đổi khí hậu. Vài năm gần đây, thế giới đã chứng kiến những đợt nắng nóng làm khô héo cây trồng, hạn hán và lũ lụt ở các vựa lúa mì quan trọng trên toàn cầu. Các nước đang phát triển cũng mất phần lớn Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) mỗi năm do tác động của biến đổi khí hậu. Có thể thấy, thế giới đang “bùng cháy” và “chết đuối” trong cùng một năm, nguyên nhân là do biến đổi khí hậu. Để khắc phục điều này, các tổ chức tài chính đã bắt đầu hành động. Trong đó, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã tạo ra một Quỹ tín thác về khả năng phục hồi và bền vững dựa trên khoản vay mới để giúp các nước nghèo hoặc dễ bị tổn thương thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Thế giới đã và đang chứng kiến những đợt nắng nóng làm khô héo cây trồng, hạn hán và lũ lụt ở các vựa lúa mì quan trọng trên toàn cầu. WB cho biết, năm 2022, họ đã cung cấp khoản hỗ trợ kỷ lục 31,7 tỷ USD để giúp các quốc gia giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và bắt đầu soạn thảo lộ trình để thay đổi. Dù vậy, ngay cả khi các quốc gia giàu có không đạt được mục tiêu cung cấp 100 tỷ USD mỗi năm để giúp các nước đang phát triển đầu tư vào năng lượng sạch và tăng cường khả năng phục hồi trước các tác động của khí hậu, nghiên cứu đã chỉ ra rằng chi phí thực sự đã vượt qua con số đó. Để ứng phó với khủng hoảng khí hậu, đến năm 2030, mỗi năm thế giới sẽ cần hơn 2.000 tỷ USD. Cũng liên quan đến biến đổi khí hậu, giới chuyên gia cho biết, các nước đang phát triển đang “gồng mình” tìm kiếm các nguồn lực cần thiết để ngừng đốt nhiên liệu hóa thạch làm nóng hành tinh, đồng thời cũng chuẩn bị công tác ứng phó với các thảm họa khí hậu có thể xảy ra trong tương lai. Đồng thời, các quốc gia cũng phải đương đầu với chi phí gia tăng, nợ nần chồng chất và sự xuất hiện của các hiện tượng thời tiết cực đoan. Các chuyên gia khoa học khí hậu của Liên Hợp quốc cho biết, so với thời kỳ tiền công nghiệp, hiện không còn nhiều thời gian để đầu tư vào những thay đổi nhằm hạn chế sự nóng toàn cầu lên ở mức 1,5 độ C. Hiện, thế giới đang đi chệch hướng, gây rủi ro với những chi phí rất lớn cho tự nhiên, xã hội loài người và nền kinh tế toàn cầu. Trưởng phòng chiến lược chính trị toàn cầu của nhóm chiến dịch Mạng lưới hành động khí hậu Harzeet Singh nhấn mạnh: “Nếu không có tài chính, chúng ta không thể giải quyết khủng hoảng khí hậu”. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng hiện nay, khi rất nhiều các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đang nỗ lực thực hiện các biện pháp cắt giảm phát thải khí nhà kính hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, giảm phát thải đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp. Giảm phát thải không chỉ nhằm giảm thiểu tác hại tới môi trường và hướng tới phát triển bền vững mà còn để đáp ứng tiêu chuẩn xanh của quốc gia nhập khẩu. Phát biểu tại Diễn đàn “Phát thải ròng bằng 0 (NetZero 2050): Từ cam kết đến hành động”, PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường cho rằng, kể “từ khi có COP26 , đến nay, về cơ bản chính sách của chính phủ đã có hành động cụ thể, giao cho các bộ ngành liên quan với các chương trình hành động cụ thể. Đó là hành động về mặt chính cách, tuy nhiên quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn. Việt Nam là một trong những nước cam kết đi đầu trong chương trình hành động này. Quan trọng nhất là cam kết hành động của nhà quản lý, doanh nghiệp, các đơn vị liên quan”. Ngoài ra, các chuyên gia cũng cho rằng, Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 là xu thế để hướng tới phát triển “xanh.” Vì thế, trách nhiệm của cộng đồng và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu trên là vấn đề đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam cùng thế giới chung tay ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây cũng là những hành động thiết thực nhằm thực hiện chính sách cũng như chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Từ nay đến năm 2025, Bộ TN&MT sẽ sửa đổi Luật Đất đai , Luật Tài nguyên nước , Luật Địa chất và khoáng sản, trong đó lồng ghép các nội dung thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26. Đây là một trong những nhiệm vụ ưu tiên trong Quyết định số 739/QĐ-BTNMT do Bộ TN&MT vừa ban hành ngày 27/3, về Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (Đề án). Kế hoạch đề ra 5 nhóm nhiệm vụ cụ thể, bao gồm: Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách; thực hiện các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính (KNK); thực hiện các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu; nghiên cứu khoa học, nâng cao năng lực, truyền thông; giám sát, đánh giá.
With the impact of climate change increasing, campaigners are pushing for global financial restructuring to help countries cope with climate change. Over the years, the impacts of climate change are causing increasing human, financial and environmental costs, exacerbating poverty and food security, and inhibiting sustainable development worldwide. In 2021 alone, weather and climate-related hazards caused $35.6 billion in damage, affecting nearly 50 million people in Asia. Floods are the most dangerous, accounting for 75% of natural disaster events in the region. Next time, the World Bank (WB) will hold a meeting related to conflict and inflation. In that context, campaigners are pushing for global financial restructuring to help countries cope with climate change. In recent years, the world has witnessed crop-drying heat waves, droughts and floods in important breadbaskets across the globe. Developing countries also lose most of their Gross Domestic Product (GDP) each year due to the impacts of climate change. It can be seen that the world is "burning" and "drowning" in the same year, due to climate change. To fix this, financial institutions have begun to take action. In particular, the International Monetary Fund (IMF) created a new loan-based Resilience and Sustainability Trust Fund to help poor or vulnerable countries promote sustainable growth. The world has been witnessing heat waves that wither crops, droughts and floods in important breadbaskets across the globe. The World Bank said that in 2022, it will provide a record $31.7 billion in support to help countries tackle climate change and begin drafting a roadmap for change. Still, even rich nations fall short of their target of providing $100 billion a year to help developing countries invest in clean energy and strengthen their resilience to climate impacts. , research has shown that costs actually exceed that figure. To respond to the climate crisis, by 2030, the world will need more than 2,000 billion USD each year. Also related to climate change, experts say that developing countries are "struggling" to find the necessary resources to stop burning fossil fuels that heat the planet, and at the same time prepare technology. response to climate disasters that may occur in the future. At the same time, countries must also cope with rising costs, mounting debt and the occurrence of extreme weather events. Compared to pre-industrial times, there is now less time to invest in changes to limit global warming to 1.5 degrees Celsius, UN climate science experts say. . Currently, the world is moving off course, posing risks and enormous costs to nature, human society and the global economy. “Without finance, we cannot solve the climate crisis,” said Harzeet Singh, head of global political strategy at the campaign group Climate Action Network. In the current context of increasingly deep economic integration, when many countries around the world, including Vietnam, are trying to implement measures to reduce greenhouse gas emissions towards the goal of achieving development. net emissions will be "zero" by 2050, reducing emissions has become a mandatory requirement for businesses. Reducing emissions not only aims to minimize harm to the environment and move towards sustainable development, but also to meet the green standards of the importing country. Speaking at the Forum "Net Zero Emissions (NetZero 2050): From commitment to action", Associate Professor, Dr. Nguyen The Chinh, Institute of Natural Resources and Environmental Policy Strategy, said that, "since the establishment of COP26 Up to now, the government's policy has basically taken specific actions, assigning relevant ministries and branches with specific action programs. That is an official action, but the implementation process still faces many difficulties. Vietnam is one of the countries committed to taking the lead in this action program. The most important thing is the commitment to action of managers, businesses, and related units." In addition, experts also say that Vietnam's commitment to net zero emissions by 2050 is a trend towards "green" development. Therefore, the responsibility of the community and businesses in implementing the above goal is an especially important issue in the context of Vietnam joining hands with the world to respond to climate change. These are also practical actions to implement the policies and directions of the Party and State. From now until 2025, the Ministry of Natural Resources and Environment will amend Land Law , Water Resources Law , Law on Geology and Minerals, which integrates the contents of implementing Vietnam's commitments at the COP26 Conference. This is one of the priority tasks in Decision Không. 739/QD-BTNMT issued by the Ministry of Natural Resources and Environment on March 27, on the Plan to implement the Project on tasks and solutions to implement the results of the National Assembly. 26th Conference of the Parties to the United Nations Framework Convention on Climate Change (Proposal). The plan sets out 5 groups of specific tasks, including: Building and perfecting mechanisms and policies; Implement solutions to reduce greenhouse gas (GHG) emissions; implement solutions to adapt to climate change; scientific research, capacity building, communication; monitoring and evaluation.
‘Truyện hư cấu’ kết hợp nhuần nhuyễn triết học với giả tưởng, tập hợp các câu chuyện được liên kết với nhau một cách kỳ lạ, lu mờ giữa ranh giới tiểu luận và truyện ngắn. Sách Truyện hư cấu của Jorge Luis Borges. Ảnh: LL. Jorge Luis Borges (1899 – 1986) là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng người Argentina . Sinh thời, ông không phải là một tác giả được coi trọng. Ông sống trong nghèo khó, phải làm thủ thư để kiếm sống. Mãi đến năm 1941, Truyện hư cấu đoạt giải thưởng lớn danh dự của Hội nhà văn Argentina, Borges mới được văn đàn để ý. Năm 1961, khi ông và Samuel Beckett nhận giải Formentor Prize, các tác phẩm của Borges mới dần được nhìn nhận như những tác phẩm kinh điển của văn chương thế kỷ XX. Từ đó, ông cũng thường xuyên được nhắc đến như cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với Truyện hư cấu , Borges đưa độc giả lên hành trình vào cõi huyền ảo, đầy hấp dẫn của siêu hư cấu (metafiction). Tác phẩm kết hợp nhuần nhuyễn triết học với giả tưởng, tập hợp các câu chuyện được liên kết với nhau một cách kỳ lạ, lu mờ giữa ranh giới tiểu luận và truyện ngắn. Borges viết những gì ông muốn với một sự tao nhã không khoan nhượng. Theo dịch giả Nguyễn An Lý, như nhiều tập sách khác của Jorge Luis Borges, bản thân lịch sử cuốn Truyện hư cấu không đơn giản. Năm 1941, ông cho phát hành tập sách El jardín de senderos que se bifurcan (tạm dịch: Khu vườn những lối đi rẽ đôi), tập hợp các truyện ngắn đăng báo trong khoảng 1939-1941 cùng một truyện chưa từng được xuất bản là El jardín de senderos que se bifurcan . Tập sách này chính là nửa đầu của Truyện hư cấu . Sang giai đoạn 1942-1944, các truyện ngắn mới được tập hợp lại, thành tập Artificos (Tác tạo), in cùng tập El jardín de senderos que se bifurcan năm xưa và một ghi chép trong tập tiểu luận Historia de la eternidad (Lịch sử Vĩnh cửu, 1936) thành một tập sách chung có tên Ficciones (Truyện hư cấu) vào năm 1944. Năm 1956, trong lần tái bản mới, Truyện hư cấu được bổ sung thêm 3 truyện ngắn. Theo dịch giả Nguyễn An Lý, dịch Borges là một công việc vừa hứng thú vừa nhọc nhằn, vừa phải là một phần không thể thiếu trong nghiên cứu – hoặc tìm hiểu về nghiên cứu – Borges, vừa là một sự đi trên dây mong manh giữa không diễn giải đủ và diễn giải quá đà. Theo đó, dịch giả An Lý cố gắng hướng bản dịch thành một bản dịch phổ thông tốt. Bà thực hiện chuyển ngữ dựa trên cơ sở tham khảo tổng hợp các bản dịch tiếng Anh: do Andrew Hurley dịch trong Collected Fictions (Toàn tập truyện ngắn, Penguin, 1998); nhiều người dịch trong Ficciones (Anthony Kerrigan chủ biên, Grove Press, 1962); các truyện liên quan do nhiều người dịch trong Labyrinths (Mê cung, Donald A. Yates và James E. Irby chủ biên, New Directions, 1964); và các truyện liên quan do Norman Thomas di Giovanni dịch, chủ yếu tập hợp trong The Aleph and Other Stories 1933-1969 (“Aleph” và các truyện ngắn khác, 1933-1969, E. P. Dutton, 1970); có đối chiếu với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha, cùng tham khảo nhiều nguồn tư liệu, chú giải, nghiên cứu. Dịch giả cho biết phần trình bày trong bản dịch Truyện hư cấu này chủ yếu dựa theo văn bản trong cuốn Borges: Obras completas [tập 1], 1923-1972 (Borges: Toàn tập, 1923-1972, Emecé Editores, 1974), nhận thức rõ rằng cuốn này có một số lỗi mà các nhà nghiên cứu đã chỉ ra, do vậy, bà cẩn trọng khi sử dụng. Có thể nói, tác phẩm của Borges không chỉ thách thức dịch giả mà thách thức cả người đọc. Nhưng đó cũng chính là cách ông đã thúc đẩy tiến trình phát triển của văn chương. Cho đến tận ngày nay, tác phẩm của ông vẫn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ viết văn, trong đó có các tên tuổi như Gabriel Garcia Marquez, Umberto Eco hay Salman Rushdie…
‘Fiction’ seamlessly blends philosophy with fantasy, bringing together strangely linked stories that blur the lines between essay and short story. Books Fiction by Jorge Luis Borges. Photo: LL. Jorge Luis Borges (1899 – 1986) was a famous writer and poet Argentina . During his time, he was not a respected author. He lived in poverty and had to work as a librarian to make a living. Until 1941, Fiction Winning the honorary grand prize of the Argentine Writers' Association, Borges was recently noticed by the literary community. In 1961, when he and Samuel Beckett received the Formentor Prize, Borges's works were gradually recognized as classics of twentieth-century literature. Since then, he is also often mentioned as the father of magical realism. With Fiction , Borges takes readers on a journey into the magical, fascinating realm of metafiction. The work seamlessly combines philosophy with fantasy, bringing together strangely linked stories that blur the lines between essay and short story. Borges writes what he wants with uncompromising elegance. According to translator Nguyen An Ly, like many other books by Jorge Luis Borges, the history itself Fiction not easy. In 1941, he released the booklet El jardín de senderos que se bifurcan (roughly translated: The Garden of Forked Paths), a collection of short stories published in newspapers from 1939-1941 along with an unpublished story called El jardín de senderos que se bifurcan . This booklet is the first half of the book Fiction . In the period 1942-1944, new short stories were collected into volumes Artificos (Author), printed in the same volume El jardín de senderos que se bifurcan years ago and a note in an essay collection Historia de la eternidad (Eternal History, 1936) into a common volume titled Ficciones (Fiction) in 1944. In 1956, in a new edition, Fiction 3 additional short stories were added. According to translator Nguyen An Ly, translating Borges is both an exciting and tiring job, an indispensable part of researching - or learning about research - Borges, and a walk on a fragile tightrope. between under-interpretation and over-interpretation. Accordingly, translator An Ly tried to turn the translation into a good popular translation. She made the translation based on a comprehensive reference of English translations: translated by Andrew Hurley Collected Fictions (Complete collection of short stories, Penguin, 1998); Many people translated it in Ficciones (Ed. Anthony Kerrigan, Grove Press, 1962); Related stories translated by many people Labyrinths (Maze, Donald A. Yates and James E. Irby, eds., New Directions, 1964); and related stories translated by Norman Thomas di Giovanni, mainly collected in The Aleph and Other Stories 1933-1969 (“Aleph” and other short stories, 1933-1969, E. P. Dutton, 1970); compared with the original Spanish, and consulted many sources of documents, annotations, and research. The translator indicates the presentation in the translation Fiction This is mainly based on the text in the book Borges: Obras completas [volume 1], 1923-1972 (Borges: Complete Works, 1923-1972, Emecé Editores, 1974), well aware that this book has some errors that researchers have pointed out, so she is careful when use. It can be said that Borges's work not only challenges the translator but also challenges the reader. But that is also how he promoted the development of literature. To this day, his works still inspire many generations of writers, including names like Gabriel Garcia Marquez, Umberto Eco or Salman Rushdie...
Mưa sao băng nhân tạo ở Nhật Bản năm 2025 là một dự án độc đáo và đầy tham vọng của công ty khởi nghiệp không gian ALE. Mục tiêu của dự án là tạo ra màn trình diễn ánh sáng đẹp mắt và kích thích sự tò mò khoa học của công chúng. Cảnh tượng mưa sao băng này đã được lên kế hoạch triển khai vào năm 2020, nhưng do sự cố vệ tinh nên màn trình diễn đã phải lùi thời hạn. Ảnh: PL Trận mưa sao băng đầu tiên trong lịch sử, do con người tạo ra, như các nhà phát triển của dự án này đảm bảo, tính không tự nhiên của nó sẽ rất đáng chú ý… Để làm được điều này, ALE sẽ phóng hàng trăm vệ tinh nhỏ có chứa các “hạt giống” sao băng vào quỹ đạo Trái Đất ở độ cao 400 km. Các hạt giống này sẽ được phóng xuống một khu vực được chỉ định trên bầu trời và bốc cháy do ma sát khi quay trở lại khí quyển. Các “hạt giống” sao băng được phóng vào quỹ đạo Trái Đất ở độ cao 400 km. Ảnh: ALE Vệt sáng do các hạt giống tạo ra sẽ có nhiều màu sắc khác nhau và kéo dài tới 10 giây, lâu hơn so với sao băng tự nhiên. Mưa sao băng nhân tạo sẽ được nhìn thấy từ khoảng cách 200 km. Thiên thạch nhân tạo này là những quả bóng kim loại có kích thước 1 cm và nặng vài gam. Các kỹ sư trong dự án cho biết, vật liệu được sử dụng là tự nhiên và vô hại, giống hệt như những vật liệu rơi xuống trái đất từ không gian. Hạt sao băng được thiết kế sao cho cháy càng lâu càng tốt khi cọ xát với bầu khí quyển và theo đó, phát sáng trên bầu trời lâu nhất có thể. Chúng được phóng từ một vệ tinh ở độ cao 400 km. Đây là mức bay của Trạm vũ trụ quốc tế, khi thực hiện nhiệm vụ của mình, vệ tinh cũng sẽ bị đốt cháy hoàn toàn trong các lớp khí quyển dày đặc, giống như những quả bóng. Trong thực tế, không ai có thể nhìn thấy nó. Thiên thạch nhân tạo sẽ bốc cháy ở độ cao khoảng 80 đến 60 km, đây là tầng trung lưu – chính xác là độ cao mà những ngôi sao băng thực sự bay trên bầu trời. Ở đó, bầu khí quyển đặc đến mức do ma sát với nó, một vật thể rơi xuống sẽ bốc cháy và tan biến. Các kỹ sư nhấn mạnh rằng sự kiện mưa sao băng nhân tạo sẽ không chỉ đẹp mà còn rất quan trọng theo quan điểm khoa học, vì tầng trung lưu là tầng khí quyển khó nghiên cứu nhất, do nó quá thấp để nghiên cứu vệ tinh và quá cao đối với khí cầu thời tiết. Bằng cách quan sát hướng đi và sự phát xạ ánh sáng của hạt giống, các nhà khoa học có thể thu thập thông tin về tầng trung lưu của bầu khí quyển Trái Đất. Đây là khu vực có vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu và thời tiết của Trái Đất. Dữ liệu thu được từ mưa sao băng nhân tạo có thể giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về vận tốc gió, thành phần khí và các hiện tượng không gian trong tầng trung lưu. Kiến thức về các đặc tính của nó sẽ giúp các nhà khoa học dự đoán thời tiết và theo dõi biến đổi khí hậu chính xác hơn.
Artificial meteor shower in Japan 2025 is a unique and ambitious project of space startup ALE. The goal of the project is to create a beautiful light show and stimulate the public's scientific curiosity. This meteor shower was scheduled to take place in 2020, but due to satellite problems, the show had to be postponed. Photo: PL The first meteor shower in history, man-made, as the developers of this project assure, its unnaturalness will be remarkable… To do this, ALE will launch hundreds of small satellites containing meteor "seeds" into Earth orbit at an altitude of 400 km. These seeds will be launched into a designated area in the sky and burn up due to friction when reentering the atmosphere. Meteor "seeds" are launched into Earth orbit at an altitude of 400 km. Photo: ALE The streaks of light created by the seeds will come in many different colors and last up to 10 seconds, longer than natural meteors. The artificial meteor shower will be visible from a distance of 200 km. These artificial meteorites are metal balls measuring 1 cm and weighing several grams. Engineers on the project say the materials used are natural and harmless, identical to those that fall to earth from space. Meteor seeds are designed to burn as long as possible when rubbed with the atmosphere and, accordingly, glow in the sky for as long as possible. They were launched from a satellite at an altitude of 400 km. This is the flight level of the International Space Station. When performing its mission, satellites will also be completely burned up in dense layers of atmosphere, like balloons. In fact, no one can see it. The artificial meteor will burn up at an altitude of about 80 to 60 km, this is the mesosphere – exactly the altitude at which real shooting stars fly in the sky. There, the atmosphere is so dense that due to friction with it, a falling object will burn and disappear. Engineers emphasize that the artificial meteor shower event will not only be beautiful but also very important from a scientific point of view, since the mesosphere is the most difficult layer of the atmosphere to study, as it is too low for satellite studies and too high for weather balloons. By observing the direction and light emission of seeds, scientists can gather information about the mesosphere of Earth's atmosphere. This is an area that plays an important role in regulating the Earth's climate and weather. Data obtained from artificial meteor showers can help scientists better understand wind speeds, gas composition and space phenomena in the mesosphere. Knowledge of its properties will help scientists predict weather and monitor climate change more accurately.